Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.37 KB, 60 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KINH TẾ ĐẦU TƯ

ĐỀ TÀI BỘ MÔN KINH TẾ ĐẦU TƯ

Đề tài: CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHI TIÊU ĐẦU TƯ

VÀ TÌNH HÌNH KÍCH CẦU ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM

1


Nhóm thực hiện:

Nguyễn Thu Hà
Ngơ Hồng Nhung
Nguyễn Thị Hồng Phương
Ngơ Thái Sơn

Lớp:

ĐT 47B

Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Từ Quang
Phương

Hà Nội – 2008

LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi chính thức thực hiện công cuộc đổi mới từ năm 1986, Việt Nam từ một
nước có nền kinh tế nơng nghiệp lạc hậu, đã có nhiều thay đổi to lớn, chuyển từ nền kinh


tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong giai đoạn này, có rất nhiều vấn đề lớn
nhỏ được đặt ra cho nền kinh tế nước nhà. Một trong những vấn đề đó là hoạt động đầu
tư. Có thể nói đầu tư là yếu tố quan trọng trong nền kinh tế, đầu tư không chỉ là cơ sở để
nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế mà còn nâng cao trình độ khoa học cơng
nghệ, hiện đại hố đất nước. Nó vừa phụ thuộc lại vừa có tác động lớn đến nền kinh tế
2


của một quốc gia. Sự tác động đó là tích cực hay tiêu cực lại phụ thuộc vào nhận thức của
nhà nước, nhân dân, và các thành phần kinh tế về vấn đề đầu tư có đúng đắn hay khơng,
và làm sao để có các giải pháp cho hoạt động đầu tư hiệu quả.
Muốn vậy trước hết phải xem xét tới một số khía cạnh quan trọng liên quan đến
đầu tư, cụ thể là sự chi tiêu cho đầu tư thế nào là hợp lý, bên cạnh đó nhà nước đã và
đang có những hoạt động nào để kích thích đầu tư dựa trên những nghiên cứu về lý
thuyết. Có vậy, sự chi tiêu cho đầu tư mới đem lại hiệu quả, tạo đà cho nền kinh tế phát
triển tốt. Điều này có ý nghĩa đặc biệt cần thiết cho một nước đang phát triển như Việt
Nam.
Vì vậy, nhóm chúng tôi lựa chọn đề tài: “Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu
tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam”. Nội dung đề án đề cập đến vấn đề chi tiêu
đầu tư và kích cầu đầu tư, khái niệm cùng sự vận hành của chúng: những nhân tố nào ảnh
hưởng đến chi tiêu đầu tư, ảnh hưởng như thế nào và dựa vào đó giải thích tình hình kích
cầu của Việt Nam trong những năm gần đây. Bài viết là sự tập hợp của các kiến thức sẵn
có cùng với các phương pháp phân tích, đồ thị, tổng hợp số liệu và tư duy logic.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo Từ Quang Phương đã chỉ bảo hướng
dẫn tận tình trong quá trình đọc duyệt để chúng tơi có thể hồn thành đề án.
Tuy nhiên do mới tiếp cận với lĩnh vực này, trình độ cịn hạn chế nên bài viết
khơng tránh khỏi thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cơ giáo để bài
viết được hồn thiện hơn.


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHI TIÊU ĐẦU TƯ VÀ
KÍCH CẦU ĐẦU TƯ

3


I.1. Khái niệm về đầu tư và chi tiêu đầu tư:
I.1.1 Khái niệm về đầu tư:
I.1.1.1 Khái niệm:
Trên thực tế, dựa trên các quan điểm khác nhau thì chúng ta sẽ có những cái
nhìn khác nhau về đầu tư.
- Theo quan điểm tài chính thì đầu tư là một chuỗi các hoạt động chi tiêu để
chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dịng thu nhằm hồn vốn và sinh lời.
- Theo quan điểm tiêu dùng thì đầu tư là một hình thức hạn chế tiêu dùng
hiện tại để thu về mức tiêu dùng cao hơn trong tương lai
Tuy nhiên, theo một cái nhìn chung nhất, ta có thể hiểu: Đầu tư là sự hy sinh
các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm thu được các kết quả, thực
hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai. Trong đó, các nguồn lực sử
dụng có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết
quả đạt được đó có thể là sự gia tăng về tài sản vật chất, tài sản tài chính hoặc tài
sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn
cho nền kinh tế và cho toàn bộ xã hội.
- Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong
điều kiện hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra
những tài sản vật chất như nhà xưởng, thiết bị...và tài sản trí tuệ như tri thức, kỹ
năng..., gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển.
Đầu tư phát triển là một phương thức đầu tư trực tiếp, nhằm duy trì và tạo ra
năng lực sản xuất mới trong sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt đời sống xã
hội.Hiệu quả của đầu tư phát triển phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế
xã hội thu được với chi phí chi ra để đạt được những kết quả đó.

