Tải bản đầy đủ (.docx) (123 trang)

Hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán báo cáo tài chính năm đầu do công ty tnhh kiểm toán và tư vấn thăng long thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.01 KB, 123 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 1
Khoa Kế toán

LI M ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Để cung cấp dịch vụ kiểm tốn có chất lượng cho khách hàng và hạn chế
được rủi ro kiểm tốn, thì việc xây dựng một quy trình chuẩn để đánh giá rủi ro
kiểm tốn là hết sức quan trọng. Đây chính là yếu điểm của các cơng ty kiểm
tốn Việt Nam. Các cơng ty kiểm tốn nước ngồi với kinh nghiệm nhiều năm
hoạt động đã xây dựng cho mình một quy trình chuẩn để đánh giá rủi ro kiểm
tốn. Nhờ có quy trình này, các kiểm toán viên thực hiện kiểm toán báo cáo tài
chính một cách hiệu quả nhất hạn chế được rủi ro, tiết kiệm chi phí.
Xuất phát từ vai trị quan trọng của cơng tác đánh giá rủi ro kiểm tốn - đặc
biệt là đánh giá rủi ro kiểm toán năm đầu và thực tế công tác đánh giá rủi ro
kiểm tốn ở Việt Nam, em xin chọn Đề tài: “Hồn thiện quy trình đánh giá rủi
ro kiểm tốn Báo cáo tài chính năm đầu do Cơng ty TNHH Kiểm tốn và Tư
vấn Thăng Long thực hiện” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu của Đề tài
Đề tài nghiên cứu nền tảng của lí thuyết kiểm tốn, đi sâu vào khía cạnh đánh
giá rủi ro kiểm tốn trong kiểm tốn báo cáo tài chính năm đầu và vận dụng nội
dung đó vào quy trình kiểm tốn của Cơng ty. Qua quy trình Kiểm tốn của
Cơng ty, Đề tài nêu lên những bài học kinh nghiệm và đưa ra một số kiến nghị
nhằm hồn thiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm tốn báo cáo tài chính năm đầu
do Cơng ty TNHH Kiểm tốn và Tư vấn Thăng Long thực hiện.
3. Nội dung của Đề tài
Ngoài Phần Mở đầu và Phần Kết luận, nội dung Chuyên đề thực tập tốt
nghiệp của em gồm 3 chương
Chương 1: Lí luận chung về rủi ro kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài
chính;
Chương 2: Thực trạng đánh giá rủi ro kiểm tốn trong kiểm tốn báo cáo tài
chính năm đầu do Cơng ty TNHH Kiểm tốn và Tư vấn Thăng Long thc hin;


Phạm Thanh Tùng
Kiểm toán 45B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2
Khoa Kế toán
Chng 3: Phương hướng và giải pháp hồn thiện quy trình đánh giá rủi ro
kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính năm đầu do Cơng ty TNHH Kiểm
tốn và Tư vấn Thăng Long thực hiện.
4.Phương pháp nghiên cứu
Đề tài của em sử dụng phép biện chứng duy vật làm rõ cơ sở phương pháp
luận và sử dụng các phương pháp của tốn học, các phương pháp của các mơn
khoa học khác.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Đề tài là quy trình đánh giá rủi ro kiểm tốn báo
cáo tài chính năm đầu. Đề tài chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu đánh giá rủi ro
kiểm tốn báo cáo tài chính năm đầu do Cơng ty TNHH Kiểm toán và Tư vấn
Thăng Long thực hiện.
6.Hướng đóng góp của Chun đề
Trong q trình học tập và thực tập tại Cơng ty TNHH Kiểm tốn và Tư vấn
Thăng Long em đã chọn đề tài này. Thông qua nghiên cứu đề tài, em nêu nên
thực trạng công tác đánh giá rủi ro kiểm tốn báo cáo tài chính năm đầu do
Cơng ty thực hiện. Qua đó, em đưa ra phương hướng và một số giải pháp nhằm
hoàn thiện quy trình đánh giá rủi ro kiểm tốn báo cáo tài chính năm đầu do
Cơng ty thực hiện. Tuy nhiên do hạn chế về mặt thời gian cũng như kiến thức
chuyên ngành và kinh nghiệm thực tế nên Báo cáo khơng tránh khỏi những nhận
định sai lầm và thiếu sót. Em kính mong các thầy, cơ trong trường và các cơ
chú, anh chị trong Cơng ty góp ý và giúp đỡ để Báo cáo của em được hoàn thiện
thêm.
Em xin chân thành cám ơn GS.TS. Nguyễn Quang Quynh cùng các cơ chú,

anh chị trong Cơng ty TNHH Kiểm tốn và Tư vấn Thăng Long đã tận tình giúp
đỡ em hồn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
Em chân thành cỏm n !

Phạm Thanh Tùng
Kiểm toán 45B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 3
Khoa Kế toán

Chng I
L LUẬN CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ RỦI RO
KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TỐN BÁO CÁO TÀI CHÍNH NĂM ĐẦU
1.1 Lí luận cơ bản về rủi ro kiểm toán
1.1.1 Khái niệm rủi ro kiểm tốn
Một cách chung nhất và đơn giản nhất thì rủi ro ám chỉ một sự kiện có thể xảy
ra, nằm ngoài ý muốn và khi xảy ra sẽ mang lại một kết quả khơng có lợi. Rủi ro
cịn được hiểu là sự sai lệch giữa dự kiến và thực tế đã xảy ra. Rủi ro không
những ám chỉ những sự ngờ vực sẽ xảy ra những hậu quả xấu ở trong tương lai
mà nó cịn ám chỉ những hậu quả có thể xảy ra ở hiện tại và dẫn đến những khó
khăn hoặc một sự bất lợi ở hiện tại.
Có trường phái khoa học cho rằng rủi ro chỉ liên quan đến các thiệt hại thực tế
đã xảy ra (quan niệm rủi ro không đối xứng). Tuy nhiên cũng có trường phái cho
rằng rủi ro liên quan đến hai vấn đề đó là: thiệt hại và may mắn (rủi ro đối
xứng). Rủi ro có rất nhiều các định nghĩa và khái niệm khác nhau, và đi kèm với
những định nghĩa và khái niệm ấy là các cuộc tranh luận của các nhà khoa học
để bảo vệ quan điểm của mình. Cuốn sách “ Bảo hiểm quốc tế nguyên tắc và
thực hành” do Học viện Hoàng gia Anh xuất bản vào năm 1993 đã tập hợp được
một số quan điểm khác nhau của các nhà khoa học định nghĩa về rủi ro. Cụ thể,

