Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án trong các vụ án kinh doanh, thương mại và thực tiễn tại cơ quan thi hành án dân sự thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐỂ ĐẢM BẢO THI HÀNH ÁN TRONG CÁC VỤ ÁN
KINH DOANH, THƢƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN TẠI CƠ QUAN
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BÙI THỊ THỦY

HÀ NỘI - 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐỂ ĐẢM BẢO THI HÀNH ÁN TRONG CÁC VỤ ÁN
KINH DOANH THƢƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN TẠI CƠ QUAN
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BÙI THỊ THỦY

NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. BÙI THỊ HUYỀN


HÀ NỘI – 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Bùi Thị Thủy, học viên lớp 18B, khóa 2018-2020 xin cam đoan
đây là cơng trình độc lập của riêng tôi mà không sao chép từ bất kỳ nguồn tài
liệu nào đã được công bố. Các tài liệu, số liệu sử dụng phân tích trong luận
văn đều có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ, có xác nhận của cơ
quan cung cấp số liệu. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là kết quả
nghiên cứu của tôi được thực hiện một cách khoa học, trung thực, khách quan.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của các nguồn số liệu
cũng như các thơng tin sử dụng trong cơng trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2021

Tác giả luận văn

Bùi Thị Thủy


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
THADS

Thi hành án dân sự

CHV


Chấp hành viên

THA

Thi hành án

NPTHA

Người phải thi hành án

NĐTHA

Người được thi hành án

BLDS

Bộ Luật dân sự

SHTT

Sở hữu trí tuệ

QSD

Quyền sử dụng

BĐG

Bán đấu giá


KDTM

Kinh doanh thương mại

UBND

Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
Chƣơng 1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA CỦA KÊ BIÊN TÀI
SẢN TRONG THI HÀNH ÁN KINH DOANH THƢƠNG MẠI.................. 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và phân loại kê biên tài sản để bảo đảm
thi hành án trong các vụ án kinh doanh thƣơng mại.................................... 8
1.1.1. Khái niệm kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong các vụ án
kinh doanh thương mại ................................................................................. 8
1.1.2. Đặc điểm của kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong các vụ án
kinh doanh thương mại ............................................................................... 13
1.1.3. Vai trò của kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong các vụ án
kinh doanh thương mại ............................................................................... 18
1.1.4. Phân loại kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong các vụ án
kinh doanh thương mại ............................................................................... 20
1.2. Nội dung pháp luật về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong
các vụ án kinh doanh thƣơng mại............................................................... 28
1.2.1. Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản ................... 28
1.2.2. Trình tự, thủ tục kê biên tài sản.......................................................... 32
1.2.3. Thẩm quyền kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong các vụ án
kinh doanh thương mại ............................................................................... 37
1.2.4. Thời hạn kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong các vụ án

kinh doanh thương mại ............................................................................... 38
1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động kê biên tài sản để bảo đảm thi
hành án trong các vụ án kinh doanh thƣơng mại ....................................... 39
1.3.1. Quy định pháp luật ............................................................................. 39
1.3.2. Năng lực của cán bộ thi hành án........................................................ 39
1.3.3. Cơ chế quản lý tài sản, thu nhập ........................................................ 40
1.3.4. Ý thức của người dân ......................................................................... 40
1.3.5. Cơ chế phối hợp trong thi hành án dân sự.......................................... 41
Chƣơng 2 .THỰC TIỄN KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐỂ ĐẢM BẢO THI HÀNH
ÁN TRONG CÁC VỤ ÁN KINH DOANH THƢƠNG MẠI TẠI CƠ
QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THÀNH PHỐ HÀ NỘI.......................... 44
2.1. Giới thiệu khái quát về thành phố Hà Nội và Cơ quan thi hành án
dân sự thành phố Hà Nội ............................................................................ 44
2.1.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên và tinh hình kinh tế xã hội thành phố
Hà Nội ......................................................................................................... 44


2.1.2. Giới thiệu về cơ quan thi hành án dân sự thành phố Hà Nội .............. 45
2.2. Tình hình giải quyết các vụ án kinh doanh thƣơng mại và tình hình
kê biên tài sản trong thi hành án dân sự tại Cơ quan thi hành án dân
thành phố Hà Nội........................................................................................ 46
2.2.1. Tình hình giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại tại thành phố
Hà Nội ......................................................................................................... 46
2.2.2. Tình hình kê biên tài sản trong thi hành án dân sự tại Cơ quan thi
hành án dân thành phố Hà Nội ................................................................... 48
2.3. Một số khó khăn, vƣớng mắc, bất cập trong việc áp dụng pháp luật
kê biên tài sản trong thi hành án dân sự tại Cơ quan thi hành án dân
thành phố Hà Nội........................................................................................ 50
2.3.1. Vướng mắc, hạn chế trong quy định của pháp luật............................. 50
2.3.2. Vướng mắc, hạn chế trong quy trình cưỡng chế ................................. 55

2.3.3. Vướng mắc, hạn chế trong yếu tố khách quan từ xã hội ..................... 56
2.3.4. Bất cập trong nhận thức, thực hiện quy định pháp luật của chấp
hành viên ..................................................................................................... 58
2.3.5. Vướng mắc, bất cập trong thực thi việc cưỡng chế kê biên đối với
từng loại tài sản cụ thể................................................................................. 58
Chƣơng 3. MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG THI HÀNH
ÁN KINH DOANH THƢƠNG MẠI........................................................... 61
3.1. Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả kê biên tài sản trong thi hành án
dân sự.......................................................................................................... 61
3.1.1. Yêu cầu bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong kê biên tài sản ............... 61
3.1.2. Yêu cầu về tính đồng bộ, thống nhất, khả thi ...................................... 63
3.1.3. Yêu cầu về bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, xác định rõ trách nhiệm
của các chủ thể tham gia ............................................................................. 63
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả kê biên tài sản trong thi hành án
dân sự.......................................................................................................... 65
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật .......................................................... 65
3.2.2. Giải pháp về tổ chức và thực hiện....................................................... 71
KẾT LUẬN ................................................................................................. 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 78