I.1.1.2 Phân loại đầu tư:
Trên thực tế có rất nhiều hình thái biểu hiện cụ thể của đầu tư. Tùy theo từng
góc độ tiếp cận mà chúng ta có các cách phân chia hoạt động đầu tư khác nhau.
4


- Theo tiêu thức quan hệ quản lý của chủ đầu tư, Đầu tư được chia thành 2 loại
là Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư trong đó
người bỏ vốn không trực tiếp tham gia quản lý, điều hành qua trình thực hiện và
vận hành kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn
trực tiếp tham gia quản lý, điều hành qua trình thực hiện và vận hành kết quả đầu
tư.
- Theo bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư mang lại, chúng ta có thể phân
loại đầu tư thành đầu tư tài chính, đầu tư thương mại, đầu tư phát triển.
 Đầu tư tài chính: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc
mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước ( gửi tiết kiệm hoặc mua
trái phiếu) hay lãi suất và quyền sở hữu công ty tùy thuộc vào hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty phát hành cổ phiếu. Đầu tư vào tài sản tài chính
khơng trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng tài sản tài
chính của tổ chức, cá nhân đầu tư.
 Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra mua hàng
hóa và sau đó bán lại với giá cao hơn giá ban đầu nhằm thu lợi nhuận từ chênh
lệch giá khi mua vào và bán ra. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới
cho nền kinh tế. Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy q trình
lưu thơng của cải vật chất trong nền kinh tế
 Đầu tư phát triển: trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động
nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh
mà mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao
đời sống cho mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây
dựng và sửa chữa các cơ sở hạ tầng, mua sắm thiết bị phục vụ cho quá trình sản

xuất kinh doanh.

5


I.1.2. Khái niệm về chi tiêu đầu tư và kích cầu đầu tư:
Chi tiêu đầu tư là một hình thức tiêu dùng đặc biệt của các chủ đầu tư nhằm
thu được khoản tiền lớn hơn trong tương lai. Chi tiêu đầu tư chịu ảnh hưởng của rất
nhiều nhân tố, trng đó có 1 số nhân tố cơ bản như sau:
- Lợi nhuận kỳ vọng
- Lãi suất thực tế
- Tốc độ phát triển của sản lượng quốc dân
- Lợi nhuận thực tế
- Chu kỳ kinh doanh
- Đầu tư nhà nước
- Môi trường đầu tư
- Rủi ro đầu tư
- Công nghệ và đổi mới
Kích cầu đầu tư: là tổng hợp tất cả các biện pháp chính sách, các cơng cụ
pháp lý được sử dụng một cách có hệ thống và đồng bộ nhằm thu hút ngày càng
nhiều vốn đầu tư để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng và phát triển KT - XH trong một
giai đoạn thời kỳ nhất định.
Kích cầu đầu tư có một vai trị vơ cùng quan trọng đối với sự tăng trưởng và
phát triển của một quốc gia, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển. Có những
biện pháp kích cầu đầu tư phù hợp và cụ thể sẽ làm tăng lượng vốn đầu tư toàn xã
hội, tăng nhu cầu đầu tư xây dựng và cải thiện đời sống của nhân dân. Đầu tư tăng
làm tăng tổng cung, kích cầu tiêu dùng. Đầu tư vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa
là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế. Vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả sẽ
có tác động đến tăng trưởng của nền kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo ngành, vùng lãnh thổ và thành phần kinh tế theo hướng cơng nghiệp hố, hiện

đại hố. Đầu tư nước ngồi cịn thu hút khoa học cơng nghệ hiện đại, làm thay đổi
bộ mặt cảu toàn bộ nền kinh tế. Như vậy, kích cầu đầu tư có tác dụng rất quan

6


trọng và mang tính tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn cho
mỗi quốc gia.
I.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư
I.2.1. Lợi nhuận kỳ vọng
Lợi nhuận kỳ vọng là khoản lợi nhuận mà chủ đầu tư mong muốn nhận, hi
vọng nhận được trong tương lai khi đưa ra quyết định đầu tư. Nếu lợi nhuận kỳ
vọng cao sẽ thu hút được các nhà đầu tư bỏ vốn ra kinh doanh và ngược lại, nếu lợi
nhuận kỳ vọng thấp thì nhà đầu tư buộc phải cân nhắc kỹ về quyết định đầu tư của
mình, đặc biệt là khi lợi nhuận kỳ vọng thấp hơn cả lãi suất tiền gửi của ngân hàng
thì các nhà đầu tư sẽ gửi tiền vào ngân hàng thay vì việc bỏ tiền ra đầu tư. Chính vì
thế, lợi nhuận kỳ vọng tương lai ảnh hưởng rất lớn đến quyết định chi tiêu đầu tư
của chủ đầu tư.
Theo lý thuyết của Keynes, hiệu quả biên của vốn giảm dần và hiệu quả biên
của vốn phụ thuộc vào số tiền đầu tư mới bỏ ra có tỷ suất lợi nhuận thấp hay cao.
Nếu vốn đầu tư càng tăng thì hiệu quả biên của vốn càng giảm. Có nhiều cách để
lý giải cho vấn đề này, ví dụ như :
- Đứng trên phương diện Cầu về vốn đầu tư, muốn đầu tư tăng thì nhu cầu
về vốn đầu tư phải tăng, giá của hàng hóa vốn đầu tư tăng ( hay lãi suất tiền vay
tăng), với giả định các yếu tố khác không đổi, khi tổng sản phẩm tăng, giá bán
không đổi dẫn đến lợi nhuận giảm và tỷ suất lợi nhuận biên của vốn đầu tư cũng
giảm theo.
- Đứng trên phương diện Cung hàng hóa sản phẩm: khi đầu tư tăng thì
lượng cung của hàng hóa sẽ tăng làm cho giá giảm (với giả định các yếu tố khác
không đổi), lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm giảm dẫn đến tổng lợi nhuận giảm

