Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư và Giải thích tình hình kích cầu đầu tư ở VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.75 KB, 46 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Nhận thức được vai trò quan trọng của kinh tế Đầu Tư,Đảng và Nhà nước ta
dã thực hiện chính sách kinh tế mở cửa,hội nhập quốc tế,tiến hành hàng loạt các
biện pháp cải cách,đổi mới nền kinh tế quốc dân để đưa Việt Nam xây dựng nên
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Trong quá trình đổi mới đó,đầu tư
có vai trò vô cùng quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Vấn đề đặt ra là để thúc đẩy hoạt động đầu tư trong điều kiện tiềm lực về cơ
sở hạ tầng,chính sách thu hút đầu tư còn nhiều hạn chế,cần phải xây dựng một hệ
thống các chính sách hỗ trợ đầu tư đồng bộ thống nhất.Việc làm thế nào để kích
cầu đầu tư và sử dụng các khoản chi tiêu đầu tư sao cho hợp lý là một vấn đề còn
bộc lộ nhiều hạn chế chưa phù hợp đối với yêu cầu đầu tư của Việt Nam
Do vậy,việc nghiên cứu đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư và
giải thích tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam” có tính cấp thiết cao,đáp ứng đòi
hỏi của thực tiễn
Đây là một đề tài được làm trong trường đại học của sinh viên nên mục đích
chính là học tập và nghiên cứu trao đổi nhằm làm sáng tỏ thêm những vấn đề chưa
hiểu rõ hoặc chưa nắm bắt hết về nội dung môn học,từ đó có cái nhìn va suy nghĩ
rõ hơn về tình hình đầu tư của nước ta hiện nay.Cùng nhau đánh giá và tìm ra
hướng đi mới cho hoạt động đầu tư ở nước ta.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là hoạt động chi tiêu đầu tư va tình hình kích
cầu đầu tư của Việt Nam tại Đại học Kinh Tế Quốc dân khóa học 2006 - 2010
3. Phương pháp nghiên cứu
Tìm hiểu,đánh giá,phân tích và nghiên cứu thông qua sách báo,qua mạng
Internet va qua tham khảo ý kiến cua thầy cô,từ đó rút ra những kinh nghiệm cho
bản thân.
4. Kết cấu của đề tài
Để đạt được mục đích trên đây,luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau
CHƯƠNG I: Cơ sở lý luận về vấn đề nghiên cứu.
CHƯƠNG II: Thực trạng về các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư và


tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam
CHƯƠNG III: Giải pháp nhằm tăng cường kích cầu đầu tư ở Việt Nam
1
B. NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHI TIÊU ĐẦU
TƯ VÀ GIẢI THÍCH TÌNH HÌNH KÍCH CẦU ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM
I. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Đầu tư
Đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực vào một hoạt động nào đó
nhằm đem lại lợi ích cho chủ đầu tư trong tương lai.
12. Các nguồn lực đầu tư
Nguồn lực đầu tư bao gồm:Vốn, đất đai,tài nguyên.
Cần chú ý :Vốn khác tiền ở chỗ:
- Vốn phải luôn được gắn với chủ sở hữu
- Vốn phải được tích tụ đủ một lượng nhất định thì mới đem đi đầu tư được
- Vốn đại diện cho một lượng giá trị tài sản
- Vốn được biểu hiện bằng tiền và phải vận động sinh lời
- Vốn có giá trị về mặt thời gian
1.3. Chi tiêu đầu tư
Chi tiêu đầu tư là quá trinh nhà đầu tư quyết định thời điểm thực hiện đầu tư
và kết hợp các nguồn lực với tỉ lệ như thế nào để quá trình thực hiện đầu tư đạt
được kết quả cao nhất.
II. Một số nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư
2.1. Lợi nhuận kỳ vọng
Là phần lợi ích mà nhà đầu tư mong muốn có được sau khi kết thúc quá trình
thực hiện và vận hành đầu tư. Những kết quả này có thể là sự tăng thêm các tài sản
chính (tiền vốn), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, quản lý, khoa
học..),tài sản vật chất (nhà máy, đường xá,bệnh viện,trường học) và nguồn nhân lực
có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội.

2.2. Lãi suất tiền vay
Thông thường các nhà đầu tư phải vay vốn để thực hiện đầu tư. Lãi suất phản
ánh giá của khoản tiền vay.
2.3. Sản lượng quốc gia
GNP(Gross National Product) tức Tổng sản lượng quốc gia hay tổng sản
phẩm quốc gia là một chỉ tiêu kinh tế đánh giá sự phát triển kinh tế của một đất
nước.Nó được tính là tổng giá trị bằng tiền của các sản phẩm cuối cùng và dịch vụ
mà công dân của một nước lam ra trong một khoản thời gian nào đó,thông thường
là một năm tài chính,không kể làm ra ở đâu(trong hay ngoài nước)
Công thứ tính :
GNP=C+I+G+(X-M)+NR
Trong đó: C:chi phí tiêu dùng cá nhân
2
I:Tổng đầu tư cá nhân quốc nội(tất cả các doanh nghiệp đầu tư
trên lãnh thổ một nước)
G: Chi phí tiêu dngf của chính phủ
X:Kim ngạch xuất khẩu các hàng hoá và dịch vụ
M:Kim ngạch nhập khẩu của hàng hoá và dịch vụ
NR: thu nhập ròng từ các hang hoá và dịch vụ đầu tư ở nước
ngoài(thu nhập ròng)
2.4. Tổng đầu tư xã hội
Tổng đầu tư xã hội = Tổng đầu tư nhà nước+ tổng đầu tư của doanh nghiệp
- Tổng đầu tư nhà nước là tổng phần vốn đầu tư của chính phủ vào trong nền kinh
tế.Thông thường,nhà nước hay đầu tư vào nhưng ngành đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu
rất lớn mà các doanh nghiệp không thê đáp ứng được,và vào các ngành công cộng
- Tổng đầu tư của doanh nghiệp là tổng phần vốn đầu tư của doanh nghiệp vào các
lĩnh vực kinh tế.Thông thường mục đích đầu tư của doanh nghiệp là thu được phần
lợi nhuận lớn hơn phần vốn bỏ ra ban đầu
2.5. Chu kỳ kinh tế
Chu kỳ kinh tế, còn gọi là chu kỳ kinh doanh, là sự biến động của GDP