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu luận văn
Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt
Nam đề ra, nay đã qua 5 kỳ Đại hội đều kế thừa và phát huy tinh thần đổi mới
của Đảng và Nhà nước ta là xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng
dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực Nhà nước thống nhất, có sự phân cơng,

phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp, theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nhà nước đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, công
nhân, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực
hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện. Với
chính sách đổi mới tồn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, lấy đổi mới
kinh tế trước tiên sau đó dần dần từng bước đổi mới về chính trị. Trong q
trình phát triển kinh tế theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, kinh tế Nhà nước
giữ vai trị chủ đạo. Chính vì lẽ đó trong các quan hệ pháp luật dân sự tăng lên
một cách nhanh chóng, đi cùng với đổi mới là sự tăng lên của các vụ, việc
tranh chấp dân sự, kéo theo sự tăng lên của các việc THADS. Để thi hành triệt
để các bản án, quyết định của Tịa án có hiệu lực, các cơ quan THADS phải
áp dụng các biện pháp cưỡng chế THA, trong đó có biện pháp cưỡng chế kê
biên tài sản bảo đảm trong các vụ án KDTM nhằm THADS để từ đó giải
quyết dứt điểm những bản án, quyết định có hiệu lực của tịa án.
Kê biên tài sản bảo đảm trong THADS là một biện pháp cưỡng chế kê
biên phức tạp đòi hỏi Chấp hành viên phụ trách hồ sơ THA phải có kỹ năng
tồn diện mới có thể thực hiện được cơng việc này. Mặt khác việc áp dụng
biện pháp cưỡng chế cần phải có sự phối hợp của các ngành các cấp, nếu
thiếu một thành phần theo quy định thì buổi cưỡng chế kê biên đó phải dừng
hoặc hỗn, gây tổn thất lớn về công sức, kinh tế và tài sản cho các bên đương
sự, tổ chức và Nhà nước.

1


Hơn nữa trong thực tế khi cơ quan THA khi áp dụng các biện pháp để
cưỡng chế THADS trên thực tế thì quy định pháp luật về cưỡng chế THA nói

chung và cưỡng chế kê biên tài sản bảo đảm trong các vụ án KDTM còn thiếu,
còn nhiều bất cấp và nằm rải rác gây khó khăn khi áp dụng vào thực tiễn.
Cơ quan THADS thành phố Hà Nội là cơ quan THA cấp tỉnh trực
thuộc Tổng cục THADS có chức năng quản lý nhà nước và thực hiện công tác
THADS trên địa bàn thành phố Hà Nội. Với đặc thù là địa bàn thủ đơ của cả
nước, có diện tích rộng, có dân số đơng và đặc biệt là tình hình kinh tế xã hội
phát triển rất nhanh. Do đó, Hà Nội có số vụ án KDTM đưa ra xét xử hàng
năm thuộc loại lớn nhất của cả nước. Từ đó, hoạt động THADS trong đó có
áp dụng biện pháp kê biên tài sản bảo đảm trong THADS trên địa bàn thành
phố Hà Nội có số lượng rất lớn.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, thì hoạt động kê biên tài sản
nói chung và kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án trong các vụ án KDTM trên
địa bàn thành phố Hà Nội vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định. Công tác kê
biên còn chưa đáp ứng được yêu cầu thi hành án, số vụ kê biên tài sản thành
cơng cịn ít trong khi số lượng tài sản cần kê biên là rất lớn. Nhiều vụ việc kê
biên có tranh chấp về tài sản kê biên và tài sản thuộc đồng sở hữu của những
người khác. Hoạt động kê biên các tài sản đang có tranh chấp, đang có quyết
định thu hồi đặc biệt là quyền sử dụng đất còn nhiều. Những hạn chế, vướng
mắc trên xuất phát từ nguyên nhân là những tồn tại, hạn chế trong quy định của
pháp luật về kê biên tài sản trong thi hành án đối với các vụ án KDTM, cũng như
những hạn chế về số lượng, chất lượng nguồn nhân lực của cơ quan thi hành án
dân sự trong hoạt động kê biên tài sản, hay quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi
hành án và các cơ quan khác còn chưa thực sự nhịp nhàng.
Từ những sự phân tích trên, tác giả quyết định chọn đề tài: “Kê biên tài
sản để đảm bảo thi hành án trong các vụ án kinh doanh, thương mại và
thực tiễn tại cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội” làm đề tài
luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
Các biện pháp cưỡng chế THADS trong đó có biện pháp kê biên tài
sản, nội dung của luận văn có liên quan đến nhiều cơng trình nghiên cứu,


2


nhưng cá nhân quan tâm chú trọng đến các công trình, bài viết sau:
- “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự” của tác giả Phan Huy
Hiếu năm 2011 đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật. Trong bài viết của
mình tác giả đã phân tích và thống kê được hệ thống các biên pháp cưỡng chế
thi hành án dân sự trong đó có biện pháp kê biên tài sản. Biện pháp kê biên tài
sản theo quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự còn nhiều hạn chế, tồn tại
nhất định cần được tiếp tục sửa đổi, bổ sung.
- “Cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án” của tác
giả Lê Anh Tuấn trong Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề THADS
năm 2010. Trong bài viết của mình tác giả phân tích những quy định của pháp
luật về cưỡng chế kê biên tài sản của người phải thi hành án. Tác giả đã đưa
ra được phân tích về quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề này cũng
như phân tích những hạn chế, tồn tại trong quy định về kê biên tài sản trong
thi hành án từ đó đề xuất các giải pháp hồn thiện pháp luật có liên quan;
- “Về kê kiên, xử lý tài sản” củaNguyễn Thanh Thủy và Lê Thị Kim
Dung trong cuốn “Xử lý tình huống trong thi hành án dân sự và các văn bản
pháp luật về thi hành dân sự”, nhà xuất bản Tư pháp năm 2010. Trong bài
viết của mình tác giả đã đưa ra một số tình huống có khả năng phát sinh trong
vấn để thi hành án dân sự, từ đó các tác giả cũng trình bày các phương án xử
lý tình huống trong hoạt động thi hành án dân sự để có thể giải quyết tốt quan
hệ pháp luật trong kê biên tài sản thi hành án;
- “Vấn đề cưỡng chế đối với người thức ba” của tác giả Bùi Văn Yên
và “Cần xử lý triệt để hành vi chiếm lại đất sau cưỡng chế thi hành án” của
tác giả Trần Hồng Đốn trong số chuyên đề về THADS của Tạp chí Dân chủ
và pháp luật tháng 5 năm 2012. Hai cơng trình nghiên cứu trên của các tác giả
đã phân tích về một số nội dung liên quan đến hoạt động cưỡng chế thi hành