khiến tỷ suất lợi nhuận biên cũng giảm theo.
Ngồi ra, cịn có thể giải thích vấn đề này qua một số khía cạnh khác như
Năng suất lao động cận biên giảm dần hoặc hiệu quả biên của vốn... Có thể thấy, tỷ
7


suất lợi nhuận vốn đầu tư là một đại lượng rất quan trọng đối với các quyết định
của nhà đầu tư, tuy nhiên nó lại là một đại lượng rất khó xác định, ngun nhân là
vì đặc tính của hoạt động chi tiêu đầu tư là mang tính lâu dài, chịu sự tác động của
nhiều yếu tố khách quan, không ổn định như điều kiện tự nhiên, chính trị, kinh tế
xã hội... Do đó lợi nhuận có khi thấp nhưng lại có lúc rất cao, tùy vào độ rủi ro mà
nhà đầu tư phải đối mặt, rủi ro càng cao thì lợi nhuận thu được càng lớn. Đấy chính
là sức hấp dẫn, là động lực thúc đẩy các nhà đầu tư bỏ vốn ra đầu tư.
I.2.2. Lãi suất tiền vay thực tế
Trong quá trình tiến hành chi tiêu đầu tư, để xây dựng cơ sở sản xuất hay mở
rộng quy mơ, tăng thêm máy móc thiết bị, trang trải hao mòn, tăng năng lực sản
xuất cần rất nhiều vốn. Tuy nhiên khơng phải nhà đầu tư nào cũng có nguồn vốn
nội lực đủ mạnh để trang trải hết những khoản chi tiêu đó, mà hầu hết sẽ dựa vào
các tổ chức tài chính để vay vốn. Giá của các khoản vay này chính là lãi suất mà
chủ đầu tư phải thanh tốn. Nhưng vấn đề đặt ra là lợi ích của việc đầu tư đó mang
lại chỉ có thể biết được trong tương lai, nên bài toán đặt ra cho các nhà đầu tư là lợi
ích do việc sử dụng máy móc, phương tiện mới thể hiện thơng qua phần lợi nhuận
tăng thêm có xứng đáng với khoản chi phí cho đầu tư bỏ ra hay không? Nếu tỷ suất
lợi nhuận bình quân dự báo trong tương lai cao hơn hoặc ít nhất là bằng so với mức
lãi suất tiền vay phải trả thì nhà đầu tư sãn sàng chấp nhận vay vốn để đầu tư, tất
nhiên phải tính đến trường hợp là khi lãi suất tiền vay càng tăng thì thu nhập biên
giảm, nhu cầu đầu tư giảm và ngược lại. Điều đó có thể được thấy rõ hơn qua ví dụ
sau:
Bảng 1.1 Quyết định đầu tư của chủ đầu tư phụ thuộc vào tỷ lệ lãi suất và tỷ suất
lợi nhuận

Dự án

Vốn đầu


Tỷ suất lợi

Chi phí lãi/1000đ

Lợi nhuận /1000đ

nhuận/1000đ

VĐT

VĐT

VĐT

Lãi 10%
8

Lãi 5%

Lãi 10%

Lãi 5%


A


1

1500

100

50

1400

1450

B

4

220

100

50

120

170

C

10


160

100

50

60

110

D

10

130

100

50

30

80

E

5

110


100

50

10

60

F

15

90

100

50

-10

40

G

20

40

100


50

-60

-10

Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy: Với mức lãi suất 10%, chủ đầu tư sẽ
không đầu tư vào các dự án F và G vì các sự án này đều chịu mức lãi suất phải trả
lớn hơn tỷ suất lợi nhuận bính quân và lợi nhuận kinh doanh đều nhỏ hơn 0. Còn
với mức lãi suất 5% thì nhà đầu tư chỉ khơng nên đầu tư vào dự án G vì khi đó dự
án này vẫn có mức lãi suất lớn hơn tỷ suất lợi nhuận, lợi nhuận vẫn âm. Các dự án
cịn lại đều có lãi lớn hơn 0, tuy nhiên nhà dầu tư vẫn nên lựa chọn dự án nào phù
hợp nhất với khả năng của mình mà đem lại lợi ích lớn nhất để đầu tư. Như vậy, ta
có thể thấy là lãi suất tiền vay thực tế có ảnh hưởng trực tiếp đến quy mơ đầu tư
của doanh nghiệp.
Ngồi ra, ta có thể thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất tiền vay
thực tế, tỷ suất lợi nhuận bình quân và quy mơ vốn đầu tư. Vào cùng một thời
điểm, có thể có rất nhiều dự án, và số lượng dự án phụ thuộc vào lãi suất tiền vay.
Khi mức lãi suất tiền vay càng thấp thì số dự án thỏa mãn được yêu cầu trên càng
cao, làm cho khối lượng vốn đầu tư tăng và ngược lại. Hình 1.1 dưới đây đã nêu cụ
thể mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa lãi suất tiền vay i và nhu cầu vốn đầu tư ở mỗi
mức lãi suất không đổi.

