Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Phát triển kinh tế hợp tác ở ngoại thành thành phố hồ chí minh, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.74 KB, 78 trang )

Mở Đầu
1. Sự cần thiết của đề tài
Hợp tác lao động là xu thế tất yếu nhằm khắc phục những hạn chế
của lao động cá thể và tăng sức sản xuất của lao động tập thể. Nhng hợp tác
lao động chỉ phát huy đợc u thế một khi đợc diễn ra theo đúng yêu cầu phát
triển của lực lợng sản xuất và xã hội hóa lao động.
Thực tế trong thời gian qua, mô hình hợp tác xã cũ trớc đây đã không
còn phù hợp, đòi hỏi phải có những công trình nghiên cứu về kinh tế hợp tác
để tìm ra những hình thức mới, những nhân tố mới cũng nh đề ra đợc những
giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy nhanh, mạnh và vững chắc kinh tế hợp
tác, qua đó tạo điều kiện cho việc phát triển sản xuất hàng hóa theo định h-
ớng xã hội chủ nghĩa và góp phần xây dựng nông thôn mới.
Các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua
cũng nh các vùng khác trong cả nớc đã xuất hiện những hình thức hợp tác
mới, vừa mang đặc điểm chung vừa có tính đặc thù của các huyện ven
thành phố lớn. Do đó, cần phải tổng kết nhằm phát hiện ra những mô hình
kinh tế hợp tác thích hợp, đề ra phơng hớng và các giải pháp đổi mới nhằm
góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp ở thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng và cả nớc nói chung. Xuất phát từ yêu cầu đó tác giả đã
chọn đề tài "Phát triển kinh tế hợp tác ở ngoại thành thành phố Hồ Chí
Minh, thực trạng và giải pháp" làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề kinh tế hợp tác đã có nhiều công trình nghiên cứu của các
tác giả nh: Giáo s, Viện sĩ Đào Thế Tuấn với tác phẩm "Khảo sát các hình
thức tổ chức hợp tác của nông dân ở nớc ta hiện nay", Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1995; Giáo s, Tiến sĩ Đỗ Thế Tùng "Việc thực hiện khoán 10 -
những vấn đề đặt ra và giải pháp", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, 3/1991;
1
Giáo s Lê Xuân Tùng (chủ biên) "Chế độ kinh tế hợp tác những vấn đề lý
luận và giải pháp thực tiễn", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Giáo s
Nguyễn Đình Nam "Đổi mới các hình thức hợp tác trong nông nghiệp", Tạp


chí Kinh tế và phát triển, 11/1996 Nhng nhìn chung cha có công trình nào
đi sâu vào nghiên cứu các hình thức kinh tế hợp tác ở các huyện ngoại
thành thành phố Hồ Chí Minh.
Với luận văn này, chúng tôi muốn kế thừa những thành quả nghiên
cứu của các tác giả trên, đồng thời thông qua thực tiễn sản xuất ở ngoại
thành thành phố Hồ Chí Minh để tìm ra các giải pháp phát triển kinh tế hợp
tác phù hợp với đặc thù kinh tế của các huyện ven thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động của kinh tế hợp
tác ở thành phố Hồ Chí Minh, luận văn đề xuất các giải pháp phát triển kinh
tế hợp tác phù hợp với điều kiện sản xuất ở ngoại thành thành phố Hồ Chí
Minh nhằm góp phần thúc đẩy kinh tế hợp tác trong nông nghiệp của thành
phố Hồ Chí Minh nói chung và các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng phát triển.
Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ kinh tế hợp tác là một xu thế tất yếu trong quá trình phát
triển nền kinh tế từ trình độ lạc hậu đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở nớc
ta hiện nay.
- Khảo sát, nghiên cứu tìm ra những u - nhợc điểm của các hình
thức kinh tế hợp tác ở các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh trong
điều kiện hiện nay.
- Đề ra phơng hớng và giải pháp phát triển kinh tế hợp tác phù hợp
với yêu cầu thực tiễn sản xuất ở ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh nhằm
góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.
2
4. Giới hạn nghiên cứu của luận văn
Luận văn này chỉ tập trung nghiên cứu khảo sát tình hình phát triển
kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở các huyện ngoại thành thành phố Hồ
Chí Minh nh: Bình Chánh, Củ Chi, Hóc Môn, Nhà Bè, Cần Giờ từ năm

1986 đến nay (mà chủ yếu là năm 1997 đến nay).
5. Phơng pháp nghiên cứu
Trong bản luận văn này tác giả chủ yếu kết hợp sử dụng phơng pháp
biện chứng lịch sử với phơng pháp phân tích, so sánh, tổng hợp và khảo sát
thực tế trên địa bàn ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh nhằm tìm ra những
hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp phù hợp với điều kiện kinh tế ở
ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh.
6. Đóng góp mới của luận văn
Tìm ra các giải pháp phát triển hợp tác trong nông nghiệp phù hợp
đặc thù ở các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và ở Việt
Nam nói chung.
VII. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 3 chơng.
3
Chơng 1
Tính Tất Yếu Và Những NHÂN Tố
Tác Động Đến Sự RA Đời Và Phát Triển
KINH Tế Hợp Tác TRONG NÔNG Nghiệp
1.1. những đặc trng của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
Hợp tác là sự hợp sức, hợp lực của những con ngời để tạo ra sức
mạnh mới, để thực hiện những công việc mà từng cá nhân hoặc từng hộ riêng
lẻ khó thực hiện, không thực hiện đợc hoặc thực hiện kém hiệu quả [31, 69].
Quá trình phát triển của xã hội loài ngời đã chứng minh u thế của hợp tác
lao động. Nhờ có hợp tác lao động mà con ngời đã xây dựng đợc nhiều
công trình kiến trúc vĩ đại. Trong quá trình hình thành và phát triển của
mình, chủ nghĩa t bản (CNTB) đã biết kế thừa và phát triển những u thế đó
của hợp tác lao động. Hợp tác lao động đã trở thành khởi điểm của sản xuất
t bản chủ nghĩa (TBCN) cả về lôgíc và lịch sử.
Khi nghiên cứu phần sản xuất giá trị thặng d tơng đối, C. Mác đã

