Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Phân tích đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.64 KB, 27 trang )

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DỊNG SƠNG? – HỒNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
Mở bài:
“Sao thèm hát một điệu gì xưa lắm
Thèm đọc một đoạn văn Hồng Phủ Ngọc Tường
Có ai đó rót chiều vào chén ngọc
Huế dịu dàng xây bằng khói và sương”
Chẳng phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo lại viết những câu thơ thao thức như thế! Có lẽ chính cái tình ý lắng sâu, hình
ảnh của dịng sơng xứ Huế lung linh, trở mình vùng vẫy, êm đềm xuôi chảy giữa những trang văn thấm đẫm chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc
Tường, thấm sâu vào trong tâm hồn người thưởng thức bao thế hệ. Càng yêu Huế bao nhiêu ta càng yêu thêm vẻ đẹp mà nhà văn này đã
thêu dệt cho dịng sơng Hương mộng mơ ấy. Để rồi bất cứ ai khi đọc “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” cũng đều thương nhớ cái (vẻ đẹp tình
tứ) của dịng sơng Hương (khi chảy trong lịng thành phố.)…
Đoạn giới thiệu tác giả, tác phẩm:
Nói đến Hồng Phủ Ngọc Tường là nói đến nhà văn của những dịng sơng. Chính ơng đã từng chia sẻ rằng: “Những dịng sơng ln
mang lại cảm xúc sáng tác cho tôi, đã nuôi dưỡng tâm hồn văn học tôi từ nhỏ cho đến bây giờ và mãi mãi sau này”. Hồng Phủ Ngọc Tường
có phong cách hành văn độc đáo và có sở trường về bút kí, tùy bút, tản văn. Văn phong của ông được cấu tạo bởi hệ thống ngôn từ nghệ
thuật sang trọng, đậm chất trữ tình của một cái tơi un bác, tài hoa. Nét đặc sắc trong các sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là
sự kết hợp giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú trên
nhiều lĩnh vực. Ơng là một nhà trí thức u nước, đã từng gắn bó đời mình với cuộc kháng chiến chống Mĩ gian khổ, hào hùng của dân tộc.
Với lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa, những tác phẩm của ông luôn dạt dào tình cảm, dạt dào những vẻ đẹp nhẹ
nhàng, tinh túy khiến cho những độc giả khó tính nhất cũng phải ngả nghiêng thán phục. Có thể nói, “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?” là
một trong những bài bút kí xuất sắc nhất của Hồng Phủ Ngọc Tường được viết tại Huế năm 1981, in trong tập sách cùng tên. Tác phẩm
không chỉ là sự ngợi ca, trân trọng vẻ đẹp của thiên nhiên và con người xứ Huế mà cịn thể hiện được tình u thiên nhiên, tình u với
truyền thống văn hóa lịch sử lâu đời của dân tộc – những điều nhà văn đã dày cơng tìm tịi, nghiên cứu và tích lũy cả một đời hành văn. Tất
cả những điều ấy được khắc họa rõ nét qua việc tái hiện vẻ đẹp của sông Hương như một nhân vật trữ tình có tính cách, có tâm trạng và có
cả tình u.


[…] Trong những dịng sơng đẹp ở
các nước mà tơi thường nghe nói
đến, hình như chỉ sơng Hương là
thuộc về một thành phố duy nhất.


Trước khi về đến vùng châu thổ êm
đềm, nó đã là một bản trường ca
của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây
đại ngàn, mãnh liệt qua những
ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc
vào những đáy vực bí ẩn, và cũng
có lúc trở nên dịu dàng và say đắm
giữa những dặm dài chói lọi màu
đỏ của hoa đỗ qun rừng. Giữa
lịng Trường Sơn, sơng Hương đã
sống một nửa cuộc đời của mình
như một cơ gái Di-gan phóng
khống và man dại. Rừng già đã
hun đúc cho nó một bản lĩnh gan
dạ, một tâm hồn tự do và trong
sáng. Nhưng chính rừng già nơi
đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lí
giải được về mặt khoa học, đã chế
ngự sức mạnh bản năng ở người
con gái của mình để khi ra khỏi
rừng, sơng Hương nhanh chóng
mang một sắc đẹp dịu dàng và trí
tuệ, trở thành người mẹ phù sa của
một văn hóa xứ sở. Nếu chỉ mải mê
nhìn ngắm khn mặt kinh thành

Luận điểm 1. Mở đầu đoạn trích tác giả khẳng định đầy tự hào: “Trong những dòng sơng đẹp ở các nước
mà tơi thường nghe nói đến, hình như chỉ có sơng Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”.
Trong lời mở đầu nồng nàn ấy, nhà văn đã đặt vị trí của sơng Hương ngang bằng với những “dịng
sơng đẹp” của thế giới. Hai chữ “hình như” mang hơi thở của một câu hỏi tư từ gợi ra những xao xuyến

bâng khuâng. Nhà thơ khẳng định rằng “chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”, khẳng
định rằng “chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”, khẳng định ấy là sự nhấn mạnh: sông
Hương là báu vật của thiên nhiên Huế, là dịng sơng đã bồi đắp phù sa mà làm nên xứ Huế mộng mơ.
Lời khẳng định ấy cũng chính là sự yêu quý, trân trọng, niềm tự hào, là tình u mãnh liệt của tác giả về
dịng sơng q hương – dịng sơng thi ca đất mẹ.
Luận điểm 2. Ở những câu văn tiếp theo, Sông Hương ở thượng nguồn hiện lên phong phú đa dạng
vừa mang vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lẹ; vừa mang nét thơ mộng trữ tình.
Sơng Hương ở vùng thượng nguồn có mối liên hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. Với cấu trúc địa lý
hiểm trở, Trường Sơn đã tạo ra một sông Hương hùng vĩ với dòng chảy hung hãn, bạo liệt: “Trước khi về
đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn,
mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc
nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi của hoa đỗ quyên rừng.”
Cụm từ “Trước khi về với vùng châu thổ êm đềm” như một sự thông báo, rằng: để có được dịng
sơng êm đềm thì sơng Hương đã phải trải qua một cuộc hành trình đầy gian lao nhọc nhằn với bao dốc
thẳm, vực sâu, qua bao ghềnh thác mà ít ai ngờ được. Sau lơi thơng báo ấy là những miêu tả của nhà
văn về dòng chảy của sơng Hương ở thượng nguồn. Dịng chảy ấy được tác giả so sánh ví von như “bản
trường ca” của rừng già. “Bản trường ca” là một liên tưởng độc đáo. Trường ca là một áng văn chương
có dung lượng lớn thường viết với cảm hứng ngợi ca. Bản trường ca thường nhiều trường đoạn, nhiều
tiết tấu, lúc bổng lúc trầm; lúc tha thiết bi ai, khi sử thi hùng tráng. Liên tưởng như vậy kết hợp với so
sánh “như một cơn lốc”-nhà văn đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một con sơng với dịng chảy
hùng vĩ, tráng lệ.
Tả hành trình gian lao ấy, tác giả đã dùng một câu văn dài, được chia làm nhiều vế, huy động một
loạt tính từ, động từ, phép so sánh, nhân cách hóa, liên tưởng độc đáo: “bản trường ca”, “rầm rộ”, “mãnh
liệt”, “cuộn xốy”, “bí ẩn”… vừa để gợi dậy cái dư vang của trường ca, vừa tạo nên âm hưởng hùng tráng,
mạnh mẽ của con sông giữa rừng già, làm dịng sơng trở nên sinh động. Phép điệp cấu trúc: “rầm rộ
giữa bóng cây đại ngàn,/mãnh liệt qua những ghềnh thác,/ cuộn xoáy như những cơn lốc vào những


của nó, tơi nghĩ rằng người ta sẽ
khơng hiểu một cách đầy đủ bản

chất của sơng Hương với cuộc
hành trình gian trn mà nó đã
vượt qua, khơng hiểu thấu phần
tâm hồn sâu thẳm của nó mà dịng
sơng hình như khơng muốn bộc lộ,
đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném
chìa khóa trong những hang đá
dưới chân núi Kim Phụng.

đáy vực bí ẩn” làm nhịp điệu câu văn dồn dập tạo nên tiết tấu mạnh mẽ gợi ra hình ảnh dịng chảy cuồn
cuộn, bạo liệt. Ta có thể hình dung âm thanh cuồng nộ, tiếng nước thác gào thét, hung hãn, băng băng,
“rầm rộ” giữa rừng già Trường Sơn. Đến địa hình dốc cao, vực thẳm, sơng Hương trở nên “mãnh liệt”,
mạnh mẽ băng qua bao thác ghềnh. Có lúc nó dữ dội, xốy trào, ào ạt, cuộn xốy như lốc dữ vào những
đáy vực bí ẩn. Đó là vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của dòng chảy thượng nguồn – nơi con sông sinh ra và lớn
lên được người mẹ rừng già vun đắp và trao ban cho sức sống thiên nhiên hoang dại, tràn trề nhựa
sống.
Trong cái nhìn của nhà văn, Sông Hương hiện lên như một “cô gái Di Gan phóng khống và man
dại”. Cơ gái Di gan là biểu tượng của vẻ đẹp phương Tây thương được nhắc đến với lối sống phóng
khống, u tự do, thích hát ca. Cách liên tưởng so sánh phóng túng từ Đơng sang Tây cho thấy cái
nhìn đa chiều của tác giả. Bởi vậy, dịng chảy ấy trong hình dung cũng giống như điệu múa của cô gái
Di Gan, một vũ khúc giữa rừng già. Hai tính từ “phóng khống” và “man dại” gợi liên tưởng thú vị, độc
đáo về cuộc sống tự do của cô thiếu nữ Bô-hê-miêng xinh đẹp - những cô gái Di-gan đang nhảy múa
phô diễn vẻ đẹp quyến rũ tốt ra từ thân hình bốc lửa, tràn trề nhựa sống. Sự liên tưởng ấy gợi ra dòng
chảy hoang dại, mãnh liệt, mà dạt dào sức sống của sông Hương vùng thượng nguồn.
Bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ tráng lệ, sơng Hương ở thượng nguồn cịn ẩn chứa vẻ đẹp trữ tình, thơ
mộng.
Đang trong một cánh rừng ngôn từ mạnh mẽ, chợt nhà văn rẽ bút mà lắng đọng lại: “và cũng có
lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Câu
văn giúp ta thấy được lối hành văn uyển chuyển với ngôn từ đa dạng và hình ảnh phong phú. Từng từ
từng chữ đều mang đậm hơi thở tài hoa của người nghệ sĩ. Tính từ “dịu dàng” gợi ta vẻ đẹp hiền dịu, nữ

tính, thùy mị. Hai chữ “say đắm” lại gợi ta dòng chảy yêu thương, êm đềm, nhẹ nhàng, mê hoặc, quyến
luyến. Hai bên bờ sông, hoa đỗ quyên rừng nở ra màu đỏ “chói lọi” soi bóng xuống dịng sơng Hương
làm cho con sơng ấy thêm phần ấm áp, quyến rũ gợi bao nhớ thương. Đó là tính cách hiền hòa, trong
sáng, mà cũng kiêu sa lộng lẫy của dịng sơng khi chảy giữa bao la rừng già.
Luận điểm 3. Sơng Hương ở thượng nguồn cịn mang vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ. Vẻ đẹp ấy được người
mẹ Trường Sơn trao ban và vun đắp, hun đúc, là phần thưởng xứng đáng cho cuộc hành trình gian
lao.
Tiếp tục nhân cách hóa, sử dụng bút pháp miêu tả và kết hợp liên tưởng thú vị, Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã mang đến một cách nhìn mới mẻ: “Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm


hồn tự do và trong sáng”. Người mẹ đại ngàn đã “hun đúc”, vun vén, trao ban, dành hết yêu thương cho
người con gái. Rừng già không chỉ tạo nên vóc dáng mà cịn tạo nên cho đứa con gái chiều sâu tâm hồn.
Sông Hương trưởng thành, từ cô gái Di gan thích hát ca, nhảy múa đến sự bản lĩnh, vững vàng, gan dạ;
tâm hồn tự do và trong sáng. Cụm từ “tâm hồn tự do và trong sáng” mang đến cảm nhận đẹp về một
đời sống tinh thần phong phú, đó là tâm hồn mang vẻ đẹp trong trẻo, hồn nhiên. Nhà văn cũng nhận ra
sức mạnh của rừng già đã chế ngự bản năng của người con gái, người mẹ đại ngàn đã trau chuốt, tỉa tót
cho đứa con yêu thương của mình, giữ lại hết những gai góc, những cá tính mạnh mẽ, nổi loạn, để khi
ra khỏi rừng già Trường Sơn, sơng Hương nhanh chóng mang một: “sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở
thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Nhiều tính từ mĩ miều đã xuất hiện để tôn vinh vẻ
đẹp trời phú của Hương giang: nếu như nét ngoại hình gợi ra vẻ đẹp “dịu dàng”, thì phần sâu thẳm bên
trong tâm hồn ấy là vẻ đẹp “trí tuệ”. Có thể hình dung, người con gái ấy sau bao ghềnh thác dữ dội đã
tìm được cho mình nét “dịu dàng”, sau những trải nghiệm gian truân đã làm cho tâm hồn mình giàu “trí
tuệ”. Người mẹ đại ngàn bao la đã bồi đắp cho đứa con gái mình yêu tất cả những nét đẹp bản năng lẫn
tinh thần cao đẹp để từ đây, sơng Hương đã hóa thân mình thành “người mẹ phù sa của một vùng văn
hóa xứ sở” mà hiến tặng cho Huế, mà bồi đắp cho mảnh đất này thành “phù sa văn hóa”. Với biện pháp
nhân hóa này, sơng Hương như một đấng sáng tạo góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của
một vùng thiên nhiên, xứ sở. Sơng Hương giờ đây như một người mẹ phù sa của một vùng văn hóa,
dịng sơng trầm mặc, lặng lẽ, ấm áp và bao dung. Dịng sơng ấy qua thời gian, càng trưởng thành, càng
trở nên xinh đẹp và dịu dàng,khi là “người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”;

khi chảy qua lăng tẩm đền đài, nàng mang nét đẹp “trầm mặc như triết lý, như cổ thi”; khi về Huế nàng
hóa thân thành “tiếng vâng khơng nói ra của tình u”; thành “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” để
sản sinh ra nền âm nhạc cổ điển Huế; là “nàng Kiều trong đêm chí tình trở lại tìm Kim Trọng”. Sơng
Hương đã ban tặng cho Huế dịng dơng thơ, dịng dơng của chứng nhân lịch sử và dịng dơng như cơ
gái đẹp hiến dâng cho Huế thành miền đất mộng mơ.
Luận điểm 4. Đoạn trích khép lại bằng lời nhận xét: “nếu chỉ mải mê ngắm nhìn khn mặt kinh thành,
tơi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đẩy đủ bản chất của sơng Hương với cuộc hành trình gian
trn mà nó đã vượt qua…”.
Lời trữ tình ấy như thể là một lời nhắn nhủ, một lời giãi bày. Đến Huế, nếu các bạn chỉ ngắm nhìn
sơng Hương đoạn chảy qua thành phố với vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình, thì chúng ta sẽ không hiểu hết
được “bản chất của sông Hương”, khơng hiểu được hành trình gian khổ mà dịng sông đã vượt qua để


Đoạn trích: Sơng Hương vùng
ngoại vi thành phố
“Phải nhiều thế kỉ qua đi,
người tình mong đợi mới đến đánh
thức người con gái đẹp nằm ngủ
mơ màng giữa cánh đồng Châu
Hóa đầy cỏ dại. Nhưng ngay từ đầu
vừa ra khỏi vùng núi, sơng Hương
đã chuyển dịng một cách liên tục,
vịng giữa khúc quanh đột ngột,
uốn mình theo những đường cong
thật mềm, như một cuộc tìm kiếm
có ý thức để đi tới nơi gặp thành
phố tương lai của nó. Từ ngã ba
Tuần, sơng Hương theo hướng Nam
Bắc qua điện Hịn Chén; vấp Ngọc
Trản, nó chuyển hướng sang tây


đến Huế điểm tơ cho khn mặt kinh thành.
Sơng Hương cũng là hình ảnh dịng sơng giàu cá tính: Khi ra khỏi Trường Sơn, dịng sơng đã
“đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”. Động từ
“đóng kín”, “ném chìa khóa” thể hiện sự dứt khoát. Nàng đã giấu đi quá khứ oanh liệt của mình, đã vĩnh
viễn ở lại cánh rừng đại ngàn kia. Đó là vẻ đẹp kín đáo, thâm trầm mà sâu sắc, là chiều sâu vẻ đẹp tâm
hồn sông Hương. Cách suy tưởng đậm chất triết học này cũng khiến ta liên tưởng tới những lời thơ của
Nguyễn Trọng Tạo:
“Con sông đám cưới Huyền Trân.
Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn.
Hèn chi thơm thảo nỗi buồn.
Niềm riêng nhuộm tím hồng hơn đến giờ.
Con sơng nửa thực nửa mơ.
Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên.”
Luận điểm 1. Mở đầu đoạn trích là hình ảnh sơng Hương chảy #Dàn bài các luận điểm chính:
qua cánh đồng Châu Hóa, dưới góc nhìn nhân cách hóa, tác giả ví Luận điểm 1. Vẻ đẹp chủ động của
von sông Hương như một “người gái đẹp”:
sơng Hương khi nó tự đánh thức
Câu văn như thảm lụa ngơn từ dệt nên một huyền thoại đẹp: chính mình để làm một cuộc hành
“phải nhiều thế kỷ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức trình.
người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa +Chủ động: tự đánh thức tâm hồn
dại”. Hình ảnh được nhân cách hóa, liên tưởng thú vị tới truyện cổ của mình (dịng chảy tự đánh thức
tích “Nàng công chúa ngủ trong rừng”. Hai chữ “mơ màng” gợi tả chính nó và làm sống dậy khúc
hình ảnh một giấc ngủ đẹp và đầy quyến rũ của dịng sơng, dịng sơng ngoại vi được ví như người
sơng như tỉnh như mơ, như thực như mộng. Hình ảnh cánh đồng gái đẹp nằm ngủ giữa cánh rừng
hoa dại gợi tả một không gian trong trẻo, thơ mộng nhuốm màu Châu Hóa
cổ tích. Chỉ một câu văn ngắn Hồng Phủ Ngọc Tường đã làm toát + Liên hệ:
lên vẻ đẹp trong sáng, hồn nhiên của dịng sơng, để từ đó, ngịi
++Nếu khúc thượng nguồn là
bút của nhà văn cuốn hút người đọc vào thuỷ trình đầy mê hoặc dịng chảy của sự phóng khống,

của Hương giang.
man dại,…
Luận điểm 2. Dưới góc nhìn địa lý, hội họa, sơng Hương hiện lên
++ Truyện cổ tích “Cơng chúa
với dịng chảy quanh co; dưới góc nhìn nhân cách hóa, sơng ngủ trong rừng” của Andecxen:


bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt
Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ
một hình cung thật trịn về hướng
đơng bắc, ôm lấy chân đồi Thiên
Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về
đây, sông Hương vẫn đi trong dư
vang của Trường Sơn, vượt qua
một lòng vực sâu dưới chân núi
Ngọc Trản để sắc nước trở nên
xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa
hai dãy đồi sừng sững như thành
quách, với những điểm cao đột
ngột như Vọng Cánh, Tam Thai,
Lựu Bảo mà từ đó, người ta ln
ln nhìn thấy dịng sơng mềm
như tấm lụa, với những chiếc
thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng
con thoi. Những ngọn đồi này tạo
nên những mảng phản quang
nhiều màu sắc trên nền trời tây
nam của thành phố, “sớm xanh,
trưa vàng, chiều tím” như người
Huế thường miêu tả. Giữa đám

quần sơn lơ xơ ấy, là giấc ngủ
nghìn năm của những vua chúa
được phong kín trong lịng những
rừng thông u tịch, và niềm kiêu
hãnh âm u của những lăng tẩm đồ
sộ tỏa lan khắp cả một vùng

Hương giống “như một cuộc tìm kiếm có ý thức”.
Giấu khn mặt mình vào chân núi Kim Phụng, “sơng Hương
đã chuyển dịng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột
ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc
tìm kiếm có ý thức”. Câu văn mềm mại, uyển chuyển biết bao.
Sông Hương sau vài thế kỷ ngủ quên giữa cánh đồng Châu Hóa đã
được người tình mong đợi đến đánh thức, nhưng đánh thức rồi
người tình khơng biết đã đi đâu, nên nàng ngơ ngác đi tìm, vơ tình
cuộc tìm kiếm ấy đã làm cho dịng sơng càng trở nên đẹp đẽ.
Những từ ngữ như “khúc quanh đột ngột”, “uốn mình”, “đường
cong thật mềm” cùng với phép so sánh “như một cuộc tìm kiếm
có ý thức” đã gợi ra hình ảnh dịng sơng mềm mại, nữ tính, gợi
cảm, quyến rũ. Nét đẹp ấy cũng khiến ta liên tưởng đến nét
“ngoằn ngo”, hay “áng tóc trữ tình” tn dài, tn dài của sơng
Đà dưới ngịi bút tài hoa của Nguyễn Tuân. Càng cho ta thêm một
nét cảm nhận về vẻ đẹp thiên nhiên bao la của đất nước mà thêm
trân q những vẻ đẹp của non sơng đất nước mình.
Khơng chỉ dừng lại ở đó, men theo thủy trình của dịng sơng,
men theo đường cong mềm mại, thướt tha ấy của cơ gái Hương
giang nhà văn cịn phát hiện ra: “Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo
hướng nam bắc qua điện Hịn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển
hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương
Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật trịn về phía đông bắc, ôm

lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Câu văn sử dụng phép
liệt kê: điện Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán,
Thiên Mụ… mang đến cho người đọc những danh lam thắng cảnh
nổi tiếng của xứ Huế cũng như vốn hiểu biết sâu rộng, kiến thức
địa lý phong phú của nhà văn. Tác giả sử dụng nhiều động từ chỉ
đường nét khiến ta hình dung về dịng chảy trữ tình của con sơng
thật sống động: “vấp – chuyển hướng – vịng qua – vẽ một hình

cơng chúa trong truyện ấy, phải
ngủ đợi chờ chàng hoàng tử đến
trao nụ hơn mới đánh thức dậy thì
sơng Hương ở vùng ngoại vi lại
mang vẻ đẹp của sự chủ động,
không đợi chờ người tình hay ai
khác đến đánh thức cả.
Luận điểm 2. Dòng chảy tự nhiênVẻ đẹp trời phú
Luận điểm 3. Dòng chảy tự nhiên
liên tưởng dòng chảy của tầm hồn
tìm về với Huế
Luận điểm 4. Màu nước đa sắc của
sông Hương.
+ màu xanh thẳm: 2 dãy đồi sừng
sững in bóng xuống mặt nước của
sơng Hương.
+ “Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”
+ Màu của phong vị cổ thi: trầm
mặc, triết lý, cổ thi
Luận điểm 5. Vẻ đẹp in bóng của
dịng chảy lịch sử



thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây
phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng
tùng Vạn Niên”. Đó là vẻ đẹp trầm
mặc nhất chả sơng Hương, như
triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến
lúc mặt nước phẳng lặng của nó
gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ
ngân nga tận bờ bên kia, giữa
những xóm làng trung du bát ngát
tiếng gà…”

cung – ơm lấy – xi dần…”. Hệ thống động từ đặc tả dịng chảy
ấy làm sông Hương hiện lên chân thực, sắc nét, có hồn như một
sinh thể sống động và giàu sức sống.
Quan sát ở điểm nhìn gần hơn: “từ Tuần về đây, sông Hương
vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu
dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm”. Đi trong
“dư vang” là đi trong âm vang, trong sự vang vọng của đại ngàn
Trường Sơn. Dòng chảy ấy dù uốn quanh, lượn vòng nhưng lưu tốc
vẫn còn mạnh mẽ. Hai chữ “vượt qua” gợi hành trình nhọc nhằn,
gian truân; và sắc nước “xanh thẳm” là phần thưởng xứng đáng có
được sau hành trình nhọc nhằn ấy. Để khi về đến những Vọng
Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo, dịng sơng đã phần nào được kiềm chế
sức mạnh. Từ đây chỉ còn sắc nước xanh thẳm, hiền hồ. Sắc xanh
thẳm của nước hồ vào bóng dáng hùng vĩ của “hai dãy đồi sừng
sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng
Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo” tạo nên bức hoạ đồ mà ca dao người
Huế từng ngợi ca: “Đường vô xứ Huế loanh quanh – Non xanh
nước biếc như tranh hoạ đồ”. Sắc nước hòa vào sắc núi, sắc đồi và

ánh chiếu lên bầu trời Tây Nam thành phố sắc màu lộng lẫy như
đóa hoa phù dung mà chỉ riêng Huế mới có: “sớm xanh, trưa vàng,
chiều tím”. Cái sắc màu khơng trộn lẫn ấy có lần cũng đã thổn
thức trong thơ của Đoàn Thạch Biền:
Đã bốn lần đến Huế
Vẫn lạ như lần đầu
Sơng Hương lơ đãng chảy
Nắng tím vướng chân cầu
Đoạn tả sơng Hương thay đổi dịng chảy chỉ có bốn câu văn,
bốn câu dài miên man với những từ ngữ đẹp đã tạo ra một bức
họa sơn thủy tuyệt đẹp. Người đọc không khỏi tấm tắc ngợi ca cái
tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, bởi chỉ một cái vẩy bút mà


ông đã tạo nên cái chất “thi trung hữu họa” hiếm thấy với bất cứ
tác giả nào viết về sông Hương. Chợt nhớ tới nhà phê bình văn
học Lê -ơ- nít Lê- ơ- nốp của nước Nga hùng vĩ với câu nhận
định: “Có hai kiểu nhà văn thường gặp, kiểu nhà văn phóng bút
tạo nên những hình tượng góc cạnh, thơ mộc; có kiểu nhà văn chỉ
vẩy nhẹ ngịi bút mà hình tượng nghệ thuật đã sống động, đẹp đẽ
hơn cả cảnh thần tiên”. Vậy chắc ở đây Hoàng Phủ Ngọc Tường là
kiểu nhà văn thứ hai – một kiểu nhà văn chỉ cần vẩy bút là đã dệt
nên thảm lụa ngơn từ mà điểm tơ cho hình tượng nghệ thuật.
Luận điểm 3. Đoạn trích khép lại bằng hai câu văn miêu tả sông
Hương mang vẻ đẹp “trầm mặc như triết lý, như cổ thi”.
Khi chảy qua miền lăng tẩm đền đài – nơi yên nghỉ của các
triều vua, sông Hương như trầm mặc hẳn đi, bởi nàng đang đi qua
một “giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín
trong lịng những rừng thơng u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của
những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng thượng lưu: “Bốn

bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn
Niên”. Các từ ngữ như “u tịch”, “âm u”, “thiên cổ”, “vạn niên” gợi
khơng khí cổ kính và cũng như phần nào giải thích cho vẻ đẹp
trầm mặc của sơng Hương.
Nhà văn khẳng định: “Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông
Hương, như triết lý, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước
phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận
bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…”.
“Trầm mặc” là vẻ đẹp trầm tư, gợi ra cảm giác im lìm, dáng đứng
thâm nghiêm sâu lắng, mang nặng nỗi niềm tâm sự, hoài niệm quá
khứ. Nét đẹp ấy làm cho đất trời, con người cũng thấy nặng lòng.
So sánh với “triết lý”, triết lý là sự trải nghiệm, là chân lý; “Cổ thi”
là vẻ đẹp cổ kính, giàu chất thơ, chất họa. Dịng sơng như hội tụ
đầy đủ dấu ấn của triết học, thi ca, nhạc họa. Đây cũng chính là


Đoạn trích: Sơng Hương trong lịng
thành phố.
“Từ đây, như đã tìm đúng
đường vè, sơng Hương vui tươi hẳn
lên giữa những biễn bãi xanh biếc
của những vùng ngoại ô Kim Long,
kéo một nét thẳng thực yên tâm
theo hướng tân nam – đơng bắc,
phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn
thấy chiếc cầu trắng của thành phố
in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn
như những vành trăng non. Giáp
mặt thành phố ở Cồn Gĩa Viên,
sông Hương uốn một cánh cung rất

nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong
ấy làm cho dịng sơng mềm hẳn đi,

cái tơi tài hoa của Hồng Phủ Ngọc Tường.
Hai chữ “phẳng lặng” gợi hình ảnh mặt nước trong trẻo, yên
bình, khơng gợn sóng. Hai chữ “ngân nga” gợi âm thanh ngân
vang, luyến láy, như kéo dài ra mênh mang trong cõi vơ thường.
Từ láy “bát ngát” đặt giữa “những xóm làng trung du bát ngát
tiếng gà” gợi ra không gian bao la mang vẻ đẹp bình dị, hiền hịa,
lắng đọng như đưa người đọc trôi mênh mang vào một cõi ảo
huyền đến nỗi thèm một cái giật mình để dứt ra khỏi cảm giác ấy
mà không được, cho đến khi bừng tỉnh bởi tiếng chuông chùa
Thiên Mụ. Trong cảm nhận của TS. Trịnh Thu Tuyết thì: “Cái hư
vơ tịch mịch của tiếng chng chùa hịa quyện với chất thơ ấm áp
của tiếng gà nơi thơn dã đã đưa dịng sơng trôi đi giữa mộng và
thực, giữa đạo và đời, như thực, như mơ”.
Đoạn trích dẫn trên đây là phần giữa đoạn trích sách giáo khoa: vẻ đẹp sơng Hương gắn bó với kinh
thành Huế.
Đoạn dẫn: Dưới ngịi bút của Hồng Phủ Ngọc Tường, một dịng chảy vơ tri, vơ giác đã biến thành tâm
hồn con người, ở đó mỗi bước đi là một bước suy tư, trăn trở, một nỗi niềm vương vấn gửi đến thành
phố thân yêu. Theo bước chân của dịng sơng Hương, vẻ đẹp của thành phố Huế hiện lên ngày càng
đầy đủ, vẹn toàn hơn. Đi đến đâu, dịng sơng đều mang tâm trạng của “một người tình mong đợi” đến
đó. Rời xa tiếng chng chùa Thiên Mụ là chạm đến sự đông đúc của thành phố, sơng Hương như đã
tìm đúng đường về, nó vui tươi hẳn lên.
Luận điểm 1. Mở đầu đoạn văn, dưới cái nhìn nhân cách hóa, sơng Hương hiện lên với tâm trạng vui
tươi, phấn khởi, hân hoan, hạnh phúc bởi nàng đã nhìn thấy tín hiệu của người u.
Tiếng chng chùa Thiên Mụ đã đánh thức dịng chảy cua sơng Hương làm nàng như bừng tỉnh và
đột khởi thành niềm vui. Phép nhân hóa kết hợp với miêu tả trong những câu văn của Hồng Phủ Ngọc
Tường làm dịng sơng hiện lên thật sống động và gợi cảm: “Từ đây như tìm đúng đường về, sơng Hương
vui tui hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên

tâm theo hướng tây nam-đơng bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã thấy chiếc cầu trắng của thành phố
im ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non.”
Mấy chữ “từ đây như tìm đúng đường về” như một tiếng reo vui của cơ gái đã tìm thấy người u


như một tiếng “vâng” khơng nói ra
của tình u. Và như vậy, giống
như sông Xen của Pa-ri, sông Đanuýp của Bu-đa-pét; sơng Hương
nằm ngay giữa lịng thành phố u
q của mình; Huế trong tổng thể
vẫn giữ ngun dạng một đơ thị cổ,
trải dọc hai bờ sông. Đầu và cuối
ngõ thành phố, những nhánh sông
đào mang nước sông Hương tỏa đi
khắp phố thi, với những cây đa, cây
cừa cổ thị tỏa vầng lá u sầm xuống
những xóm thuyền xúm xít ; từ
những nơi ấy, vẫn lập lòe trong
đêm sương những ánh lửa thuyền
chài của một linh hồn mô tê xưa cũ
mà khơng một thành phố hiện đại
nào cịn nhìn thấy được. Những chi
lưu ấy, cùng với hai hịn đảo nhỏ
trên sơng đã làm giảm hẳn lưu tốc
của dòng nước, khiến cho sông
Hương khi qua thành phố đã trôi đi
chậm, thực chậm, cơ hồ chỉ cịn là
một mặt hồ n tĩnh. Tơi đã đến
Lê-nin-grát, có lúc đứng co lên
một chân, thích thú với chiếc

thuyền xinh đẹp của chúng ; và
đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy với
những hành khách tí hon của nó