9


i i

IRR

IRR
IRRA
IRRA
Đường
Đườngcầu
cầuvềvềvốn
vốnđầu
đầutưtư
IRRB
IRRB

i1i1

i i

IRRC
IRRC

i0i0
00

I1I1

I0I0

II

0 0 AABB

CC


2.2.
Mối
quan
hệhệ
giữa
lãilãi
suất
tiền
vay
vàvà
tỷ tỷ
lệ lệ
hồn
vốn
Hình
2.2.
Mối
quan
giữa
suất
tiền
vay
hồn
v
Hình
1.11.1
Mối
quan
hệhệ

giữa
lãilãi
suất
vàvà quy
mơmơ
vốn
đầu
tư tư Hình
Hình
Mối
quan
giữa
suất
quy
vốn
đầu

1
0


Nếu mức lãi suất tăng từ i0 lên i1 thì thu nhập biên giảm dần dẫn đến
giảm số lượng dự án đầu tư, cầu đầu tư giảm từ I0 đến I1 làm quy mơ vốn đầu tư
giảm. Hình 2.2 lại phản ánh mối quan hệ giữa lãi suất tiền vay và tỷ lệ hoàn vốn
IRR, đây cũng là mối quan hệ tỷ lệ nghịch. Khi lãi suất tiền vay tăng thì lợi
nhuận trên một đơn vị sản phẩm giảm và lợi nhuận trên vốn đầu tư sẽ giảm. Nếu
lãi suất vốn vay nhỏ hơn IRR của dự án thì nhà đầu tư sẽ mở rộng quy mô đầu
tư và ngược lại, nếu lãi suất vốn vay lớn hơn IRR của dự án thì chủ đầu tư sẽ thu
hẹp quy mơ đầu tư hoặc không đầu tư thêm nữa. Cuối cùng, khi IRR tăng lên
làm đầu tư tăng kéo theo quy mô vốn đầu tư tăng, lãi suất giảm làm tiết kiệm

giảm, đầu tư lại tăng lên và ngược lại. Mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa tỷ suất lợi
nhuận trên vốn đầu tư và quy mô vốn đầu tư được thể hiện ở hình 1.3

1
1


Hàm lợi nhuận  biểu hiện mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa IR và quy mô
vốn đầu tư. Tỉ lệ lãi suất thực tế của vốn vay là một trong những nhân tố quan
trọng ảnh hưởng đến sự tăng giảm quy mơ đầu tư, do đó để kích cầu đầu tư
trong trường hợp này cần phải có những cơng cụ lãi suất và chính sách tiền tệ
thích hợp.
I.2.3. Tốc độ phát triển của sản lượng quốc dân:
Tốc độ phát triển của sản lựong quốc dân là một nhân tố vô cùng quan
trọng quyết định tới đầu tư. Việc thay đổi sản lượng chi phối xu hướng đầu tư
trong các chu kỳ kinh doanh. Tuy vậy, tốc độ tăng của sản lượng với tốc độ tăng
của đầu tư lại không giống nhau. Một lý thuyết quan trọng về chi tiêu đầu tư là
lý thuyết Gia tốc đầu tư.
Theo lý thuyết này, tốc độ đầu tư chủ yếu do tốc độ thay đổi sản lượng
quyết định. Để sản xuất ra 1 đơn vị đầu ra cho trước cần phải có lượng vốn đầu
tư nhất định. Nếu ký hiệu x là hệ số gia tốc đầu tư, ta có:

X=

Kt
Yt

Trong đó: Kt : vốn đầu tư tại thời điểm t

Yt : sản lượng tại thời điểm t

X : gia tốc đầu tư hay tỷ lệ phản ánh quan hệ giữa vốn đầu tư và sản
lượng
Hay

Kt = x*Yt
Từ công thức trên ta thấy rằng khi x không đổi, sản lượng tăng sẽ làm cho

vốn đầu tư tăng và ngược lại, khi sản lượng giảm cũng khiến cho lượng vốn đầu
tư giảm. Hay nói cách khác, chi tiêu đầu tư phụ thuộc vào nhu cầu mua sắm tư
liệu sản xuất, trang thiết bị, đến lượt mình, nhu cầu về tư liệu sản xuất lại phụ
thuộc vào quy mơ sản phẩm cần sản xuất ra. Vì vậy khi quy mơ sản phẩm cần
sản xuất tăng thì sẽ làm cho chi tiêu đầu tư tăng và ngược lại.