phân tích ba giai đoạn phát triển của CNTB trong công nghiệp mà mở đầu
là hợp tác giản đơn, C. Mác chỉ ra rằng, hợp tác giản đơn có vai trò to lớn
góp phần nâng cao năng suất lao động, bởi vì nó có rất nhiều u thế so với
lao động riêng lẻ.
Nông nghiệp là ngành sản xuất ra lơng thực, thực phẩm nuôi sống
con ngời, gắn liền với những điều kiện của tự nhiên nên có nhiều nét đặc
thù. Do đó, hợp tác lao động trong nông nghiệp bên cạnh những u thế
chung thì còn có những nét riêng:
Thứ nhất: Khác với các hoạt động sản xuất của các ngành, các lĩnh
vực khác trong nền kinh tế, sản xuất trong nông nghiệp luôn gắn liền với
những cơ thể sống mà sự tồn tại và phát triển của nó luôn tuân theo những
4
quy luật sinh học. Mặt khác, kết quả của quá trình sản xuất đó không chỉ là
kết quả sản xuất trực tiếp của ngời lao động mà còn là kết quả của sự sinh
trởng và phát triển của đối tợng sản xuất. Từ đặc điểm này cho thấy, để đạt
đợc hiệu quả cao trong sản xuất nông nghiệp đòi hỏi phải có một kiểu tổ
chức, hợp tác gắn bó chặt chẽ giữa ngời lao động với đối tợng sản xuất
nhằm đáp ứng kịp thời các yêu cầu sinh trởng của cây trồng, vật nuôi.
Thứ hai: Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, quá trình lao động
và quá trình sản xuất phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều khâu kế tiếp nhau
và không trùng hợp nhau về thời gian. Hoạt động sản xuất trong nông
nghiệp mang tính thời vụ rõ rệt. Đặc điểm này quy định sản xuất nông
nghiệp có thể tổ chức sản xuất theo mô hình của các hộ nông dân, bởi vì
kiểu tổ chức sản xuất dựa trên hộ nông dân là kiểu tổ chức năng động, linh
hoạt, cho phép sử dụng hợp lý mọi nguồn lực sản xuất nông nghiệp. Lịch sử
phát triển của phơng thức sản xuất TBCN và sự phát triển nông nghiệp của
thế giới đã cho thấy CNTB khi đã tạo đợc nền đại công nghiệp cũng không
công nghiệp hóa nghề nông theo con đờng mà họ đã làm đối với công
nghiệp, không xây dựng trong nông nghiệp những xí nghiệp lớn trên cơ sở
chuyên môn hóa lao động mà vẫn duy trì các hình thức hợp tác dựa trên cơ

sở hộ nông dân. Trong CNTB hộ nông dân vẫn là chủ thể kinh doanh, vẫn là
sự dung hợp giữa nghề nông với phơng thức kinh doanh hiện đại. Do gắn bó
với ruộng đất và đối tợng sản xuất, ngời nông dân thực sự am hiểu quá trình
sinh trởng cây trồng, vật nuôi. Ngời nông dân lại là chủ thể quá trình canh
tác, trực tiếp tổ chức thực hiện, gắn trách nhiệm với toàn bộ quá trình canh
tác từ đầu cho đến khi kết thúc. Lợi ích kinh tế là cơ sở, là cái quyết định sự
gắn bó của họ với t cách vừa là chủ thể canh tác, vừa là chủ thể kinh tế và
cũng là cơ sở cho các hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Do đó,
để không ngừng nâng cao hiệu quả của hợp tác lao động trong nông nghiệp,
chúng ta phải chú trọng lợi ích kinh tế, tôn trọng tính tự chủ của nông hộ,
đặc biệt là những khâu gắn liền với quá trình sinh học.
5
Quá trình sản xuất nông nghiệp trải qua nhiều khâu: chuẩn bị sản
xuất, trực tiếp sản xuất, thu hoạch, chế biến, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm.
Trong các khâu đó có những khâu cần thiết phải có sự hợp tác lao động mới
đạt hiệu quả, nhng có những khâu thì lao động của cá nhân hay hộ gia đình
làm sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Trong ngành trồng trọt, quá trình sản xuất có
thể chia thành các giai đoạn: cày cấy, gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch. ở
giai đoạn đầu, do bị ảnh hởng bởi tính thời vụ cho nên sự hợp tác sẽ đạt
hiệu quả cao hơn là từng cá nhân làm. Thời kỳ chăm bón nh tới tiêu, chống
úng, chống hạn sẽ cần có nhiều ngời làm nhng bón phân làm cỏ thì chỉ cần
từng ngời hay hộ gia đình làm sẽ đạt hiệu quả hơn. Thời kỳ thu hoạch, rõ
ràng là cần có sự hợp tác nhằm tránh những thiệt hại do thu hoạch chậm
gây nên.
Ngoài ra, lao động của nông hộ còn có nhiều u điểm khác: tính tự
nguyện, tự giác cao lại đợc vận dụng tối đa vào trong sản xuất nh cha cày,
mẹ cấy, con trông gia súc, ông bà trông cháu, coi nhà Ưu thế này cũng đ-
ợc bắt nguồn từ sự thống nhất về lợi ích của mọi thành viên trong gia đình.
Bên cạnh những u thế trên trong sản xuất kinh doanh, hộ nông dân
cũng gặp phải nhiều khó khăn, hạn chế mà bản thân họ không thể giải

quyết có hiệu quả đợc. Những vấn đề: vốn, làm đất, thủy lợi, cải tạo ruộng
đồng, khai hoang, cung ứng vật t, dịch vụ kỹ thuật, thu hoạch, chế biến, tiêu
thụ sản phẩm là những vấn đề chỉ có thông qua hợp tác với nhau giữa các
hộ mới có điều kiện giải quyết một cách có hiệu quả nhất. Hộ nông dân có
những u thế cũng nh những hạn chế trong quá trình hoạt động sản xuất
nông nghiệp. Những u thế và những hạn chế này cũng quy định sự cần thiết
phải thực hiện kinh tế hợp tác.
Thứ ba: Trong sản xuất nông nghiệp, ruộng đất là t liệu sản xuất
(TLSX) đặc biệt không thể thay thế đợc. Ruộng đất vừa là vật chịu tác động
của lao động, vừa là vật truyền dẫn lao động của con ngời đến cây trồng.
Mặt khác, ruộng đất cũng là không gian rộng lớn mà ở đó con ngời tổ chức
6
các quá trình lao động sản xuất và chịu tác động trực tiếp của điều kiện tự
nhiên nh ma, nắng, bão tố vì thế hoạt động nông nghiệp mang tính đa
dạng, không có một mô hình kinh tế hợp tác cụ thể nào phù hợp cho tất cả
mọi vùng, mọi địa phơng. Hơn nữa, ruộng đất lại là một loại TLSX đặc biệt
(vì đất đai là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của con ngời, đất đai lại là
TLSX không thể sinh sôi nảy nở), do đó, quá trình phát triển sản xuất cũng
là quá trình bảo tồn ruộng đất và làm cho độ phì nhiêu của đất không ngừng
đợc nâng lên. Để thực hiện đợc yêu cầu này, quá trình sản xuất nông nghiệp
cũng là quá trình bắt buộc phải tổ chức hợp tác giữa những ngời nông dân
trong việc chống các tai họa của thiên nhiên làm hao tổn và xói mòn ruộng
đất.
Nh vậy, nhu cầu hợp tác trong quá trình sản xuất nông nghiệp là có
thật, bắt nguồn từ yêu cầu hiệu quả trong sản xuất. Các mô hình sản xuất
hợp tác nông nghiệp kiểu cũ trớc đây không phát huy đợc u thế của hợp tác
lao động, lại còn thua kém cả lao động cá thể vì không tôn trọng tính tự chủ
và lợi ích thiết thân của nông hộ, không tạo ra những điều kiện cơ bản để
phát huy u thế của hợp tác lao động và không tuân thủ những nguyên tắc
khi tiến hành hợp tác hóa. Hợp tác lao động thực chất là một cuộc cách