các nhà khoa học cho rằng:“Rủi ro là khả năng xảy ra một sự cố không may;
Rủi ro là sự khơng đốn trước được một tình huống, một khuynh hướng dẫn đến
kết quả thực tế khác với kết quả dự đoán; Rủi ro là sự kết hợp các nguy cơ; Rủi
ro là sự không chắc chắn về những tổn thất; Rủi ro là khả năng xảy ra các tổn
thất”(1,17).
Các quan điểm trên đều đề cập đến các sự việc khơng chắc chắn có thể xảy ra
trong tương lai. Các từ “khả năng” và “khơng thể đốn trước được” được sử
dụng với mục đích chỉ ra một mức độ nào đó về một sự việc khơng chắc chắn do
Phạm Thanh Tùng
Kiểm toán 45B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 4
Khoa Kế toán
nhng ng vực nói trên mang lại. Có thể thấy rằng các quan điểm trên đều đề
cập tới hậu quả xảy ra do một hoặc nhiều nguyên nhân gây lên.
Ở Việt Nam, Từ điển Tiếng Việt- Nhà xuất bản Sài Gòn 2005, giải thích
thuật ngữ rủi ro như sau: “Rủi ro là điều không lành, không tốt bất ngờ xảy
ra”(14,1363). Chẳng hạn một người đánh cuộc vào một vấn đề gì đó, anh ta có thể
thua hoặc thắng. Khi anh ta thua tức là rủi ro đã xảy đến với anh ta, và rủi ro này
xảy ra sẽ mang lại cho anh ta một hậu quả nhất định, đây là điều anh ta hồn
tồn khơng mong muốn nhưng thực tế nó đã xảy ra.
Từ điển Bách khoa Việt Nam xuất bản năm 2003 giải thích rủi ro như sau:
“Rủi ro là hậu quả gây thiệt hại ít nhiều có thể dự kiến được của một hành vi
mà việc thực hiện không chỉ phụ thuộc vào vào ý chí của các bên đương sự.
Người thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm về thiệt hại gây nên cho bên
kia”(12, 859).
Từ điển Thuật ngữ Kiểm toán - Kế toán Nhà xuất bản Thống kê 2005 cho
rằng: “Rủi ro là khả năng bị thua lỗ hay bị tổn hại có thể đo lường được. Rủi ro
khác với bất trắc ở chỗ sự bất trắc không thể đo lường được”(11,272)

Rủi ro là điều không ai muốn, nó xảy ra ngồi tầm kiểm sốt của chúng ta.
Trong thực tế bất kì một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng luôn luôn tiềm
ẩn chứa đựng những rủi ro và có khả năng xảy ra bất cứ lúc nào. Do đó, vấn đề
đó đặt ra là phải kiểm sốt được các rủi ro có nguy cơ xảy ra đó. Trong mỗi một
lĩnh vực đều có rủi ro đặc trưng tương ứng với các ngành nghề đó.
Trong lĩnh vực đầu tư, người ta thường đề cập đến rủi ro đầu tư. Rủi ro đầu tư
xảy ra khi các nhà đầu tư tiến hành các hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư có
thể là các hoạt động đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp. Rủi ro đầu tư luôn tiềm ẩn
và có khả năng xảy ra bất cứ lúc nào nếu các nhà đầu tư khơng tính tốn và
lường hết các khả năng có thể xảy ra và các nhân tố ảnh hưởng tác động đến
hoạt động đầu tư của mình
Trong lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh, người ta đề cập đến rủi ro kinh
doanh. Rủi ro kinh doanh xảy ra khi tiến hành các hoạt động sn xut kinh
Phạm Thanh Tùng
Kiểm toán 45B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 5
Khoa Kế toán
doanh hot động kinh doanh. Bất kì một hoạt động sản xuất kinh doanh nào luôn
chứa đựng rủi ro và rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào với mức độ lớn hoặc nhỏ.
Như vậy, rủi ro là một sự không thuận lợi, không may xảy ra. Rủi ro thường
ám chỉ một điều không may mắn chủ yếu do khách quan mang lại và khi rủi ro
xảy ra nó để lại một hậu quả nhất định.
Như nghiên cứu ở phần trên, chúng ta thấy bất kì một hoạt động kinh tế nào
cũng chứa đựng các rủi ro tiềm ẩn và có khả năng xảy ra bất cứ lúc nào. Trong
hoạt động kiểm toán cũng vậy. Tuy nhiên, do những nét đặc thù trong hoạt động
kiểm toán rủi ro kiểm toán cũng có những nét đặc thù riêng.
Trong kiểm tốn, thường đề cập đến các loại rủi ro: rủi ro kinh doanh trong
lĩnh vực kiểm toán, rủi ro kiểm toán, rủi ro chọn mẫu và rủi ro khơng chọn mẫu

kiểm tốn… Rủi ro kiểm toán là rủi ro mà kiểm toán viên đưa ra kết luận về báo
cáo tài chính của khách hàng đã được trình bày trung thực và hợp lí trên các khía
cạnh trọng yếu, qua đó kiểm tốn viên đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần đối
với các bảng khai tài chính của khách hàng. Nhưng trên thực tế, báo cáo tài
chính của khách hàng vẫn cịn chứa đựng những sai sót trọng yếu. Rủi ro chọn
mẫu và rủi ro khơng chọn mẫu kiểm tốn là hai bộ phận quan trọng góp phần
làm ảnh hưởng đến rủi ro kiểm toán. Rủi ro kinh doanh trong lĩnh vực kiểm
tốn là rủi ro mà kiểm tốn viên hoặc cơng ty kiểm toán sẽ phải chịu các thiệt
hại nhất định trong mối quan hệ với khách hàng cho dù báo cáo kiểm tốn mà
cơng ty cung cấp cho khách hàng là đúng. Để hạn chế rủi ro kinh doanh trong
lĩnh vực kiểm tốn thì việc kiểm sốt được rủi ro kiểm toán là vấn đề hết sức
quan trọng. Để hạn chế và kiểm sốt được rủi ro kiểm tốn thì cơng tác đánh giá
rủi ro kiểm tốn trong kiểm tốn báo cáo tài chính phải được các cơng ty kiểm
tốn và các kiểm toán viên phải đặc biệt quan tâm trong suốt q trình thực hiện
kiểm tốn. Đánh giá rủi ro kiểm toán cần phải được quan tâm và thực hiện ngay
từ giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán.
Do kiểm toán là ngành khoa học ra đời muộn hơn ro với các ngành khoa học
khác, có sự chậm trễ giữa lí luận và thực tiễn do đó phần lớn lí thuyt v kim
Phạm Thanh Tùng
Kiểm toán 45B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 6
Khoa Kế toán
toỏn vn đang trong thời kì củng cố và hồn thiện dần. Ở mỗi một quốc, gia để
kiểm toán hoạt động thực sự có hiệu quả thì việc xây dựng và ban hành kịp thời
các văn bản về kiểm toán là vấn đề hết sức quan trọng. Trong phạm vi rủi ro
kiểm tốn, mỗi quốc gia đều xây dựng cho mình những nguyên tắc và chuẩn
mực riêng hướng dẫn cho kiểm toán viên trong việc thực hiện và đánh giá rủi ro
kiểm toán.