1
2


Lý thuyết của Keynes giả định mối quan hệ giữa vốn và sản lượng là cố
định nhưng trong thực tế thì quan hệ này ln ln biến động. Mặt khác nó chỉ
xem xét tác động của đầu tư thuần tuý với sự biến động sản lượng chứ không
phải của tổng đầu tư. Lý thuyết của ơng đã xem tồn bộ vốn đầu tư mong muốn
được thực hiện ngay trong cùng một thời kỳ với sản lượng, thực tế không phải
cứ tăng vốn đầu tư là tăng sản lượng.
Sau này, các nhà kinh tế học cho rằng vốn đầu tư mong muốn được xác
định như một hàm của mức sản lượng hiện tại và quá khứ, nghĩa là lượng đầu tư
mong muốn được xác định trong dài hạn. Vì vậy, lý thuyết gia tốc đầu tư hoàn
thiện hơn sau này cũng đã đề cập đến tổng đầu tư.

It =  (K*t – Kt-1) +  Kt-1
Trong cơng thức trên thì It là tổng đầu tư và là hàm của vốn đầu tư mong

muốn (Kt*) và vốn đầu tư thực hiện thời kỳ t-1 (Kt-1) ;  là một hằng số (0<<1)
và  là hệ số khấu hao (0<<1). Công thức trên cho thấy sản lượng thay đổi sẽ
dẫn tới sự thay đổi của quy mơ vốn đầu tư. Khi đã có sự gia tăng quy mơ vốn
đầu tư thì sẽ kéo theo sự gia tăng bổ sung của lao động, nguyên vật liệu và gia
tăng tiêu dùng (gia tăng các yếu tố sản xuất). Sản lượng thời kỳ t tăng lên lại làm
thay đổi quy mô vốn đầu tư thời kỳ (t+1).
Bởi vậy, để tăng quy mơ đầu tư, chúng ta có thể dùng một số chính sách
làm tăng sản lượng hoặc tác động đến lãi suất làm kích cầu đầu tư.
I.2.4. Lợi nhuận thực tế
Lợi nhuận thực tế cũng là một trong các yếu tố quyết định quy mô đầu tư.
Để làm sáng tỏ tác động của lợi nhuận thực tế đến quy mơ đầu tư chúng ta sẽ
tìm hiểu bản chất lợi nhuận thực tế và nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp thông
qua lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư.
Doanh thu của doanh nghiệp (TR) là khoản thu nhập của cơng ty do tiêu
thụ hàng hố, dịch vụ sau khi đã trừ đi các chi phí trung gian trong q trình sản
xuất. Tổng chi phí (TC) bao gồm các khoản như tiền công, tiền lương cho người

1
3


lao động, tiền thuê đất, lãi suất tiền vay và thuế kinh doanh. Chênh lệch giữa
tổng doanh thu và tổng chi phí là lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp.

Prtrước thuế = TR – TC
Lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp sau khi đã trừ đi các khoản thuế
thu nhập phải nộp sẽ còn lại lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp.

Prsau thuế = Prtrước thuế - Tde
Một phần lợi nhuận đó được giữ lại khơng phân phối được gọi là lợi

nhuận để lại (hay lợi nhuận không chia) của doanh nghiệp. Phần lợi nhuận để lại
này cùng với các khoản trích khấu hao tài sản cố định tạo thành quỹ nội bộ của
doanh nghiệp. Theo lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư, nguồn vốn đầu tư có thể
huy động từ quỹ nội bộ và vốn vay bên ngoài như vay các cơng ty tài chính hay
phát hành chứng khốn ra cơng chúng. Khi doanh nghiệp sử dụng nguồn vốn
vay bên ngồi, doanh nghiệp sẽ phải trả chi phí của vốn vay, nếu xảy ra rủi ro thì
doanh nghiệp sẽ ở vào thế bị động và có thể có nguy cơ phá sản. Vì vậy, các
doanh nghiệp thường chọn biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ
và sự gia tăng của lợi nhuận thực tế sẽ làm tăng mức đầu tư của doanh nghiệp.
Ta có thể nói vốn đầu tư của doanh nghiệp là một hàm của lợi nhuận thực tế

I = f (Lợi nhuận thực tế)
Vì vậy, các chính sách có tác động đến thu nhập cịn lại của doanh nghiệp
sẽ có tác dụng kích cầu đầu tư. Muốn kích cầu đầu tư thì chính phủ có thể dùng
các chính sách như giảm thuế thu nhập doanh nghiệp hay miễn, giảm thuế đối
với các khoản lợi nhuận dùng để tái đầu tư.