thực tế theo trình tự ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và hưng thịnh (bùng nổ).
Cũng có quan điểm coi pha phục hồi là thứ yếu nên chu kỳ kinh doanh chỉ gồm hai
pha chính là suy thoái và hưng thịnh (hay mở rộng)
3
• Suy thoái là pha trong đó GDP thực tế giảm đi. Ở Mỹ và Nhật Bản, người ta
quy định rằng, khi tốc độ tăng trưởng GDP thực tế mang giá trị âm suốt hai
quý liên tiếp thì mới gọi là suy thoái.
• Phục hồi là pha trong đó GDP thực tế tăng trở lại bằng mức ngay trước suy
thoái. Điểm ngoặt giữa hai pha này là đáy của chu kỳ kinh tế.
• Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc suy
thoái, nền kinh tế đang ở pha hưng thịnh (hay còn gọi là pha bùng nổ). Kết
thúc pha hưng thịnh lại bắt đầu pha suy thoái mới. Điểm ngoặt từ pha hưng
thịnh sang pha suy thoái mới gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.
III. Kích cầu đầu tư (khái niệm, vai trò, vị trí...)
Kích cầu đầu tư là việc chính phủ đưa ra những biện pháp, đường lối, chủ
trương, chính sách nhằm làm tăng cầu đầu tư trong nước. Tuỳ theo từng thời kì,
từng nhiệm vụ kế hoạch của đất nước mà chính phủ sẽ kích cầu đầu tư về những
lĩnh vực,ngành nghề cho phù hợp.
Tuy nhiên trong thực tế Chính phủ cũng gặp nhiều khó khăn để đưa ra những
quyết định đúng đắn. Bởi lẽ không thể đoán trước được tình hình kinh tế sẽ biến
đổi theo chiều hướng nào.Hơn nữa một chính sách nhằm kích cầu không thích hợp
sẽ để lại hậu quả xấu rất lớn cho nền kinh tế
4
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VỀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHI TIÊU ĐẦU
TƯ VÀ TÌNH HÌNH KÍCH CẦU ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM
I. Thực trạng về các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư
1.1. Thực trạng về đầu tư Việt Nam
1.1.1. Đầu tư ở trong nước
Đầu tư trong nước là việc sử dụng vốn để sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam

của tổ chức, cá nhân ( bao gồm người Việt Nam, là người nước ngoài thường trú ở
Việt Nam).
Hiện nay, đầu tư trong nước đang ngày càng phát triển. Việc xuất hiện sàn
giao dịch chứng khoán Hostc tại thành phố HCM vào năm 2001 là bước ngoặt cho
thị trường đầu tư trong nước.Có thể nói thị trường chứng khoán kênh huy động vốn
rất quan trọng cho các doanh nghiệp trong nước đã được niêm yết.
Nhà đầu tư trong nước sẽ là nòng cốt của thị trường chứng khoán
Sau 7 năm đi vào hoạt động và phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam
đã hình thành một cơ sở nhà đầu tư vững mạnh.
Theo thống kê của Ủy ban Chứng khoán, tính đến cuối tháng 6/2007, thị
trường chứng khoán Việt Nam có 243.809 tài khoản tăng 2,3 lần so với tháng
12/2006 (106.393 tài khoản). Trong đó, 242.624 tài khoản của nhà đầu tư cá nhân
và 1.185 tài khoản nhà đầu tư có tổ chức.
Để phát triển cầu chứng khoán, trong thời gian tới, Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước sẽ khuyến khích phát triển nhà đầu tư,các tổ chức trong nước làm nòng cốt,
đào tạo phổ cập kiến thức cho công chúng dưới các hình thức khác nhau, làm cho
công chúng đầu tư, các doanh nghiệp hiểu được các nội dung của thị trường chứng
khoán , các nghiệp vụ liên quan, thậm chí cần trang bị các kiến thức về đầu tư, về
rủi ro và biện pháp phòng ngừa cũng như khả năng phân tích dự báo tình hình biến
động của thị trường chứng khoán .
Ngoài việc đầu tư trên thị trường chứng khoán,nhà đầu tư trong nước còn đa
dạng hoá các hình thức đầu tư của mình như đầu tư vào vàng,ngoại tệ,bất động
sản…tạo điều kiện kích thích sự tăng trưởng kinh trong nước.
1.1.2. Đầu tư của nước ngoài vào nước ta
Lao Động Cuối tuần số 04 Ngày 27/01/2008 Cập nhật: 6:44 AM, 24/01/2008
(LĐCT) - Ngày 24.1.2008, Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức hội nghị tổng kết 20
năm đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong 20 năm vốn đăng ký đầu tư nước ngoài
ở Việt Nam đạt 98 tỉ USD với khoảng 9.500 dự án, vốn đầu tư được thực hiện đạt
hơn 43 tỉ USD.
Khu vực đầu tư nước ngoài đã đóng góp hơn 17% GDP, 16% tổng đầu tư xã

hội, đã tạo ra hàng trăm ngàn việc làm. Đầu tư nước ngoài đã có đóng góp to lớn
vào sự phát triển ngoạn mục của Việt Nam trong 20 năm qua.
5
Đầu tư nước ngoài vào VN tiếp tục tăng
(NLĐ)- Theo Cục Đầu tư nước ngoài, 10 tháng đầu năm 2008, cả nước thu
hút được 59,31 tỉ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Các dự án tập trung
chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 55,7%; dịch vụ 43,9%.
Tính riêng tháng 10, đã có 22 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn đầu tư là
169 triệu USD, đưa tổng dự án tăng vốn 10 tháng đầu năm 2008 là 247 lượt dự án với
tổng vốn đầu tư đăng ký tăng thêm là 1,02 tỉ USD. Cục Đầu tư nước ngoài đánh giá:
Vốn FDI tiếp tục đổ vào VN bất chấp tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Điều
đó chứng tỏ nhà đầu tư nước ngoài vẫn đặt niềm tin vào thị trường VN.
1.1.3. Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài
Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, 5 tháng đầu
năm 2007, các doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài 15 dự án với số vốn
đăng ký gần 90 triệu USD, nâng tổng số dự án đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam
lên 200 dự án, tổng vốn trên 1 tỷ USD.
Các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực thăm dò, khai
thác dầu khí, sản xuất hàng gia dụng, vật liệu xây dựng, nông-lâm-ngư nghiệp và
dịch vụ.
Trong số 33 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư của doanh nghiệp Việt
Nam thì Lào chiếm tới 70 dự án, với số vốn đăng ký 461 triệu USD, chiếm 44,7%
tổng vốn đăng ký.
Cục Đầu tư nước ngoài đánh giá, nhìn chung các dự án đầu tư ra nước
ngoài đã bước đầu được triển khai hiệu quả. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp có
kế hoạch đầu tư ra nước ngoài để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên,
số lượng dự án và quy mô vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhỏ.
Cục Đầu tư nước ngoài dự báo, năm nay, vốn đầu tư ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam có thể đạt 300 triệu USD, chủ yếu là vào các thị trường
quen thuộc, trong đó có Lào.