Từ điển Thuật ngữ Kế toán – Kiểm toán do TS Thịnh Văn Vinh và Đỗ Đức
Quốc Trị biên soạn giải thích về rủi ro kiểm tốn như sau: “Rủi ro kiểm toán là
một phạm trù dùng đề chỉ trường hợp kiểm toán viên đã đưa ra một ý kiến kiểm
tốn khơng phù hợp với Báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính đã kiểm tốn vẫn
chứa đựng những sai lầm nghiêm trọng. Rủi ro kiểm tốn có ba loại: Rủi ro tiềm
tàng; rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện.”(11,41)
Theo Nguyên tắc Kiểm toán Quốc tế số 25 “Trọng yếu và rủi ro kiểm toán”
trong Mục 9 Liên đồn Kiểm tốn Quốc tế soạn thảo đã định nghĩa rủi ro kiểm
toán như sau: “Rủi ro kiểm toán là những rủi ro mà kiểm tốn viên có thể mắc
phả khi đưa ra nhận xét không xác đáng về các thơng tin tài chính và nó là sai
sót nghiêm trọng. Ví dụ: Kiểm tốn viên có thể đưa ra ý kiến chấp nhận tồn
phần một Váo cáo tài chính mà khơng biết rằng báo cáo này chứa đựng các sai
sót nghiêm trọng”(5 ,248). Như vậy, trong Nguyên tắc này Liên đồn Kế tốn Quốc
tế đã chỉ ra được ngun nhân chính dẫn tới rủi ro kiểm tốn là kiểm tốn viên
đưa ra những nhận xét không đúng về các thông tin trên các báo cáo tài chính
của khách hàng.
Ở Việt Nam, kiểm toán ra đời tương đối muộn. Tuy nhiên, những chuẩn mực
kiểm toán và kế toán được ban hành kịp thời để phục vụ cho quá trình phát triển
của kiểm toán. Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 ( VSA - 400) “Đánh giá
rủi ro và kiểm toán nội bộ” đã giải thích rủi ro kiểm tốn như sau: “Rủi ro kiểm
toán là rủi ro do kiểm toán viên và cơng ty kiểm tốn đưa ra ý kiến nhận xét
khơng thích hợp khi báo cáo tài chính đã c kim toỏn vn cũn cha ng
Phạm Thanh Tùng
Kiểm toán 45B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 7
Khoa Kế toán
nhng sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm tốn bào gồm ba bộ phận: rủi ro tiềm tàng;
rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện”(3,26).

Từ các định nghĩa về rủi ro kiểm toán trên ta nhận thấy, các hội nghề nghiệp
ở các nước đều đưa ra những định nghĩa về rủi ro kiểm toán. Tuy các định nghĩa
về rủi ro kiểm tốn ở trên có khác nhau về câu chữ nhưng nội dung tựu chung
rủi ro kiểm toán là: kết luận của các kiểm tốn viên và cơng ty kiểm tốn về báo
cáo tài chính của khách hàng trình bày trung thực, hợp lí trên các khía cạnh
trọng yếu và ý kiến chấp nhận tồn phần đã được kiểm tốn viên đưa ra. Tuy
nhiên, trên thực tế các báo cáo tài chính đó vẫn cịn chứa đựng những những sai
sót trọng yếu. Sai sót trong yếu này có ảnh hưởng nghiêm trọng đến những
người sử dụng thông tin của báo cáo tài chính. Trong thực tế, bất kì cuộc kiểm
tốn nào cũng chứa đựng và tồn tại rủi ro. Rủi ro ln có nguy cơ xảy ra cho dù
các kiểm tốn viên và cơng ty kiểm tốn đã chuẩn bị chu đáo cho cuộc kiểm
toán (Lập kế hoạch kiểm toán chắc chắn và chu đáo). Trong các cuộc kiểm toán,
người ta không dám đảm bảo chắn chắn rằng 100% báo cáo tài chính đã được
kiểm tốn khơng chứa đựng các sai phạm trọng yếu. Do đó, trong mọi cuộc
kiểm tốn kiểm tốn viên chỉ có thể kì vọng một mức rủi ro kiểm tốn có thể
chấp nhận được, và ở mức rủi ro kiểm tốn chấp nhận được đó kiểm tốn viên sẽ
đảm bảo được rằng các sai sót trọng yếu khơng có cơ hội xảy ra. Do đó, khái
niệm rủi ro kiểm toán mong muốn thường được các kiểm toán viên sử dụng
Ở tất cả các cơng ty kiểm tốn và trong mọi cuộc kiểm tốn, thì vấn đề xác
định rủi ro kiểm toán mong muốn là cần thiết và quan trọng. Bởi có xác định
được rủi ro kiểm tốn mong muốn kiểm tốn viên mới có những cơ sở để xác
định được mức trọng yếu có thể chấp nhận. Rủi ro kiểm tốn ln được các
kiểm tốn viên và cơng ty kiểm tốn xác định trước lập kế hoạch và thực hiện
kiểm toán. Xác định rủi ro kiểm toán trước khi lập kế hoạch kiểm toán và thực
hiện kiểm tốn nhằm mục đích: Tìm hiểu đánh giá sơ bộ về khách hàng, xem xét
có thể cung cấp dịch vụ cho khách hàng được hay không và hỗ trợ cho vic lp
k hoch kim toỏn.
Phạm Thanh Tùng
Kiểm toán 45B



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 8
Khoa Kế toán
Trong Mc 8, Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 ( VSA- 400 ) “ Đánh
giá rủi ro và kiểm soát nội bộ” có quy định: “Rủi ro kiểm tốn phải được xác
định trước khi lập kế hoạch kiểm toán và thực hiện kiểm toán” (3,27). Xác định rủi
ro kiểm toán trước khi lập kế hoạch kiểm toán sẽ giúp cho kiểm tốn viên và
cơng ty kiểm tốn hình dung và xác định các nội dung cụ thể, phạm vi và những
nguồn nhân vật lực cần thiết, cần huy động cho kiểm toán.
Trong thực tế, rủi ro kiểm toán thường xảy ra do giới hạn về mặt quản lí, về
kiểm tốn, mà trực tiếp là chi phí kiểm tốn ( Số lượng bằng chứng cần thu
thập). thậm chí, ngay các khi bằng chứng kiểm tốn đã đủ thì rủi ro kiểm tốn
vẫn có khả năng xảy ra. Chi phí kiểm tốn (số lượng bằng chứng kiểm toán) và
rủi ro kiểm toán có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với nhau. Số lượng bằng chứng
kiểm tốn càng lớn thì rủi ro kiểm toán càng thấp và tiến dần về mức rủi ro kiểm
toán mong muốn.