1
4


Hình 4 mơ tả tác động của thuế thu nhập đến nhu cầu đầu tư. Khi mức thuế của
Chính phủ giảm làm đường cầu đầu tư dịch chuyển sang phải, khoản đầu tư mong
muốn tăng lên. Với mức lãi suất tiền vay xác định i0 thì khi T4 giảm làm đường cầu
đầu tư dịch chuyển sang phải, nhu cầu vốn đầu tư tăng từ I đến I’

I.2.5. Chu kỳ kinh doanh
Theo lý thuyết tính kinh tế của quy mơ, trong những điều kiện nhất định
thì việc gia tăng quy mơ sản lượng sản xuất ra có thể giúp cho chủ đầu tư tiết
kiệm chi phí sản xuất. Do đó yếu tố rất quan trọng quyết định đầu tư là mức sản

lượng của đầu ra. Nhiều nhà kinh tế cho rằng mức sản lượng này chịu ảnh
hưởng của chu kỳ kinh doanh (Hình I.5). Ở mỗi thời kỳ khác nhau của chu kỳ
kinh doanh sẽ phản ánh các mức chi tiêu đầu tư khác nhau.

0

t
Hình I.5. Chu kỳ kinh doanh

Khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi lên, quy mô của nền kinh tế mở
rộng, nhu cầu đầu tư của toàn bộ nền kinh tế cũng như của các doanh nghiệp tư
nhân gia tăng. Trái lại, khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi xuống, quy mô
nền kinh tế thu hẹp, nhu cầu đầu tư của nền kinh tế và các doanh nghiệp tư nhân
thu hẹp lại. Điều này được thể hiện rõ qua hình I.6
0

1
5


Qua đồ thị chúng ta có thể thấy chu kỳ kinh doanh vận động theo hình Sin. Ở vào
thời kỳ đi lên thì nhu cầu đầu tư tăng đẩy đường cầu đầu tư D 0 sang phải, vào vị trí D1,
nói cách khác, với mức lãi suất tiền vay xác định i o thì nhu cầu vốn đầu tư tăng từ I đến
I’. Ngược lại, ở vào thời kỳ đi xuống của chu kỳ kinh doanh thì nhu cầu đầu tư giảm,
đường cầu đầu tư D0 dịch sang bên trái vào vị trí D2 , nhu cầu vốn đầu tư giảm từ I đến
I’’.
Vào thời kỳ đi lên của chu kỳ kinh doanh, cả nền kinh tế và các doanh nghiệp tư
nhân sẽ cần nhiều vốn đầu tư để mua sắm thêm các yếu tố đầu vào, tư liệu sản xuất để
chuẩn bị cho một chu kỳ sản xuất mới. Đối với các doanh nghiệp đã hoạt động một thời
gian thì cần phải có một lượng vốn nhất định dành cho mua sắm nguyên vật liệu cho quá

trình sản xuất mới, sửa chữa, thay thế máy móc, thiết bị hư hỏng, lắp đặt, mua sắm mới
trang thiết bị mở rộng sản xuất, trả lương cho người lao động… Đối với các doanh
nghiệp mới thành lập thì càng cần nhiều vốn để tạo lập, xây dựng cơ sở vật chất ban đầu
và vốn để duy trì hoạt động sau đó. Khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời điểm đi xuống, nhu
cầu đầu tư của nền kinh tế nói chung cũng sẽ đi xuống theo vì đó là thời điểm cuối của
mỗi quy trình sản xuất. Các hãng sẽ khơng mua thêm máy móc, thiết bị hay ngun vật
liệu vì vẫn đủ các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất.
Tuy nhiên, không phải lúc nào sự tăng hay giảm chi tiêu đầu tư của các doanh
nghiệp cũng thuận chiều với xu hướng lên xuống của chu kỳ kinh doanh của tồn bộ nền
kinh tế. Bởi vì mặc dù nền kinh tế suy thoái nhưng các doanh nghiệp vẫn đầu tư phát
triển sản phẩm mới thay thế sản phẩm cũ khi sản phẩm cũ đã mất chỗ đứng trên thị
trường hoặc đã kết thúc chu trình sống, cần phải thay thế, hoặc cũng có một số doanh
nghiệp đầu tư vào các thị trường ngoài nước trong khi nền kinh tế của quốc gia đang trên
đà suy thối.
Một ví dụ điển hình cho việc tăng chi tiêu đầu tư của các doanh nghiệp trong tình
trạng nền kinh tế đang gặp khó khăn là nền kinh tế lớn nhất hành tinh - nước Mỹ. Mặc dù
có nhiều thời kỳ nền kinh tế suy thoái song các doanh nghiệp Mỹ vẫn định tăng chi tiêu
1
6


cho việc xây dựng thêm nhà máy và mua sắm thiết bị trong thời gian đó. Ít nhất thì có
nhiều dấu hiệu cho thấy cuộc suy thoái kinh tế chưa làm các công ty Mỹ cắt giảm kế
hoạch chi tiêu của mình. Và sự tăng trưởng theo kế hoạch, dù là khiêm tốn vẫn là một
dấu hiệu tốt cho nền kinh tế. Song theo xu hướng hành động thông thường thì các cơng ty
thường cắt giảm đầu tư vốn mạnh khi nền kinh tế suy thoái. Trong cuộc suy thoái kinh tế
năm 1982, chi tiêu đầu tư đã giảm 6,2%. Việc này dẫn đến hậu quả là các hãng sản xuất
đã đánh mất thị phần cho các hãng cạnh tranh ngoại quốc. Và bài học được rút ra là “thật
thiển cận khi cắt giảm đầu tư trong một cuộc suy thối”.
Trong sách kinh tế vĩ mơ có viết “các biến động kinh tế thường được gọi là chu kỳ