mạng về tổ chức lao động nhng hợp tác lao động chỉ phát huy đợc u thế hơn
lao động cá thể khi nó tuân thủ các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, muốn tổ chức hợp tác lao động có hiệu quả, các hộ nông
dân - thành viên của tổ chức kinh tế hợp tác - phải thấy rõ lợi ích kinh tế do
sự hợp tác mang lại, họ tự nguyện gia nhập vì lợi ích của chính bản thân họ.
Thứ hai, hợp tác lao động phải đợc dựa trên một kế hoạch chặt chẽ,
khoa học, và đợc triển khai một cách đồng bộ từ một trung tâm điều hành.
Điều kiện này rất quan trọng và cần thiết để khắc phục đợc những hạn chế,
yếu kém của từng cá nhân, để phát huy đợc sức mạnh của tập thể một cách
tối đa.
7
Thứ ba, quy mô hợp tác tùy thuộc vào lợng vốn và quy mô tập trung
của t liệu sản xuất. Đây là điều kiện quan trọng để tổ chức sản xuất, bởi vì
nói đến hợp tác lao động là nói đến hoạt động của nhiều ngời trong cùng
một lúc trên một quy mô nhất định, phải đảm bảo điều kiện sản xuất nhất
định thì hợp tác lao động mới đợc thực hiện một cách có hiệu quả.
Thứ t, hợp tác lao động đòi hỏi phải có sự chỉ huy điều khiển, kiểm
soát, cũng giống nh một dàn nhạc phải có nhạc trởng để tránh tình trạng
"trống đánh xuôi kèn thổi ngợc". Do đó, phải có sự quản lý để tạo ra sự
phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa các cá nhân, các bộ phận nhằm thực
hiện kế hoạch sản xuất đạt hiệu quả cao nhất.
Thứ năm, phải có kế toán. Kế toán đợc C. Mác quan niệm nh là một
phơng tiện kiểm soát giúp nhà quản lý nắm đợc tình hình sản xuất, kinh
doanh của đơn vị. Do đó, kế toán là điều kiện thiết yếu không thể thiếu đối
với quá trình sản xuất có tính chất xã hội.
Tóm lại, hợp tác là con đờng dễ tiếp thu, đơn giản để giúp hộ nông
dân đi lên sản xuất lớn. Song để phát huy đợc sức mạnh to lớn của hợp tác
lao động thì nó phải đợc tiến hành theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng,
cùng có lợi và quản lý dân chủ. Tuyệt đối không đợc gò ép, cỡng bức. Mặt
khác, muốn khắc phục những hạn chế của hộ nông dân trong nền kinh tế thị

trờng, nhất thiết phải tiến hành hợp tác lao động, phải hình thành các tổ
chức kinh tế hợp tác kiểu mới, chứ không phải là phủ nhận kinh tế hợp tác.
1.2. Sự ra đời và những đặc trng cơ bản của kinh tế hợp
tác kiểu mới trong nông nghiệp
1.2.1. Sự phát triển của kinh tế hộ và yêu cầu cấp thiết phải
phát triển kinh tế hợp tác kiểu mới trong nông nghiệp ngoại thành
thành phố Hồ Chí Minh
Kinh tế hộ đợc hiểu theo những cách khác nhau, nhng nhiều ngời
đồng ý: hộ gia đình nông dân là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nông
8
nghiệp và nông thôn, đã từng tồn tại từ lâu ở các nớc nông nghiệp. Hộ là
một nhóm ngời cùng chung huyết tộc, hay không cùng chung huyết tộc ở
chung một mái nhà, ăn chung một mâm cơm và có chung một ngân quỹ
[13, 9].
Dới ánh sáng Đại hội Đảng lần thứ VI, đặc biệt là sau khi có Nghị
quyết 10 của Bộ Chính trị ngày 5/4/1988 thì hộ nông dân đã trở thành đơn
vị kinh tế tự chủ ở nông thôn. Mỗi hộ có quyền tự quyết định mục tiêu và
quá trình sản xuất kinh doanh, trực tiếp quan hệ với thị trờng khi có sản
phẩm hàng hóa, tự hạch toán, lời ăn lỗ chịu chính sự công nhận hộ nông
dân là một đơn vị kinh tế tự chủ, hoạt động theo những nội dung trên đã
làm cho các hợp tác xã kiểu cũ hầu nh mất dần tác dụng. Trớc đây, trong
hợp tác xã cũ hộ gia đình tuy chỉ chiếm 5% ruộng đất nhng lại đảm bảo đến
60 - 70% nguồn sống. Điều đó cho thấy, khi các hộ nông dân trở thành các
đơn vị kinh tế tự chủ thì kinh tế hộ nông dân có điều kiện phát huy tối đa
thế mạnh của mình để phát triển sản xuất. Từ khi có đờng lối đổi mới, sự
phát triển kinh tế hộ ở các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh đã
góp phần tạo ra những biến đổi to lớn trong năng suất lao động nông nghiệp
và trong đời sống của nông dân và nông thôn.
Về năng suất: Năng suất thâm canh lúa đông xuân tăng lên từ
33,2 tạ/ ha năm 1997 tăng lên 33,5 tạ/ha, năm 1998 và 1999 là 34,2 tạ/ha.

Để có đợc những thay đổi trên là do nhiều nguyên nhân tác động
nhng nổi bật là do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
+ Nhờ đợc giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và đợc quyền sở
hữu về các TLSX khác đã làm cho các hộ gia đình hăng say, phấn khởi. Qua
đó sức sản xuất của nông hộ không ngừng đợc nâng cao.
+ Nếu trớc đây sức lao động của các hộ nông dân bị ràng buộc do
chế độ quản lý của các hợp tác xã kiểu cũ thì ngày nay sức lao động đó đợc
hoàn toàn giải phóng, ngời nông dân có quyền tự do di chuyển, tìm kiếm
9
việc làm, tự do tham gia các hình thức tổ chức sản xuất khác nhau, không
phân biệt địa giới hành chính [19, 21].
+ Sự phát triển của kinh tế hộ nông dân trong thời gian qua góp
phần đa kinh tế nông nghiệp chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp là chủ yếu
trớc đây sang sản xuất hàng hóa, góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế trong nông nghiệp trên địa bàn các huyện ngoại thành thành phố
theo hớng đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, mở rộng ngành nghề, hoạt động
dịch vụ và hớng tới mô hình hoạt động phi nông nghiệp.
Về đời sống: Nhờ có sự phát triển trong sản xuất mà mức sống và
điều kiện sống của ngời nông dân ngày càng đợc nâng cao. Điều này đợc
phản ánh qua số liệu về mức chi tiêu của ngời dân ngoại thành so với ngời
dân nội thành của thành phố qua các năm nh sau:
Bảng 1:
Đơn vị tính: nghìn đồng/ ngời/ tháng
Năm 1996 1997 1998 1999
Nội thành 452.836 497.840 519.304 552.280
Ngoại thành 312.256 334.042 362.242 376.021
Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh 1999.
Ngoài ra, kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống ở ngoại
thành ngày càng đợc phát triển, cho đến năm 2000 đã có 98,9% các hộ
nông dân ngoại thành có điện, 80% số hộ đợc dùng nớc sạch. Đời sống văn