Mối quan hệ giữ rủi ro kiểm toán và chi phí kiểm tốn ( Số

Mức rủi ro kiểm
tốn

lượng bằng chứng kiểm tốn) có thể được minh họa bằng sơ đồ sau.

Rủi ro đạt tới

Rủi rokiểm toán mong muốn

Chi phí kiểm tốn


Sơ đồ 1.1 Mối quan hệ giữa chi phí kiểm tốn và rủi ro kiểm tốn(6,105)
Như vậy, rủi ro kiểm toán là một phạm trù chỉ trường hợp kiểm tốn viên
khơng phát hiện ra các sai phạm trọng yếu trong báo cáo tài chính. Trong kiểm
tốn báo cáo tài chính rủi ro và trọng yếu có quan hệ mật thiết với nhau.
Cuốn Từ điển Tiếng việt - Nhà Xuất bản Sài Gòn xuất bản năm 2005, do
Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia biên son thỡ: : Trng yu:
Phạm Thanh Tùng
Kiểm toán 45B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 9
Khoa Kế toán
gi vai trò hết sức quan trọng và then chốt” ( 14,1678). Từ điển Từ và Ngữ Việt
Nam do Giáo sư Nguyễn Lân biên soạn, Nhà Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh
2006, cho rằng “Trọng yếu: quan trọng và cần thiết”(15,855). Như vậy, có thể thấy
rằng trọng yếu là một thuật ngữ chỉ một mức độ cần thiết và quan trọng, không
thể thiếu được của một sự vật hiện tượng. Trong kế toán và kiểm toán, đặc biệt
là trong kiểm toán báo cáo tài chính thì thuật ngữ Trọng yếu thường được nhắc
đến.
Giáo trình “Lí thuyết kiểm tốn” Nhà xuất bản Tài chính - 2005 cho rằng:
Trọng yếu nếu xét trong quan hệ với nội dung kiểm toán, “là khái niệm chỉ rõ
tầm cỡ và tính hệ trọng của phần nội dung cơ bản của đối tượng kiểm tốn có
ảnh hưởng tới tính đúng đắn của việc nhận thức, đánh giá đối tượng kiểm tốn
và việc sử dụng các thơng tin đã đánh giá đó để ra quyết định quản lý”( 6, 99)
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 (VSA - 400) “Đánh giá rủi ro và
kiểm soát nội bộ” phần quy định chung có nêu : “Trọng yếu: Là thuật ngữ dùng
để thể hiện tầm quan trọng của một thơng tin hoặc một số liệu trong báo cáo tài
chính. Thơng tin được coi là Trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thơng tin đó hoặc
thiếu tính chính chính xác của thơng tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của
người sử dụng Báo cáo tài chính. Mức Trọng yếu tuỳ thuộc vào tầm quan trọng

và tính chất của thơng tin hay của sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể.
Mức Trọng yếu là một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải là nội dung
của thông tin cần phải có. Tính Trọng yếu của thơng tin phải xem xét cả trên
phương diện định lượng và định tính”( 3, 27).
Chuẩn mực kiểm tốn quốc tế số 320 (ISA 320) “Tính Trọng yếu trong kiểm
tốn”, cho rằng: “Thơng tin là Trọng yếu nếu việc bỏ sót hoặc sai sót của thơng
tin đó có thể ảnh hưởng tới quyết định kinh tế của người sử dụng Báo cáo tài
chính. Tính Trọng yếu phụ thuộc vào mức độ quan trọng của các khoản mục hay
sai sót được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ sót hoặc sai sót đó. Vì
thế, tính Trọng yếu là một ngưỡng hoặc một điểm định tính cơ bản mà một
thơng tin hu ớch cn phi cú(9).
Phạm Thanh Tùng
Kiểm toán 45B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 1
0
Khoa Kế toán
Nh vy, trong kiểm tốn báo cáo tài chính Trọng yếu là một thuật ngữ quan
trọng. Sai lệch chỉ được xem là trọng yếu khi có ảnh hưởng quan trọng đến báo
cáo tài chính, và làm thay đổi nhận diện của người sử dụng. Thông tin hoặc
khoản mục trên báo cáo tài chính được coi là trọng yếu nếu thơng tin hay khoản
mục ấy không được phản ánh hoặc phản ánh không chính xác thì sẽ gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến những người sử dụng thơng tin trên báo cáo tài chính.
Trong kiểm toán, mức độ trọng yếu sẽ được xác định bởi các kiểm tốn viên
và nó sẽ thay đổi giữa các doanh nghiệp khác nhau. Một sai số ở một quy mơ
nhất định có thể là trọng yếu đối với công ty này nhưng sẽ không trọng yếu đối
với công ty khác. Nhìn chung mức độ của khoản mục được coi là trọng yếu phụ
thuộc vào các nhân tố sau đây: Quy mơ hoạt động của doanh nghiệp và tình hình
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; hệ thống tổ chức và quản lí của doanh

nghiệp; hệ thống kinh nghiệm của kiểm tốn viên đối với doanh nghiệp. Ngồi
ra, trọng yếu còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác như: các quy định của
pháp luật, các quy chế liên quan đến doanh nghiệp (định tính), hoặc sai sót ở
khoản mục thu nhập có thể thấp hơn ở khoản mục khác.
Trọng yếu và rủi ro có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu như mức sai sót
có thể chấp nhận được tăng lên thì rủi ro kiểm tốn sẽ giảm xuống. Khi kiểm
toán viên tăng giá trị tăng sai sót có thể bỏ qua, lúc đó sai lệch trọng yếu sẽ
giảm. Ngược lại, nếu giảm mức sai sót có thể chập nhận lúc đó rủi ro kiểm tốn
sẽ tăng lên.
Trong q trình kiểm tốn, kiểm tốn viên ln phải xem xét đồng thời tính
trọng yếu và rủi ro kiểm toán để xác định nội dung và phạm vi các thử nghiệm
cơ bản sao cho cuối cùng thì rủi ro là báo cáo tài chính cịn có những sai lệch
trọng yếu sẽ được giảm xuống ở mức chấp nhận được.
1.1.2 Các loại rủi ro kiểm toán
Do đối tượng của kiểm tốn là những thơng tin được kiểm tốn qua nhiều
giai đoạn bằng các bộ máy kiểm toán khác nhau nên rủi ro kiểm toán cũng được
xác định tương ứng với đối tượng kiểm tốn từng loại. Mục 7-Chuẩn mực kiểm
Ph¹m Thanh Tïng
KiĨm to¸n 45B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 1
1
Khoa Kế toán
toỏn Vit Nam số 400 - “Đánh giá rủi ro và kiểm toán nội bộ” và Nguyên tắc
Kiểm toán Quốc tế số 19 “Lấy mẫu kiểm toán” đều khẳng định rủi ro kiểm toán
bao gồm: Rủi ro tiềm tàng; rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện.
Thứ nhất: Rủi ro tiềm tàng ( Inherent Risk ) - IR
Rủi ro tiềm tàng là khả năng tồn tại những sai phạm trong bản thân của các
đối tượng kiểm tốn mà chưa tính đến bất kì một sự tác động nào của hoạt động