(Theo TTXVN)
- Đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam sẽ tiếp tục gia tăng
Mặc dù tình hình trong nước và quốc tế có nhiều khó khăn, song theo báo cáo của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Bộ KH - ĐT) về tình hình đầu tư ra nước ngoài (ĐTRNN)
của Việt Nam trong 10 tháng năm 2008, xu hướng ĐTRNN của Việt Nam sẽ tiếp
tục gia tăng.
Theo báo cáo của Bộ KH – ĐT, trong 10 tháng năm 2008 đã có 52 dự án do các
doanh nghiệp Việt Nam ĐTRNN với tổng số vốn đầu tư đăng ký (kể cả cấp mới và
tăng vốn) trên 502,7 triệu USD. Quy mô vốn đầu tư trung bình đạt 9,66 triệu USD/
dự án.
Trong đó, các dự án ĐTRNN tập trung nhiều nhất trong lĩnh vực công nghiệp với
24 dự án, tổng vốn đầu tư là 239 triệu USD, chiếm 46,1% số dự án và 75,5% tổng
vốn đầu tư. Tiêu biểu có dự án của Công ty cổ phần hợp tác kinh tế Việt – Lào đầu
tư xây dựng nhà máy thủy điện Nậm Mô (Lào) với tổng vốn đầu tư 142,09 triệu
USD.
6
Về địa bàn, Lào vẫn là quốc gia dẫn đầu về đầu tư Việt Nam ra nước ngoài với 13
dự án, tổng vốn đầu tư là 137,3 triệu USD.
Dự báo tổng số vốn đăng ký ĐTRNN của các doanh nghiệp Việt Nam trong năm
2008 bao gồm cả tăng vốn sẽ đạt khoảng 800 triệu USD, trong đó vốn thực hiện
khoảng 400 triệu USD.
(Nguồn: Website Đảng Cộng sản VN)
1.2. Thực trạng về các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư ở Việt nam
hiện nay
1.2.1. Lợi nhuận kỳ vọng
Theo lý thuyết Keynes
_ một trong hai yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của doanh
nghiệp là Lợi nhuận kì vọng(LNKV).Nếu LNKV tăng:nhà đầu tư sẽ mở rộng quy
mô đầu tư và ngược lại LNKV giảm:nhà đầu tư sẽ thu hẹp quy mô đầu tư
_Keynes còn đưa ra thuật ngữ liên quan đến LNKV:Hiệu quả cận biên của

vốn đầu tư (hay tỉ suất lợi nhuận biên)=số đồng lợi nhuận tăng thêm khi tăng thêm
1 đồng vốn đầu tư.Thuật ngữ này có xu hướng giảm dần bởi rất nhiều nguyên
nhân.Trong đó hai nguyên nhân chính làm cho tỉ suất lợi nhuận biên có xu hướng
giảm dần là:
.Khi đầu tư tăng nhu cầu nguyên vật liệu máy móc tăng =>Giá nguyên
vật liệu tăng (giả định giá bán 1 sản phẩm không thay đổi)=>Lợi nhuận trên một
đơn vị sản phẩm giảm =>Tỉ suất lợi nhuận giảm
.Cung hàng hóa dịch vụ ngày càng tăng=> Giá sản phẩm giảm(giả sử
chi phí ban đầu không thay đổi)=>Lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm giảm =>Tỉ
Suất lợi nhuận biên giảm
Chính vì hiểu được tỉ suất lợi nhuận có xu hướng giảm nên các doanh nghiệp
thường xuyên phải linh động thay đổi hình thức quản ly cũng như quy mô đầu tư
sao cho phù hợp nhất.
_Các nhà đầu tư khi quyết định đầu tư không căn cứ vào tỉ suất lợi nhuận
theo cách tính thông thường mà dựa vào tỉ suất lợi nhuận biên của vốn.Họ chỉ tiếp
tục đầu tư khi mà tỉ suất lợi nhuận biên của vốn còn lớn hơn tỉ lệ lãi suất tiên
vay.Có nghĩa là phải thấu được cái lợi chắc chăn trước mắt thi họ mới quyết định
mở rộng đầu tư.Trong thực tế Tỉ suất lợi nhuận là đại lượng khó xá định nhưng
chính đại lượng khó xác định này lại là động lực thúc đẩy các nhà đầu tư bỏ vốn để
đầu tư.Bởi lẽ tỉ suất lợi nhuận chỉ là mong muốn của họ đạt được sau khi kết thúc
quá trình đầu tư. Nên không thể dự đoán chính xác đại lượng này bằng bao nhiêu
khi mà hoạt động đầu tư chưa xảy ra.
12.2. Lãi suất tiền vay
Lãi suất tiền vay chính là giá của khoản vốn vay.Vì thế nó cũng được coi là chi
phí đầu tư ban đầu và có ảnh hưởng trực tiếp tơi quyết định đầu tư của doanh
nghiệp.
7
Nếu giá của vốn vay nhỏ hơn tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư thì nhà đầu tư sẽ mở rộng
quy mô và ngược lại nếu giá của vốn vay lớn hơn tỉ suất lợi nhuận vốn đầu tư thì
nhà đầu tư sẽ cắt giảm quy mô đầu tư.