sau vài thế kỉ chờ đợi. Bỏ tâm trạng “trầm mặc”, u buồn, sơng Hương khốc lên mình tâm trạng “vui tươi
hẳn lên”. Bốn chữ “vui tươi hẳn lên” gợi ra cảm giác hạnh phúc, mừng rỡ, hân hoan, vui sướng, tất cả
như đang lâng lâng sảng khối, nơn nao, khao khát. Miêu tả “biền bãi xanh biếc” gợi ra sức sống thiên
nhiên tươi xanh, mỡ màng, dạt dào sức sống. Thiên nhiên ấy dường như đang phụ họa vào niềm vui của
con sơng, làm cho dịng sơng vốn lấp lánh niềm vui, càng trở nên rạng rỡ. Niềm vui có được là do sơng
Hương đã nhận ra tín hiệu của người tình mong đợi. Đó là thành phố Huế nơi có chiếc cầu Tràng Tiền:
“chiếc cầu trắng in ngần lên nền trời nhỏ nhắn như những vầng trăng non”. Các từ ngữ “in ngần”, “nhỏ
nhắn”, so sánh “như những vành trăng non” gơi ra vẻ dễ thương, trong sáng, trong trẻo, nên thơ. Câu
văn với sắc màu tươi tắn, liên tưởng so sánh thú vị, gợi tả vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của xứ Huế mộng
mơ. Cảnh sắc trữ tình ấy quả thật là một điểm hẹn lý tưởng của tình u. Phải chăng chính cuộc tình
đẹp đã làm cho khung cảnh gặp gỡ của lứa đôi cũng thật nên thơ. Thấy người tình rồi, nàng “kéo một
nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam-đông bắc”. Hai từ “yên tâm” gợi ra tâm trạng cảm xúc bình
yên, lắng động, thư thái, thân thuộc (phải chăng là đã tìm thấy tình nhân nên nàng đã “yên tâm” mà đến
đích). Con sơng vì thế mà như bỗng có hồn, có tâm trậng, con sơng mang cái náo nức, rạo rực, nôn nao,
khao khát của mọt cô gái chuẩn bị gặp người mình u.
Luận điểm 2. Khi sơng Hương chảy vào thành phố Huế, nàng như cô gái Huế dịu dàng, tình tứ, lãng
mạn biết bao.
Ở góc nhìn địa lý, hội họa, dịng sơng trở nên mềm mại, dun dáng, thướt tha: “Giáp mặt thành
phố ở cồn Gĩa Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến; đường cong ấy làm
dịng sơng mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” khơng nói ra của tình u”. Hai chữ “đường cong” kết hợp
với tính từ “mềm” gợi ra một dáng hình đẹp, nét cong quyến rũ, gợi cảm khiến dịng sơng trở nên trữ
tình.
Ở góc nhìn tình u, nhà văn đã nhân cách hóa đó là “tiếng “vâng” khơng nói ra tình u”. Nếu như
trước đó, dịng sơng mang nỗi niềm háo hức được gặp người mình yêu sau hàng thế kỷ đợi chờ; thì ở
đoạn này sơng Hương lại mang một tâm trạng khác, một nét tâm lý khác. Nàng không vồ vập , không
vồn vã mà kìm nén cảm xúc, giấu tất cả những khao khát mong đợi vào trong và trở nên nữ tính, e lệ.

Nàng “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến” tạo nên một đường cong mĩ miều, mềm mại, đó
cũng là tiếng “vâng”, tiếng dạ tiếng thưa nhưng “khơng nói ra”. Con gái là thế, tình u là chiều sâu thẳm
bên trong cần phải thấu hiểu, phải cảm nhận chứ không cần phải một câu trả lời. Phép so sánh mới lạ,
độc đáo; cái hữu tình của cảnh vật so sánh với cái vơ hình của tâm trạng được cái e thẹn, ngượng


băng băng lướt qua trước cung điện
Pê-téc-bua cũ để Ban-tích. Tơi vừa
từ trong khói lửa miền Nam đến
đây, lâu năm xa Huế, và chính Lênin-grát đã đánh thức trong tơi
giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại; ơi,
tơi muốn hóa làm một con chim
nhỏ đứng co một chân trên con tàu
thủy tinh để đi ra biển. Tôi cuống
quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-va đã
chảy nhanh quá, không kịp cho lũ
hải âu nói một điều gì với người
bạn của chúng đang ngẩn ngơ
trơng theo. Hai nghìn năm trước,
có một người Hi Lạp tên là Hê-raclít, đã khóc suốt đời vì những
dịng sơng trôi đi quá nhanh, thế
vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông
Hương của tôi, chợt thấy quý diệu
chảy lặng lờ của nó khi ngang qua
thành phố… Đấy là điệu slow tình
cảm dành riêng cho Huế, có thể
cảm nhận được bằng thị giác qua
trăm nghìn ánh hoa đăng bồng
bềnh vào những đêm hội rằm
tháng Bảy từ điện Hịn Chén trơi

về, qua Huế bỗng ngập ngừng như
muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên
mặt nước như những vấn vương

ngùng, xấu hổ của người con gái Hương giang. Ngịi bút của Hồng Phủ Ngọc Tường thật lãng mạn, tài
hoa biết bao trong câu văn đậm chất hội họa và am hiểu tâm lý như thế. Qua ngòi bút tài hoa, tinh tế ấy
của nhà văn, sông Hương hiện lên như một thiếu nữ Huế. Trong niềm vui hân hoan hội ngộ mà phải
đến “hàng thế kỉ qua đi” nàng mới gặp người mình yêu, nhưng nàng vẫn không đánh mất vẻ đẹp dịu
dàng, e lệ, tình tứ, kín đáo vốn có của mình.
Phân tích vẻ đẹp tình tứ của sơng Hương trong đoạn trích “…giống như sông Xen của Pa-ri…những
vấn vương của một nỗi lịng. Từ đó, liên hệ hình ảnh: “Sơng Hương là vậy, là dịng sơng của thời gian
ngân vang, của sự thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi lời gọi, nó biết cách tự biến đời mình làm
một chiến cơng, để rồi trở về cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước”,
để làm rõ sự gắn bó của dịng sơng này với xứ Huế thân u.
(Luận điểm 3. Sự gắn bó của sơng Hương với Huế “nằm trọn trong lòng Huế”
Một trong những yếu tố rất riêng, rất Huế trong cách tả của Hồng Phủ Ngọc Tường, có lẽ chính
là đoạn tả những khúc uốn lượn của dịng sơng với một hệ thống các hình ảnh so sánh rất mềm, rất
dun. Để có giây phút gặp gỡ Huế, sông Hương phải trải qua một hành trình rất dài, vất vả và gian
nan. Tuy thế, nhưng sơng Hương cũng khơng ngại làm mới mình, sơng Hương khơng ngại thay đổi
mình. Nó từ chuyển dịng đến chuyển sắc, nó chuyển từ bề ngồi cho đến những “rạng rỡ” bộc lộ ra
ngoài cái phần tâm hồn sâu thẳm của mình. Cuối cùng sơng Hương cũng gặp được cái đích của cuộc
đời mình, đó là lúc sơng Hương gặp Huế. Trải qua bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu là nhọc nhằn thì cái
giây phút mình hịa vào lòng Huế đã đến.)
Luận điểm 4. Sự hòa quyện, đắm mình của sơng Hương giữa lịng xứ Huế
Pautopxki từng nói: “Người nghệ sĩ chân chính là người dẫn đường cho bạn đọc đến với xứ sở của
cái đẹp”. Và để khai thác vẻ đẹp của dịng sơng Hương trong lịng thành phố Huế, Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã so sánh “nàng” với dịng “sơng Xen của Pari, sơng Đa-np của Bu-đa-pét”. Tất cả đều nằm
trong lòng thành phố thân yêu. Thế nhưng “Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đơ thị cổ”, vì
thế mà sơng Hương mang một vẻ đẹp rất ư cổ kính. Tác giả đã nói về thành Lê-nin-grat và sông Nê-va,
và tác giả đã không thú nhận cái sự xúc động của mình, niềm thích thú của mình trước vẻ đẹp của sơng

Nê-va. Và cái dịng sông ấy thực sự tạo nên một sự sửng sốt trong tâm hồn của một con người đã bao
nhiêu năm chỉ trong khói lửa chiến chinh nay được chứng kiến một vẻ đẹp rực rỡ như vậy. Chúng ta sẽ
thấy, trong cảm nhận của Hồng Phủ Ngọc Tường, dịng Nê-va mang vẻ đẹp rực rỡ của “trăm màu dưới
ánh sáng của mặt trời mùa xuân”, phơi tất cả những cái vẻ đẹp hấp dẫn của nó. Và chúng ta sẽ thấy vẻ


của một nỗi lịng.

đẹp của dịng sơng Nê-va cịn kì diệu ở chỗ: “sông Nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy
trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời màu xuân; mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng
co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng; và đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy với
những hành khách tí hon của chúng băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-bua”. Thật thú vị, thật kì
diệu. Dịng sơng Nê-va trong cảm nhận của Hồng Phủ Ngọc Tường đẹp vơ cùng! Nhưng, đúng vào lúc
tác giả ngây ngất trước vẻ đẹp của dịng sơng Nê-va để được trở lại với một niềm kí ức của tuổi thơ,
đúng vào lúc vẻ đẹp của dịng sơng Nê-va hiện lên lộng lẫy nhất trước mắt của Hoàng Phủ Ngọc
Tường, thì người con của xứ Huế ấy nhớ sơng Hương của mình vơ cùng, u sơng Hương của mình vơ
cùng, tha thiết với dịng sơng Hương của mình vơ cùng. Hồng Phủ Ngọc Tường đã nhớ về một sông
Hương đẹp tựa như “một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm”. Để từ đó, ta như thêm yêu, thêm say
sưa đắm chìm vào trong vẻ đẹp của dịng sơng này.
Luận điểm 5. Tình cảm đặc biệt của sơng Hương với Huế.
Sơng Hương trong lịng thành phố Huế “như điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế” đã được nhà
văn “chạm khắc theo một cách riêng” (Sóng Hồng). Trong tiếng Anh “slow” có nghĩa là chậm và sơng
Hương như mọt giai điệu trữ tình “chậm, thực chậm” dành riêng cho xứ Huế. Có thể thấy, Hồng Phủ
Ngọc Tường đã tinh tế khi nhìn ra đặc trưng riêng của dịng Hương Giang. So với các dịng sơng khác
ở Việt Nam và thế giới, lưu tốc của dịng sơng Hương khơng nhanh. Điều này đã được nhà văn lí giải từ
đặc điểm địa lí “những chỉ lưu ấy với hai hịn đảo nhỏ trên sơng đã làm giảm hẳn lưu tốc của dịng nước
khiến cho sơng Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm cơ hồ chỉ còn là mặt hồ yên
tĩnh”. Để làm nổi bật hơn cái đặc trưng này, nhà văn đã liên tưởng so sánh với con sông Nê-va băng
băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-bua cũ để ra bể Ban-tích. Lưu tốc của con sông này nhanh đến
mức không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo.

