Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật và vai trò của nó đối với hoạt động con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.79 KB, 18 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Mục lục
Trang
Mục lục 1
Đặt vấn đề 2
Giải quyết vấn đề 3
Chương I: Phép biện chứng và khái quát lịch sử phép 3
biện chứng.
I- Khái niệm phép biện chứng. 3
II- Khái quát lịch sử phép biện chứng. 5
Chương II: Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy 6
vật và vai trò của nó đối với hoạt động
con người
I- Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng 6
duy vật. Vai trò đối với hoạt động con
người.
II- Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng 8
duy vật. Vai trò đối với hoạt động con
người.
III- Sáu cặp pham tru cơ bản của phép biện 11
chứng duy vật. Vai trò đối với hoạt động
con người.
Kết thúc vấn đề 15
Tài liệu tham khảo 16
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhận thức, tư duy con người có quan hệ thế nào với thế giới xung
quanh? Con ngưòi có khả năng nhận thức được thế giới hiện thực hay
không? Mà khi con người nhận thức được thế giới xung quang thì viẹc áp
dụng những hiểu biết đó vào thực tiễn như thế nào? Đây chính là một


trong hai vấn đề cơ bản của triết học.
Bằng việc kế thừa có chọn lọc những thành quả của các nhà triết
học tiền bối, dựa trên viẹc khái quát những thành quả mới nhất của khoa
học đương thời cũng như thực tiễn lịch sử loài người, vào giữa thế kỷ XIX
C.Mac và Ph.Angghen đã sáng lập ra triết học duy vật biện chứng và phép
biện chứng duy vật mà về sau được V.I.Lênin phát triển.
Phép biện chứng duy vật được coi là phương pháp luận chung nhất
của mọi hoạt động thực tiễn, giup con người nhận thức được thế giới.
Vậy phép biện chứng là gì và nó có ý nghĩa như thế nào đối với
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người? Chúng ta hãy xem xét
các vấn đề này ở dưới đây trong các khía cạnh để hiểu thêm về phép biện
chứng duy vật.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Chương I
Phép biện chứng và khái quát lịch sử phép biện chứng
I. Khái niệm phép biện chứng.
1. Phương pháp luận.
Có thể nói một cách tổng quát phương pháp luận là lý luận về
phương pháp, là khoa học về phương pháp, phương pháp giải quyết các
vấn đề như: Phương pháp là gì? Bản chật, nội dung, hình thức của nó như
thế nào? Phân loại phương pháp ra sao? Vai trò của phương pháp trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người như thế nào?
Có thể nói một cách khác cụ thể hơn rằng: Phương pháp luận là hệ
thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo cụ thể việc
xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng một cách hợp lý có hiệu quả
tối đa.
Mọi khoa học đều có lý luận về phương pháp của mình, các khoa
học đều phải xác định cho được các phương pháp thích hợp và mối quan

hệ biện chứng giữa các phương pháp đó.
Phương pháp luận được phân thành các loại sau:
o Phương pháp luận phổ biến
o Phương pháp luận chung
o Phương pháp luận riêng
2. Khái niệm phép biện chứng.
Phép biện chứng là phương pháp nghiên cứu xem xet sự vật hiện
tượng trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau với các sự vật hiện
tượng khác trong quá trình vận động biến đổi và phát triển không ngừng,
có nguyên nhân từ việc giải quyết mâu thuẫn bên trong của chinhs sự vật
hiện tượng đó.
3. Một số nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng.
Trước hết chúng ta cần hiểu phép biện chứng là hệ thống các
nguyên tắc được hình thành trên cơ sở các nguyên lý, quy luật và phạm trù
của phép biện chứng duy vật. Các nguyên tắc này tuy có nội dung khác
nhau song chúng có sự liên hệ bổ sung lẫn nhau, tạo thành một công cụ có
vai trò to lớn trong nhận thức các quy luật của thế giới khach quan.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
a) Nguyên tắc về tính khách quan của sự xem xét.
Cơ sở lý luận của nó là vai trò quýât định của vật chất trong quan
hệ đối với ý thức, còn yêu cầu đối với mọi khoa học là khi nghiên cứu sự
vật phải xuất phát từ bản thân sự vật để chỉ ra các quy luật khách quan chi
phối sự vận động và phát triển của sự vật ấy.
b) Nguyên tắc về tính toàn diện.
Là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong các ngành khoa học.
Việc nhận thức bản chất của sự vậtphải được xem xét trong trạng thái toàn
vẹn và phức tạp của nó. Cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các
mặt, các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó.
c) Nguyên tắc xem xét trong sự phát triển, trong sự vận động.