án dân sự trong đó có hoạt động kê biên tài sản để làm rõ hơn các quy định
của pháp luật về vấn đề này. Từ đó, tác giả luận giải các phương án để hoàn
thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nói chung và kê biên tài sản
nói riêng.
- Luận văn Tiến sỹ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh “Hoàn thiện pháp luật THADS ở Việt Nam hiện nay” của tác

3


giả Nguyễn Thanh Thủy năm 2008. Luận án là công trình nghiên cứu căn bản,
hồn thiện nhất vào thời điểm công bố về vấn đề pháp luật về thi hành án dân
sự. Trong luận án tác giả có đưa ra phân tích về các quy định pháp luật về kê
biên tài sản đảm bảo thi hành án dân sự nói chung nhưng chưa có phân tích cụ
thể về lĩnh vực KDTM nói riêng.
- Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh, “Thực hiện pháp luật về THADS ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu” tác
giả Lại Anh Thắng năm 2015. Trong luận văn này tác giả đã phân tích về hoạt
động thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Từ
đó tác giả đưa ra phân tích các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về thi hành án dân sự trong thời gian tới.
“Áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản nhằm thi hành các bản
án, quyết định của tòa án qua thực tiễn thực hiện tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu”
của tác giả Châu Vũ tại Học viện khoa học xã hội năm 2017. Trong luận văn
này, tác giả phân tích về những vấn đề lý luận và thực tiễn về biện pháp cưỡng
chế kê biên tài sản nhằm thi hành các bản án, quyết định của tồ án. Đây có thể
coi là cơng trình gần với đề tài nghiên cứu của học viên. Tuy nhiên, cơng trình
này tác giả chỉ phân tích về biện pháp cưỡng chế, kê biên nói chung mà chưa
có phần phân tích cụ thể về thi hành án trong các vụ án KDTM.
- Đỗ Công Thức (2017), Pháp luật về cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản

là quyền sử dụng đất để thi hành các bản án, quyết định dân sự, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Kinh tế - Luật. Trong luận văn của mình,
tác giả phân tích về pháp luật cưỡng chế, xử lý tài sản là quyền sử dụng đất
trong thi hành án dân sự. Trong bản án của mình, tác giả phân tích về những
quy định của pháp luật về cưỡng chế, kê biên tài sản, cũng như hoạt động
thực tiễn kê biên tài sản là quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự nói
chung mà khơng nghiên cứu sâu về vấn đề thi hành án trong lĩnh vực KDTM.
Như vậy, cho đến thời điểm hiện nay, cũng đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu về kê biên tài sản bảo đảm THADS được công bố ở Việt Nam.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có cơng trình nghiên cứu nào nghiên cứu về hoạt
động kê biên tài sản trong các vụ án KDTM cũng như nghiên cứu trên địa bàn
cụ thể là thành phố Hà Nội. Do đó, việc tác giả nghiên cứu đề tài trên vẫn
mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.
4


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về
kê biên tài sản bảo đảm THADS từ thực tiễn Cơ quan THADS thành phố Hà
Nội để từ đó đề xuất các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kê biên tài sản
trong THADS trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về kê biên tài sản bảo đảm
trong trong các vụ án kinh doanh, thương mại như: khái niệm, đặc điểm của
kê biên tài sản trong trong các vụ án kinh doanh, thương mại ; phân loại kê
biên tài sản bảo đảm trong các vụ án kinh doanh, thương mại THADS; nội
dung quy định của pháp luật về kê biên tài sản trong các vụ án kinh doanh,

thương mại.
Thứ hai, nghiên cứu thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm trong các vụ án
kinh doanh, thương mại tại Cơ quan THADS thành phố Hà Nội từ đó đánh
giá được những kết quả đạt được cũng như xác định được những hạn chế, tồn
tại và nguyên nhân.
Thứ ba, đưa ra các phương hướng và các đề xuất cụ thể nhằm hoàn
thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp luật về kê biên tài sản trong các
vụ án kinh doanh, thương mại THADS trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn
về kê biên tài sản bảo đảm THADS trong các vụ án kinh doanh, thương mại
qua thực tiễn thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu về các quy định pháp luật hiện
hành được thể hiện trong Luật thi hành án sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung
năm 2014 về kê biên tài sản bảo đảm THADS trong các vụ án kinh doanh,

5


thương mại và thực tiễn thực hiện tại Cơ quan thi hành án thành phố Hà Nội.
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm
trong các vụ án kinh doanh, thương mại THADS tại Cơ quan THADS thành phố
Hà Nội.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn kê biên tài sản bảo đảm
trong các vụ án kinh doanh, thương mại THADS tại Cơ quan THADS thành
phố Hà Nội trong phạm vi 5 năm từ năm 2016 đến năm 2020.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

Dựa trên nền tảng phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của
Đảng, luật pháp của Nhà nước, vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành
và luận văn triệt để vận dụng phương pháp nghiên cứu kê biên tài sản để
THADS.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận nêu trên luận văn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau: Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh đối chiếu,
phương pháp liệt kê, thống kê, sử dụng các trang web để tìm kiếm tài liệu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã đặt ra và luận giải một số quan điểm cơ bản về khái niệm
kê biên tài sản trong các vụ án kinh doanh, thương mại, tìm hiểu đặc điểm,
bản chất của kê biên tài sản trong các vụ án kinh doanh, thương mại, góp
phần bổ sung làm phong phú thêm cho hoạt động nghiên cứu khoa học về
pháp luật THADS.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ việc đánh giá thực trạng pháp luật kê biên tài sản trong các vụ án
kinh doanh, thương mại, tác giả đã chỉ ra được những bất cập cần sửa đổi, bổ
sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật THADS.
Từ việc đánh giá thực tiễn kê biên tài sản trong các vụ án kinh doanh,
thương mại tại Cơ quan THADS thành phố Hà Nội, tác giả đã phân tích