Tuy nhiên, tất cả sự lí giải và so sánh nêu trên chưa lột tả được hết cái “hồn” mà Hoàng Phủ Ngọc
Tường đã khái qt về sơng Hương khi nó chảy giữa lịng thành phố: “Điệu tình cảm dành riêng cho
Huế”. Mượn câu nói của nhà triết học Hy Lạp Hê-ra-clít, trong một cách nói thật hình ảnh “khóc suốt
đời vì những dịng sơng trơi đi q nhanh”, Hồng Phủ Ngọc Tường đã đem đến một giải pháp hết sức
thú vị và độc đáo về lưu tốc của dịng sơng mà ơng u q, đó là cách lí giải bằng trái tim. Sơng
Hương chảy chậm, điệu chảy lững lờ vì nó q u thành phố của mình, nó muốn được nhìn ngắm
nhiều hơn nữa thành phố thân thương trước khi phải rời xa. Đó chính là tình cảm của sơng Hương với
Huế hay chính là tình cảm của nhà văn với “sơng Hương xứ Huế mộng mơ”. Sự ngập ngừng vương vấn


ấy là vẻ đẹp của sông Hương mà Thu Bồn từng có lần cảm nhận:
“Con sơng dùng dằng con sơng khơng chảy
Sơng chảy vào lịng nên Huế rất sâu”.
Có thể nói, Hồng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả sơng Nê-va thật rực rỡ, miêu tả vẻ đẹp của sông
Nê-va thật ấn tượng, miêu tả vẻ đẹp của sông Nê-va để tất cả chúng ta đều ngất ngây nhưng không
phải là để tôn vinh vẻ đẹp của Nê-va mà để ta cuống quýt theo Hoàng Phủ Ngọc Tường về vẻ đẹp của
sơng Hương đó thơi! Một điệu slow dành riêng cho Huế, một đêm hội nhập tràn ánh đèn hoa đăng
vào đêm rằm tháng Bảy, một vẻ đẹp trìu mến nhớ thương như nửa muốn trao đi, nửa muốn ở lại,
vương vấn, vấn vương khơng muốn rời!
Hồng Phủ Ngọc Tường đã cho ta hiểu vì lý do gì mà sơng Hương thuộc về Huế, chứa đựng một
linh hồn “mô tê xưa cũ”. Vì lý do gì mà nói đến sơng Hương là phải nói về Huế, mà nói đến Huế là phải
nói đến sơng Hương? Và cái chất thật là dịu nhẹ, thật là sâu lắng, thật là thiết tha, thật là nồng nàn của
Huế đã được sông Hương thể hiện một cách thật tinh tế và nếu như khơng có một nhà văn đã dâng
trọn hồn mình để thuộc Huế thì liệu rằng ta có thể có những áng văn nức lịng về Huế thế hay khơng?
u cầu phụ: Liên hệ hình ảnh: “Sơng Hương là vậy, là dịng sơng của thời gian ngân vang, của sử thi
viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi lời gọi, nó biết cách tự biến đời mình là một chiến cơng, để rồi trở về
cuộc sống bình thường, là một người con gái dịu dàng của đất nước”, để làm rõ sự gắn bó của dịng sơng
này với xứ Huế thân u.
Được ví như “người tình mong đợi” nhiều thế kỉ trơi qua mới đến đánh thức người con gái đẹp nằm
ngủ mơ màng giữa đồng Châu Hóa đầy hoang dại, thành phố Huế đối với sơng Hương có một vị trí vơ

cùng đặc biệt, là nơi mà dịng sơng đã dành nhiều tình cảm ưu ái nhất trong suốt hành trình phiêu lưu
của mình. Sơng Hương nằm ngay giữa lịng thành phố, ấp ơm cả nền văn hóa, lối sống và tình yêu của
con người Huế. Mỗi lần ngoặt dòng chảy qua, sông Hương đều lưỡng lự không muốn rời đi bởi sự gắn
bó khăng khít q, bền chặt q đã giăng phủ kín lối trái tim. “Sơng Hương là vậy, là dịng sơng của thời
gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi lời gợi, nó biết cách tự biến đời mình làm
một chiến cơng, để rồi trở về cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước”, sự
gắn bó của dịng chảy sơng Hương với xứ Huế khơng phải chỉ là mối quan hệ chớp nhống, mỏng manh
mà nó được hình thành dài lâu từ trong lịch sử. Bước ra từ bao nhiêu chiến cơng hiển hách, sơng
Hương chính là nhân chứng xuất sắc cho tội ác của kẻ thù, cho cả tinh thần đấu tranh kiên cường, bất
khuất của nhân dân ta. Không chỉ đại diện cho màu xanh cỏ biếc, sơng Hương cịn đo lường được cả


Sông Hương gắn liền với âm nhạc
cổ điển Huế và tâm trạng lưu
luyến khi chia tay kinh thành
Huế
“Hình như trong khoảnh khắc
chùng lại của sông nước ấy, sông
Hương đã trở thành một người tài
nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Đã
nhiều lần tôi thất vọng khi nghe
nhạc Huế giữa ban ngày, hoặc trên
sân khấu nhà hát. Qủa đúng như

chiều dài vô tận của thời gian bởi nó tồn tại đủ lâu, đủ nhiều để có thể thấu tường hết tất thảy mọi biến
chuyển trong cuộc sống con người xứ Huế. Thời chiến, dòng Hương Giang oanh liệt trong tượng đài
bất diệt của người lính, gắn với vơ vàn chiến cơng, cột mốc lịch sử quan trọng, và đến thời bình thì nó
lại là người bạn, người tri kỉ và người con gái dịu dàng của đất nước. Như một phần không thể thiếu của
cuộc sống Huế, của tâm hồn Huế, sông Hương được ví là “kẻ say tình” ngày đêm ơm giấc mộng trùng
phùng với thành phố thân yêu, là cái nôi của văn minh âm nhạc, thi ca và thần thoại bao đời. Có thể nói,

viết về sự gắn bó và tình cảm sâu nặng mà sơng Hương dành cho xứ Huế chính là để nhà văn bộc lộ
được thứ tình cảm kín đáo, âm thầm khơng thể diễn tả trực tiếp thành lời.
Tiểu kết: Tình yêu xứ Huế của Hoàng Phủ Ngọc Tường được chưng cất lên từ quá trình gắn bó và trải
nghiệm của ơng ở mảnh đất này. Đó là một tình u trọn vẹn và tha thiết, yêu từ thiên nhiên đến con
người Huế, bởi vậy mà tất cả những gì thuộc về Huế đều mang đến cho ông một cảm xúc vô cùng đặc
biệt, nhất là khi khám phá sự độc đáo của con sông gắn với quá trình hình thành và phát triển của
thành phố Huế mộng mơ. Tình u mà nhà văn Hồng Phủ Ngọc Tường đã đặc biệt dành cho xứ Huế là
tình u được kết tinh từ chất trí tuệ, trữ tình, từ cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng, tình cảm tha
thiết xuất phát từ trái tim người nghệ sĩ. Xuyên suốt cả tác phẩm, nhà văn không hề bộc lộ trực tiếp sự
nhớ thương, trân quý đối với con sông quê hương, với thiên nhiên và con người Huế, không dùng đến
bất cứ một từ ngữ hay hình ảnh biểu đạt nào nhưng vẫn thể hiện được sâu sắc tình cảm của mình trong
cảm nhận của bạn đọc. Đó là sự tài tình, un bác mà khơng phải nhà văn nào cũng có thể làm được,
khơng phải nhà văn nào cũng có thể khiến cho độc giả phải hết lòng thán phục, hết lòng ngợi ca.
Luận điểm 1. Sơng Hương trong vẻ đẹp của âm nhạc Huế:
“Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ
đánh đàn lúc đêm khuya. Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày, hoặc trên sân
khấu nhà hát”, đến đây, với cái nhìn đầy mê đắm của một người nghệ sĩ, sơng Hương khơng cịn được ví
như người thiếu nữ với khát khao được gặp gỡ, tương phùng với người tình mong đợi mà trong khung
cảnh bốn bể sơng nước trữ tình, sơng Hương hiện lên như người “tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”,
khuấy động cả những tiềm thức lặng thinh nhất, ảm đạm nhất. Đó là một hình ảnh rất đỗi thân thuộc
khi đặt chân đến xứ Huế, và có lẽ thứ âm thanh ấy chỉ có thể ngân vang lắng đọng trong tâm khảm con
người khi được hịa quyện với mênh mang sơng nước của đêm khuya, với ánh trăng tắm trên những con
thuyền, đẫm vào mắt, vào môi và chan cả vào hơi thở. Chính vì vậy mà nhà văn đã có phần thất vọng
khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày hoặc trên sân khấu nhà hát, thực không đúng với cái ý mà người


vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển
Huế đã được sinh thành trên mặt
nước của dịng sơng này, trong một
khoang thuyền nào đó, giữa tiếng

nước rơi bán âm của những mái
chèo khuya. Nguyễn Du đã bao
năm lênh đênh trên quãng sơng
này, với một phiến trăng sầu. Và từ
đó, những bản đàn đã đi suốt đời
Kiều. Tôi đã chứng kiến một người
nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa
thế kỉ, một buổi tối ngồi nghe con
gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc
bay qua – Đục như tiếng suối mới
sa nửa vời”… Đến câu ấy, người
nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi,
chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà
thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!
[Vẻ đẹp bề sâu về Âm nhạc Huế]
Rời khỏi kinh thành, sơng
Hương chếch về hướng chính bắc,
ơm lấy đảo Cồn Hến quanh năm
mơ màng trong sương khói, đang
xa dần thành phố để lưu luyến ra
đi giữa màu xanh biếc của tre trúc
và của những vườn cau vùng ngoại
ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một
điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột
đổi dịng, rẽ ngoặt sang hướng

nghệ nhân lấy âm nhạc làm cảm hứng sáng tác đã chiêm nghiệm được. Lý giải về việc tại sao nhà văn
lại lựa chọn hình ảnh này để tái hiện vẻ đẹp của sơng Hương là bởi tồn bộ nền âm nhạc, cả dân gian
và cổ điển của xứ Huế đều được sinh thành trên sông Hương, trong những khoang thuyền, giữa tiếng
nước rơi bám âm lắng đọng của những mái chèo khuya. Đan xen vào cảm hứng âm nhạc là sự chợt

nhớ đến trang thơ của Nguyễn Du, nhớ đến những bản đàn trĩu nặng hồn người mà Kiều đã đem theo
trong suốt mười lăm năm phiêu bạt. Sở dĩ những bản đàn đi suốt đời Kiều có thể hay được đến như
thế, làm thổn thức lòng người được đến như thế là vì đại thi hào Nguyễn Du trong quãng thời gian
mười năm gió bụi đã lênh đênh một phiến trăng sầu trên quãng sông nay, đã lắng nghe, cảm nhận
đến trọn vẹn âm nhạc của xứ Huế, đã gom vào đáy mắt những gì ngọt ngào và lắng động nhất. Và để
củng cố cho ức đốn ấy, Hồng Phủ Ngọc Tường đã bồi thêm căn cứ: “Tôi đã chứng kiến một người
nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỷ, một buổi tối ngồi gnhe con gái đọc Kiều:
“Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”…
Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy, vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên:
“Đó chính là Tứ đại cảnh!”. Bỗng chốc hiện lên trong đầu những tâm hồn thưởng thức một mối liên hệ
mơ hồ, rằng phải chăng nhờ “Tứ đại cảnh” của ca Huế mà Nguyễn Du mới có thể có được những dòng
thơ tuyệt tác về tiếng đàn Kiều, hay chính nhờ những dịng thơ ấy mà nghệ nhân bao đời mới tạo tác
nên được “Tứ đại cảnh” nổi tiếng trong ca Huế?
Luận điểm 2. Ở đoạn văn tiếp theo, bằng ngịi bút nhân cách hóa, tác giả hình dung sông Hương là cô
gái lưu luyến chia tay với người tình nhân để về với biển cả.
“Rời khỏi kinh thành, sơng Hương chếch về hướng chính bắc, ơm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ
màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và
của những vườn cau vùng ngoại ô Vỹ Dạ.” Những câu văn như mang linh hồn của Huế; như diễn tả được
thần thái, bắt đúng nhịp của xứ Huế với sương khói mơ màng. Cụm từ “mơ màng trong sương khói” vẽ
nên bức tranh thơ mộng, huyền ảo, nhịp sống khoan thai, chậm rãi. Còn “màu xanh biếc của tre trúc và
của những vườn cau” lại gợi nhớ đến vẻ đẹp Vĩ Dạ thôn trong thơ Hàn Mặc Tử: “Nhìn nắng hàng cau
nắng mới lên – vường ai mướt quá xanh như ngọc”. Đó là thiên nhiên trong sáng, trong trẻo, dạt dào
sức sống. Và thiên nhiên dạt dào ấy, lắng đọng ấy càng làm cho cảm giác lưu luyến của dịng sơng càng
trở nên nặng lòng với Huế. Thiên nhiên đã truyền tâm hồn cho dịng chảy của tự nhiên khiến con sơng
cứ như một người tình của Huế vậy. Các từ ngữ “ơm lấy’”, “xa dần”, “lưu luyến” như tả được cái tình của