kiểm toán kể cả hệ thống kiểm soát nội bộ. Điều đó có nghĩa là, từng khoản mục
và nghiệp vụ trên trên Báo cáo tài chính ln chứa đựng những sai sót trọng yếu
dù tính riêng rẽ hay tính gộp mặc dù có hay khơng có sự xuất hiện của hệ thống
kiểm soát nội bộ. Rủi ro tiềm tàng là một khái niệm quan trọng trong kiểm toán.
Rủi ro tiềm tàng ngụ ý là: kiểm toán viên phải dựa vào kinh nghiệm và óc xét
đốn của mình để cố gắn dự đốn nơi nào trong các báo cáo tài chính chứa đựng
sai sót ít nhất và nơi nào có nhiều sai sót nhất. Những sai sót riêng lẻ hoặc kết
hợp này sẽ làm cho thông tin trong các báo cáo tài chính bị sai và làm ảnh
hưởng tới người sử dụng thơng tin từ báo cáo tài chính cung cấp. Sai sót đó có
thể là các sai sót vơ ý hoặc cố ý nhưng nó sẽ làm ảnh hưởng đến số dư các tài
khoản kế toán.
Nguyên tắc kiểm toán Quốc tế số 25 “Trọng yếu và rủi ro kiểm toán” cho
rằng: “Rủi ro tiềm tàng là những yếu điểm của số dư tài khoản hoặc của một
loại nghiệp vụ, đối với những sai sót này có thể đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với
các sai sót ở những số dư, các nghiệp vụ khác ( Ở đây giả định là khơng có các
quy chế kiểm sốt nội bộ có liên quan ). Rủi ro tiềm tàng nằm trong chức năng
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trong môi trường kinh doanh cũng như
trong bản chất của số dư tài khoản hoặc các nghiệp vụ”( 5,19)
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 ( VSA 400 ) “Đánh giá rủi ro và
kiểm soát nội bộ” cho rằng: “Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả
năng từng nghiệp vụ,từng khoản mục trong báo cáo tài chính chứa đựng những
sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay khơng có hệ
thống kiểm soỏt ni b(3,26).
Phạm Thanh Tùng
Kiểm toán 45B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 1
2
Khoa Kế toán

V bn chất, rủi ro tiềm tàng là mức ước tính của kiểm tốn viên có một sai số
cao hơn mức có thể chấp nhận được trong bộ phận trước khi xét đến tính hiệu
quả của hệ thống kiểm sốt nội bộ. Rủi ro tiềm tàng có quy mơ lớn hay nhỏ là
phụ thuộc và đặc điểm tình hình kinh doanh của khách thể kiểm tốn, loại hình
kinh doanh của khách thể kiểm tốn. Kiểm tốn viên khơng thể tạo ra và cũng
khơng thể kiểm sốt rủi ro tiềm tàng. Kiểm tốn viên chỉ có thể đánh giá được
mức độ rủi ro tiềm tàng của khách thể kiểm tốn thơng qua thu thập bằng chứng
kiểm tốn. Ví dụ: khoản mục tiền trên bảng cân đối kế tốn thường có rủi ro
tiềm tàng cao, bởi khoản mục này luôn chứa đựng những gian lận và sai sót
(Chủ yếu là gian lận nhiều hơn sai sót). Rõ ràng kiểm tốn viên khơng thể tạo ra
và cũng khơng thể kiểm sốt rủi ro tiềm tàng đối với các khoản mục này, kiểm
tốn viên chỉ có thể đánh giá mức độ rủi ro tiềm tàng của khoản mục này thơng
qua các bằng chứng kiểm tốn thu thập được mà thôi.
Trong thực tế, để đánh giá rủi ro tiềm tàng của các khoản mục và các nghiệp
vụ kiểm tốn viên có thể thu thập và dựa vào nhiều nguồn thơng tin khác nhau.
Như, kiểm tốn viên sẽ dựa vào kết quả của các cuộc kiểm toán năm trước. Nếu
kết quả của cuộc kiểm toán năm trước chỉ ra rằng khơng phát hiện bất kì một sai
phạm trọng yếu nào thì kiểm tốn viên nên đánh giá khả năng tiềm ẩn rủi ro
tiềm tàng sẽ lớn và phải chú ý nhiều. Kiểm tốn viên cũng có thể thơng qua việc
thu thập thơng tin về chính sách kinh tế, tài chính, kế tốn của đơn vị được kiểm
tốn qua đó hiểu được bản chất ngành nghề kinh doanh của của đơn vị, hiểu
được tính chất phức tạp cảu các khoản mục nghiệp vụ và từ đó đưa ra được các
dự đốn của mình về rủi ro tiềm tàng một cách chính xác nhất.
Thứ hai: Rủi ro kiểm sốt ( Control Risk ) – CR
Rủi ro kiểm sốt có liên quan mật thiết đến sự yếu kém của hệ thống kiểm soát
nội bộ của khách hàng. Rủi ro kiểm soát là khả năng mà hệ thống kiểm soát nội
bộ của khách hàng không phát hiện, không ngăn chặn và không thể sửa chưa
được kịp thời các sai phạm có tính chất trọng yếu. Tức là, rủi ro kiểm sốt có
liên quan đến hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hng khụng hot ng hoc
Phạm Thanh Tùng