6


những nguyên nhân và đưa ra những giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện pháp
luật về kê biên tài sản trong các vụ án kinh doanh, thương mại tại Cơ quan thi
hành án thành phố Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài
được kết cấu thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về kê biên tài sản để bảo đảm THA
trong các vụ án KDTM.
Chương 2: Thực tiễn kê biên tài sản sản để bảo đảm THA trong các
vụ án KDTM tại Cơ quan THADS thành phố Hà Nội.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm
thực hiện pháp luật về kê biên tài sản sản để bảo đảm THA trong các vụ án
KDTM tại Cơ quan thi hành án thành phố Hà Nội.

7


Chƣơng 1
KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, Ý NGHĨA CỦA KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG
THI HÀNH ÁN KINH DOANH THƢƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và phân loại kê biên tài sản để bảo
đảm thi hành án trong các vụ án kinh doanh thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong các vụ
án kinh doanh thương mại
Kê biên là một động từ được ghép bởi hai từ “kê” và “biên”. Có rất
nhiều cách hiểu về kê biên chẳng hạn như theo Từ điển bách khoa tồn thư thì
“kê biên là cưỡng chế của Nhà nước đối với tài sản của người vi phạm pháp
luật. Kê biên tài sản trong thi hành án là một trong những biện pháp cưỡng
chế và CHV có quyền áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án
không tự nguyện thi hành.1” Ở góc độ luật học thì “kê biên, xử lý tài sản của
người phải thi hành án là một biện pháp cưỡng chế thi hành án do cơ quan
thi hành án áp dụng khi người phải thi hành án có nghĩa vụ thanh tốn tiền
theo bản án, quyết định của Tòa án được áp dụng trong trường hợp người
phải thi hành án có điều kiện thi hành mà không tự nguyện thi hành trong

thời hạn do CHV ấn định hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải
thi hành án chuyển dịch tài sản cho người khác tẩu tán, hủy hoại tài sản.”2
Còn theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, kê là “viết ra theo thứ
tự từng tên, từng nhóm để ghi nhớ hoặc thơng báo” và “biên viết lên trang
giấy”3. Cịn theo giải thích trong cuốn Từ điển Luật học, kê biên tài sản là
“biện pháp cưỡng chế nhà nước được áp dụng đối với bị can, bị cáo mà theo
quy định của Bộ luật hình sự có thể bị phạt tiền cũng như đối với người phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do Tòa án, chấp hành viên tiến hành để
kê khai, ghi lại từng loại tài sản, giao cho chủ tài sản hoặc thân nhân bảo
quản, cấm việc tẩu tán, phá hủy nhằm bảo đảm cho việc xét xử, thi hành bản
án và các quyết định của cơ quan nhà nước được thuận lợi, đúng pháp luật” 4
Với cách định nghĩa này, khái niệm kê biên chỉ bó hẹp trong lĩnh vực hình sự.
1

Viện từ điển bách khoa (1999), Từ điển bách khoa, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr. 984
Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình thi hành án dân sự, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội, tr.
154
3
Viện Ngôn ngữ học (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr.762
4
Viện Khoa học pháp lý - Bộ tư pháp (2005), Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 572
2

8


Tuy nhiên, khái niệm này chưa đầy đủ bởi lẽ khơng phải chỉ có cơ quan điều
tra của Cơng an mà tòa án nhân dân các cấp, cơ quan quản lý hành chính và
cơ quan THADS được Nhà nước trao quyền thực hiện việc kê biên tài sản.
Trong luận văn này, người viết chỉ xem xét kê biên ở góc độ luật học trên cơ

sở đó sẽ phân tích, đánh giá để tìm hiểu rõ hơn về biện pháp cưỡng chế bằng
hình thức kê biên tài sản để bảo đảm THA trong các vụ án KDTM theo những
quy định của pháp luật hiện hành.
Như vậy, kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế hữu hiệu để Nhà
nước thực hiện quyền lực của mình, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thực hiện với mục đích bảo đảm cho việc thực hiện một nghĩa vụ tài sản đối
với các cơ quan, tổ chức, cá nhân xâm hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.
Cụ thể trong lĩnh vực THADS, biện pháp kê biên tài sản quy định tại
khoản 3 Điều 71 Luật THADS năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014, (viết tắt
là Luật THADS năm 2014) được xem là một trong những biện pháp cưỡng chế
THADS do CHV áp dụng đối với tài sản của NPTHA trong trường hợp
NPTHA không tự nguyện THA. Căn cứ vào phạm vi điều chỉnh của Luật
THADS năm 2014, có thể thấy THADS là hoạt động thi hành bản án, quyết
định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất
chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết
định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của Tịa án,
quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh
của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi
hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại (sau đây gọi chung là
bản án, quyết định). Cần lưu ý rằng chỉ khi NPTHA có điều kiện THA và đã
hết thời hạn tự nguyện THA mà vẫn khơng THA thì CHV mới áp dụng biện
pháp cưỡng chế THA để buộc người đó thực hiện nghĩa vụ của mình.
Thứ hai, chúng ta cần phân tích về khái niệm vụ án KDTM.
Trong đời sống xã hội, con người luôn sáng tạo, lao động, vươn lên và
do đó, mối quan hệ của con người cũng luôn phát triển và ngày càng phong
phú. Từ đó, các va chạm, xung đột, tranh chấp của con người cũng ngày càng
phức tạp hơn. Trong thực tế, để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của mình,
con người phải lao động và ra sức bảo vệ lợi ích từ q trình lao động ấy.
9