1.2.3. Sản lượng quốc gia
Xuất phát tư công thức(đã nêu ở 2.3 phần II chương 1) ta thấy hoạt động đầu
tư va sản lượng quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp tới nhau. Ở đây ta xem xét sự thay
đổi của sản lượng quốc gia sẽ tác động đến hoạt động đầu tư như thế nào.
Sản lượng quốc gia tăng ( với điều kiện các yếu tố khác không thay đổi) sẽ là
nhân tố cơ bản làm tăng quy mô vốn đầu tư.Thực tế chứng minh rằng khi mà nên
kinh tế đang trong đà phát triển (hay đang trong giai đoạn phục hồi) thì các nhà đầu
tư sẽ mở rộng quy mô đầu tư.( xem cụ thể trong phần chu kì kinh tế). Và ngược lại
khi sản lượng quốc gia giảm (với điệu kiện các yếu tố khác không thay đổi) là nhân
tố cơ bản làm giảm quy mô vốn đầu tư vì các nhà đầu tư sẽ thu hẹp quy mô đầu tư.
Tuy nhiên tốc độ tăng của sản lượng quốc gia và tốc độ tăng quy mô vốn đầu
tư không giống nhau. Khi sản lượng nền kinh tế thay đổi thì vốn đầu tư thay đổi
theo cùng chiều nhưng tốc độ thay đổi của vốn đầu tư lớn hơn nhiều lần so với sự
thay đổi sản lượng.Cụ thể khi doanh thu tăng thêm i% thì vốn đầu tư phải tăng
thêm 1 số j lớn hơn i rất nhiều lần vì để sản xuất thêm 1 đơn vị sản phẩm thì tiêu
tốn rất nhiều nguồn lực nên tổng số vốn để sản xuất ra 1đơn vị sản phẩm đó là rất
nhiều và ngược lại.
1.2.4. Tổng đầu tư xã hội
Tổng đầu tư xã hội= Đầu tư của nhà nước+ Đầu tư của doanh nghiệp
Theo tổng cục Thống kê, khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm
2007 theo giá thực tế ước tính vốn khu vực nhà nước 200.000 tỉ đồng, chiếm 43,3%
tổng vốn và tăng 8,1%; vốn khu vực ngoài nhà nước 187.800 tỉ đồng, chiếm 40,7%
và tăng 24,8%. Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện chín tháng đầu năm khu vực nhà
nước 162.200 tỉ đồng, tăng 8%; khu vực ngoài nhà nước 118.500 tỉ đồng, giảm
9,6%. Số liệu này chứng tỏ, khu vực nhà nước sử dụng vốn ít hiệu quả hơn xét trên
khía cạnh tạo công ăn việc làm, trong khi tiếp tục có nguồn vốn đầu tư ổn định
Trong hai bộ phận trên thì đầu tư của nhà nước là khởi nguồn cho đầu tư của
doanh nghiệp. có thể thấy rõ nhận định này khi xem xét vai trò của Chính phủ- kim
chỉ nam, lực lượng đi đầu, định hướng cho tất cả các thành phần kinh tế khác.
Thứ nhất, với những khu vực kinh tế mới, những ngành kinh tế mới, doanh

nghiệp chưa đủ khả năng thực hiện quá trình đầu tư
Thứ hai, rủi ro của những khu vực kinh tế, ngành kinh tế mới này thường
không thể dự đoán trước được.
Thứ ba, đầu tư Nhà nước, đầu tư công luôn luôn cần thiết vì chúng ta không
thể trông chờ tất cả vào khu vực kinh tế tư nhân trong phát triển các công trình, dự
án trọng điểm, cần rất nhiều vốn như đường sá, cầu, cảng…
Vì vậy nhà nước phải là lực lượng đầu tiên thực hiện đầu tư vào các khu vực
kinh tế mới này thông qua việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng ban đầu để phục
vụ cho quá trình đầu tư. Chính phủ phải tạo ra một môi trường thuận lợi như cung
8
cấp các khoản vay ưu đãi, có các chính sách thuế khuyến khích khu vực kinh tế tư
nhân phát triển… Việc sử dụng chính sách tiền tệ quá thắt chặt sẽ khiến nó giết
chết sáng kiến của khu vực kinh tế tư nhân. Và khi thực hiện những chính sách tài
khóa cũng phải làm thế nào để không hạn chế thái quá việc đầu tư của khu vực kinh
tế tư nhân.
-Về đầu tư của nhà nước:
Như đã nói ở trên, đầu tư Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, là khởi nguồn cho đầu tư của doanh nghiệp. Thực tế hiện
nay cho thấy các chương trình kinh tế trọng điểm, công trình xây dựng lớn đều
được Nhà nước đầu tư.
Tuy nhiên Có một điều ai cũng nhận ra là đầu tư sai hầu hết là đầu tư nhà nước.
Nên một trong những biện pháp quan trọng là phải giảm đầu tư nhà nước, tạo điều
kiện, mở rộng lĩnh vực cho đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài tăng. Nhà nước sẽ
chuyển dần nhiệm vụ, chủ yếu là qui hoạch, còn đầu tư là quyền của các chủ thể
kinh tế. Nhà nước nên chủ động thu hẹp lĩnh vực đầu tư nhà nước, tránh ôm đồm.
Nguồn vốn trong dân còn rất nhiều, người ta phải đầu tư gián tiếp lên thị trường
chứng khoán vì đầu tư trực tiếp bị khống chế bởi nhà nước
Kinh tế nhà nước chủ đạo không có gì để bàn. Nhưng bên cạnh phải xác định
kinh tế tư nhân là chủ lực. Chủ đạo không có chủ lực thì không.
- Đầu tư của doanh nghiệp:

Đầu tư tư nhân trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng nhanh, trở
thành nguồn tạo công ăn việc làm chủ yếu cho nền kinh tế, trong khi kinh tế nhà
nước ngày càng giảm tỷ trọng trong GDP.
Thứ nhất, mặc dù số lượng và vốn đầu tư của DN tăng đáng kể, song quy mô
của DN vẫn còn nhỏ và tăng trưởng chậm. Theo thống kê của CIEM, Việt Nam
hiện có tới 80% DN có vốn dưới 5 tỷ đồng
Yếu về quy mô, những chỉ số khác đều cho thấy, DN Việt Nam còn phải phấn
đấu nhiều, tăng trưởng tài sản DN đạt tốc độ trung bình 18,2%/năm, tăng trưởng
vốn chủ sở hữu khiêm tốn hơn với 14,7%/năm, tăng trưởng về doanh thu đạt
17,5%/năm, còn tăng trưởng về lợi nhuận chỉ đạt 13%/năm.
Doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã
đóng góp tích cực vào việc thu hút lao động, giải quyết công ăn việc làm cho người
lao động. Theo nghiên cứu của tiến sĩ Nguyễn Quang A, trong bảy năm tính từ
2000, số việc làm mới được tăng thêm là 3.180.000 người. Con số này là nhờ khối
doanh nghiệp tư nhân và đầu tư nước ngoài, trong đó, khối tư nhân tạo ra 2.329.000
người và khối có vốn nước ngoài là 1.037.000 người. Khối doanh nghiệp nhà nước
trong bảy năm đó không tạo thêm việc làm mới mà còn mất đi hơn 181.000 việc
làm.
Điều đó chứng tỏ việc phát triển các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác là một định hướng đúng và không chỉ có hiệu quả về kinh tế mà còn có hiệu
quả lớn hơn về mặt xã hội. Cần tạo môi trường thông thoáng hơn và khuyến khích
việc thành lập doanh nghiệp ngoài nhà nước.
9
Ngoài ra vốn trung bình tạo một việc làm mới cho khối tư nhân là 0,25 tỉ
đồng/chỗ làm, trong khi con số tương ứng ở khối doanh nghiệp nhà nước là 0,84 tỉ
đồng. Đánh giá khái quát, ông Nguyễn Quang A chỉ ra, khối doanh nghiệp nhà
nước tuy chỉ có chưa tới 5% tổng số lao động cả nước nhưng lại sử dụng gần 1/2
tổng đầu tư xã hội và chỉ đóng góp 37% vào GDP của năm 2006.
Mô hình tốt nhất mà tôi nghĩ VN nên áp dụng là xây dựng quan hệ đối tác giữa
đầu tư công và đầu tư tư nhân, kết hợp hai nguồn vốn này để cùng nhau xây dựng

đất nước”- ông Supachai Panitchpakdi- Tổng thư ký về thương mại và phát triển
của Liên hiệp quốc nhận định.
Tất nhiên, kinh tế tư nhân cũng phải tự thúc đẩy kinh doanh, đa dạng hóa hình
thức kinh doanh cũng như cơ cấu hàng xuất khẩu của mình. Theo tôi, các sản phẩm
của Việt Nam nói riêng và châu Á nói chung có đầy đủ khả năng để tiếp cận với
nhiều thị trường trên thế giới
1.2.5. Chu kỳ kinh tế
• Chu kỳ kinh tế là những biến động không mang tính quy luật. Không có hai
chu kỳ kinh tế nào hoàn toàn giống nhau và cũng chưa có công thức hay phương
pháp nào dự báo chính xác thời gian, thời điểm của các chu kỳ kinh tế. Chính vì
vậy chu kỳ kinh tế, đặc biệt là pha suy thoái sẽ khiến cho cả khu vực công cộng lẫn
khu vực tư nhân gặp nhiều khó khăn. Khi có suy thoái, sản lượng giảm sút, tỷ lệ
thất nghiệp tăng cao, các thị trường từ hàng hóa dịch vụ cho đến thị trường
vốn...thu hẹp dẫn đến những hậu quả tiêu cực về kinh tế, xã hội.
Một số lý thuyết chính lý giải nguyên nhân của chu kỳ kinh tế là:
• Lý thuyết tiền tệ: cho rằng chu kỳ kinh tế là do sự mở rộng hay thắt chặt của
chính sách tiền tệ và tín dụng. Đại diện tiêu biểu của lý thuyết này là nhà kinh tế
học đoạt giải Nobel kinh tế năm 1976, người đứng đầu trường phái Chicago Milton
Friedman. Lý thuyết này tỏ ra phù hợp với cuộc suy thoái của kinh tế Hoa Kỳ
1981-1982 khi Cục Dự trữ Liên bang tăng lãi suất danh nghĩa tới 18% để chống
lạm phát.
• Mô hình gia tốc - số nhân: do Paul Samuelson đưa ra, mô hình này cho rằng
các biến động ngoại sinh được lan truyền theo cơ chế số nhân kết hợp với sự gia tốc
trong đầu tư tạo ra những dao động có tính chu kỳ của GDP.
• Lý thuyết chính trị: đại diện là các nhà kinh tế học William Nordhaus,
Michał Kalecki,... Lý thuyết này quy cho các chính trị gia là nguyên nhân gây ra
chu kỳ kinh tế vì họ hướng các chính sách tài khóa và tiền tệ để có thể thắng cử.
• Lý thuyết chu kỳ kinh doanh cân bằng: với những đại diện như Robert
Lucas, Jr., Robert Barro, Thomas Sargent...phát biểu rằng những nhận thức sai lầm
về sự vận động của giá cả, tiền lương đã khiến cho cung về lao động quá nhiều

hoặc quá ít dẫn đến các chu kỳ của sản lượng và việc làm. Một trong những phiên
bản của lý thuyết này là tỷ lệ thất nghiệp cao trong suy thoái là do mức lương thực
tế của công nhân cao hơn mức cân bằng của thị trường lao động.
• Lý thuyết chu kỳ kinh doanh thực tế: lập luận rằng những biến động tích cực
10
hay tiêu cực về năng suất lao động trong một khu vực có thể lan tỏa trong nền kinh
tế và gây ra những dao động có tính chu kỳ. Những người ủng hộ lý thuyết này là
nhà kinh tế học đoạt giải Nobel năm 2004 Edward Prescott, Charles Prosser,...
Nắm vững những đặc điểm của từng pha trong chu kì kinh tế mà các doanh
nghiệp có thể lựa chọn thời điểm đầu tư cho phù hợp
Ở pha suy thoái khi mà GDP thực tế giảm đi, đồng nghĩa với việc thu nhập xã hội
giảm. Chính vì lí do này làm cho lợi nhuận kì vọng giam đi.Một khi lợi nhuận lì
vọng giảm đi(như đã phan tích ở trên)thi các nhà đầu tư sẽ thu hẹp quy mô sản
xuất.Và đây chính là nguyên nhân của tình trạng đầu tư bị trì trệ khi nền kinh tê
lâm vào suy thoái.
Ngược lại các nhà đầu tư sẽ mở rộng quy mô đầu tư khi nên kinh tê đang ở giai
đoạn phục hồi và hưng thịnh bởi họ hi vọng quá trình đầu tư trong thời điểm này sẽ
mang lại hiệu quả cao.Như vậy các nhà đầu tư sẽ ồ ạt đầu tư,làm cho nên kinh tê
phát triển qua nong.Kết quả của một nền kinh tế phát triển quá nóng sẽ là sự suy
thoái.Bởi lẽ giai đoạn cuối của pha hưng thịnh trong chu ki kinh tế là pha suy thoái.
Các nha đầu tư cân dưng quá trình mở rộng đầu tư khi mà nên kinh tê ở dã phát
triển quy hưng thịnh
Như vậy là chu kì kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư của doanh
nghiệp.Chính vì vậy khi ra quyết đinh đầu tư doanh nghiệp phải chú ý rất lớn đến
thời điểm quyết định mở rộng hay thu hẹp quy mô đầu tư.
Ngày nay các chuyên gia kinh tế đã tìm cách xây dựng và phát triển công cụ dự báo
những thay đổi trong nền kinh tế. Những mô hình đơn giản nhất dựa trên số liệu dễ
thu thập như sản lượng một số tư liệu sản xuất quan trọng (thép,...), khối lượng
hàng hóa vận chuyển... rồi công thức hóa số liệu thống kê để đưa ra chỉ số có tính
chất dự báo. Dần dần, với sự phát triển của công nghệ thông tin, người ta đã xây