kinh tế hay chu kỳ kinh doanh” nhưng thuật ngữ này có phần khơng chính xác vì nó gợi
ra rằng các biến động kinh tế diễn ra theo quy luật và có thể dự đốn được. Nhưng trên
thực tế thì các biến động kinh tế thường diễn ra bất ngờ và rất khó dự đốn.
I.2.6. Vai trị của đầu tư Nhà nước
Trong giai đoạn hiện nay thì phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần
định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước là một trong những nội dung quan trọng
nhất của đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Khơng có kinh tế Nhà nước thì
khơng thể thực hiện định hướng XHCN, song khơng có kinh tế tư nhân thì cũng khơng có
kinh tế thị trường… Phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần có tác động nhiều
mặt: giải phóng sức sản xuất, huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực
cho tăng trưởng là cạnh tranh, thực hiện dân chủ hố đời sống kinh tế, đại đồn kết dân
tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp để phát triển kinh tế- xã hội, là con đường xây dựng,
hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Chính vì vậy, đầu tư Nhà nước là một nhân tố hết sức quan trọng có vai trị thúc đẩy
đầu tư tư nhân, đầu tư doanh nghiệp và tổng đầu tư xã hội.
Nguồn vốn đầu tư Nhà nước bao gồm nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước, nguồn
vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh
nghiệp Nhà nước.
Nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước cho hoạt động đầu tư là nguồn chi của Nhà
nước đầu tư vào các dự án quan trọng nằm trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của
1
7


quốc gia, ngành, vùng lãnh thổ hay các địa phương. Ngân sách Nhà nước bao gồm các
khoản thu từ thuế, các loại phí, lệ phí, thu từ việc bán các tài nguyên, bán hoặc cho thuê
các tài sản thuộc quản lý Nhà nước, huy động từ nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức
(ODA)…
Cùng với q trình đổi mới và hội nhập, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước ngày càng đóng vai trị đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội. Nguồn

vốn này được thực hiện trên nguyên tắc các đơn vị sử dụng vốn phải hoàn trả vốn vay với
một lãi suất nhất định. Nguồn vốn này có thể giúp giảm thiểu đáng kể sự bao cấp vốn
trực tiếp của Nhà nước, bắt buộc chủ đầu tư là người đi vay vốn phải tính tốn kỹ hiệu
quả, tính khả thi của dự án đầu tư cũng như tỷ suất lợi nhuận của từng đồng vốn chi tiêu
đầu tư, tránh tham ơ, thất thốt, lãng phí. Bằng việc cấp tín dụng, đặc biệt là tín dụng ưu
đãi cho các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành, lĩnh vực hay khu vực thuộc diện khuyến
khích đầu tư của Nhà nước, Nhà nước sử dụng nguồn vốn này như một công cụ điều tiết
vĩ mô nền kinh tế, có tác dụng tích cực trong việc kích thích, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của đất nước theo hướng cơng nghiệp hóa-hiện đại hố. Ngồi ra, Nhà nước cịn
sử dụng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển này cho mục tiêu phát triển xã hội, giải
quyết các vấn đề xã hội như cho người nghèo vay vốn xố đói giảm nghèo, tạo cơng ăn
việc làm cho người lao động…
Trong tình hình hiện nay ở nước ta, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn giữ vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế. Nguồn vốn mà các doanh nghiệp Nhà nước nắm giữ chiếm
một tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tổng vốn vay từ các ngân hàng
thương mại và vốn vay từ nước ngồi, đặc biệt là các tổng cơng ty, cơng ty thuộc các lĩnh
vực then chốt như dầu khí, than, bưu chính viễn thơng… Vì vậy, mỗi động thái trong
hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp này đều có tác động ít nhiều đến các hành vi của
các chủ đầu tư khác trong nền kinh tế.
Quả thật, đầu tư Nhà nước là lực lượng chủ chốt trong việc đầu tư vào cơ sở hạ
tầng (điện, nước, giao thông vận tải, an ninh quốc phịng, viễn thơng, y tế, giáo dục…) và
các chính sách, định hướng phát triển, phân bổ nguồn vốn cho từng vùng, từng ngành…
sẽ tạo điều kiện thuận lợi, kích thích đầu tư tư nhân, đầu tư của các doanh nghiệp trong
và ngoài nước, đồng thời định hướng đầu tư cho tồn xã hội và khuyến khích các thành
1
8


phần kinh tế khác đầu tư theo đúng định hướng mục tiêu của Nhà nước, nâng cao hiệu
quả hoạt động đầu tư phát triển của tồn xã hội.