hóa của ngời dân ngoại thành cũng không ngừng đợc nâng cao, có 62,5%
ngời đọc báo (25,2% là đọc thờng xuyên còn 37,3% là không đọc thờng
xuyên), 86% ngời nghe tin tức qua Tivi, Radio (trong đó thờng xuyên là
51,4% và không thờng xuyên là 34,8%), 7,9% ngời đi tham quan hàng
năm
10
Bảng 2: Tỷ lệ hộ gia đình nông dân ngoại thành có tiện nghi sinh hoạt
Đơn vị tính: %
Loại hình 1995 1999
- Ti vi 70% 75,9%
- Radio cassette 68% 78,5%
- Tủ lạnh 11,8% 13,8%
- Bếp ga - điện 9,2% 15,4%
- Điện thoại 2,6% 6,8%
- Xe máy 55% 63,9%
- Nhà ở kiên cố 9,8%
- Bán kiên cố 65%
- Nhà tranh 25,2%
Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh 1999.
Bên cạnh những thành tựu mà kinh tế hộ nông dân đã đạt đợc thì
trong quá trình phát triển trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trờng, kinh tế hộ nông dân đã dần dần bộc lộ những
hạn chế nhất định, điều đó đã làm ảnh hởng không nhỏ đến sự phát triển
của kinh tế nông nghiệp. Đó là:
+ Nguồn lực sản xuất nh đất đai, vốn còn gặp nhiều hạn chế, luôn
luôn bị biến động. Diện tích đất nông nghiệp có xu hớng giảm. Nếu diện
tích đất nông nghiệp năm 1995 là 9.916.401 ha thì đến năm 2000 chỉ còn
lại 9.528.855 ha, giảm 387.546 ha. Các hộ nông dân cũng gặp nhiều khó
khăn về vốn kinh doanh bởi vì các huyện ngoại thành thành phố là những
vùng ven, trớc đây chủ yếu là những vùng căn cứ của cách mạng (Hóc Môn,

Củ Chi, Bình Chánh ), lại là những vùng sâu vùng xa, đời sống ngời dân
còn gặp nhiều khó khăn (theo Ban chỉ đạo chơng trình xóa đói giảm nghèo
của thành phố thì hiện nay các huyện ngoại thành có 9/13 xã, phờng thuộc
diện nghèo nhất thành phố) [1], do đó phần lớn các hộ ngoại thành chỉ mới
11
đầu t sản xuất theo chiều rộng, cha có điều kiện đầu t chiều sâu. Những khó
khăn về vốn, về ruộng đất cũng là nguyên nhân làm hạn chế sự phát triển
kinh tế hợp tác ở ngoại thành trong thời gian qua.
+ Lao động ở các huyện ngoại thành chủ yếu là lao động thủ công,
giản đơn. Dân số ở các huyện vẫn tăng nhng số lao động ở các hộ nông dân
làm nông nghiệp thì ngày càng giảm vì bộ phận lao động trẻ, có học thức,
tay nghề ở các hộ nông dân đã chuyển vào làm ở các khu chế xuất hay các
quận nội thành với thu nhập cao ngày càng nhiều. Tình trạng thiếu lực lợng
lao động trẻ, có trình độ trong nông nghiệp ở các huyện ngoại thành hiện
nay đang là vấn đề bức xúc.
+ Phần lớn các huyện ngoại thành là vùng sâu, vùng xa, do đó quy mô
thị trờng nhỏ hẹp, có nơi hệ thống giao thông cha đợc phát triển nh Cần Giờ,
Nhà Bè , trình độ văn hóa của đại đa số hộ nông dân còn thấp là nguyên nhân
cản trở việc ứng dụng những thành tựu của khoa học công nghệ vào sản xuất.
Cho nên sức cạnh tranh của hàng hóa thấp, tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó
khăn và thờng là bị t thơng ép giá, ngời nông dân bị nhiều thiệt thòi.
Từ sự trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, kinh tế hộ nông dân
ngoại thành trong quá trình đổi mới đã không ngừng phát huy những u thế
của mình để phát triển sản xuất, họ đã cùng với nhân dân thành phố tạo ra
một khối lợng sản phẩm hàng hóa lớn, thực sự là động lực thúc đẩy quá
trình phát triển kinh tế thành phố nói chung và kinh tế nông thôn nói riêng.
Việc phát triển kinh tế hộ là một hớng đi hợp quy luật, góp phần thúc đẩy
việc khai thác các tiềm năng sẵn có, phát huy nội lực để phát triển nông
nghiệp, nông thôn theo hớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH).
Tuy nhiên, kinh tế hộ nông dân trong quá trình phát triển đi lên cũng gặp

nhiều khó khăn, hạn chế. Để khắc phục những khó khăn đó kinh tế hộ nông
dân chỉ có con đờng đi vào hợp tác để cùng nhau phát huy thế mạnh của lao
động tập thể, khắc phục những nhợc điểm của lao động cá thể nhằm phát
triển sản xuất, nâng cao đời sống, góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp,
12
nông thôn. Đó là một xu thế tất yếu khách quan và cũng là con đờng tốt
nhất giúp kinh tế hộ vợt qua những khó khăn, tiến hành sản xuất kinh doanh
đạt hiệu quả cao nhất trong nền kinh tế thị trờng hiện nay.
1.2.2. Hợp tác xã và sự khác nhau cơ bản giữa hợp tác xã kiểu
mới và hợp tác xã kiểu cũ
Theo Luật hợp tác xã đợc Quốc Hội nớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 20/3/1996 thì hợp tác xã đ-
ợc định nghĩa nh sau: "Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những ngời
lao động có nhu cầu lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra
theo qui định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng
xã viên nhằm giúp đỡ nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản
xuất kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống góp phần phát triển kinh tế
xã hội của đất nớc" [19, 5].
Từ định nghĩa trên, chúng ta thấy rằng, hợp tác xã là hình thức hợp
tác cao nhất, đặc trng nhất của kinh tế hợp tác. Căn cứ vào Luật hợp tác xã
và t duy mới về kinh tế hợp tác, có thể thấy kinh tế hợp tác mà nòng cốt là
hợp tác xã, theo t duy mới có các nội dung chủ yếu sau đây:
Một là, kinh tế hợp tác bao gồm những hình thức hợp tác giản đơn
hay "lỏng lẻo" nội dung chủ yếu là trao đổi lao động nh tổ đổi công, vần
công, trao đổi kinh nghiệm kỹ thuật, hợp tác chỉ mang tính chất thời vụ hay
từng công việc cụ thể. Loại hình này thờng không có tổ chức ổn định, cha
có t cách pháp nhân, không có vốn chung, không có tổ chức bộ máy hoạt
động theo Luật dân sự. Nó đợc hình thành trên cơ sở thỏa thuận trực tiếp
giữa các hộ để giải quyết một công việc hay dịch vụ cụ thể nh: hoạt động
của tổ đờng nớc, tổ hợp tác chăn nuôi, tổ hợp tác sản xuất rau sạch. Do trình