Cơ sở lý luận là nguyên lý về sự phát triển, với yêu cầu là khi thực
hiện nguyên tắc này không chỉ dừng ở chỗ liệt kê các giai đoạn phát triển
lịch sử mà sự vật đã trải qua, ma phải vạch ra tính tất yếu, những quy luật
chi phối sự liên hệ và thay thế các trạng thái từ trạng thái này sang trạng
thai khác của sự vật.
d) Nguyên tắc thống nhất giữa lịch sử và logic.
Lịch sử là khách thể được nghiên cứu trong sự vận động và phát
triển. Logic là sự tái tạo dưới hình ảnh tinh thần khác quan dang vận động
và phát triển với những mối liên hệ tất yếu và xác định.
Yêu cầu chung là phương pháp lịch sử phải nắm lấy cái logic,
xoay quanh cái logic. Phương pháp logic phải dụa trên các tài liệu lịch sử
để vạch ra những mối liên hệ tất yếu, những quy luật khách quan vốn có
trong quá trình lịch sử.
e) Nguyên tắc thống nhất giữa phân tích và tổng hợp, giữa quy
nạp và diễn dịch.
Phân tích và tổng hợp được tiến hành trong quá trình nhận thức, là
sự lặp lại trong ý thức quá trình phân giải và tổng hợp ở thế giới khách
quan.
Quy nạp là quy tắc mà tư duy đi từ tri thức về cái riêng ( sự vật
hiện tượng, quá trình riêng lẻ) đến tri thức về cái chung, từ tri thức ít
chung đến tri thức chung hơn.
Diễn dịch là thao tác nhờ đó tư duy đi từ tri thức chung đến tri thức
ít chung hơn, đến tri thức cái riêng.
f) Nguyên tắc đi từ trừu tượng đến cụ thể.
Cơ sở lý luận là sự tổng hợp lại nhờ tư duy lý luận các tài liệu do
trực quan sinh động đem lại. Ở đây cái trừu tượng phản ánh những mối
liên hệ phổ biến nhất, đơn giản nhất nhưng có vai trò quyết định trong cái
cụ thể nghiên cứu.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368

4. Vai trò của phép biện chứng.
Phép biện chứng là đỉnh cao của te duy khoa học. Nó không xuất
phát tự ý muốn chủ quan của người sáng tạo ra nó mà gia trị đó được thể
hiện ở chỗ “giải pháp những vấn đề mà tư tưởng tiến tới của loài người
đặt ra”, soi sáng các nhiệm vụ đã chín muồi của nhân loại, đó là nhiệm vụ
giải phóng con người khỏi mọi hình thức áp bức bóc lột, khỏi sự tha hoá.
Cho đến ngày nay phép biện chứng duy vật vẫn là cơ sở thế giới quan,
phương pháp luận khoa học duy nhất đáp ứng được nhiệm vụ lịch sử đó
mà chưa có một học thuyết nào có thể thắng thế được. Chỉ có phép biện
chứng duy vật mới có sự giải thích khoa học về những quá trình vận động,
phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, nắm được quy luật vận động của
lịch sử, đem lại một giải pháp khoa học cho những vấn đề đó một cách
khoa học. Tuy nhiên, ngay nay, khoa học và thực tiễn luôn vận động biến
đổi nên triết học Mac-Lenin nói chung và phép biện chứng duy vật nói
riêng cũnh cần được bổ sung và phát triển. Phép biện chứng duy vật vừa
là yêu cầu của thực tiễn xã hội, vừa là yêu cầu của nội tại học thuyết đó.
Có phát triển được và thông qua phát triển, học thuyết đó mới bảo vệ
mình và phát huy được tác dụng và những giá trị của nó.
Phép biện chứng duy vật ra đời đánh dấu bước phát triển mới về
chất trong lĩnh vực triết học, đó là học thuyết triết học hoàn bị, triệt để
thống nhất được xây dựng trên lập trường thế giới khách quan. Nó bao
hàm cả tự nhiên, xã hội và tư duy con người, sự thống nhất hữu cơ giữa lý
luận và phương pháp, giữa lý luận và thực tiễn, giữa khoa học và cách
mạng.
Phép biện chứng duy vật là một hệ thống mở, nắng động. Nó dành
cả một phương hướng rộng lớn cho sự chứng minh của khoa học, cho sự
bù đắp của tri thức nhân loại, là sự hướng dẫn và là động lực cho con
người trong việc cải tạo tự nhiên và xã hội.
Phép biện chứng duy vật không giống bất cứ một học thuyết triết
học nào khác, bởi nó không phải là sản phẩm của phương pháp tư duy mà