I.2.7. Mơi trường đầu tư
Mơi trường đầu tư đóng vai trị như một chất xúc tác ban đầu cho việc ra
quyết định bỏ vốn ra đầu tư của nhà đầu tư, vì vậy mơi trường đầu tư có một vị
trí vơ cùng quan trọng đối với hoạt động đầu tư. Sự cải thiện mơi trường đầu tư
có tác động tích cực đến nền kinh tế, làm tăng nguồn vốn đầu tư và tăng chi tiêu
đầu tư tồn xã hội.
Mơi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tố, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp
đến hiệu quả của các dự án đầu tư. Hiện nay môi trường đầu tư thường được
hiểu với hai khái niệm : môi trường cứng và môi trường mềm.
Môi trường cứng : bao gồm các yếu tố liên quan đến cơ sở hạ tầng kĩ
thuật phục vụ cho sự phát triền kinh tế, gồm hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông,
hệ thống thông tin liên lạc năng lượng…
Môi trường mềm : gồm có hệ thống các dịch vụ hành chính, dịch vụ pháp
lý liên quan đến hoạt động đầu tư, hệ thống các dịch vụ tài chính - ngân hàng, kế
tốn và kiểm tốn..
Cơ sở hạ tầng ln mang tính tiên phong định hướng. Cơ sở hạ tầng của
một nước, một vùng ln phải hình thành và phát triển đi trước một bước so với
các hoạt động KTXH khác. Sự phát triển cơ sở hạ tầng về quy mơ, chất lượng,
trình độ tiến bộ kỹ thuật là những tín hiệu cho thấy định hướng phát triển KTXH, mở đường cho các hoạt động kinh tế xã hội phát triển thuận lợi. Coi nhẹ
hhoặc chậm trễ trong phát triển cấu trúc hạ tầng sẽ khơng tránh khỏi làm tắc
nghẽn, trì trệ các hoạt động sản xuất xã hội, và do đó vấn đề thu hút vốn đầu tư
cũng gặp phải rất nhiều khó khăn.
Môi trường đàu tư tốt sẽ thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư vào hoạt
động kinh tế xã hội, điều này có ý nghĩa quan trọng đối với việc tăng phúc lợi và
năng suất, là động lực của tăng trưởng, giảm đói nghèo. Nền kinh tế giàu có, ổn
định và hiện đại sẽ là động lực thúc đẩy các nhà kinh doanh quyết định tiếp tục
1
9



bỏ vốn để đầu tư phát triển. Trong việc tạo lập mơi trường đầu tư, Chính phủ giữ
một vai trị quan trọng, Chính phủ thường quan tâm đến việc đưa ra các chính
sách nhằm tăng được lịng tin cho các nhà đầu tư. Bản chất nhìn xa trơng rộng
của nhà đàu tư là coi trọng sự ổn định và đảm bảo, do vậy chính sách và hành vi
của Chính phủ có sức ảnh hưởng mạnh trhơng qua tác động của nó đến chi phí,
rủi ro và các rào cản cạnh tranh.
Những doanh nghiệp sẽ không phản ứng đơn lẻ trước các chính sách chính thức.
Họ nhận định về việc những chính sách đó sẽ được thực hiện như thế nào trên thực tế. Và
các doanh nghiệp (cũng như các bên hữu quan khác) sẽ cố gắng gây ảnh hưởng đến chính
sách theo hường có lợi cho họ. Vì thế những vấn đề về hành vi của chính phủ và quản trị
quốc gia, theo nghĩa rộng nhất là cực kỳ quan trọng. Đó là sự tương tác giữa các chính
sách chính thức và công tác quản trị mà doanh nghiệp đánh giá khi ra quyết định đầu tư.
I.2.8. Rủi ro đầu tư:
Khi quyết định bỏ vốn ra đầu tư thì chủ đầu tư ln muốn tối thiểu hố chi phí và
đạt được lợi nhuận tối đa, do vậy trong quá trình chuẩn bị đầu tư các yếu tố bất định sẽ
được tính tốn đến. Song khơng phải lúc nào chúng ta cũng có thể tính tốn được hết các
yếu tố rủi ro có thể xảy ra và ảnh hưởng của nó đến dự án đầu tư. Bản chất của kinh
doanh là đầu tư hôm nay để tăng sản lượng trong tương lai, thực chất đó là việc dùng vận
may làm con tin cho những bấp bênh trong tương lai. Đời sống kinh tế là một vụ kinh
doanh đầy rủi ro và mạo hiểm. Vì vậy, các quyết định đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào các
dự đốn mang tính chủ quan tiềm ẩn sự rủi ro ặc dù các doanh nghiệp ln cố gắng phân
tích đầu tư, giảm đến mức tối đa những bấp bênh đầu tư của mình.
Để mơ tả rủi ro bằng định lượng, người ta có thể dùng xác suất để nói về khả năng
xảy ra của một kết cục hoặc là sự nhận thức về kết cục sẽ xảy ra. Khi xác suất được xác
định một cách chủ quan, những người khác nhau sẽ gắn với những xác suất khác nhau
cho những kết cục khác nhau, và do đó đưa ra các lựa chọn khác nhau. Và xác suất được
dùng để tính 2 chỉ số quan trọng, giúp ta miêu tả và so sánh các lựa chọn rủi ro khác nhau
giá trị kỳ vọng và độ biến thiên,
Trong thực tế có thể chia rủi ro thành 2 loại:
2

0



×