độ hợp tác còn giản đơn, cha đủ các điều kiện để đợc thừa nhận là hợp tác
xã, nhng nó đợc chính quyền, các tổ chức đoàn thể (nh Hội nông dân, Hội
13
phụ nữ, Hội thanh niên ) tạo điều kiện và khuyến khích phát triển để dần
dần có thể trở thành hợp tác xã.
Hai là, kinh tế hợp tác lại bao gồm cả những đơn vị kinh tế hợp tác
xã do những chủ thể kinh doanh độc lập tự nguyện góp vốn, góp sức cùng
kinh doanh. Loại hình này đợc tổ chức chặt chẽ, có vốn chung và đủ t cách
pháp nhân, có điều lệ riêng, hoạt động theo Luật hợp tác xã. Tuy có sự khác
nhau về qui mô, trình độ và tính chất, nhng nhìn chung cơ sở kinh tế đầu
tiên hình thành nên loại hình kinh tế này chủ yếu là vốn cổ phần, chứ không
phải là công hữu hóa các tài sản. Các cổ đông là ngời chủ sở hữu cổ phần
của mình, nhng cùng làm chủ toàn bộ nguồn vốn cổ phần đợc tạo nên vào
mục đích kinh doanh. Việc phân phối cho các hộ cổ đông phải căn cứ vào số
lợng cổ phần, công đóng góp và số lợng dịch vụ sử dụng của hợp tác xã mà
các hộ thành viên sử dụng.
Ba là, nội dung phạm vi hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh
tế hợp tác là không bao trùm lên toàn bộ hoạt động kinh tế của các hộ xã
viên mà chỉ tập trung vào những khâu, những lĩnh vực đòi hỏi phải có sức
mạnh tập thể mới có hiệu quả, còn những khâu, những lĩnh vực, kinh tế hộ
hoạt động có hiệu quả hơn thì các hộ tự tổ chức làm.
Bốn là, các hình thức kinh tế hợp tác là những đơn vị kinh tế tự chủ
hoạt động theo pháp luật và chính sách của nhà nớc và không có cấp trên
trực tiếp. Đối với loại hình có tổ chức ổn định, có t cách pháp nhân, thì đại
hội các cổ đông là cơ quan quyền lực cao nhất, quyết định phơng hớng kinh
doanh, điều lệ hợp tác xã, số lợng góp vốn cổ phần tối thiểu, cách thức quản
lý, phân phối và bầu ra Ban Quản trị hợp tác xã.
Năm là, các tổ chức kinh tế hợp tác hoạt động không bị giới hạn bởi
địa giới hành chính, đợc tự do đăng ký kinh doanh, tự chịu trách nhiệm vật
chất trớc các thành viên và pháp luật. Có quyền bình đẳng với các thành

viên kinh tế khác về quyền hạn, nghĩa vụ theo qui định của pháp luật. Một
hộ có thể tham gia nhiều tổ chức kinh tế hợp tác.
14
Nếu chỉ tính riêng về hợp tác xã, thì hợp tác xã kiểu mới khác với
hợp tác xã kiểu cũ trên các mặt sau đây:
Thứ nhất: Đối với các hợp tác xã kiểu mới thì các hộ xã viên là ngời
có quyền tự quyết định phơng án sản xuất của mình. Từ việc trồng cây gì,
nuôi con gì đến từng khâu chăm bón, thu hoạch. Dù tồn tại dới bất cứ loại
hình kinh tế hợp tác nào thì hộ nông dân vẫn là đơn vị kinh tế tự chủ. Các
hình thức kinh tế hợp tác không làm mất đi vai trò tự chủ của kinh tế hộ,
hoặc "hòa tan" kinh tế hộ vào kinh tế hợp tác mà nó có tác dụng phục vụ,
hỗ trợ cho kinh tế hộ phát triển. Bởi vì, trong môi trờng kinh tế hàng hóa,
giữa các hộ có quan hệ kinh tế với nhau dựa trên những tất yếu kinh tế - kỹ
thuật khách quan đòi hỏi. Trong đó, sự phát triển không ngừng của kinh tế
hộ là điều kiện ra đời, tồn tại và phát triển của các hình thức kinh tế hợp tác.
Các hình thức kinh tế hợp tác chỉ có giá trị đích thực khi có những yêu cầu
kinh tế khách quan giữa các hộ đòi hỏi. Vì vậy, các hình thức kinh tế hợp
tác là điều kiện và môi trờng để hỗ trợ, phục vụ hoặc bổ sung cho sự phát
triển mạnh mẽ, vững chắc của kinh tế hộ nông dân ở những khâu, những
lĩnh vực hay công việc mà các hộ tự mình không làm đợc hoặc làm không
có hiệu quả. Hộ là ngời chịu trách nhiệm về các quyết định của mình chứ
không phải là ai khác. Còn các hợp tác xã kiểu cũ xã viên là ngời chỉ biết
nhận phần việc do hợp tác phân công và hởng theo công điểm. Khoán gọn
và sau này là khoán theo từng khâu cũng là sự biến tớng của chế độ công
điểm mà thôi.
Thứ hai: Hoạt động kinh tế trong hợp tác xã kiểu mới khác với hợp
tác xã kiểu cũ ở chỗ: vốn do xã viên đóng góp (xã viên góp vốn chứ không
góp đất), ban quản lý do những ngời góp vốn cử ra và chịu trách nhiệm trớc
xã viên về hiệu quả sử dụng đồng vốn đó. Sau một chu kỳ sản xuất tùy theo
quy định của đại hội xã viên ngời góp vốn có thể rút vốn khi thấy hợp tác

xã hoạt động kém hiệu quả. Ngời có nhiều vốn có thể tham gia nhiều hợp
tác xã. Việc phân phối lợi nhuận do xã viên tự nguyện góp vốn quyết định.
15
Ngoài việc đóng góp đầy đủ nghĩa vụ thuế và các khoản chi khác cho nhà
nớc, phần còn lại do hợp tác xã chủ động xử lý. Các quan hệ giữa hộ với
hợp tác xã và giữa các hợp tác xã với nhau trở nên phong phú, nhng đều
thực hiện trên nguyên tắc "thuận mua vừa bán".
Thứ ba: Hợp tác xã kiểu mới ra đời là xuất phát từ yêu cầu thực tế
trong sản xuất của hộ nông dân. Hoạt động của hợp tác xã chỉ là nhằm giúp
đỡ tháo gỡ những khó khăn mà hộ nông dân không thể giải quyết một cách
có hiệu quả. Do đó, hợp tác xã chỉ đảm nhận một số khâu trong quá trình
sản xuất của kinh tế hộ mà thôi. Vì thế, hợp tác xã mới là một đơn vị kinh
tế tự chủ, không làm chức năng của một tổ chức xã hội hay làm chức năng
hành chính ở địa phơng.
Còn các hợp tác xã kiểu cũ là một tổ chức không phải chỉ để hoạt
động về kinh tế mà còn là một đơn vị quản lý hành chính xã hội. Trong sản
xuất hợp tác xã là ngời chỉ đạo các khâu của quá trình sản xuất và là ngời
nắm ba quyền cơ bản (sở hữu về t liệu sản xuất, về quản lý và phân phối).
Nh vậy, sự ra đời của kinh tế hợp tác xã kiểu mới là một xu thế tất
yếu, do nhu cầu phát triển của kinh tế hộ trong nền kinh tế thị trờng và kinh
tế hợp tác hoạt động với tính chất, nội dung hoàn toàn mới so với mô hình
cũ trớc đó. Cũng vì nhu cầu bức xúc cần phải có sự hợp tác với nhau giữa
các hộ nông dân là cơ sở quyết định để cho kinh tế hợp tác kiểu mới ra đời,
nên mỗi vùng, mỗi địa phơng kinh tế hợp tác ra đời và phát triển khác nhau
do có nhiều nhân tố khác nhau tác động
1.3. Những nhân tố cơ bản tác động đến sự hình thành
và phát triển của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
Giống nh những hình thức sản xuất kinh doanh khác có nền tảng là
kinh tế hộ gia đình, trong quá trình phát triển kinh tế, kinh tế hộ nông dân
có những nhu cầu tất yếu phải liên kết với nhau một cách tự nguyện hình