Kiểm toán 45B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 1
3
Khoa Kế toán
hot ng yếu kém khơng có hiệu quả dẫn tới khả năng không phát hiện và ngăn
chặn kịp thời các sai phạm. Cũng như rủi ro tiềm tàng, kiểm tốn viên khơng thể
tạo ra và kiểm soát được rủi ro kiểm soát. Kiểm tốn viên chỉ có thể thơng qua
tìm hiểu hệ thống kiểm sốt nội bộ của khách hàng qua đó đánh giá để đưa ra
được mức độ rủi ro kiểm soát.
Văn bản chỉ đạo Kiểm toán Quốc tế số 25 Mục 14 cho rằng: “Rủi ro kiểm soát
là rủi ro do xác định sai , nó có thể xảy ra đối với một số dư tài khoản hoặc
nghiệp vụ và cũng có thể là sai sót nghiêm trọng. Những sai sót này xảy ra đơn
lẻ hoặc được kết hợp với các sai sót của các số dư, hoặc các nghiệp vụ khác mà
hệ thống kiểm sốt nội bộ đã khơng ngăn chặn hoặc không phát hiện kịp thời.
Rủi ro kiểm sốt ln xuất hiện và khó tránh khỏi vì những hạn chế có tính bản
chất của bất kì một hệ thống kiểm soát nội bộ nào”(5,21).
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 ( VSA- 400) “Đánh giá rủi ro và
kiểm soát nội bộ” cho rằng: “Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu
trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ
hoặc gộp lại mà hệ thống kế tốn và hệ thống kiểm sốt nội bộ khơng ngăn chặn
hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời”(3,26).
Như vậy, Rủi ro kiểm soát đại diện cho đánh giá về cơ cấu của hệ thống kiểm
soát nội bộ của khách hàng có hiệu quả đối với việc ngăn chặn, phát hiện các sai
sót hay khơng. Mục đích của kiểm toán viên là đánh giá rủi ro kiểm soát của
khách hàng ở một mức nhỏ hơn mức tối đa (100%) như một phần của kế hoạch
kiểm toán. Nếu kiểm toán viên đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của khách
hàng hoạt động không hiệu quả, hoạt động không tốt trong việc ngăn ngừa và
phát hiện các sai phạm thì kiểm toán viên sẽ phân bổ 100% yếu tố rui ro cho rủi

ro kiểm soát. Nếu như, kiểm toán viên xét thấy hệ thống kiểm soát nội bộ của
khách hàng hoạt động có hiệu quả thì yếu tố rủi ro mà kiểm toán viên đánh giá
được phân bổ cho rủi ro kiểm soát càng thấp.
Nếu xét mối quan hệ giữ rủi ro kiểm sốt và bằng chứng kiểm tốn thì giữa
chúng có mối quan hệ tỉ lệ thuận, trong khi mối quan hệ giữa rủi ro kiểm sốt và
Ph¹m Thanh Tïng
KiĨm to¸n 45B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 1
4
Khoa Kế toán
ri ro phát hiện là mối quan hệ tỉ lệ nghịch. Tức là, khi kiểm toán viên kết luận
là hệ thống kiểm sốt nội bộ của khách hàng hoạt động có hiệu quả thì rủi ro
phát hiện có thể tăng lên và rủi ro kiểm sốt có thể giảm xuống. Rủi ro kiểm sốt
giảm xuống thì số lượng bằng chứng kiểm tốn cần thu thập sẽ giảm xuống.
Kiểm tốn viên có thể tăng mức rủi ro phát hiện ( tức là giảm rủi kiểm soát ) khi
xét thấy hệ thống kiểm soát nội bộ của của hàng hoạt động tốt, bởi vì khi hệ
thống kiểm soát nội bộ của khách hàng được đánh giá là hoạt động tốt thì sẽ làm
giảm các sai sót trong báo cáo tài chính.
Rủi ro kiểm sốt là loại rủi ro ln ln tồn tại và khó tránh khỏi, bởi rủi ro
kiểm soát liên quan đến sự yếu kém của hệ thống kiểm sáo nội bộ. Trong khi đó,
sự yếu kém của hệ thống kiểm sốt nội bộ là sự yếu kém cố hữu vốn có của nó
chứ khơng phải riêng của hệ thống kiểm sốt nội bộ nào.
Thứ ba: Rủi ro phát hiện ( Detection Risk ) – DR
Theo cách đơn giản, rủi ro phát hiện là loại rủi ro liên quan đến khả năng các
thủ tục kiểm tốn do kiểm tốn viên và cơng ty kiểm tốn đã tiến hành mà
khơng phát hiện được các sai phạm trọng yếu nào.
Văn bản chỉ đạo Kiểm toán Quốc tế số 25 “ Trọng yếu và rủi ro kiểm toán”
Cho rằng: “Rủi ro phát hiện là những rủi ro mà kiểm tốn khơng phát hiện ra

các sai sót hiện có trong các số dư tài khoản, các loại nghiệp vụ. Các sai sót này
có thể là các sai sót nghiêm trọng xảy ra đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với các sai
sót trong số dư các nghiệp vụ khác. Mức rủi ro phát hiện có quan hệ trực tiếp
với hững phương pháp của kiểm toán viên”(5, 26).
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 ( VSA-400) “Đánh giá rủi ro và
kiểm soát nội bộ” cho rằng: “Rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu
trong từng nghiệp vụ và từng khoản mục trong báo các tài chính khi tính riêng
rẽ hoặc tính gộp mà trong q trình kiểm tốn, kiểm tốn viên và cơng ty kiểm
tốn khơng phát hiện được”(3,26).
Như vậy, kiểm tốn viên phải phải có trách nhiệm thực hiện các thủ tục kiểm
tốn thích hợp và thu thập bằng chứng kiểm tốn để nhằm mục đích quản lí và
Ph¹m Thanh Tïng
KiĨm to¸n 45B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 1
5
Khoa Kế toán
kim soỏt đối với rủi ro phát hiện – Điều này trái với rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát. Theo một cách khác, mức độ của rủi ro phát hiện có quan hệ mật thiết
với những phương pháp kiểm tốn và các bằng chứng mà kiểm toán viên thu
thập được. Trong thực tế, rủi ro phát hiện vẫn có thể xuất hiện cho dù kiểm toán
viên đã thực hiện kiểm tra hết 100% số dư của các tài khoản và các nghiệp vụ
phát sinh. Ngun nhân chính xảy ra tình trạng này là kiểm toán viên đã lựa
chọn và sử dụng các phương pháp kiểm tốn khơng phù hợp với cuộc kiểm toán,
hoặc áp dụng sai phương pháp kiểm toán đã chọn, hoặc khi đã có những kết quả
thực tế của cuộc kiểm tốn thì kiểm tốn viên lại đưa ra các đánh giá và nhận xét
sai lầm. Nguyên nhân xảy ra rủi ro phát hiện ta có thể khái quát qua các nguyên
nhân sau.
Thứ nhất: Các bước kiểm toán của kiểm tốn viên khơng phù hợp. Điều này