Cũng chính từ ngun nhân đó, các xung đột lợi ích đã xảy ra, trở thành
những tranh chấp quyền lợi của con người với con người.
Hiện nay, tranh chấp được đề cập từ nhiều góc độ khác nhau, với
những nội dung khơng hồn tồn đồng nhất. Tranh chấp là “đấu tranh giằng
co khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề quyền lợi giữa hai bên”,
“tranh chấp là mâu thuẫn, là xung đột về quyền và nghĩa vụ của các bên”.
Như vậy, tranh chấp được hiểu là những mâu thuẫn, bất đồng, xung đột
của con người trong quá trình tồn tại và phát triển, là cái tự nhiên vốn có của
cuộc sống, phát sinh, phát triển song hành cùng sự phát triển của xã hội. Mối
quan hệ của con người ngày càng phong phú thì sẽ càng phát sinh tranh chấp
trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Tiêu biểu trong đó là tranh chấp về quyền lợi
kinh tế.
Đất nước đổi mới, nền kinh tế tập trung bao cấp đã được thay thế bởi
nền kinh tế thị trường phát triển, năng động, cạnh tranh và phong phú. Bên
cạnh đó, tiến trình tồn cầu hóa, hội nhập thương mại quốc tế cũng đang diễn
ra hết sức mạnh mẽ và khốc liệt. Đứng trước những cơ hội và thách thức của
thời cuộc, nước ta đang có những định hướng phù hợp, phát huy thế mạnh của
nền kinh tế. Trong đó, phát triển thương mại là một trong những bước đi đúng
đắn nhất, đem lại hiệu quả cao cho đời sống xã hội.
Luật Thương mại năm 2005 được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005
đã đưa ra một khái niệm về hoạt động thương mại tương đối giản đơn. Tuy
nhiên, khái niệm này cũng đã hàm chứa và lột tả được nội hàm của hoạt động
thương mại. Khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005 quy định: “Hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi khác”.
Theo khái niệm này, quan niệm về hoạt động thương mại được mở
rộng bao gồm mọi hoạt động có mục đích sinh lợi. Hướng tiếp cận này của

Luật Thương mại cho thấy, khái niệm về hoạt động thương mại đã thể hiện sự
tương đồng với khái niệm kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp năm 1999,
Luật Doanh nghiệp năm 2005 cũng như Luật Doanh nghiệp năm 2014. Kinh
doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá

10


trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi.
Như vậy, tranh chấp thương mại có thể hiểu đơn giản là những bất
đồng, mâu thuẫn liên quan đến quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia hoạt
động thương mại.
Thứ nhất, tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn về quyền và
nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể. Mâu thuẫn được hiểu là trạng
thái xung đột, đối xứng nhau về quyền và nghĩa vụ giữa các bên tranh chấp.
Quan hệ thương mại và bất đồng giữa các bên trong quan hệ thương mại là
điều kiện cần và đủ để tranh chấp phát sinh. Trong hoạt động thương mại, các
bên vừa hợp tác đồng thời vừa cạnh tranh nhau để đạt được những mục đích
đề ra. Do đó, việc phát sinh những mâu thuẫn, bất đồng trong quá trình thực
hiện quyền và nghĩa vụ của các bên là điều tất yếu.
Các quan hệ thương mại có bản chất là các quan hệ tài sản nên nội
dung tranh chấp thường liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh tế của các bên.
Thơng thường, những mâu thuẫn bất đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên
phát sinh trong các mối quan hệ cụ thể bao gồm:
Mua bán hàng hoá; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; kí
gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn kĩ thuật; vận chuyển hàng
hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; vận chuyển
hàng hố, hành khách bằng đường hàng khơng, đường biển; mua bán cổ
phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác; đầu tư tài chính, ngân hàng; bảo

hiểm; thăm dò, khai thác.
Tranh chấp về quyền SHTT, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
Tranh chấp giữa cơng ty với các thành viên của công ty, giữa các thành
viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể,
sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của cơng ty.
Tranh chấp khác về KDTM mà pháp luật có quy định.
Thứ hai, những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phải phát
sinh từ hoạt động thương mại.
Căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp đồng
11


hoặc vi phạm pháp luật. Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương mại phát
sinh do các bên có vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy nhiên
cũng có thể có những vi phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng không làm
phát sinh tranh chấp. Tranh chấp thương mại phải là những mâu thuẫn, bất
đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh từ những hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Thứ ba, các tranh chấp thương mại chủ yếu là những tranh chấp phát
sinh giữa các thương nhân (cá nhân kinh doanh, pháp nhân) với nhau. Ngoài
thương nhân là chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại, trong những
trường hợp nhất định, các cá nhân, tổ chức khác (khơng phải là thương nhân)
cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại khi trong các giao dịch bên
khơng có mục đích sinh lợi chọn áp dụng luật thương mại. Khoa học pháp lý
gọi giao dịch này là giao dịch hỗn hợp (hành vi hỗn hợp).
Về bản chất, hoạt động khơng nhằm mục đích sinh lợi của một bên trong
giao dịch với thương nhân không phải là hoạt động thương mại thuần túy,
nhưng bên không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn áp dụng luật thương mại thì

quan hệ này trở thành quan hệ pháp luật thương mại và tranh chấp phát sinh từ
quan hệ pháp luật này phải được quan niệm là tranh chấp thương mại.
Khi các bên trong quan hệ tranh chấp không lựa chọn các phương thức
giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hòa giải và trọng tài thương mại
hoặc đã sử dụng các phương thức này song khơng đạt được mục đích như
mong muốn, thì giải quyết tranh chấp KDTM tại Tồ án là một phương thức
thường được các bên tranh chấp lựa chọn. Giải quyết tranh chấp KDTM tại
Toà án được chia thành các giai đoạn tố tụng, bao gồm: giai đoạn sơ thẩm,
giai đoạn phúc thẩm, thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và giai đoạn THA.
Như vậy có thể hiểu, kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế do các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện nhằm bảo đảm cho việc thực hiện
một nghĩa vụ tài sản đối với các cá nhân, tổ chức xâm hại đến lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Trong hoạt động THADS, kê biên được hiểu là một trong những biện
pháp cưỡng chế THADS. Cơng tác THADS nói riêng và cơng tác THA