đơng tây để gặp lại thành phố lần
cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa

cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là
chỗ chia tay dõi xa ngồi mười
dặm trường đình. Riêng với sông
Hương, vốn đang xuôi chảy giữa
cánh đồng phù sa êm ái của nó,
khúc quanh này thực bất ngờ biết
bao. Có một cái gì rất lạ với tự
nhiên và rất giống con người ở đây;
và để nhân cách hóa nó lên, tơi gọi
đấy là nỗi vương vấn, cả một chút
lẳng lơ kín đáo của tình u. Và
giống như nàng Kiều trong đêm
tình tự, ở ngã rẽ này, sơng Hương
đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng
của nó, để nói một lời thề trước khi
về biển cả: “ Còn non, còn nước,
còn dài, còn về, còn nhớ…”. Lời thề
ấy vang vọng khắp lưu vực sơng
Hương thành giọng hị dân gian; ấy
là tấm lịng người dân nơi Châu
Hóa xưa mãi mãi chung tình với
q hương xứ sở.

dịng sơng đối với q hương xứ sở. Nếu khi chảy qua kinh thành Huế, sông Hương trôi đi thực chậm,
sông Hương tựa như “mặt hồ yên tĩnh”, có lúc “nửa như muốn đi, nửa như muốn ở”. Đó là nỗi lưu luyến
là vấn vương với người tình nhân. Thì nay khi ra đi giữa màu xanh biếc của vùng ngoại ô Vĩ Dạ, sông
Hương vẫn khơng muốn rời xa người tình: “Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột
đổi dịng, rẽ ngoatje sang hướng đơng – tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa
cổ”. Hai chữ “sực nhớ” gợi tả sự bừng tỉnh. Nàng “như sực nhớ ra điều gì” và rẽ ngoặt, quay về ơm Huế
lần cuối ở góc phố Bao Vinh xưa cổ. Tuyệt bút nhất có lẽ là đoạn này khi tác giả miêu tả chỗ đổi dịng

đột ngột của sơng Hương. Các từ ngữ như: “sực nhớ lại”, “đột ngột đổi dòng”, “rẽ ngoặt”, làm dòng sơng
như có linh hồn, đong đẩy cảm xúc, lại như một nỗi lưu luyến, bịn rịn không nỡ chia xa.
Luận điểm 3. Từ góc nhìn nhân cách hóa, tác giả hình dung sơng Hương chính là người con gái với
tấm lòng thủy chung son sắc với kinh thành Huế.
“Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này
thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách
hóa nó lên, tơi gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu.”
Cụm từ “khúc quanh này thực bất ngờ biết bao” gợi tả cảm giác ngỡ ngàng, ngạc nhiên, một khám
phá, một phát hiện bất ngờ thú vị. Câu hỏi tu từ “Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người
ở đây” vừa thể hiện sự trăn trở, băn khoăn, vừa cho thấy cảm xúc bâng khuâng của tác giả. Và không
thể lý giải được bằng góc độ tự nhiên, nhà văn đã nhân cách hóa “và để nhân cách hóa nó lên, tơi gọi
đấy là nỗi vương vấn , cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu.” Hai từ
vương vấn” gợi ta tình cảm quyến luyến; cịn “chút lẳng lơ kín đáo” lại gợi vẻ đẹp nữ tính, nét thùy mị,
dịu dàng. Tất cả những tình cảm ấy khiến dịng sơng hiên lên sống động, trữ tình. Dịng sơng ấy là cơ
gái có mối tình đắm say với kinh thành Huế như mối tình với người dân Châu Hóa mãi mãi chung tình
với q hương xứ sở.
Từ góc nhìn tình u đơi lứa, nhà văn có một liên tưởng thật lãng mạn: “Và giống như nàng Kiều
trong đêm tình tự, ở ngã rẽ sơng này, sơng Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một
lời thề trước khi về biển cả: “Còn nòn – còn nước – còn dài. Còn về - còn nhớ…”. Lời thề ấy vang vọng
khắp lưu vực sơng Hương thành giọng hị dân gian; ấy là tấm lịng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi
chung tình với quê hương xứ sở.” Hai chữ “chí tình” gợi ra rõ nét và đầy đủ tình cảm chân thành, sâu
sắc, sâu nặng của sông Hương dành cho Huế mà cũng là của Kiều dành cho Kim Trọng. Mối tình Kim
Kiều là mối tình đẹp mà đau thương nhất trong lịch sử văn học nước nhà, là mối tình biểu tượng cho sự


Đoạn văn trích dẫn dưới đây nằm
ở phần cuối sách giáo khoa: sơng
Hương gắn liền với những thăng
trầm của lích sử Huế và thi ca
[…]Hiển nhiên là sông Hương đã

sống những thế kỉ quanh vinh với
nhiệm vụ lịch sử của nó, từ thuở nó
cịn là một dịng sơng biên thùy xa
xôi của đất nước các vua Hùng.
Trong sách địa dư của Nguyễn
Trãi, nó mang tên là Linh Giang,
dịng sơng viễn châu đã chiến đấu
oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam
của Tổ quốc Đại Việt qua những
thế kỉ trung đại. Thế kỉ mười tám,
nó vẻ vang soi bóng kinh thành
Phú Xuân của người anh hùng
Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bi
tráng của thế kỉ mười chín với máu

chung tình. Mượn câu chuyện tình u ấy Hồng Phủ Ngọc Tường đã nói lên mối chung tình của sơng
Hương dành cho Huế: “Đã nguyền hai chữ đồng tâm/ Trăm năm thề chẳng ơm cầm thuyền ai/ Cịn
non cịn nước cịn dài/Cịn về cịn nhớ đến người hơm nay” (Truyện Kiều). Và người viết những dòng
nhớ, dòng thương, dòng luyến lưu tha thiết ấy đã kết luận: “Âý là tấm lòng của người dân Châu Hóa xưa
mãi mãi chung tình với q hương xứ sở”. Vâng! Sơng Hương chung tình với kinh thành Huế như người
dân Châu Hóa mãi mãi yêu mảnh đất tình người của họ. Hai chữ “chung tình” thể hiện sâu sắc tình cảm
thủy chung son sắt, mặn nồng; từ láy “mãi mãi” khẳng định sự bất tử của mối tính ấy, đó là mối tình bền
bỉ theo thời gian, mãi chạm khắc vào năm tháng không bao giờ phai mờ. Có thể nói, bằng phép nhân
hóa, so sánh để lý giải địa hình đã vơ tình khốc lên cho dịng sơng một tâm trạng đầy lưu luyến, bịn rịn
không nỡ rời xa lúc chia tay, để cảm nhận một con sơng thắm thiết chung tình.
Luận điểm 1: Vẻ đẹp sông
Hương thời chiến
-ý 1: Hiển nhiên là sông Hương
đã sống những thế kỷ quang
vinh với nhiệm vụ lịch sử của

nó.
+Nét đặc biệt của ý văn: tơn
vinh vẻ đẹp đặc biệt của sông
Hương với xứ Huế.
+Nội dung của ý văn: cho thấy
vẻ đẹp của một dòng chảy lịch
sử
-ý 2: Dòng chảy sơng Hương
qua những thế kỉ trung đại: “từ
thuở nó cịn là một dịng sơng
biên thùy xa xơi của đất nước
các vua Hùng. Trong sách địa sư
của Nguyễn Trãi, nó mang tên
là Linh Giang, dịng sơng viễn
châu đã chiến đấu oanh liệt bảo


của những cuộc khởi nghĩa, và từ
đấy sông Hương đã đi vào thời đại
Cách mạng tháng Tám bằng những
chiến công rung chuyển. Cùng với
niềm cổ vũ nồng nhiệt dành cho nó
trong mùa xuân Mậu Thân, Huế đã
nhận được nhũng lời chia buồn sâu
sắc nhất của thế giới về sự tàn phá
mà đế quốc Mĩ đã chụp lên những
di sản văn hóa của nó. “Cái trung
tâm lớn của chúng ta về lịch sử,
văn hóa, học thuật và về chính
quyền rất nhiều. Phải hiểu rằng

Huế là một thành phố kết hợp tất
cả những cái đó, giống như các
thành phố Ln Đơn, Pa-ri và Béclin,… Một số trong các di sản đó đã
bị phá hủy lúc Thành Nội. Huế bị
ném bom. Không thể so sánh sự
mất mát này với sự mất mát của
một viện bảo tàng hay một thư
viện ở Mĩ. Sự phá hủy những di sản
này cũng có tính chất giống như sự
mất mát xảy ra đối với nền văn
minh châu Âu khi một số cơng
trình của nền văn minh Hi Lạp và
La Mã cổ đại bị đổ nát vì các nhà
thờ bị phá hoại”. Đó là sự đánh giá
đầy phẫn nộ của chính người Mĩ,

vệ biên giới phía nam của Tổ
quốc Đại Việt qua những thế kỉ
trung đại.”
-ý 3: Sông Hương thời cận đại:
“Thế kỉ mười tám, nó vẻ vang
soi bóng kinh thành Phú Xuân
của người anh hùng Nguyễn
Huệ; nó sống hết lịch sử bi tráng
của thế kỉ mười chín với máu
của những cuộc khởi nghĩa”
+Vào thế kỉ XVIII: Mang vẻ đẹp
đổ bóng trong người anh hùng
Nguyễn Huệ - người anh hùng
áo vải đất Tây Sơn, niềm tự hào

của dân tộc Việt Nam. Người
anh hùng áo vải ấy với thiên tài
quân sự của mình đã đánh tan
ba mươi vạn quân Thanh xâm
lược, khiến cho lũ bán nước cầu
vinh ê chề nhục nhã.
+ Vào thế kỉ XIX: Vẻ đẹp của
những cuộc khởi nghĩa được
kết tinh từ sự vươn lên, tinh
thần đoàn kết, quật cường bao
đời nay của dân tộc Việt Nam.
-Ý 4: Sông Hương thời hiện đại
(từ năm 1945-1975):
+Sông Hương vào 1945: mang
vẻ đẹp của những chiến công
“và từ đấy sông Hương đã đi


Ra-pha-en Li-tao-ơ, Noóc-man Uphốp và nhóm giáo sư Đại học Co
óc-nen, trong một tác phẩm khoa
học đầy mùi thuốc nổ và hóa chất
độc mang tên Cuộc chiến tranh
khơng qn ở Đơng Dương. Tháng
trước, tơi được dịp có mặt trong
cuộc tiếp đón ở Thành ủy Huế chào
mừng đồn đại biểu của Hội nghị
tổng kết chiến tranh, tại thành
phố. Thay mặt Quân ủy Trung
ương, đồng chí Đại tướng phát
biểu: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét

son tên của thành phố Huế, thành
phố tuy nhỏ những đã cống hiến
rất xứng đáng cho Tổ quốc”… Đồng
chí nói, đầu cúi xuống ngực, hai
bàn tay chắp lại trong cử chỉ kính
cẩn của người già mắt ngấn lệ; và
người nghe, tất cả đều lặng đi
trong cảm xúc đột ngột của một lời
thề.
Sơng Hương là vậy, là dịng
sơng của thời gian ngân vang, của
sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh
biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách
tự hiến đời mình làm một chiến
cơng, để rồi nó trở về với cuộc sống
bình thường, làm một người con

vào thời đại Cách mạng tháng
Tám bằng những chiến công
rung chuyển.”
+Sông Hương mang vẻ đẹp của
một nguồn cổ vũ tinh thần to
lớn: “Cùng với niềm cổ vũ nồng
nhiệt dành cho nó trong mùa
xuân Mậu Thân,”
*Tiểu kết: Đánh giá
Biết khi nào lắng nghe con
người Huế, ở bên cổ vũ tinh
thần cho người dân xứ Huế,
người con gái dịu dàng này, dù

có. Sơng Hương là sự in bóng
của người con gái Việt Nam
Ý 5: Niềm tự hào về những năm
tháng oanh liệt của sông
Hương và Huế: “Huế đã nhận
được những lời chia buồn sâu
sắc nhất của thế giới về sự tàn
phá mà đế quốc Mĩ đã chụp lên
những di sản văn hóa của nó.
+ Tự hào về nền văn minh, văn
hóa của xứ Huế được ví như
nền văn minh Hy Lạp và La Mã,
nền văn minh châu Âu
Luận điểm 2: Vẻ đẹp của Sông
Hương thời bình
-Ý 1: Dịng sơng với dịng chảy
bất tận của lịch sử dân tộc:

Sơng Hương là dịng sơng sử thi: “Sơng Hương là vậy, dịng sơng cuả
thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi
nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến cơng, để rồi
nó trở về với cuộc sống bình thương, làm một người con gái dịu dàng
của đất nước”. Hai câu văn đẹp và giàu chất thơ. Điệp từ “của” như sự
khẳng định đầy tự hào, trân trọng, yêu quý. Bốn chữ “thời gian ngân
vang” toàn vần bằng, gợi ta cảm giác mênh mang, dào dạt. Dòng sơng
ấy là dịng sơng “của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Hai chữ “sử
thi” gợi ra vẻ đẹp dịng sơng như trang sử thi hào hùng, bi tráng trong
những biến động lịch sử. Cịn hình ảnh “màu cỏ lá xanh biếc” lại gợi
ra vẻ đẹp hài hòa, tươi tốt của sức sống thiên nhiên. Sự tương phản
giữa hai chữ “sử thi” và “màu cỏ lá xanh biếc” gợi ra vẻ đẹp độc đáo,

phong phú của dịng sơng.
Sơng Hương và vẻ đẹp đời thường của Huế: Dịng sơng huyền ảo, thơ
mọng trữ tình ẩn hiện trong sương khói xứ Huế. Nhà văn liên tưởng
rất tự nhiên đến hình ảnh của con người: “Thỉnh thoảng, tơi vẫn cịn
gặp trong những ngày nắng đem ra phơi, một sắc áo cưới của Huế
ngày xưa, rất xưa: màu áo lục điều với loại vải vân thưa màu xanh
chàm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn
hiện, thấp thống theo bóng người, thuở ấy các cơ dân trẻ vẫn mặc
sau tiết sương giáng”. Câu văn kéo dài với bao hoài niệm về một miền
Huế xưa. Phép điệp “ngày xưa, rất xưa” như kéo người đọc trôi về quá


gái dịu dàng của đất nước. Thỉnh
thoảng, tơi vẫn cịn gặp trong
những ngày nắng đem ra phơi, một
sắc áo cưới của Huế ngày xưa, rất
xưa: màu áo điều lục với loại vải
vân thưa màu xanh chàm lồng lên
một màu đỏ ở bên trong, tạo thành
một màu tím ẩn hiện, thấp thống
theo bóng người, thuở ấy các cơ
dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương
giáng. Đấy cũng chính là màu của
sương khói trên sông Hương, giống
như tấm voan huyền ảo của tự
nhiên, sau đó ẩn giấu khn mặt
thực của dịng sơng…
Có một dịng thi ca về sơng
Hương, và tơi hi vọng đã nhận xét
một cách cơng bằng về nó khi nói

rằng dịng sơng ấy khơng bao giờ tự
lặp lại mình trong cảm hứng của
các nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có
một khám phá riêng về nó: từ xanh
biếc thường ngày, nó bỗng thay
màu thực bất ngờ, “Dịng sơng
trắng – lá cây xanh” trong caid
nhìn tinh tế của Tản Đà, từ tha
thướt mơ màng nó chợt nhiên hùng
tráng lên “như kiếm dựng trời
xanh” trong khí phách của Cao Bá

Sơng Hương là vậy, là dịng
sơng của thời gian ngân vang,
Khi viết về những chiến công
của sông Hương, lịch sử Huế,
HPNT không viết với giọng hào
hùng tráng ca, anh hùng mà
ông để sông Hương trong sự
nhẹ nhàng với sức sống bất tử,
mãnh liệt “của sử thi viết giữa
màu cỏ lá xanh biếc.”
-Ý 2: Vẻ đẹp bên trong, thuộc
về tâm hồn của một người con
gái Việt Nam.
-Ý 3: Vẻ đẹp làm nên linh hồn
của sông Hương: “Thỉnh
thoảng, tơi vẫn cịn gặp trong
những ngày nắng đem ra phơi,
một sắc áo cưới của Huế ngày

xưa, rất xưa: màu áo điều lục
với loại vải vân thưa màu xanh
chàm lồng lên một màu đỏ ở
bên trong, tạo thành một màu
tím ẩn hiện, thấp thống theo
bóng người, thuở ấy các cơ dâu
trẻ vẫn mặc sau tiết sương
giáng. Đấy cũng chính là màu
của sương khói trên sơng
Hương, giống như tấm voan
huyền ảo của tự nhiên, sau đó
ẩn giấu khn mặt thực của

khứ xa xăm để gặp lại sắc áo cưới ảo diệu: màu “lục điều, màu xanh
chàm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn
hiện, thấp thống theo bóng người”. Các từ ngữ “ẩn hiện”, “thấp
thống” tạo nên nét mơ màng, mộng mơ đạm chất Huế. Cuối cùng
tác giả khẳng định: “Đấy cũng chính là màu của sương khói trên sơng
Hương, giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu
khn mặt thực của dịng sơng…”. Sơng Hương trong cái nhìn của
nhà văn là dịng sơng chìm trong miền huyền diệu của đất trời, là
sương khói mơ màng, là “tấm voan huyền ảo của tự nhiên”. Tất cả
những liên tưởng, so sánh độc đáo ấy đều làm hiện lên một dịng
sơng giàu sức sống, thanh lịch, dịu dàng. Sơng Hương chính là cơ gái
Huế.
Sông Hương trong vẻ đẹp thi ca.
Không chỉ gắn với nền âm nhạc của xứ Huế, sơng Hương cịn
mang những vẻ đẹp phong phú của thi ca, là nàng thơ gợi cảm hứng
cho thi nhan bao đời: “Có một dịng thi ca về sông Hương, và tôi hi
vọng đã nhận xét một cách cơng bằng về nó khi nói rằng dịng sơng

ấy khơng bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”.
Qủa thực sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm
hứng của thi sĩ, bởi nếu sự lặp lại ấy diễn ra thì có lẽ khơng cần phải
chiêm nghiệm hết tất cả các tác phẩm viết về Hương Giang cũng có
thể hiểu được trọn vẹn về nó. Nhưng dịng sơng đại diện cho vẻ đẹp
của thiên nhiên và con người xứ Huế đâu có dễ dàng mà tóm lược
như vậy. Mỗi lần xuất hiện ở trong một tác phẩm văn học, Hương
Giang lại khốc lên mình một màu áo đặc trưng riêng: từ xanh biếc
thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ, “Dịng sơng trắng-lá
cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, từ tha thướt mơ màng nó
chợt nhiên hùng tráng lên “như kiếm dựng trời xanh” trong khí phách
của Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng
trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan, nó đột khởi thành sức mạnh


Qt ; từ nỗi quan hồi vạn cổ với
bóng chiều bảng lãng trong hồn thơ
Tố Hữu. Và ở đây, một lần nữa,
sông Hương quả thực là Kiều, rất
Kiều, trong cái nhìn thắm thiết
tình người của tác giả Từ ấy.
Có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến
đây…
Ai đã đặt tên cho dịng sơng?

dịng sơng…”
+ Đỏ kết hợp với xanh tạo nên
màu tím, màu biểu tượng của
xứ Huế, sự thủy chung son sắt
của sông hương với Huế.

Luận điểm 3: Vẻ đẹp của sông
Hương trong thi ca
Ý 1: Làm giàu cho cảm hứng thi
ca: “Có một dịng thi ca về sơng
Hương, và tôi hi vọng đã nhận
xét một cách công bằng về nó
khi nói rằng dịng sơng ấy
khơng bao giờ tự lặp lại mình
trong cảm hứng của các nghệ
sĩ.”
Nếu dịng chảy của sông Đà
trong Nguyễn Tuân là vẻ đẹp
khơi nguồn sự sáng tạo trong
nhà văn. Cịn dịng chảy của
Sơng Hương mang vẻ đẹp của
sự chủ động biết tự làm mới
chính mình, khơng có sự lặp lại
mình trong văn chương.
Ý 2: Cảm xúc của những nhà
thơ nổi tiếng đối với sông
Hương
+ Mang vẻ đẹp của một màu
sắc bất ngờ, nhanh chóng trong
thơ Tản Đà.
+ Cảm nhận của sự hùng tráng,

phục sinh của tâm hồn, trong thơ Tố Hữu”.
Sự biến hóa đa dạng của sơng Hương trong ngịi bút của nghệ
nhân bao đời khiến ta liên tưởng đến cuộc đời người con gái lúc
thăng lúc trầm, lúc buồn rầu ảm đạm lúc mắt đẫm niềm vui, lúc dịu

dàng tha thướt nhưng cũng có lúc lại phải gồng mình lên chống
chọi với nghịch cảnh cuộc đời. Và trong lời nhận xét của Hoàng Phủ
Ngọc Tường: “một lần nữa, sông Hương quả thật là Kiều, rất Kiều,
trong cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả Từ ấy”. Sở dĩ cảm
hứng Kiều được đặt vào vẻ đẹp của Hương Giang là bởi ở trong sâu
thẳm tâm hồn Kiều có sự đồng điệu với dịng sơng thiên nhiên ấy. Đó
là sự hịa quyện giữa cái nền nã dịu dàng và sự quyết liệt trong tình
yêu, sẵn sàng đi theo tiếng gọi của con tim để đến với người tình
mong đợi của mình. Bởi thế cho nên Hồng Phủ Ngọc Tường đã mào
đầu bằng nhận định rất xác đáng của mình: “Nếu chỉ mải mê nhìn
ngắm khn mặt kinh thành của nó, tơi nghĩ rằng người ta đã không
hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình
gian trn mà nó đã vượt qua, khơng hiểu thấu phần tâm hồn sâu
thẳm của nó mà dịng sơng hình như khơng muốn bộc lộ, đã đóng kín
lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi
Kim Phụng”. Hoàng Phủ Ngọc Tường có khi đã đồng nhất Kiều với
dịng Hương Giang bằng con mắt mê đắm và bút pháp lão thực được
tinh lọc từ năng lực liên tưởng bậc thầy. Và nhờ vậy mà bút kí “Ai đã
đặt tên cho dịng sơng?” mới có thể mang cái sắc thơ, sắc họa khiến
cho bạn đọc khơng bao giờ cảm thấy khơ khan, khó hiểu khi tiếp cận
thể loại kén độc giả này.
Yêu cầu phụ: Làm rõ vẻ đẹp bề sâu của sông Hương dưới ngịi bút kí
của Hồng Phủ Ngọc Tường.
Từ sự gắn bó của sơng Hương đối với nền âm nhạc và thi ca Huế
trong ngòi bút tái hiện độc đáo của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ta thấy
hiện lên trang viết là vẻ đẹp bề sâu của sông Hương đại diện cho bề