xảy ra có liên quan đến sự yếu kém của kiểm tốn viên hoặc q trình lập kế
hoạch kiểm tốn khơng được lập cẩn thận dẫn tới việc thực hiện không hợp lí.
Thứ hai: Kiểm tốn viên đã tìm được ra bằng chứng, nhưng do khơng tìm ra
được ngun nhân gây ra sai sót dẫn đến kết luận sai về bản chất của khoản mục
hoặc nghiệp vụ đó.
Thứ ba: Các báo cáo tài chính bản thân nó cũng chứa đựng các sai sót,
nhưng sự sai sót đó là do bên trong doanh nghiệp đã có sự thơng đồng để làm sai
các chính sách, điều đó làm cho kiểm tốn viên càng khó phát hiện hơn các sai
phạm.
Tóm lại, rủi ro phát hiện là rủi ro mà kiểm toán viên sẵn sàng chập nhận do
khơng thể tìm ra các sai sót nghiêm trọng trong các báo cáo tài chính bằng các
thể thức kiểm toán, với giả định hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng có
hoạt động nhưng khơng thể phát hiện và sửa chữa các sai sót. Rủi ro phát hiện
xác định số lượng bằng chứng kiểm toán viên cần thu thập. Khi rủi ro phát hiện
được đánh giá là thấp, kiểm tốn viên khơng chấp nhận những rủi ro của những
bằng chứng khơng phát hiện ra sai sót và do đó cần phải thu thập một số lượng
Ph¹m Thanh Tïng
KiĨm to¸n 45B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 1
6
Khoa Kế toán
bng chng đáng kể. Khi kiểm toán viên chấp nhận rủi ro phát hiện tăng lên thì
số lượng bằng chứng kiểm tốn sẽ giảm đi.
1.1.3 Mối quan hệ giữa các loại rủi ro – Mơ hình rủi ro kiểm tốn
Như nghiên cứu về rủi ro ở trên ta thấy, trong kiểm toán người ta thường đề
cập đến ba loại rủi ro chính là rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát
hiện. Ba loại rủi ro này là những bộ phận cấu thành nên rủi ro kiểm toán, do đó
giữa chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm

soát là hai loại rủi ro tồn tại độc lập khách quan, kiểm tốn viên khơng tạo ra
chúng và cũng khơng thể kiểm sốt được chúng. Kiểm tốn viên chỉ có thể
thơng qua thu thập bằng chứng kiểm toán tại đơn vị khách hàng và bằng kinh
nghiệm của mình để đánh giá mức độ của chúng. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm
sốt có mức độ lớn hay nhỏ phụ thuộc rất lớn vào ngành nghề kinh doanh của
khách hàng cũng như mơi trường pháp lí mà doanh nghiệp đang hoạt động.
Khơng những thế, hai loại rủi ro này còn phụ thuộc vào bản chất của các số dư
tài khoản và các nghiệp vụ kinh tế đặc thù tương ứng với ngành nghề kinh
doanh của khách hàng. Nếu xét về mối quan hệ giữa chúng thì rủi ro tiềm tàng
và rủi ro kiểm sốt có mối quan hệ tỉ lệ nghịch. Do giữa hai loại rủi ro này có
quan hệ tỉ lệ nghịch mà trong các cuộc kiểm toán, kiểm toán viên thường kết
hợp cùng một lúc đánh giá mức độ của hai loại rủi ro này. Trái với rủi ro kiểm
soát và rủi ro tiềm tàng, rủi ro phát hiện là loại rủi ro mà kiểm toán viên phải sử
dụng những phương pháp kiểm toán phù hợp để phát hiện, kiểm sốt và quả lí
đối với nó.
Đánh giá rủi ro phát hiện là một cơng việc tương đối khó khăn. Rủi ro phát
hiện được đánh giá phụ thuộc vào ý muốn chủ quan, kinh nghiệm của kiểm toán
viên cũng như năng lực của kiểm toán viên tham gia vào việc đánh giá rủi ro
phát hiện. Trước khi tiến hành kiểm toán, kiểm toán viên thường phải xác định
mức rủi ro mà mình phải chấp nhận khi quyết định cung cấp dịch vụ kiểm toán
cho khách hàng. Trong các loại rủi ro thì rủi ro phát hiện sẽ được xác định sau
cùng sau khi kiểm toán viên đã xác định xong mức ri ro kim toỏn mong mun,
Phạm Thanh Tùng
Kiểm toán 45B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 1
7
Khoa Kế toán
ri ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Xác định hay điều chỉnh rủi ro phát hiện

được kiểm tốn viên tính tốn dựa vào mơ hình sau:

AR = IR X CR X DR

(1)

Trong đó:
AR:

Mức rủi ro kiểm tốn mong muốn.

IR:

Mức rủi ro tiềm tàng do kiểm toán viên đánh giá.

CR:

Mức rủi ro kiểm soát do kiểm toán viên đánh giá.

DR:

Mức rủi ro phát hiện

Mơ hình (1) biểu thị mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm tốn. Mơ hình này
được kiểm toán viên sử dụng để điều chỉnh mức rủi ro phát hiện để có mức rủi
ro kiểm tốn mong muốn. Nếu như, kiểm toán viên đang tiến hành lập kế hoạch
cho một cuộc kiểm toán cụ thể, và kiểm toán viên này muốn muốn rằng mức rủi
ro kiểm toán chỉ ở mức 0.05 ( tức là các quyết định của kiểm tốn viên khơng
chính xác bình qn chiếm 5%). Qua quá trình thu thập bằng chứng và bằng
kinh nghiệm, óc xét đốn của mình kiểm tốn viên sẽ đánh giá mức rủi ro tiềm

tàng và mức rủi ro kiểm soát. Đối với cuộc kiểm toán này, kiểm toán viên đánh
giá rủi ro tiềm tàng là lớn ( kiểm toán viên đánh giá mức rủi ro tiềm tàng là
0.9 ). Qua nghiên cứu, kiểm toán viên cho rằng hệ thống kiểm sốt nội bộ của
khách hàng hoạt động khơng hiệu quả nên kiểm toán viên đánh giá mức rủi ro
kiểm soát ở mức 0.7 ( CR = 0.7) . Nếu như, kiểm toán viên này mong muốn mức
rủi ro kiểm tốn ở mức 0.05 ( AR = 0.05 ), thì các thủ tục kiểm toán được kiểm
toán viên thiết hợp lí sao cho rủi ro phát hiện (DR) khơng được vượt quá 0.08 vì:

AR = IR X CR X DR
0.05 = 0.90 x 0.70 x DR  DR = 0.08
Nếu như, kiểm toán viên nhận thấy mức rủi ro phát hiện ở mức 0.08 là cao và
muốn điều chỉnh mức rủi ro phát hiện xuống, khi đó kiểm tốn viên sẽ tiến hành
điều chỉnh mức rủi ro kiểm toán mong mun.