12


nói chung là một trong những hoạt động quan trọng nhằm khôi phục và bảo
vệ các quan hệ xã hội bị xâm hại. THADS là hoạt động thi hành Bản án,
Quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi
bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí, tiền phạt và quyết định dân sự
trong bản án hình sự, phần tài sản trong Bản án, Quyết định hành chính và
Tồ án, quyết định của Tòa án giải quyết pháp sản, quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh của Hội đồng xử lý các vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản
của bên phải thi hành án và phán quyết, quyết định của trọng tài thương mại
(sau đây gọi chung là Bản án, Quyết định của tòa án). Việc cưỡng chế chỉ đặt
ra khi NPTHA có điều kiện thi hành án và đã hết thời gian tự nguyện THA thì
CHV mới áp dụng các biện pháp cưỡng chế THA để buộc NPTHA thực hiện

nghĩa vụ của mình.
Như vậy, kê biên tài sản bảo đảm THA trong các vụ án KDTM là một
biện pháp cưỡng chế được quy định trong pháp luật về THADS do cơ quan
THADS thực hiện nhằm bảo đảm cho việc thực hiện một nghĩa vụ tài sản đối
với các cá nhân, tổ chức xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân phát sinh từ bản án, quyết định của Toà án về
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại.
1.1.2. Đặc điểm của kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong các
vụ án kinh doanh thương mại
Đối với mỗi một biện pháp cưỡng chế sẽ có một đặc điểm riêng để
nhận biết cũng như để cho các CHV dễ dàng áp dụng đối với từng vụ việc cụ
thể. Theo Lênin thì pháp luật sẽ khơng cịn là gì nữa nếu khơng có một bộ
máy có đủ sức cưỡng bức người ta tuân theo những tiêu chuẩn của pháp
quyền thì pháp quyền có cũng như khơng. Những quy tắc đạo đức, phong tục
được con người tuân theo, chỉ nhờ vào sự tự giác, lịng tin, trình độ hiểu biết,
tác động của xã hội; Còn quy phạm pháp luật được Nhà nước bảo đảm thi
hành, công dân, các tổ chức, các người có liên quan khơng chấp hành thì Nhà
nước sẽ cưỡng chế thi hành. Một số đặc điểm cơ bản của quá trình kê biên tài
sản trong biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản:
Thứ nhất, thể hiện tính quyền lực Nhà nước
Quyền lực Nhà nước được thực hiện thông qua hoạt động của các cơ

13


quan Nhà nước. Trong đó, có hệ thống cơ quan THADS thuộc nhánh các cơ
quan thực hiện quyền hành pháp. Hệ thống tổ chức THADS được Thủ tướng
Chính phủ thành lập theo ngành dọc từ Trung ương đến địa phương, bao gồm:
Tổng cục THADS thuộc Bộ Tư pháp, Cục THADS tỉnh, Chi cục THADS
huyện. Bên cạnh đó, cịn có cơ quan THADS trong Quân đội là Cục THA

thuộc Bộ Quốc phịng và Phịng THA thuộc Qn khu. Theo đó, Nhà nước
trao cho hệ thống cơ quan THADS thi hành phần dân sự của bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, điều đó khơng đồng
nghĩa với việc mọi cán bộ, công chức hay người lao động trong hệ thống cơ
quan THADS đều có quyền thực hiện các biện pháp cưỡng chế THADS nói
chung và kê biên tài sản là QSD đất, tài sản gắn liền với đất nói riêng. Người
áp dụng biện pháp kê biên bắt buộc phải là người được Nhà nước trao quyền.
Cũng giống với các chức danh tư pháp khác được Nhà nước trao quyền
như Thẩm phán thực hiện quyền xét xử; Kiểm sát viên thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; CHV thi hành các bản án, quyết định theo
quy định của pháp luật. Nhờ đó, CHV có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng
chế để đảm bảo các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được
thi hành nghiêm chỉnh. Do vậy, biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản là QSD
đất, tài sản gắn liền với đất chỉ có thể do CHV áp dụng. Tuy nhiên, thực hiện
công vụ là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước, việc áp dụng các biện
pháp cưỡng chế nói chung và biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản là QSD đất,
tài sản gắn liền với đất nói riêng cần phải dựa trên các căn cứ do pháp luật
quy định mà không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bất kỳ ai, kể cả CHV.
Tại Việt Nam, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định “Từng bước
thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ
chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công việc thi hành
án”. Trên cơ sở Nghị quyết này của Đảng, Quốc hội đã lần lượt ban hành 03
Nghị quyết từng bước thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại từ phạm vi
hẹp rồi mở rộng dần, bắt đầu từ năm 2010 chỉ thí điểm riêng tại thành phố Hồ
Chí Minh, từ 01/07/2012 đến hết ngày 31/12/2015 thực hiện thí điểm nhân
rộng trên phạm vi 13 tỉnh, thành phố và kể từ ngày 01/01/2016 đã chấm dứt
việc thí điểm, đây cũng là thời điểm đánh dấu sự ra đời của một nghề mới,
14