thành nên các loại hình kinh tế hợp tác trong sản xuất. Các nhu cầu đó có
16
thể đợc xuất phát từ bên trong nh: Sự hạn chế về lao động, vốn, kỹ thuật hay
về thủy lợi hoặc có thể xuất phát từ bên ngoài nh: Sự cạnh tranh bất hợp lý
giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trờng, sự phân chia quyền
lợi một cách chênh lệch thông qua chính sách hoặc qua giao dịch quốc tế
Vì thế, mục tiêu nâng cao thu nhập và tự bảo vệ thông qua phát triển sản
xuất tạo nên nhu cầu hình thành các hình thức kinh tế hợp tác và hợp tác xã.
Chính các yếu tố của các nhu cầu trên đã biến kinh tế hợp tác trở thành một
yếu tố tất yếu trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn. Khi đặt
nguyên tắc tự nguyện là nguyên tắc đầu tiên của kinh tế hợp tác, ngời ta đã
coi nhu cầu hình thành một cách khách quan là một trong những sức sống
quan trọng giúp cho kinh tế hợp tác vợt qua mọi trở ngại để có thể hình
thành và phát triển.
Trong thực tế, việc hình thành và phát triển kinh tế hợp tác mà hợp tác
xã là hình thức cao nhất nhiều khi cũng không bắt nguồn từ nhu cầu của bản
thân xã viên mà xuất phát từ các tác động bên ngoài. ở nhiều nớc trên thế giới
hay ở Việt Nam thời kỳ trớc đây, hợp tác hóa từng là giải pháp để thu mua l-
ơng thực có hiệu quả, là con đờng để thực hiện đầu t phát triển, là tổ chức để
củng cố cơ sở chính trị ở nông thôn Tuy nhiên, các tác động bên ngoài đó
chỉ có thể thành công một cách vững chắc một khi chúng thống nhất, hoặc
khơi dậy đợc nhu cầu chính đáng của hộ nông dân, bằng không sớm muộn
cũng sẽ bị thất bại, nhiều khi còn đem lại những thiệt hại to lớn.
Từ sự phân tích ở trên chúng ta thấy rằng, kinh tế hợp tác đợc hình
thành một cách khách quan do tác động bởi các nhân tố chủ yếu sau:
1.3.1. Trình độ phát triển của lực lợng sản xuất
Thực tiễn của quá trình phát triển kinh tế hợp tác cho thấy, khi lực l-
ợng sản xuất cha phát triển thì mức độ, cũng nh nhu cầu hình thành và phát
triển kinh tế hợp tác thấp, còn khi lực lợng sản xuất đã phát triển thì mức độ
cũng nh nhu cầu phát triển sẽ đợc mở rộng.

17
Khi lực lợng sản xuất cha phát triển, t liệu sản xuất còn thô sơ, sự
tác động của thị trờng cha cao, ngời nông dân sản xuất chủ yếu là nhằm
mục đích tự cung, tự cấp do đó cha có nhu cầu hợp tác sản xuất (nếu có thì
mức độ thấp và qui mô nhỏ bé). Nhng khi lực lợng sản xuất đã đợc phát
triển, t liệu sản xuất đợc cải tiến từ đơn giản, thô sơ lên cơ khí, máy móc ,
khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản
xuất tăng lên, thị trờng ngày càng mở rộng và sự tác động của các quy luật
kinh tế của nền kinh tế thị trờng cũng trở nên mạnh mẽ hơn. Điều đó
đã đặt những ngời sản xuất cá thể trong ngành nông nghiệp trớc hai
con đờng:
Một là, họ sẽ bị phá sản nếu không thích ứng kịp với sự phát triển
của lực lợng sản xuất.
Hai là, các hộ nông dân phải hợp tác với nhau để khắc phục những
hạn chế của từng cá nhân, phát huy u thế của hợp tác lao động.
Sự phát triển của lực lợng sản xuất đến lợt nó lại tạo điều kiện đòi
hỏi mức độ hợp tác tăng lên và hình thức hợp tác đợc phát triển đa dạng,
phong phú. Nếu trớc đây lực lợng sản xuất cha phát triển thì mức độ hợp tác
chỉ nằm ở một số khâu của quá trình sản xuất (nh hợp tác về thủy lợi chẳng
hạn ) và qui mô hợp tác chỉ bó hẹp ở một hộ sản xuất, nhng khi lực lợng
sản xuất phát triển thì mức độ hợp tác trong quá trình sản xuất sẽ nhiều hơn
(hợp tác trong khâu làm đất, chọn giống, bảo vệ thực vật, trong thu hoạch,
trong chế biến, tiêu thụ sản phẩm ) và qui mô hợp tác cũng đợc mở rộng
theo (có thể là hợp tác giữa các hộ sản xuất, có khi hợp tác với các thành
phần kinh tế khác trong các khâu phục vụ quá trình sản xuất). Có thể nói,
các hình thức khác nhau của kinh tế hợp tác là kết quả lâu dài của việc phát
triển LLSX và phân công lao động xã hội. Khâu tới tiêu nớc trong nông
nghiệp chứng minh cho điều này:
18
Nếu công cụ là thủ công (gàu sòng) Nếu công cụ là cơ khí (máy bơm)

- Mức đầu t mua sắm thấp hộ nông
dân nào cũng có thể mua đợc.
- Kỹ thuật sử dụng giản đơn, đa số
thành viên trong hộ đều có thể sử
dụng đợc
- Tác dụng trên từng thửa ruộng
nhỏ hẹp
- Kỹ thuật tới tiêu đơn giản, úng
thì tát bớt, hạn thì tát thêm
- KL: Mỗi gia đình có thể đảm
nhận, không có nhu cầu hình
thành một bộ phận lao động
chuyên môn đảm nhiệm điều hòa
lợi ích chung cho các hộ
- Vốn đầu t lớn, xuất hiện yêu cầu
vay, hùn vốn.
- Kỹ thuật sử dụng pháp tạp không
phải bất cứ nông dân nào cũng có
khả năng sử dụng tốt.
- Tác dụng cho nhiều thửa ruộng,
thậm chí cho nhiều thôn xã, cần
điều hòa phối hợp
- Tới tiêu theo yêu cầu thâm canh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- KL: một ngời, một hộ không thể
đảm nhận tốt nên xuất hiện yêu
cầu có những cá nhân, bộ phận có
trình độ đứng ra đảm nhiệm phục
vụ chung cho nhiều hộ, nhiều cánh
đồng.