Phạm Thanh Tùng
Kiểm toán 45B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 1
8
Khoa Kế toán
Trong thc tế, mơ hình (1) ít được kiểm tốn viên sử dụng vì mức rủi ro kiểm
tốn mong muốn ln được các kiểm toán viên xác định từ khi lập kế hoạch
kiểm toán. Mức rủi ro kiểm toán mong muốn thường khó thay đổi trong suốt
cuộc kiểm tốn. Sử dụng mơ hình ( 1) để điều chỉnh mức rủi ro phát hiện thực
chất là thay đổi IR, điều này ít được các kiểm toán viên sử dụng. Trong thực tế
kiểm toán viên thường sử dụng mơ hình sau để tính tốn mức rủi ro phát hiện

DR = AR / ( IR x CR )


(2)

Trong mơ hình này, DR là đối tượng quan tâm của kiểm tốn viên. Thơng qua
việc tính tốn DR, kiểm toán viên sẽ xác định thủ tục kiểm toán và số lượng
bằng chứng cần thu thập để rủi ro phát hiện khơng vượt mức mong muốn.
Theo ví dụ ở trên, nếu IR và CR được giữ nguyên và mức rủi ro kiểm toán
được kiểm toán viên xác định ở mức 0.04 thì mức rủi ro phá hiện sẽ là:
DR = 0.04 / ( 0.90 x 0.70 ) = 0.063
DR= 0.063 có nghĩa là để đạt được mức rủi ro kiểm tốn mong muốn là 0.04
thì kiểm tốn viên phải xây dựng thủ tục kiểm tốn thích hợp và thu thập số
lượng các bằng chứng kiểm tốn hợp lí để mức rủi ro phát hiện không vượt quá
0.063.
Hiện nay, tại các cơng ty kiểm tốn mức rủi ro kiểm tốn mong muốn ln
được các kiểm tốn viên xác định trước khi tiến hành kiểm toán. Mức kiểm toán
mong muốn này ít khi thay đổi trong suốt cuộc kiểm tốn, do vậy mơ hình (2)
cịn được biểu hiện dưới dạng như sau:

DR = DAR / ( IR x CR )
Trong đó :
DAR : Designed Audit Risk ( Mức kiểm tốn mong muốn )
Có thể nhận thấy rằng, mơ hình biểu thị mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm
toán là mơ hình đơn giản, nhưng nó có vai trị cực kì quan trọng đối với các
kiểm tốn viên. Qua mơ hình, kiểm tốn viên có thể xác định mức rủi ro phát
hiện ở mức cho phép và qua đó kiểm tốn viên sẽ xác định số lượng bằng chứng
Ph¹m Thanh Tïng
KiĨm to¸n 45B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 1
9

Khoa Kế toán
kim toỏn cần thiết để mức rủi ro phát hiện không vượt ngưỡng cho phép đó.
Trong q trình áp dụng mơ hình mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm toán,
kiểm toán viên cần phải lưu ý một số điểm sau:
Thứ nhất: kiểm tốn viên khơng dược giả sử mức rủi ro tiềm tàng bằng 0
( IR= 0), để không cần đến bước thu thập bằng chứng kiểm toán

AR= IR ( = 0 ) x CR x DR = 0
Thứ hai: Kiểm tốn viên khơng nên đặt niềm tin tưởng tuyệt đối và hệ thống
kiểm soát nội bộ của khách hàng ( tức là kiểm toán viên đánh giá mức rủi ro
kiểm sốt CR = 0 ), để khơng cần đến bước thu thập bằng chứng kiểm toán.

AR = IR x CR( = 0 ) x DR = 0
Thứ ba: Kiểm tốn viên khơng thể để rủi ro của việc các sai phạm trọng yếu
đối với đối tượng kiểm toán ở mức cao

AR = IR (= 0.8 )x CR( = 0.8 ) x DR(=0.5) = 0.32
Mối quan hệ giữa các loại rủi ro được minh họa bằng bảng sau:
Bảng 1.1 Mối quan hệ giữa các loại rủi ro (3,36)

Rủi ro phát hiện được kiểm

Đánh giá của Kiểm toán viên về

toán viên tính tốn
Đánh giá của
Kiểm tốn viên
về Rủi ro tiềm

Cao

Trung bình

tàng

Thấp

Rủi ro kiểm sốt
Cao

Trung bình

Thấp

Thấp nhất

Thấp

Trung bình

Trung bình

Cao

Cao

Cao nhất

Thấp
Trung bình


Trong đó:
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều được chia thành ba mức:
Thấp, trung bình và cao

Ph¹m Thanh Tïng
KiĨm to¸n 45B


Chuyên đề thực tập tốt nghiệp 2
0
Khoa Kế toán
Ri ro phát hiện được chia làm năm mức : Thấp nhất, thấp, trung
bình, cao và cao nhất.
Thơng qua mỗi mức độ đánh giá về rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm sốt, thì
kiểm tốn viên sẽ tính tốn được mức độ của rủi ro phát hiện để sao cho mức rủi
ro kiểm tốn mong muốn là thấp nhất có thể.
Ví dụ: Kiểm toán viên đánh giá mức độ rủi ro tiềm tàng của khách hàng là
thấp và rủi kiểm soát ở mức trung bình, nếu như trong trường hợp này để mức
rủi ro kiểm toán mong muốn ở mức nhỏ nhất có thể thì mức rủi ro phát hiện phả
ở mức cao.
Xác định mối quan hệ giữa các loại rủi ro kiểm tốn dựa vào mơ hình ( 1) và
mơ hình ( 2) tuy đơn giản, thuận tiện giúp cho kiểm toán viên trong việc lập kế
hoạch kiểm toán, nhưng việc sử dụng mơ hình cũng gặp phải hạn chế. Hạn chế
thứ nhất đó là: Đánh giá của kiểm tốn viên về rủi ro kiểm toán mong muốn và
rủi ro kiểm sốt vẫn cịn tính chủ quan, đánh giá đó chỉ xấp xỉ bằng thực tế. Thí
dụ, giả sử kiểm tốn viên đánh giá q trình kiểm sốt nội bộ và các loại rủi ro
thấp hơn mức thực tế tồn tại của nó. Khi đó, rủi ro phát hiện sẽ cao hơn số thích
hợp và số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập sẽ giảm đi. Để giải quyết
vấn đề này, kiểm toán viên thường sử dụng các mức độ khái quát và chủ quan,
như “thấp”, “trung bình”, và “cao”. Bảng 1.2 cho ta biết cách kiểm toán viên

sử dụng thông tin ban đầu để quyết định số lượng bằng chứng kiểm toán cần
phải thu thập
Bảng 1.2 Mối quan hệ của rủi ro với bằng chứng phải thu thập(10,194)
Trường Rủi ro kiểm

Rủi ro

soát (CR)

Rủ ro phát SL bằng chứng

hợp

toán (AR)

1.

Cao

Thấp

Thấp

2.

Thấp

Thấp

Thấp


Trung bình

3.

Thấp

Cao

Cao

Thấp

Cao

4.

Trung bình

Trung bình

Trung bình

Trung bình

Trung bình

5.

Cao


Thấp

Trung bình

Trung bình

Trung bình

Ph¹m Thanh Tïng
KiĨm to¸n 45B

cố hữu (IR)

Rủi ro kiểm

hiện (DR)
Cao

cần thu thập
Thấp
Trung bình



×