nghề Thừa phát lại trên phạm vi cả nước. Dù được thành lập theo quy định
của pháp luật với mục đích thực hiện một số cơng việc về THADS, các văn
phịng thừa phát lại cũng khơng được ra quyết định cưỡng chế kê biên tài sản là
QSD đất, tài sản gắn liền với đất mà quyền đó thuộc về cơ quan THA. Cụ thể,
Cục trưởng Cục THADS tỉnh sẽ xem xét phê duyệt kế hoạch và ra quyết định
cưỡng chế THA trên cơ sở đề nghị của Văn phòng thừa phát lại trên địa bàn.
Thứ hai, kê biên là giai đoạn đầu của một trong sáu biện pháp cưỡng
chế THADS. Với mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được
thi hành án là cá nhân, tổ chức, cơ quan và lợi ích của Nhà nước thì CHV sẽ
quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế phù hợp đối với từng điều kiện của
người phải THA, trong đó có biện pháp cưỡng chế kê biên và xử lý tài sản.
Theo Luật THADS 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 khi NPTHA không
tự nguyện THA trong khoảng thời gian do luật định thì sẽ bị áp dụng biện
pháp cưỡng chế là kê biên và xử lý tài sản để THA.
Thứ ba, Trình tự, thủ tục kê biên được tiến hành theo những qui định
của pháp luật THADS và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Mọi hoạt động trong quản lý nhà nước đều phải được thực hiện theo
những thủ tục đã được quy định. Bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào vi
phạm đều phải gánh chịu chế tài tương ứng. Thủ tục áp dụng biện pháp kê
biên tài sản là QSD đất, tài sản gắn liền với đất trong THADS cũng được quy
định rất rõ trong Luật THADS hiện hành và các văn bản dưới luật. Theo đó,
khi thực hiện nhiệm vụ, CHV phải tuân thủ các thủ tục chặt chẽ từ khi lập hồ
sơ THA; xác minh điều kiện THA; ra quyết định cưỡng chế kê biên tài sản là
QSD đất, tài sản gắn liền với đất; định giá QSD đất, tài sản gắn liền với đất;
bán đấu giá QSD đất, tài sản gắn liền với đất; giao QSD đất, tài sản gắn liền
với đất đến thanh toán tiền bán đấu giá. Trình tự thủ tục này đã được Luật
THADS quy định chặt chẽ, nếu CHV vận dụng không đúng quy định có thể
sẽ dẫn đến các sai sót trong q trình thi hành. Cùng với đó, CHV cịn phải
tn theo trình tự, thủ tục được quy định trong các văn bản pháp luật có liên

quan như: Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật hôn nhân và gia đình,
Luật đất đai, Luật đấu giá tài sản, v.v…
Thứ tư, đối tượng kê biên là những loại tài sản đặc biệt

15


QSD đất là một loại quyền tài sản, có giá trị lớn, chịu sự quản lý chặt
chẽ của Nhà nước thông qua hệ thống các cơ quan quản lý đất đai từ Trung
ương đến địa phương. Sự đặc biệt của QSD đất cịn được thể hiện ở việc nó
được quy định trong đạo luật cao nhất của nước ta: Đất đai là tài nguyên đặc
biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo
pháp luật. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận
QSD đất. Người sử dụng đất được chuyển QSD đất, thực hiện các quyền và
nghĩa vụ theo quy định của luật. QSD đất được pháp luật bảo hộ… Như vậy, đất
đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản
lý. Điều đó được tái khẳng định trong Luật đất đai hiện hành, theo đó, QSD đất
của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác được xác lập do Nhà nước
giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận QSD đất. Do gắn với loại tài sản đặc biệt
nên tài sản gắn liền với đất cũng mang những đặc thù riêng, khó di dời, khác với
các loại tài sản là động sản.
Trong các vụ án về kinh doanh thương mại, thì đối tượng kê biên rất đa
dạng. Tuy nhiên, có những tài sản cần kê biên trong các vụ án này mà các vụ
án khác khơng có ví dụ như cổ phiếu, trái phiếu, các cổ phần, phần vốn góp
trong các cơng ty, hay như kê biên số lượng vàng, sổ tiết kiệm, tiền gửi ngân
hàng… Đây là đặc thù cho thấy việc kê biên tài sản trong các vụ án về kinh
doanh thương mại có liên quan đến tài sản là đối tượng của các vụ án kinh
doanh thương mại nói chung.
Trong thực tiễn cơng tác thi hành án dân sự, biện pháp kê biên tài sản
được áp dụng khi người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ trả tiền và

mặc dù người này có điều kiện thi hành (có tài sản) nhưng khơng tự nguyện
thi hành. Để tiến hành kê biên tài sản, Chấp hành viên (CHV) hoặc người
được thi hành án phải tiến hành xác minh tài sản của người phải thi hành án
và khi có căn cứ cho thấy người phải thi hành án có tài sản nhưng khơng tự
nguyện thi hành án thì CHV mới tiến hành kê biên để thi hành án. Do đó, căn
cứ để xác định một tài sản có phải là của người phải thi hành án hay khơng là
rất quan trọng vì CHV chỉ kê biên, xử lý tài sản khi có căn cứ xác định tài sản
đó thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản là đất đai (sau đây gọi
chung là quyền sở hữu) hợp pháp của người phải thi hành án.
Khi xác định quyền sở hữu tài sản của người phải thi hành án theo
16


hướng dẫn tại khoản 1 Điều 6 Thông tư 14 chúng ta nên chia thành hai nhóm
như sau:
Nhóm thứ nhất gồm các hành vi: bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng
cho của người phải thi hành án cho người khác kể từ thời điểm có bản án,
quyết định sơ thẩm.
Nhóm thứ hai gồm các hành vi: thế chấp, bảo lãnh và cầm cố tài sản
cho người khác kể từ thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm.
Nhóm thứ nhất là nhóm những hành vi nhằm chuyển quyền sở hữu tài sản
sang cho người khác. Nhóm thứ hai là nhóm các hành vi chưa dẫn đến việc chuyển
quyền sở hữu tài sản cho người khác, mà theo quy định của pháp luật thì người phải
thi hành án vẫn đang là chủ sở hữu hợp pháp đối với tài sản. Do đó, việc kê biên xử
lý tài sản mà người phải thi hành án đã thực hiện các hành vi ở nhóm thứ hai được
tiến hành theo các quy định hiện hành của pháp luật thi hành án dân sự mà khơng
có vướng mắc về việc xác định chủ sở hữu tài sản. Vì vậy, việc xác định chủ sở hữu
để tiến hành kê biên, xử lý tài sản chỉ đặt ra đối với nhóm thứ nhất gồm các hành vi
bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho của người phải thi hành án cho người
khác kể từ thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm.