dựng những mô hình kinh tế lượng phức tạp với hàng chục nghìn biến số cùng
những hệ phương trình phức tạp để dự báo. Đi tiên phong trong sự phát triển công
cụ dự báo là những nhà kinh tế học Jan Tinbergen (giải Nobel năm 1969),
Lawrence Klein (giải Nobel năm 1980). Nhờ đó, dự báo biến động kinh tế vĩ mô đã
có độ tin cậy lớn hơn mặc dù nó chưa đạt độ chính xác cao khi có những thay đổi
về những chính sách lớn. Đây có thê coi là sự hỗ trợ đắc lực giúp các nhà đầu tư có
thê dự đoán được sư biến động của nền kinh tế để đưa ra những quyết định đầu tư
đúng đắn nhất
II. Thực trạng về kích cầu đầu tư ở Việt Nam
2.1. Kích cầu đầu tư của nước ngoài ở Việt Nam
2.1.1 Cấp phép đầu tư từ 1988 đến 2007:
Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép
đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm). Trừ các dự
án đã hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn, hiện có 8.590 dự án còn
hiệu lực với tổng vốn đăng ký 83,1 tỷ USD. Biểu đồ tình hình cấp chứng nhận đầu
tư tại Việt Nam có sự biến động (xem tại Phụ lục).
11
Trong 3 năm 1988-1990, mới thực thi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
Việt Nam nên kết quả thu hút vốn ĐTNN còn ít (214 dự án với tổng vốn đăng ký
cấp mới 1,6 tỷ USD), ĐTNN chưa tác động đến tình hình kinh tế-xã hội đất nước.
Trong thời kỳ 1991-1995, vốn ĐTNN đã tăng lên (1.409 dự án với tổng vốn
đăng ký cấp mới 18,3 tỷ USD) và có tác động tích cực đến tình hình kinh tế-xã hội
đất nước. Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN tại Việt Nam
(có thể coi như là “làn sóng ĐTNN” đầu tiên vào Việt Nam) với 1.781 dự án được
cấp phép có tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn) 28,3 tỷ USD. Đây
là giai đoạn mà môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam đã bắt đầu hấp dẫn nhà
đầu tư do chi phí đầu tư-kinh doanh thấp so với một số nước trong khu vực; sẵn lực
lượng lao động với giá nhân công rẻ, thị trường mới, vì vậy, ĐTNN tăng trưởng
nhanh chóng, có tác động lan tỏa tới các thành phần kinh tế khác và đóng góp tích
cực vào thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất nước. Năm 1995 thu hút

được 6,6 tỷ USD vốn đăng ký, tăng gấp 5,5 lần năm 1991 (1,2 tỷ USD). Năm 1996
thu hút được 8,8 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 45% so với năm trước.
Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký
hơn 13 tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước (năm 1998 chỉ
bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998), chủ yếu là các dự án
có quy mô vốn vừa và nhỏ. Cũng trong thời gian này nhiều dự án ĐTNN được cấp
phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu tư
gặp khó khăn về tài chính (đa số từ Hàn Quốc, Hồng Kông).
Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu
phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với
năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm,
chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so với năm
2002. Và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1% so với
năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4% và năm 2007 đạt mức kỷ
lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006, và tăng hơn gấp đôi
so với năm 1996, năm cao nhất của thời kỳ trước khủng hoảng.
Trong giai đoạn 2001-2005 thu hút vốn cấp mới (kể cả tăng vốn) đạt 20,8 tỷ
USD vượt 73% so với mục tiêu tại Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của
Chính phủ
1[2]
, vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD tăng 30% so với mục tiêu. Nhìn
chung trong 5 năm 2001-2005, vốn ĐTNN cấp mới đều tăng đạt mức năm sau cao
hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng đa phần là các dự án có quy
mô vừa và nhỏ. Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn ĐTNN vào nước ta đã
tăng đáng kể (32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư
chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ
cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch-dịch vụ
cao cấp .v.v.). Điều này cho thấy dấu hiệu của “làn sóng ĐTNN” thứ hai vào Việt
Nam.
1

12
2.1.2 Tình hình tăng vốn đầu tư (1988-2007):
Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động
có hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư, nhất là
từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100 lượt dự án tăng vốn
đầu tư với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng 23,8% tổng vốn đầu tư đăng
ký cấp mới.
Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn đầu tư hầu như chưa có do số lượng doanh
nghiệp ĐTNN còn ít. Từ số vốn đầu tư tăng thêm đạt 2,13 tỷ USD trong 5 năm
1991-1995 thì ở giai đoạn 1996-2000 đã tăng gần gấp đôi so với 5 năm trước
(4,17 tỷ USD). Giai đoạn 2001-2005 vốn đầu tư tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt
18% so dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước. Trong đó, lượng vốn
đầu tư tăng thêm vượt con số 1 tỷ USD bắt đầu từ năm 2002 và từ năm 2004 đến
2007 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng 35%.
Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất công
nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ; 65,7% trong
giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006
và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và 79,1% tổng vốn tăng thêm.
Do vốn đầu tư chủ yếu từ các nhà đầu tư châu Á (59%) nên trong số vốn tăng
thêm, vốn mở rộng của các nhà đầu tư châu Á cũng chiếm tỷ trọng cao nhất 66,8%
trong giai đoạn 1991-1995, đạt 67% trong giai đoạn 1996-2000, đạt 70,3% trong
thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 72,1% và 80%.
Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng kinh
tế trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm phía Nam
chiếm 55,5% trong giai đoạn 1991-1995 ; đạt 68,1% trong thời kỳ 1996-2000 và
71,5% trong giai đoạn 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là
71% và 65%. Vùng trọng điểm phía Bắc có tỷ lệ tương ứng là 36,7%; 20,4% ;
21,1% ; 24% và 20%.
Qua khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản -JETRO tại Việt
Nam có trên 70% doanh nghiệp ĐTNN được điều tra có kế hoạch tăng vốn, mở