Từ sự phân tích trên có thể lý giải đợc tình trạng sai sót khi hình
thành các đội chuyên ồ ạt ở các hợp tác xã nông nghiệp cũ trớc đây. Hiện
nay, nhiều hợp tác xã nông nghiệp chuyển sang làm dịch vụ nhng số khâu
dịch vụ và mức độ đảm nhiệm từng khâu rất thấp. Do nhiều nguyên nhân
nhng có nhiều nguyên nhân là thiếu những tiền đề kinh tế để thúc đẩy nhu
cầu dịch vụ của các hộ đối với hợp tác xã nông nghiệp.
Kinh tế hợp tác với nhiều hình thức khác nhau hoạt động tơng trợ
lẫn nhau sẽ tạo đợc môi trờng cho việc áp dụng những tiến bộ mới của khoa
học kỹ thuật vào sản xuất, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi. Với những u
thế đó kinh tế hợp tác là cơ sở đảm bảo cho sự phát triển bền vững của kinh
tế hộ, của nông nghiệp, nông thôn. Kinh tế hợp tác vừa là kết quả, vừa là
19
động lực của sự phát triển LLSX. Sự phát triển của LLSX trong nông nghiệp
là nhân tố khách quan tất yếu thúc đẩy kinh tế hộ nông dân phải hợp tác và
chỉ có thông qua hợp tác hộ nông dân mới tồn tại và phát triển trong nền
kinh tế thị trờng hiện nay.
1.3.2. Sự tác động về mặt vĩ mô của Nhà nớc
Đây chính là nhân tố có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của kinh
tế hợp tác cả về mặt lý luận cũng nh trong thực tiễn. Bởi lẽ, sự định hớng
của Nhà nớc ở tầm vĩ mô vừa là sự định hớng, vừa là sự hỗ trợ tạo điều kiện
để cho các thành phần kinh tế hoạt động một cách có hiệu quả nói chung,
để cho kinh tế hợp tác phát triển nói riêng.
Đảng và Nhà nớc luôn luôn quan tâm, chú ý đến việc xây dựng và
phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã và Đảng ta coi đó là con đờng tốt
nhất để đa nông dân thoát khỏi đói nghèo. Vì vậy, các chính sách, các quyết
định của Nhà nớc về thuế, về giá, về đào tạo cán bộ, về giao quyền sử dụng
đất lâu dài cho nông dân là những tác động ở tầm vĩ mô để tạo cho ngời
dân yên tâm sản xuất kinh doanh có hiệu quả, góp phần ổn định đời sống và
xây dựng nông thôn mới.
Thực tế cho thấy ở đâu, ở địa phơng nào chính quyền quan tâm,

giúp đỡ thì ở đó phong trào kinh tế hợp tác sẽ đợc phát triển mạnh mẽ, ngợc
lại, phong trào gặp khó khăn. Đặc biệt khi cả nớc đang ra sức thực hiện mục
tiêu CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn thì việc phát triển kinh
tế hợp tác trong nông nghiệp lại càng có ý nghĩa quan trọng, vai trò hớng
dẫn cùng với các chính sách hỗ trợ của nhà nớc ở tầm vĩ mô càng không thể
thiếu.
Vai trò của Đảng và Nhà nớc đối với phong trào hợp tác thể hiện ở:
+ Đảm bảo nguyên tắc tự nguyện của ngời nông dân trong việc hợp
tác cũng nh trong việc thành lập hợp tác xã.
20
+ Hỗ trợ nông dân xây dựng những hợp tác xã đa dạng cả về hình
thức, qui mô cũng nh cả về trình độ.
+ Xây dựng các chính sách kinh tế đối với nông nghiệp và hợp tác
nông nghiệp trên cơ sở tổng kết thực tiễn, đúc rút và phổ biến kinh nghiệm
để thúc đẩy kinh tế hợp tác phát triển.
1.3.3. Mức độ phát triển của thị trờng hàng hóa
Trong quá trình phát triển sản xuất, kinh tế hộ nông dân phải chịu sự
tác động rất lớn của nền kinh tế thị trờng. ở đó, ngời nông dân không thể
sản xuất những hàng hóa mà họ muốn (họ có khả năng). Họ phải sản xuất
theo yêu cầu của thị trờng từ các loại mặt hàng, số lợng, chất lợng, thời
gian, giá cả Khi thị trờng phát triển, mở rộng phạm vi hoạt động thì
những yêu cầu đó ngày càng đòi hỏi cao hơn. Do đó, để đáp ứng yêu cầu
của thị trờng, để tồn tại và phát triển, kinh tế hộ nông dân phải không
ngừng áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, phải chuyển đổi cơ cấu
cây trồng vật nuôi nhằm đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Từng
hộ nông dân tự thực hiện điều đó, chắc chắn không thu đợc kết quả nh
mong muốn. Để khắc phục đợc những mặt yếu kém của sản xuất cá thể
trong nông nghiệp, đáp ứng yêu cầu của thị trờng các hộ nông dân phải hợp
tác với nhau ở từng mức độ, từng hình thức tùy theo điều kiện sản xuất, quy
mô sản xuất của từng vùng, từng địa phơng thì mới đạt đợc hiệu quả cao

nhất.
1.3.4. Sự nhận thức của hộ nông dân về kinh tế hợp tác
Thực tiễn phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã trong thời gian qua
ở cả nớc cũng nh ở các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh đã
chứng tỏ rằng có nơi kinh tế hợp tác và hợp tác xã vẫn ra đời và phát triển,
có nơi hợp tác xã không còn và nếu còn hoạt động thì gặp rất nhiều khó
khăn Một trong những nguyên nhân của tình hình đó là do sự nhận thức
21
của ngời nông dân cha đúng, cha đủ về kinh tế hợp tác và hợp tác xã. Nhận
thức của nông dân về kinh tế hợp tác và hợp tác xã cha tốt là do:
Quan điểm của Đảng và Nhà nớc về kinh tế hợp tác và hợp tác xã
cha đợc phổ biến rộng rãi ở nông thôn.
Do trình độ học vấn của ngời nông dân còn thấp (thậm chí có ngời
không biết chữ.)
Do sự thiếu quan tâm của các cấp chính quyền địa phơng trong
việc tổ chức, hớng dẫn tạo điều kiện giúp đỡ (đặc biệt trong việc đào tạo
cán bộ) để hộ nông dân có điều kiện phát triển kinh tế hợp tác.
Hộ nông dân nông nghiệp, đặc biệt là ở những vùng sâu, vùng xa
cách trung tâm thành phố thờng thiếu các thông tin có liên quan đến lĩnh
vực nông nghiệp, đến kinh nghiệm phát triển kinh tế hợp tác cũng nh các
mô hình kinh tế hợp tác có hiệu quả.
Một bộ phận nông dân thiếu niềm tin về kinh tế hợp tác do bị ảnh
hởng của phong trào hợp tác hóa cũ trớc đây, họ sợ vào hợp tác xã sẽ bị tập
thể hóa về t liệu sản xuất
Kinh tế hợp tác có thể ra đời, tồn tại và phát triển đợc hay không là
do các hộ nông dân quyết định. Do đó, việc hớng dẫn giúp đỡ và tạo điều
kiện cho ngời nông dân hiểu và thấy đợc những u thế của kinh tế hợp tác
cũng nh chỉ ra hợp tác lao động là con đờng để ngời nông dân vợt qua đợc
những hạn chế của lao động cá thể, khắc phục đợc những tác động xấu của
nền kinh tế thị trờng là một yêu cầu cấp thiết và có ý nghĩa to lớn trong việc