nó là sự phản ánh khách quan thế giới vật chất, là sự kích thích những giá
trị tư tưởng, văn hoá nhân loại. Nó kế thừa có chọn lọc chủ nghĩa duy vật
và phép biện chứng trong lịch sử, đồng thời khái quát những thành tựu
mới nhất của khoa học tự nhiên. Học thuyết đó luôn lấy thực tiễn làm cơ
sở, điểm xuất phát của mình. Chính thực tiễn đã làm cho phép biện chứng
luôn sống động, phát triển.
5. So sánh phương pháp biện chứng với phương pháp siêu hình.
Phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình đã xuất hiện từ
rất sớm trong lịch sử của triết học. Theo Ph.Angghen:
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phương pháp siêu hình chỉ nhìn thấy sự vật riêng biệt mà không
nhìn thây mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại
của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh vaf tiêu vong của
những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà
quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không
nhìn thấy rừng.
Phương pháp biện chứng ngược lại với phương pháp siêu hình,
không chỉ nhìn thấy sự vật cá biệt mà còn thấy cả mối liên hệ qua lại giữa
chúng, không chỉ thấy “cây” mà thấy cả “rừng”, nhìn thấy sự vật trong
mối liên hệ ràng buộc, tác động qua lại lẫn nhau, trong trạng thái vận
động, biến đổi không ngừng.
II. Khái quát lịch sử phép biện chứng.
1. Phép biện chứng ngây thơ tự phát cổ đại.
Phép biện chứng ngây thơ tự phát cổ đại, tiêu biểu là Hêraclít, ông
cho rằng sự vận đôngh và phát triển của thế giới giông như dòng chảy của
một con sông, như vậy không ai tắm hai lần trên một dòng sông Biện
chứng ngây thơ dựa trên quan sát có tính trực quan, chỉ có ý nghĩa vô
thần, chống lại quan niệm tôn giáo về thế giới, ít có gia trị khoa học. Biện
chứng ngây thơ là hạn chế, bị phương pháp siêu hình xoá bỏ.

2. Phép biện chứng duy tâm.
Người tiêu biểu cho phép biện chứng duy tâm khách quan là
Hêghen. Ông là người đầu tiên có công xây dựng tương đối hoàn chỉnh
phép biện chứng duy tâm với hệ thống các phạm trù, khái niệm và các quy
tắc cơ bản. Tuy nhiên phép biện chứng của Heghen còn thiếu triệt để và
thiếu khoa học.
3. Phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật do Mac-Angghen sáng lập ra vào giữa
thế kỷ XIX và sau này được Lenin phát triển. Phép biện chứng duy vật là
sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện
chứng. Nhờ đó khắc phục được những hạn chế trước đây của phép biện
chứng ngây thơ chất phác và phép biện chứng duy tâm, thực sự trở thành
khoa học đưa con người tới bến bờ chân lý. Phép biện chứng duy vật bao
gồm các nguyên lý, những cặp phạm trù và những quy luật.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương II
Nội dung cơ bản của của phép biện chứng duy vật và vai trò của nó
đối với hoạt động của con người
I. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. Vai trò của
nó đối với hoạt động của con người.
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ phổ biến là sự ràn buộc quy định lẫn nhau nhưng đồng
thời lại có tác động để làm biến đổi lẫn nhau của các sự vật hiện tượng
hay giữa các yếu tố các mặt của một quá trình.
Mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài:
Mối liên hệ bên trong là sự liên hệ qua lại, sự tác động lẫn nhau
giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính, các mặt khác nhau của
một sự vật; nó giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát
triển của sự vật.

Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, các hiện
tượng khác nhau; nói chung nó không có ý nghĩa quyết định; nó thường
phải thông qua mối liên hệ bên trong mà phát huy tác dụng đối với sự vận
động và phát triển của sự vật.
Mối liên hệ bản chất và không bản chất, mối liên hệ tất yếu và
ngẫu nhiên cũng có tính chất tương tự như trên, ngoài ra chúng còn có
những nét đặc thù: cái ngẫu nhiên khi xem xét trong quan hệ này lại là tất
yêu khi xem xét trong quan hệ khác, ngẫu nhiên lại là hình thức biểu hiện
ra bên ngoài của cái tất yếu.
Mối liên hệ mang tính khách quan, phổ biến và đa dạng:
Tính khách quan: vì liên hệ là cái vốn có của bản thân sự vật hiện
tượng; mỗi sự vật hiện tượng tuy khác nhau nhưng chúng đều là những
dạng cụ thể của thế giới vật chất nên tất yếu giữa chúng nảy sinh mối liên
hệ lẫn nhau.
Tính phổ biến: liên hệ có ở tất cả sự vật hiện tượng và trong mọi
lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; không có sự vật hiện tượng nào nằm
ngoài mối liên hệ.
Tính phong phú, đa dạng: tức là tồn tại nhiều loại mối liên hệ khác
nhau; ngoài những mối liên hệ như đã nói ở trên, còn có các mối liên hệ
như: liên hệ chủ yếu và liên hệ thứ yếu, liên hệ trực tiếp và liên hệ gián
tiếp.
Việc nghiên cứu về mối liên hệ phổ biến của các sự vật và hiện
tượng có vai trò quan trọng đối với hoạt động con người. Trong hoạt động
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhận thức cần phải có quan điểm toàn diện khi xem xét sự vật hiện tượng;
tức là phải xem xét nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các
yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật hiện tượng đó, trong
mối liên hệ qua lại giữa các sự vật đó với các sự vật khác (cả trực tiếp và
gián tiếp), trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Trong