Thứ năm, là biện pháp thường được áp dụng để thi hành các nghĩa vụ lớn.
Hiện nay, trên thực tế có nhiều tranh chấp được Tịa án giải quyết có
nghĩa vụ trả tiền lớn. Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế như khấu trừ tiền
trong tài khoản, trừ vào thu nhập của NPTHA, khai thác tài sản của NPTHA,
kê biên các tài sản thông thường, v.v… thường không tương xứng với nghĩa
vụ của NPTHA nên không mang lại hiệu quả cao. Vì vậy, việc áp dụng biện
pháp kê biên tài sản là QSD đất, tài sản gắn liền với đất để thi hành những
nghĩa vụ lớn của NPTHA là lựa chọn hàng đầu của hầu hết CHV.
Thứ sáu, nhằm mục đích bán đấu giá thu tiền để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ trả tiền của NPTHA
Chúng ta có thể thấy rõ mục đích của biện pháp kê biên tài sản là QSD
đất, tài sản gắn liền với đất. Một là, đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định của
Tòa án. Mọi bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật đều cần
được thi hành một cách nghiêm chỉnh. Hai là, xử lý tài sản là QSD đất, tài sản
gắn liền với đất đã kê biên để bán đấu giá thu tiền, bảo đảm việc thực hiện nghĩa

17


vụ trả tiền của NPTHA, không để ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
NĐTHA.
- Về chủ thể: Việc quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế, ra quyết
định cưỡng chế và tổ chức thực hiện cưỡng chế kê biên QSDĐ, tài sản gắn
liền với đất thuộc thẩm quyền của một Chấp hành viên được giao nhiệm vụ
thi hành vụ việc thi hành án.Theo qui định của luật thi hành án năm 2014:
Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các Bản án,
Quyết định do Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ nhiệm. Công dân Việt Nam có trình
độ cử nhân luật trở lên và một số điều kiện khác như trung thực, phẩm chất,
đạo đức tốt và có thời gian cơng tác pháp luật thì có thể được bổ nhiệm làm
chấp hành viên trong cơ quan thi hành án dân sự ở các địa phương.

Chấp hành viên được giao nhiệm vụ thi hành quyết định thi hành án
của thủ trưởng cơ quan thi hành án ban hành và là người có thẩm quyền quyết
định áp dụng biện pháp kê biên đối với vụ án kinh doanh thương mại đó. Dựa
trên kết quả sự tự nguyện của người phải thi hành án và điều kiện về tài sản
hiện có là tài sản của người phải thi hành án Chấp hành viên ra quyết định áp
dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản đảm bảo thi hành án để đảm bảo thi
hành án nghĩa vụ theo Bản án, Quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
1.1.3. Vai trò của kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án trong các vụ án
kinh doanh thương mại
Kê biên tài sản là biện pháp cưỡng chế được quy định trong Luật
THADS năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 tại Điều 71 là một trong hai
biện pháp của cơ quan THADS, biện pháp còn lại của cơ quan THADS là tự
nguyện thi hành án. Vì vậy vai trò của kê biên tài sản là vai trò của cơ quan
THADS trong hệ thống tư pháp, vai trò của cơ quan THADS được phản ánh,
thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật và khôi phục lại
những quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ. Trong quá trình giải quyết một vụ
án THA chỉ kết thúc khi bản án quyết định của Tòa án được thi hành đúng kịp
thời đầy đủ theo quy định của Tồ án. Cơng tác THADS khơng được các bên
quan tâm và khơng có hiệu quả thì sẽ có nhiều khả năng ảnh hưởng tiêu cực lớn,
tác động đến toàn bộ hoạt động của Cơ quan Điều tra công an; Truy tố của Viện

18


kiểm sát; Xét xử của Toà án, trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực nhà
nước giảm sút khơng được coi trọng, quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công
dân, các đương sự bị xâm hại. THADS đạt được hiệu quả sẽ mang lại niềm tin
cho nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật trong cơng tác THA nói
riêng và pháp luật nói chung, góp phần khơi phục lại những quan hệ xã hội mà

pháp luật bảo vệ.
Thứ hai, góp phần cho người dân nâng cao nhận thức về pháp luật.
THADS góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân đặc thù
của THADS là sự kết hợp chặt chẽ giữa vai trò chủ động, phát huy trách
nhiệm của cán bộ Công chức, CHV, Cơ quan THADS, quan tâm chỉ đạo của
chính quyền địa phương, sự phối hợp các cơ quan tổ chức có liên quan và sự
nhất trí cao đồng tình của quần chúng, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao ý
thức trách nhiệm của cộng đồng dân tộc. Trong hoạt động THADS, THA
không chỉ là hoạt động nghiệp vụ riêng của cơ quan THA, CHV mà còn là
trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, và đoàn thể xã hội
và mọi thành viên trong cộng đồng dân tộc. Thông qua công tác THA, ý thức
pháp luật được tuyên truyền rộng ra ngoài nhân dân và đồng thời nâng cao
nhận thức của mọi người, nhân dân và xã hội với pháp luật.
Thứ ba, là thước đo của q trình xét xử nhân danh tồ án, THA là
thước đo hiệu quả hoạt động xét xử nhân danh của Tòa án và hoạt động tư
pháp khác hoạt động điều tra, truy tố và xét xử diễn ra rất phức tạp, kéo dài và
tốn kém của nhà nước, song những hoạt động đó có thể chỉ là con số khơng
nếu như bản án, quyết định của Tịa án khơng được đưa ra thi hành trên thực
tế một cách nghiêm minh đúng quy định. Với ý nghĩa đó, thi hành án dân sự
là một hoạt động không thể thiếu được trong q trình bảo vệ quyền lợi và lợi
ích hợp pháp của đương sự những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Thông qua công tác THA, kết quả của công tác xét xử được củng cố, hiệu lực
các bản án, quyết định của Tòa án được đảm bảo theo quy định. Mặt khác,
THADS còn là giai đoạn kiểm nghiệm qua thực tiễn những phán quyết của
Thẩm phán Tòa án, phản ánh, trung thực chất lượng chính xác và hiệu quả
của hoạt động xét xử. Thực tế có nhiều vụ việc cho thấy đương sự không tự
nguyện thi hành hoặc gửi đơn khiếu nại, tố cáo đi nhiều nơi, tố cáo vượt cấp
đến Trung ương khơng phải vì cơ quan THA làm sai mà vì khơng đồng tình
19



×