thực hiện tốt đờng lối phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà
nớc, trong việc thực hiện thành công công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn trong giai đoạn hiện nay.
Tóm lại: Kinh tế hợp tác là một xu thế khách quan. Các hình thức
kinh tế hợp tác đợc hình thành là do yêu cầu và để hỗ trợ cho sự phát triển
22
của kinh tế hộ. Những thành tựu lý luận cũng nh thực tiễn hoạt động của
các hợp tác xã ở các nớc trên thế giới cũng nh ở nớc ta trong thời gian qua
đều đã khẳng định kinh tế hợp tác có vai trò to lớn trong việc phát triển
LLSX. Vấn đề đặt ra đối với thành phố Hồ Chí Minh và các huyện ngoại
thành là phải xuất phát từ trình độ phát triển của LLSX và thời điểm cụ
thể để chọn lọc những hình thức kinh tế hợp tác và phơng thức hoạt động
thích hợp, đem lại hiệu quả cao, góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp
phát triển.
Vì thế, tại Đại hội Đảng lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định: "Kinh tế
hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã là hình thức liên kết tự nguyện của
những ngời lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức
mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả những vấn đề của sản xuất, kinh
doanh và đời sống. Phát triển kinh tế hợp tác với nhiều hình thức đa dạng,
từ thấp đến cao, từ tổ nhóm hợp tác đến hợp tác xã. Tuân thủ nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ" [34, 95].
23
Chơng 2
Thực Trạng KINH Tế Hợp Tác
ở Các Huyện Ngoại Thành Thành phố Hồ Chí Minh
2.1. Đặc điểm tự nhiên - kinh tế - xã hội
Thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là thành phố) trong địa giới hiện
nay bao gồm thành phố Sài Gòn, tỉnh Gia Định và một phần tỉnh Chợ Lớn
trớc đây.
Thành phố Hồ Chí Minh ở vào 10

0
38-11
0
vĩ Bắc và 106
0
22-186
0
24
kinh Đông; diện tích tự nhiên: 2093,7 km
2
trong đó khu vực nội thành rộng
440 km
2
, ngoại thành rộng 1.653,7km
2
. Thành phố Hồ Chí Minh có 1 hải
cảng quan trọng, cảng sông Sài Gòn có độ sâu có thể tiếp nhận các tàu biển
có trọng tải trên 30.000 tấn. Có một hệ thống sông đi từ thành phố lên miền
Đông, xuống miền Tây và sang Campuchia. Thành phố Hồ Chí Minh là đầu
mối đờng bộ với khu vực Đông Dơng. Ngoài ra thành phố còn có sân bay
Tân Sơn Nhất cách trung tâm 7 km.
Khí hậu thành phố nóng ẩm, chịu ảnh hởng của gió mùa, nhiệt độ
trung bình 27,3
0
C; lợng ma bình quân hàng năm là 1879 mm; thời tiết
thuận hòa, ít bão, ít ngập lụt là điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất-
kinh doanh.
Theo quyết định số 03 QĐ/CP ngày 6/1/1997 của Chính phủ về việc
thành lập các quận mới ở thành phố Hồ Chí Minh, thì hiện nay thành phố
Hồ Chí Minh có 17 quận và 5 huyện ngoại thành bao gồm: Huyện Bình

Chánh, Củ Chi, Cần Giờ, Hóc Môn và Nhà Bè (số liệu cụ thể xin xem bảng
biểu số 6 phần phụ lục).
- Về tự nhiên: Các huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh xét về
địa giới hành chính là những huyện nằm ở vùng ven của trung tâm thành
24
phố Hồ Chí Minh là vùng tiếp giáp giữa trung tâm với các tỉnh lân cận (nh
Tây Ninh, Bình Dơng, Đồng Nai, Long An, Bà Rịa Vũng Tàu ). Có diện
tích tự nhiên là 1653,7 km
2
, đất đai bằng phẳng không có đồi núi, nhiệt độ
trung bình hàng năm là 27,3
0
C, lợng ma trung bình là 1878 mm/năm, ít bị
ảnh hởng lũ lụt, bão là những điều kiện thuận lợi để phát triển một nền
nông nghiệp toàn diện.
- Về kinh tế: Trớc 1975, Sài Gòn đợc mệnh danh là "Hòn ngọc Viễn
Đông", nhng các huyện ngoại thành chỉ là những vùng dân c tha thớt, chủ
yếu là sản xuất nông nghiệp; kết cấu hạ tầng cha phát triển
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, dới sự lãnh đạo của Đảng
và Nhà nớc, đặc biệt là sau những năm đổi mới, thành phố đã đạt đợc những
thành tựu to lớn trên các lĩnh vực: Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình
quân 16,7 %/năm chiếm 36,9 % giá trị sản xuất công nghiệp cả nớc. Nông
nghiệp tăng 5,2 %/năm. GDP thành phố tăng liên tục 12,6 %/năm. Thu nhập
bình quân đầu ngời tăng từ 610 USD năm 1990 lên 912 USD năm 1995 và
đến năm 2000 sẽ là 1.500 USD. Nhng sự phát triển kinh tế của thành phố
trong những năm qua chỉ tập trung ở những vùng nội thành. Các huyện
ngoại thành tuy đã đợc lãnh đạo thành phố quan tâm đầu t nhng cho đến
nay tốc độ phát triển vẫn còn chậm, kinh tế cha đạt đợc hiệu quả cao. Đời
sống nhân dân ngoại thành thấp hơn và còn gặp nhiều khó khăn so với nội
thành. Nhng với u thế là những huyện nằm gần trung tâm thành phố lớn,

một trung tâm phát triển mạnh về các lĩnh vực: Công nghiệp - thơng mại -
du lịch - ngân hàng - khoa học kỹ thuật, giáo dục đào tạo - nghiên cứu khoa
học so với cả nớc nên có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh
trong thời gian tới trên cả hai phơng diện:
Một là: Có thể nhanh chóng ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ
thuật vào sản xuất để đạt đợc hiệu quả cao về kinh tế.
Hai là: Có thị trờng tiêu thụ sản phẩm rộng lớn.
25

×