hoạt động thực tiễn, để cải tạo sự vật chúng ta phải bằng hoạt động thực
tiễn làm biến đổi mối liên hệ nội tại của chính sự vật cũng như mối liên hệ
qua lại của sự vật đó với sự vật khác; đồng thời phải sử dụng nhiều biện
pháp và nhiều phương tiện khác nhau. Các mối liên hệ có vai trò không
như nhau, do đó để thúc đẩy sự vật phát triển phải phân loại được các mối
liên hệ, nhận thức được mối liên hệ cơ bản quy định bản chất của sự vật
và giải quyết mối liên hệ đó.
2. Nguyên lý về sự phát triển.
Sự phát triển là sự biến đổi theo chiều hướng đi lên từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, đưa
đến sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Sự phát triển gắn liền với sự vận
động tuy nhiên không phải sự vận động nào cũng đưa tới sự phát triển.
Chỉ có sự vận động theo chiều hướng tiến lên, đưa đến sự ra đời của cái
mới thay thế cái cũ mới là sự phát triển. Cái mới bao hàm trong nó cái tiến
bộ, cái tích cực sau khi đã loại bỏ cái tiêu cực, cái lạc hậu của cái cũ.
Sự phát triển mang tính khách quan, phổ biến và đa dạng:
Tính khach quan: sự phát triển tạo nên từ việc giải quyết các mâu
thuẫn bên trong vốn có của bản thân sự vật hiện tượng, nó không phụ
thuộc vào ý thức của con người mà nó còn quy định ý thức của con người.
Tính phổ biến: sự phát triển có trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội
và tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện tượng nào của thế giới khách quan.
Tính phong phú, đa dạng: sự phát triển của sự vật hiện tượng diễn
ra bằng nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau tuy thuộc vào từng
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
Từ nguyên lý về sự phát triển rút ra quan điển phát triển trong
nhận thức sự vật và hiện tượng và đó chính là nguyên tác phương pháp
luận trong nhận thức. Trong thực tiễn, con ngưòi cần chia sự phát triển
của sự vật theo từng giai đoạn nhất định, rồi nghiên cứu, so sách, đối
chiếu nhau để thấy ra được sự phát triển cao hơn, tiến bộ hơn.
Trong quá trình phát triển, sự vật thường đồng thời có những sự

biến đổi tiến lên và có cả những biến đổi thụt lùi. Do đó, trước khó khăn,
thất bại tạm thời phải bình tĩnh, có niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai.
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
II. Ba uy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Vai trò của nó
đối với hoạt động của con người.
1. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Các mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc
tính, những có xu hướng biến đổi ngượi chiều nhau. Các mặt đối lập nằm
trong mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau thì tạo thành mâu thuẫn.
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là sự nương tụa vào nhau,
không tách rời nhau. Sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia
làm tiền đề. Ngược lại, đấu tranh giữa các mặt đối lập là sự tác động qua
lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau.
Quan hệ thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập thể hiện ở
chỗ: Các mặt đối lập không tách rời nhau, thống nhất giữa các mặt đối lập
là tương đối, còn đấu tranh là tuyệt đối. Trong một thể thống nhất luôn
diễn ra đấu tranh, nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể
thống nhất mới, sự vật cũ mất đi và sự vật mới ra đời thay thế.
Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có tính khách
quan, phổ biến và đa dạng:
Tính khách quan: Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong sự vật, hiện
tượng; không phụ thuộc vào ý thức của con người mà còn quy định cả ý
thức của con người.
Tính phổ biến: Mâu thuẫn có trong mọi sự vật, hiện tượng trong tự
nhiên, xã hội và tư duy của con người. Mâu thuẫn có trong các giai đoạn
phát triển khác nhau của sự vật và tồn tại giữa chúng.
Tính đa dạng: Mỗi sự vật quá trình của thế giới khách quan tồn tại
những mâu thuẫn khác nhau. Bản thân mọi quá trình khác nhau trong tự
nhiên, xã hội và tư duy lại có những mâu thuẫn khác nhau (mâu thuẫn bên