rộng sản xuất tại Việt Nam. Điều này chứng tỏ sự tin tưởng và an tâm của nhà
ĐTNN vào môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam.
2.1.3. Quy mô dự án :
Qua các thời kỳ, quy mô dự án ĐTNN có sự biến động thể hiện khả năng tài
chính cũng như sự quan tâm của các nhà ĐTNN đối với môi trường đầu tư Việt
Nam. Quy mô vốn đầu tư bình quân của một dự án ĐTNN tăng dần qua các giai
đoạn, tuy có “trầm lắng” trong vài năm sau khủng hoảng tài chính khu vực 1997.
Thời kỳ 1988-1990 quy mô vốn đầu tư đăng ký bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự án/
năm. Từ mức quy mô vốn đăng ký bình quân của một dự án đạt 11,6 triệu USD
trong giai đoạn 1991-1995 đã tăng lên 12,3 triệu USD/dự án trong 5 năm
1996-2000. Điều này thể hiện số lượng các dự án quy mô lớn được cấp phép trong
giai đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong 5 năm trước. Tuy nhiên, quy mô vốn đăng ký
trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án trong thời kỳ 2001-2005. Điều này cho thấy
13
đa phần các dự án cấp mới trong giai đoạn 2001-2005 thuộc dự án có quy mô vừa
và nhỏ. Trong 2 năm 2006 và 2007, quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án
đều ở mức 14,4 triệu USD, cho thấy số dự án có quy mô lớn đã tăng lên so với thời
kỳ trước, thể hiện qua sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào một
số dự án lớn (Intel, Panasonic, Honhai, Compal, Piaggio....).
2.1.4. Cơ cấu vốn ĐTNN từ 1988 đến 2007:
ĐTNN phân theo ngành nghề :
- Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng:
Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Việt Nam đã chú trọng
thu hút ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp-xây dựng. Qua mỗi giai đoạn các lĩnh vực
ưu tiên thu hút đầu tư, các sản phẩm cụ thể được xác định tại Danh mục các lĩnh
vực khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư. Trong những năm 90 thực hiện
chủ trương thu hút ĐTNN, Chính phủ ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích
các dự án : (i) sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, (ii) sản xuất hàng xuất
khẩu (có tỷ lệ xuất khẩu 50% hoặc 80% trở lên), (iii) sử dụng nguồn nguyên liệu
trong nước và có tỷ lệ nội địa hoá cao.

Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO (năm 2006), Việt Nam đã
bãi bỏ các quy định về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, không yêu cầu
bắt buộc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá và sử dụng nguyên liệu trong nước. Qua các
thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp- xây dựng tuy có thay đổi
về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản
xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo,
thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử... Đây cũng chính
là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt Nam có lợi thế so sánh khi
thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án ĐTNN thuộc các lĩnh vực nêu trên
(thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm
điện và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất hàng dệt may...) vẫn giữ vai trò quan
trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn
thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có chuyển biến
tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu và
công nghệ thông tin (IT) với sự có mặt của các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế
giới: Intel, Panasonic, Canon, Robotech.v.v. Hầu hết các dự án ĐTNN này sử dụng
thiết bị hiện đại xấp xỉ 100% và tự động hoá đạt 100% cho sản lượng, năng suất,
chất lượng cao, do đó có ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu giá trị của toàn ngành.
Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn
nhất với 5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8%
về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện.
14
STT Chuyên ngành Số dự án
Vốn đầu t ư
(USD)
Vốn thực hiện
(USD)
1 CN dầu khí 38
3,86
1,511,815

5,14
8,473,303
2 CN nhẹ
2,54
2
13,26
8,720,908
3,63
9,419,314
3 CN nặng
2,40
4
23,97
6,819,332
7,04
9,365,865
4 CN thực phẩm 310
3,62
1,835,550
2,05
8,406,260
5 Xây dựng 451
5,30
1,060,927
2,14
6,923,027
Tổng số
5,74
5
50,02

9,948,532
20,0
42,587,769
- ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ:
Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987).
Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng
kinh tế. Một số ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản) tăng
trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực
hiện lộ trình cam kết thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh
thu hút ĐTNN, phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất
khẩu.
Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động
sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh
hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ), du lịch-
khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%) (xem bảng).
15
TT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư
(triệu USD)
Đầu tư đã
thực hiện
(triệu USD)
1 Giao thông vận tải-
Bưu điện ( bao gồm
cả dịch vụ logicstics)
208 4.287 721
2 Du lịch - Khách sạn 223 5.883 2.401
3 Xây dựng văn phòng,

căn hộ để bán và cho
thuê
153 9.262 1.892
4 Phát triển khu đô thị
mới
9 3.477 283
5 Kinh doanh hạ tầng
KCN-KCX
28 1.406 576
6 Tài chính – ngân hàng 66 897 714
7 Văn hoá - y tế – giáo
dục
271 1.248 367
8 Dịch vụ khác (giám
định, tư vấn, trợ giúp
pháp lý, nghiên cứu
thị trường...)
954 2.145 445
Tổng cộng 1.912 28.609 7.399
Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực công
nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch
vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006
(31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng
khu vui chơi, giải trí.v.v.
- ĐTNN trong lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư :
Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông Lâm ngư nghiệp đã
được chú trọng ngày từ khi có luật đầu tư nước ngoài 1987. Tuy nhiên đến nay do
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực này,
nên kết quả thu hút ĐTNN vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư chưa được như mong
muốn.