khí phách trong Cao Bá Qt.
+ Sơng Hương lắng nghe rung

chuyển và khơi nguồn sự đồng
cảm nỗi lòng của mỗi người
trong thơ Bà Huyện Thanh
Quan.
+ sông Hương

sâu tâm hồn con người xứ Huế. Đó là cái bề sâu ln ơm ấp trọn vẹn
tấm lòng thủy chung, son sắt với quê hương xứ sở mình, là cái bề
sâu của một người tri âm tri kỉ ln khao khát được gắn bó với
thành phố mong đợi và không bao giờ muốn cách biệt chia xa. Có
thể nói, từ khi cịn ở thượng nguồn đến lúc chảy vào giữa lòng thành
phố và rời xa Huế thơ mộng, mạch cảm xúc của sông Hương giống
như một kẻ say tình đang ơm giấc mộng trùng phùng trăm năm. Xuất
phát điểm là sự mong ngóng, chờ đợi để được giáp mặt với thành phố
yêu quý, chỉ trong vài cái ngoặt khúc bề sông, sông Hương đã nằm
gọn trong vịng tay của người tình mong đợi, êm ấm và mềm mại như
thứ mật ngọt được người ta ấp ủ bấy lâu. Để rồi đến khi phải nói lời từ
biệt, “người con gái” ấy lại ôm một nỗi vương vấn khôn nguôi dành
cho xứ Huế. Sông Hương rời khỏi Kinh Thành “lưu luyến ra đi giữa
màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ơ Vĩ
Dạ”, rồi nó lại đổi dịng đột ngột để gặp thành phố lần cuối ở góc thị
trấn Bao Vinh xưa cổ “như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói”. Phải
chăng khúc lượn này chính là nỗi niềm thầm kín của sơng Hương, nó
“có cái gì rất là với tự nhiên và rất giống con người”. Tác giả cho rằng
đó là “nỗi vương vấn” khơng nói nên lời, cả “một chút lẵng lơ kín đáo
của tình u”, và ông đã so sánh sông Hương với nàng Kiều trong đêm
tự tình bằng việc dẫn bng hai câu thơ của Nguyễn Du để nói về sự
lưu luyến chí tình với lời thề trước khi về biển cả: “Còn non, còn
nước, cịn dài, cịn về, cịn nhớ…” đến người hơm nay”. Có thể nói, đó
chính là lời thề của lứa đơi, lời thề của dịng sơng trở thành giọng hị

dân gian xứ Huế ngân vang khắp cả bốn bể cõi lòng. Và sâu xa hơn
nữa, lời thề ấy còn là tấm lịng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi
chung tình với quê hương xứ sở thân thương của mình.
Viết về tình cảm sâu nặng mà sơng Hương dành cho xứ Huế
chính là để nhà văn bộc lộ được thứ tình cảm kín đáo, âm thầm
khơng thể diễn tả trực tiếp thành lời. Nhờ vậy mà dòng Hương


Giang không đơn thuần chỉ là thắng cảnh thiên nhiên mà nó được tái
hiện trong thân xác con người có cảm xúc, có suy nghĩ, có cả những
trăn trở khơn ngi, đại diện cho tình cảm của nhà văn dành cho một
thành phố xưa cổ. Tình yêu xứ Huế của Hồng Phủ Ngọc Tường
được chưng cất lên từ q trình gắn bó và trải nghiệm của ơng ở
mảnh đất này. Đó là một tình u trọn vẹn và tha thiết, yêu từ thiên
nhiên đến con người Huế, bởi vậy mà tất cả những gì thuộc về Huế
đều mang đến cho ông một cảm xúc vô cùng đặc biệt, nhất là khi
khám phá sự độc đáo của con sông gần với quá trình hình thành và
phát triển của thành phố Huế mộng mơ. Tình u mà nhà văn Hồng
Phủ Ngọc Tường đã đặc biệt dành cho xứ Huế là tình yêu được kết
tinh từ chất trí tuệ, trữ tình, từ cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng,
tình cảm tha thiết xuất phát từ trái tim người nghệ sĩ. Xuyên suốt cả
tác phẩm, nhà văn không hề bộc lộ trực tiếp sự nhớ thương, trân quý
đối với con sông quê hương, với thiên nhiên và con người xứ Huế,
không dùng đến bất cứ một từ ngữ hay hình ảnh biểu đạt nào nhưng
vẫn thể hiện được sâu sắc tình cảm của mình trong cảm nhận của
bạn đọc. Đó là sự tài tình, un bác mà khơng phải nhà văn nào cũng
có thể làm được, khơng phải nhà văn nào cũng có thể khiến cho độc
giả phải hết lịng thán phục, hết lịng ngợi ca.
u cầu phụ
1.Nhận xét tính trữ tình trong bút kí của Hồng Phủ Ngọc

Tường.
+ Tính trữ tình trong kí của Hồng Phủ Ngọc Tường đẫm chất
thơ, được gợi lên từ sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ
và cảm xúc nồng nàn, tha thiết; giữa nghị luận sắc bén và suy tư
đa chiều cùng vốn kiến thức phong phú.
+ Thể hiện ở sự kết hợp giữa kể và tả, quan sát và tưởng tượng,

Từ những cảm nhận về dịng sơng Hương, có thể thấy Hồng
Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận sơng Hương từ nhiều góc độ, và ở
mỗi góc độ đều được nhà văn thể hiện bằng những cảm nghĩ
thật sâu sắc và mới mẻ. Chính điều đó, đã làm nên tính trữ tình
trong bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhà văn đã “ca” về vẻ đẹp
của sơng Hương trong cái nhìn mê đắm của mình. Ta nhìn thấy
cái vẻ đẹp đầy nữ tính của nàng Hương xinh đẹp, dịu dàng, uyển


lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.

chuyển và kín đáo khi ở trong lịng thành phố. Và đó cũng là một
cơ nàng thật cá tính, thật sâu sắc. Sông Hương biết khi nào dâng
hiến cho Huế, khi nào được là chính mình. Hồng Phủ Ngọc
Tường đã vẽ nên những nét đẹp đặc biệt cho dòng sơng văn học,
để dịng sơng Hương trở thành một “bức họa để cảm nhận thay
vì để ngắm”. Nhà văn đã mang tới những vùng thẩm mỹ mới mẻ,
toàn vẹn về vẻ đẹp của sông Hương trong mối quan hệ với kinh
thành Huế. Qua đó thể hiện tình u tha thiết sự gắn bó của
Hồng Phủ Ngọc Tường với sơng Hương của xứ Huế đẹp đẽ, dịu
hiền.
Sự chuyển biến này giúp ta, nhận ra phong cách độc đáo tài
hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường, bởi lẽ “phong cách là

người”. Phong cách của Hoàng Phủ Ngọc tường là sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình. Hiểu biết sâu
rộng, am tường trên nhiều lĩnh vực đã thể hiện một tầm nhìn,
tri thức dày dặn trong việc khám phá hành trình của sơng
Hương. Nét trữ tình trong phong cách của Hoàng Phủ Ngọc
Tường được nhà văn khéo léo lồng ghép, đan cài trong cả nội
dung và nghệ thuật. Và điều đó đã làm cho văn ơng cứ sống mãi
trong lịng độc giả “hơm qua, hơm nay và mãi tận về sau”. Chúng
ta cứ tìm đến văn Hồng Phủ Ngọc Tường mà nghiền ngẫm triết
lý, sống mãi trong sự tha thiết về dịng sơng q hương xứ mình!
2. Nhận xét tình u tha thiết của Hồng Phủ Ngọc Tường với
Nếu xem “Ai đã đặt tên cho dịng Sơng” là một “sự thể
xứ Huế
nghiệm” của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dịng sơng tâm tình xứ
+ Tình u xứ Huế của Hồng Phủ Ngọc Tường được chưng cất Huế thì dường như “Tất cả những tư tưởng, tình cảm và con
lên từ q trình gắn bó và trải nghiệm của ông ở mảnh đất này.
người đều in dấu vào trang sách, hắt sáng lên những trang đời
+ Đó là tình yêu được kết tinh từ chất trí tuệ, cảm xúc nồng nàn, mới mẻ” (Phạm Phú Phong). Bút kí “Ai đã đặt tên cho dịng Sơng”
tha thiết xuất phát từ trái tim nhà văn.
trở thành một tác phẩm kí mang đậm chất tự sự. Qua bàn tay
của người nghệ sĩ ngôn từ ấy, những nét sinh động và tươi mới
nhất của sông Hương xứ Huế đã dần hiện ra với đầy đủ những


trạng thái cá tính, từ vẻ hoang sơ man dại tới vẻ trữ tình, đằm
thắm nhẹ nhàng, mang theo tiếng nói vang xa sâu sắc của nghệ
thuật. Chất tự sự được tạo nên từ sự phản ánh hiện thực trong
tính khách quan. Qua cái nhìn và lăng kính của mình, ông đã cho
người đọc thấy một giọng điệu riêng biệt “khơng thể tìm thấy
trong cổ họng của bất kì người nào khác”. Giọng điệu ấy thể hiện

qua cách nhìn, cách cảm thụ, phương thức tư duy, năng lực trí
tuệ, tình cảm, bộc lộ qua ngôn ngữ đậm chất tự sự.
Quan trọng hơn cả, nếu như không phải là người sâu sắc và
am hiểu sông Hương xứ Huế, dành trọn trái tim nhạy cảm và
tình yêu của mình cho xứ Huế của Hồng Phủ Ngọc Tường thì
có lẽ “Ai đã đặt tên cho dịng Sơng” khơng thể chạm sâu vào trái
tim người đọc đến thế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chèo lái con
thuyền của ngôn ngữ dẫn đường cho người đọc khám phá, phát
hiện vẻ đẹp của dịng sơng Hương, sơng Hương chính là đối
tượng là trung tâm của cảm xúc, điểm tựa và phát sáng ngôn từ.
Đọc “Ai đã đặt tên cho dịng Sơng” ta dễ dàng nhận ra chất tự sự
hịa quyện trong chất trữ tình là ở đó.
3. Bình luận về cái tơi tài hoa un bác của Hồng Phủ Ngọc
Thứ nhất, đó là một cái tơi dạt dào cảm xúc. Cái tôi ấy là cái
Tường
tôi của một người trí thức yêu nước vừa bước ra từ trong khói
lửa chiến tranh, vừa bừng bừng khí thế chống giặc ngoại xâm,
vừa hào hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng,một tư thế tự do, tự
tin và tự hào để mà nhìn vào mối quan hệ và dịng chảy của lịch
sử dân tộc để khẳng định sức sống, sức mạnh của nó. Cái tơi ấy
là cái tơi của một người nghệ sĩ giàu rung động và lãng mạn, say
sưa tìm kiếm vẻ đẹp riêng, sức cuốn hút riêng của con sông xứ
Huế ở các phương diện không gian và thời gian, lịch sử và văn
hố. Rõ ràng Hồng Phủ Ngọc Tường đã đem tình yêu đằm thắm
lắng sâu và những cảm xúc sôi nổi say sưa phổ vào trang viết để
rồi mỗi dòng văn như một nốt nhạc trong bản đàn lịng để tơn


×