trong và mâu thuẫn bên ngoài, mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản, mâu
thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thử yếu, mâu thuẫn đối kháng và không đối
kháng).
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có ý nghia
quan trọng trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của con người. Để nhận
thức đúng bản chất của sự vật và tìm ra phương hướng giải pháp đúng cho
hoạt động thực tiễn, phải đi sâu nghiên cứu mâu thuẫn của sự vật. Phải
xem xét vị trí, vai trò, mối quan hệ của các mâu thuẫn và điều kiện chuyển
hoá lẫn nhau giữa chúng.
Để thúc đẩy sự phát triển của sự vật phải tìm mọi cách để giải
quyết mâu thuẫn chứ không điều hoà mâu thuẫn.
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2. Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất và ngược lại.
Chất và những thuộc tính về chất: Chất là phạm trù triết học dùng
để chi tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu
cơ của những thuộc tính làm cho sự vật lá nó chứ không phải là cái khác.
Thuộc tính về chất là một khía cạnh nào đó về chất của một sự vật, nó
được bộc lộ ra trong mối quan hệ qua lại với sự vật khác. Mỗi sự vật có
muôn vàn thuộc tính, mỗi thuộc tính cũng có một phức hợp những đặc
trưng về chất của mình, khiến cho mỗi thuộc tính lại trở thành một chất.
Điều đó có nghĩa là mỗi sự vật có vô vàn chất. Với tư cách là khía cạnh
của chất được bộc lộ ra trong các mối quan hệ, các thuộc tính của sự vật
có vị trí khác nhau, trong đó, có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ
bản. Tổng hợp những thuộc tính cơ bản tạo thành chất cơ bản của sự vật.
Ở mỗi sự vật chỉ có một chất cơ bản, đó là loại chất mà sự tòn tại hay mất
đi của nố quy định sự tồn tại hay mất đi của bản thân sự vật.
Lượng và thuộc tính về lượng: Lượng là một phạm trù triết học
dùng để chỉ tính quy định mang tính đồng nhất, tính tương tự, tính giống

nhau của các sự vật, do đó mà chúng có thể tăng lên hay giảm đi, phân
chia hay liên kết. Lượng được thể hiện thành số lượng, đại lượng, trình độ,
quy mô, nhịp điệu của sự vận động và sự phát triển - tức là được thể hiện
trong các thuộc tính không-thời gian của các sự vật hiện tượng. Không chỉ
chất mà thuộc tính về chất cũng có tính quy định về lượng, do vậy, một sự
vật có thể có vô số lượng.
Mối quan hệ giữa chất và lượng.
Những sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất:
Chất tương đối ổn định, lượng thường xuyên biến đổi, sự biến đổi
về lượng trong một giới hạn nhất định chưa gây nên chất biến đổi căn bản.
Giới hạn đó gọi là độ.
Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoạng giới hạn, trong đó, sự
thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật ấy. Độ thể
hiện tính thống nhất giữa chất và lượng.
Nếu lượng thay đổi vượt qua mức giới hạn về độ, phá vỡ sự thống
nhất với chất, khi đó lượng sẽ từ từ xoá bỏ chất, tạo nên sự nhảy vọt tại
điểm nút - phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó, sự thay
đổi về lượng đã đủ làm cho chất thay đổi.
Sự thay đổi về chất do những sự thay đổi về lượng trước đó gây ra
gọi là bước nhảy. Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn
chuyển hoá về chất của sự vật do những sự thay đổi về lượng trước đó gây
ra.
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chất mới ra đời tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng, làm
thay đổi quy mô tồn tại của sự vật, thay đổi nhịp điệu vận động và phát
triển của sự vật đó.
Vai trò của quy luật đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn của
con người:
Để giữ cho sự vật phát triển tương đối ổn định thì ta phải giữ vững