Đến hết năm 2007, lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án còn hiệu
lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD; chiếm
10,8% về số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện, (giảm từ 7,4%
so với năm 2006). Trong đó, các dự án về chế biến nông sản, thực phẩm chiếm tỷ
trọng lớn nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành, trong đó, các dự án hoạt động
có hiệu quả bao gồm chế biến mía đường, gạo, xay xát bột mì, sắn, rau. Tiếp theo
16
là các dự án trồng rừng và chế biến lâm sản, chiếm 24,67% tổng vốn đăng ký của
ngành. Rồi tới lĩnh vực chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối
cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm gần 9% tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản
với vốn đăng ký là 450 triệu USD,
Cho đến nay, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành
nông-lâm-ngư nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan, Nhật Bản,
Trung Quốc, Hồng Kông,..) chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào ngành nông nghiệp
(riêng Đài Loan là 28%). Các nước thuộc EU đầu tư vào Việt Nam đáng kể nhất
gồm có Pháp (8%), quần đảo British Virgin Islands (11%). Một số nước có ngành
nông nghiệp phát triển mạnh (Hoa Kỳ, Canada, Australi)a vẫn chưa thực sự đầu tư
vào ngành nông nghiệp nước ta.
Các dự án ĐTNN trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở
phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng
bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu vực
miền Trung, lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông Hồng
lượng vốn đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước.
STT Nông, lâm nghiệp
Số dự
án
Vốn đăng ký
(USD)
Vốn thực hiện
(USD)

1
Nông-Lâm
nghiệp

803
4,0
14,833,499
1,8
56,710,521
2 Thủy sản

130
4
50,187,779
1
69,822,132
Tổng số

933
4,4
65,021,278
2,0
26,532,653
ĐTNN phân theo vùng, lãnh thổ :
Qua 20 thu hút, ĐTNN đã trải rộng khắp cả nước, không còn địa phương
“trắng” ĐTNN nhưng tập trung chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, làm cho các vùng này thực sự là
vùng kinh tế động lực, lôi kéo phát triển kinh tế-xã hội chung và các vùng phụ cận
(xem biểu 5).
Vùng trọng điểm phía Bắc có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên

24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án, 27% tổng vốn đăng ký cả nước và 24% tổng
vốn thực hiện của cả nước; trong đó Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn
đăng ký 12,4 tỷ USD) chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện cả vùng. Tiếp
theo thứ tự là Hải Phòng (268 dự án với tổng vốn đăng ký 2,6 tỷ USD), Vĩnh Phúc
(140 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Hải Dương (271 dự án với tổng vốn
đăng ký 1,7 tỷ USD), Hà Tây (74 dự án với tổng vốn đăng ký 1,5 tỷ USD), Bắc
Ninh (106 dự án với tổng vốn đăng ký 0,93 tỷ USD) và Quảng Ninh (94 dự án với
tổng vốn đăng ký 0,77 tỷ USD).
17
Vùng trọng điểm phía Nam thu hút 5.293 dự án với tổng vốn đầu tư 44,87 tỷ
USD, chiếm 54% tổng vốn đăng ký, trong đó, tp Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước
(2.398 dự án với tổng vốn đăng ký 16,5 tỷ USD) chiếm 36,9% tổng vốn đăng ký
của Vùng. Tiếp theo thứ tự là Đồng Nai (918 dự án với tổng vốn đăng ký 11,6 tỷ
USD) chiếm 25,9% vốn đăng ký của Vùng, Bình Dương (1.570 dự án với tổng vốn
đăng ký 8,4 tỷ USD) chiếm 18,8% vốn đăng ký của Vùng; Bà Rịa-Vũng Tàu (159
dự án với tổng vốn đăng ký 6,1 tỷ USD) chiếm 13,6% vốn đăng ký của Vùng;
Long An (188 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD) chiếm 4,1% vốn đăng ký
của Vùng. Điều này, minh chứng cho việc triển khai thực hiện Nghị quyết 09/2001/
NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ và Chỉ thị 19/2001/CT-TTg ngày 28/8/2001
của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả ĐTNN thời
kỳ 2001-2005.
2[3]
Chính vì vậy, ngoài một số địa phương vốn có ưu thế trong thu hút vốn
ĐTNN (Hà Nội, tp Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Hải
Phòng, Quảng Ninh) một số địa phương khác (Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Phú Yên, Hà
Tây..) do yếu tố tích cực của chính quyền địa phương nên việc thu hút vốn ĐTNN
đã chuyển biến mạnh, tác động tới cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Năm 2004 công
nghiệp có vốn ĐTNN chiếm 86% giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh Bà Rịa-
Vũng Tàu, 81% của tỉnh Vĩnh Phúc, 70% của tỉnh Đồng Nai, 65% của tỉnh Bình
Dương, 46% của Thành phố Hải Phòng, 35% của Thành phố Hà Nội và 27% của

thành phố Hồ Chí Minh. Đối với Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đang chuyển
dần sang trở thành trung tâm dịch vụ cao cấp của cả vùng (bưu chính, viễn thông,
tài chính, ngân hàng..) cũng như hướng thu hút vốn ĐTNN vào các ngành công
nghệ cao thông qua một số khu công nghệ cao (Quang Trung, Hòa Lạc)
Vùng trọng điểm miền Trung thu hút được 491 dự án với tổng vốn đăng ký
8,6 tỷ USD qua 20 năm thực hiện Luật Đầu tư, chiếm 6% tổng vốn đăng ký của cả
nước, trong đó: Phú Yên (39 dự án với tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ USD) hiện đứng
đầu các tỉnh miền Trung với dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Vũng Rô có vốn
đăng ký 1,7 tỷ USD. Tiếp theo là Đà Nẵng (113 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ
USD), Quảng Nam (15 dự án với tổng vốn đăng ký 1,1 tỷ USD) đã có nhiều tiến bộ
trong thu hút vốn ĐTNN, nhất là đầu tư vào xây dựng các khu du lịch, trung tâm
nghỉ dưỡng, vui chơi đạt tiêu chuẩn quốc tế, bước đầu đã góp phần giảm tình trạng
“cháy” buồng, phòng cho khách du lịch, nhưng nhìn chung vẫn còn dưới mức nhu
cầu và tiềm năng của vùng. Tây Nguyên cũng ở trạng thái thu hút vốn ĐTNN còn
khiêm tốn như vùng Đông Bắc và Tây Bắc, trong đó, tuy Lâm Đồng (93 dự án với
tổng vốn đăng ký 318,4 triệu USD) đứng đầu các tỉnh khu vực Tây Nguyên nhưng
chỉ chiếm tỷ trọng 1% về số dự án. Đồng bằng sông Cửu Long thu hút vốn ĐTNN
còn thấp so với các vùng khác, chiếm 3,6% về số dự án và 4,4% về vốn đăng ký và
3,2% vốn thực hiện của cả nước.
2
18

×