sự thống nhất giữa chất và lượng trong độ, sao cho sự thay đổi về lượng
đó không đẫn đến sự thay đổi về chất.
Muốn đạt được sự thay đổi về chất thì phải thực hiện những biến
đổi dần dần về lượng. Tránh khuynh hướng xem thường những sự thay
đổi về lượng để thực hiện ngay những biến đổi về chất.
Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn con người phải
biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất. Khi đã tích luỹ
đủ về số lượng thì phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy để chuyên
những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất; từ những
thay đổi mang tính chất tiến hoá sang thay đổi mang tính cách mạng.
3. Quy luật phủ định của phủ định.
Sự phủ định là sự thay thế sự vật, hiện tượng này bằng sự vật, hiện
tượng khác trong qúa trình vận động và phát triển. Phủ định biện chứng là
phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân, là
mắt xích trong quá trình dẫn tới sự ra đời của sự vật mới tiến bộ hơn sự
vật cũ.
Đặc điểm của phủ định biện chứng:
Phủ định biện chứng là quá trình mang tính khách quan do mâu
thuẫn của bản thân sự vất tự quy định. Hơn nữa, phương thức phủ định sự
vật cũng không phụ thuộc ý muốn của con người.
Phủ định biện chứng không phải là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn
toàn cái bị phủ định. Trái lai, để dẫn đến sự ra đời của cái mới, qúa trình
phủ định biện chứng bao hàm trong nó nhân tố giữ lại những nội dung tích
cực của cái bị phủ định. Phủ định biện chứng, do vậy, là sự phủ định
mang tính kế thừa. Trong nghĩa như vậy, phủ định đồng thời cũng là
khẳng định.
Nội dung của quy luật phủ định của phủ định:
Phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một nấc thang
trong quá trình phát triển. Với tư cách là kết quả của phủ định lần thứ
nhất, cái mới cũng chứa đựng trong bản thân mình xu hướng dẫn đến

những lần phủ định tiếp theo - phủ định của phủ định. Chỉ có thông qua
phủ định của phủ định mới dẫn tới việc ra đời một sự vật, trong đó có sự
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lặp lại một số đặc trưng cơ bản của cái xuất phát ban đầu, nhưng trên cơ
sở cao hơn. Đến đây một chu kỳ phát triển kêt thúc. Khái quat một chu kỳ
phát triển đó tạo thành nộ dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ
định.
Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hoá của các mặt
đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và phủ định.
Sự phủ định thứ nhất được thực hiện một cách căn bản sẽ làm cho
sự vật cũ chuyển thành cái đối lập của mình.
Sau những lần phủ định tiếp theo, đến một lúc nào đó sẽ ra đời một
sự vật mới mang nhiều đặc trưng đối lập với cái xuất phát. Như vậy, về
hình thức, sẽ trở lại cái ban đầu, song thực chất, không phải giống nguyên
như cũ, mà dường như lặp lại cái cũ, nhưng trên cơ sở cao hơn.
Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ
phát triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển về
sau, tạo ra đường xoáy ốc của quá trình vận động và phát triển. Mỗi vòng
mới của đương xoáy ốc thể hiện một trình độ cao hơn của sự phát triển,
đồng thời dường như quay lại cái đã qua, dường như lặp lại vòng trước.
Sự nối tiêp nhau của các vòng thể hiện sự vô tận của sự tiến lên từ thấp
đến cao.
Nắm vững được quy luật phủ định của phủ định cho ta cơ sở lý
luận để hiểu về sự ra đời của cái mới. Cái mới nhất định sữ thay thế cái
cũ, cái tiến bộ sẽ thay thế cái lạc hậu; cái mới ra đời từ cái cũ, nó kế thừa
tất cả những mặt tích cực của cái cũ. Do đó, cần chống thái độ phủ định
sạch trơn cái cũ.
Trong công tác phải tin tưởng vào tương lai phát triển của cái mới,
mặc dù lúc đầu nó còn yếu ớt, phải ra sức bồi dưỡng, phát huy cái mới,

tạo điều kiện cho nó chiến thắng cái cũ.
Vừa phải chống thái độ “hư vô chủ nghĩa” trong khi nhìn nhận lịch
sử, đánh giá quá khứ, vừa phải chống thái độ bảo thủ, khư khư giữ lại
những gì đã lỗi thời cản trở bước tiến của lịch sử.
III. Sáu cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật. Vai trò
của nó đối với hoạt động của con người.
Phạm trù triết học là những khái niệm chung nhất phản ánh những
mặt, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất không chỉ ở mọt lĩnh vực
nhất định nào đấy của hiện thực mà là toàn bộ hiện thực khách quan.
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các cặp phạm trù triết học được hình thành trong quá trình hoạt
động nhận thức và thực tiễn của con người, bằng con đường khái quát
hoá, trừư tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có bên trong
bản thân sự vật.
1. Cái chung và cái riêng.
Cái riêng là phạm trù triết học chỉ từng sự vật, hiện tượng, quá
trình phát triển trong thế giới khách quan. Cái chung là phạm trù tiết học
chỉ những thuộc tính, những mặt hoặc những mối liên hệ nhất định lặp lại,
giống ở nhiều sự vật, hiện tượng, quá trình khác nhau. Cái đơn nhất là
phạm trù chỉ những thuộc tính, hay yếu tố nào đó của sự vật nhất định,
không lặp lại trong các sự vật khác.
Giữa cái chung và cái riêng vừa có mối quan hệ thống nhất vừa có
sự đối lập. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng chú
không biệt lập, lơ lửng đâu đó bên cạnh cái riêng. Cái riêng chỉ tòn tại
trong mối liên hệ đưa đến cái chung, vì bất cú cái riêng nào cũng đều tồn
tại trong muôn vàn mối liên hệ qua lại với các sự vật, hiện tượng. Có sự
liên hệ ấy là vì giữa chúng có những điển giống nhau (cái chung) nhất
định. Cái chung là bộ phận của cái riêng, cái riêng không ra nhập hết vào
cái chung, bất cú cái riêng nào cũng còn chứa đựng những cái chỉ vốn có

ở nó ma thôi. Theo quan niện đó, cái riêng là cái phong phú hơn cái
chung, nhưng nếu đó là cái chung bản chất, cái chung mang tính quy luật
thì nó lại là cái sâu sắc hơn cái riêng, quy định sự tồn tại, vận động và phát
triển của cái riêng.
Ý nghĩa phương pháp luận
Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng nên muốn phát hiện ra cái
chung phải xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng riêng lẻ cụ
thể chứ không thể tù ý muốn chủ quan của con người. Vì cái riêng không
tồn tại ở bên ngoài mối liên hệ dẫn đến cái chung, cho nên để giải quyết
những vấn đề riêng không thể lảng tránh việc giải quyết những vấn đề
chung. Trong quá trình phát triển thì cái đơn nhất có thể chuyển hoá thành
cái chung và ngược lại, vì thế trong hoạt động thực tiễn cần tạo điều kiện
cho cái đơn nhất có lợi trở thành cái chung, còn cái chung bất lợi trở thành
cái đơn nhất.
2. Nguyên nhân và kết quả.
Nguyên nhân là sự tương tác giữa các mặt, các yếu tố trong cùng
một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau để gây nên những biến đổi nhất
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
định. Kết quả là những biến đổi được tạo ra do sự tương tác giữa các mặt,
các yếu tố trong cùng một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
Giữa nguyên nhân và kết quả có mối liên hệ chặt chẽ. Mối liên hệ
đó mang tính chất khách quan, phổ biến và tất yếu. Tính khách quan tức là
cái vốn có của bản thân sự vật, không phụ thuộc vào ý thức con người.
Các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội đều có nguyên nhân nhầt
đinh gây nên. Với cùng một nguyên nhân, trong cùng một hoàn cảnh sẽ
gây ra những kết quả giống nhau.
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, vì vậy, nó là cái có trước, còn
kết quả bao giò cũng xuất hiện sau. Từ một nguyên nhân cũng có thể tạo
ra nhiều kết quả khác nhau nếu trong những điều kiện, hoàn cảnh khác

nhau. Nhung cùng một kết quả có thể tạo nên tù nhiều nguyên nhân khác
nhau. Kết quả lại tác động ngược trở lại nguyên nhân theo hướng thúc đẩy
hoặc cản trở sự hoạt động của nguyên nhân. Trong sự phát triển, nguyên
nhân và kết quả có thể đổi vai trò cho nhau.
Trong hoạt động nhận thức thì phải nhận thức đúng và đầy đủ
nguyên nhân của sự vật, hiện tượng thì mới có thể nhận thức đúng sự vật,
hiện tượng đó. Trong hoạt động thực tiễn, cần tìm hiểu và phân loại
nguyên nhân để có những biện pháp thich hợp tạo điều kiện cho nguyên
nhân tác động tích cực tới hoạt động, hạn chế những tác động tiêu cực của
nguyên nhân. Nếu muốn xoả bỏ sự vật thì phải xoá bỏ từ nguyên nhân của
sự vật đó.
3. Tất nhiên và ngẫu nhiên.
Tât nhiên là cái xuất phát nguyên nhân bên trong của sự vật và
trong những điều kiện nhất định nó phải xảy ra và xảy ra như thế. Ngẫu
nhiên xảy ra từ sự ngẫu hợp nhiều hiện tượng bên ngoài vì vậy nó có thể
không xảy ra, xảy ra như thế này hoặc thế khác.
Mối liên hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại khách quan, độc
lập với ý thức của con người và đều có vị trí nhất định đối với sự phát
triển của sự vật. Tất nhiên và ngẫu nhiên không tồn tại biệt lập dưới dạng
thuần tuý, cũng như không có cái ngẫu nhiên thuần tuý. Tất nhiên biểu
hiện qua ngẫu nhiên, mỗi ngẫu nhiên lại mang một phần tât nhiên. Trong
sự phát triển của sự vật, tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hoá cho
nhau.
Trong nhận thức, muốn nhận thức được cái tất nhiên thì phải chỉ ra
được nguyên nhân bên trong của sự vật. Còn muốn nhận thức được cái
ngẫu nhiên thì phải từ nguyên nhân bên ngoài. Trong hoạt động thực tiễn
thì phải chủ yếu dụa vào cái tất nhiên, nhưng không vì thế mà bỏ qua cái
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngẫu nhiên. Cần có cái dự phòng cho trường hợp cái ngẫu nhiên xuất hiện

bất ngờ.
4. Nội dung và hình thức.
Nội dung là phậm trù triết học dùng để chỉ tổng hợp tất cả những
mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật, diễn ra trong sự vật.
Hình thức là phạm trù dùng để chỉ hệ thống các mối liên hệ tương đối bền
vững giữa các yếu tố của sự vật, là phương thức tồn tại của nội dung.
Giữa nội dung và hình thức có sự thống nhất và gắn bó hữu cơ với
nhau. Bất kỳ nội dung nào cũng được biểu hiện dưới hình thức và bất cứ
hình thức nào cũng chúa đựng nội dung. Nội dung và hình thức cũng có
tính độc lập tương đối với nhau. Một nội dung có thể được thể hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau và cùng một hình thức có thể chứa đựng nhiều
nội dung. Tronh sự vật thì nội dung quyết định hình thức nhưng hình thức
lại tác động ngược trở lại nội dung.
Trong quá trình nhận thức không được tách rời hay tuyệt đối hoá
nội dung hay hình thức. Trong hoạt động thực tiễn cần căn cứ vào nội
dung, đồng thời cũng phải chú ý tới hình thức. Căn cứ vào nội dung để lựa
chọn hình thức phù hợp, tạo điều kiện phát triển cho sự vật.
5. Bản chất và hiện tượng.
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất
nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát
triển của sự vật. Hiện tượng là sự biểu hiện của bản chất ra bên ngoài.
Bản chất và hiện tượng có mối liên hệ thống nhất với nhau, bản
chất nào thì hiện tượng ấy. Bản chất thay đổi thì hiện tượng cũng thay đổi,
bản chất mất đi thì hiện tượng cũng mất đi. Bản chất và hiện tượng cũng
chứa đựng mâu thuẫn. Hiện tượng nhiều khi phản ánh sai lệch bản chất.
Bản chất là cái sâu xa bên trong còn hiện tượng là cái biểu hiện bên ngoài.
Bản chất là cái sâu sắc còn hiện tượng là cái phong phú đa dạng. Bản chất
tương đối ổn định, hiện tượng thường xuyên biến đổi.
Trong hoạt đọng thực tiễn cần căn cứ vào bản chất chứ không căn
cứ vào hiện tượng. Để nhận biết được bản chất thì phải thông qua vô số

các hiện tượng nhưng đồng thời phải phân loại, đánh giá các hiện tượng
đó.
6. Khả năng và hiện thực.
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hiện thực là phạm trù chỉ mọi cái hiện đang tồn tại trong tự nhiên,
xã hội và tư duy. Khả năng là phạm trù dùng để chỉ xu hướng, những yếu
tố đang tồn tại hiện thực mà trong sự vận động của chúng sẽ dẫn đến sự ra
đời của một sự vật mới, khi có điều kiện tương ứng.
Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, không thể tách rơi nhau, chúng chuyển hoá lẫn nhau. Hiện thực bao
giờ cũng chứa đựng khả năng, khả năng bao giờ cũng xảy ra trong lòng
hiện thực Cùng một hiện thực có thể chứa đựng nhiều khả năng. Từ khả
năng để trở thành hiện thực cần phải có một tập hợp các điều kiện cần và
đủ.
Trong hoạt động thực tiễn cần căn cứ vào hiện thực, vì hiện thực là
cái tồn tại thực sự, còn khả năng là cái tồn tại dưới dạng xu hướng. Chúng
ta cần chú ý tới những khả năng tốt và tạo điều kiện cho nó trở thành hiện
thực.
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Thực tiễn chứng minh rằng, trải qua những bước khac nhau trong
mọi hoàn cảnh, phép biện chứng duy vật luôn tỏ ra là đỉnh cao của trí tuệ
loài người, luôn có ý nghĩa thực tiễn hết sức to lớn, và đã thực sự trở
thành một khoa học.
Phép biện chứng duy vật đã, đang và tiếp tục cung cấp cho chúng
ta hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận phổ biến, thực sự khoa học
và có hiệu quả trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
Ngày nay, việc bảo vệ phép biện chứng duy vật dưới sự xuyên tạc

của những kẻ thù tư tưởng của nó, cũng như việc thường xuyên nghiên
cứu, phát triển, hoàn thiện nó chính là nhiệm vụ của cả nhân loại.
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết học Mac-Lenin.
2. Tạp chí triết học.
3. www.dangcongsan.vn
4. www.chungta.com
18

×