Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

phương hướng, giải pháp vượt qua hàng rào phi thuế quan nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng thủy sản của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.34 KB, 41 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN VÀ CHÍNH SÁCH
THƯƠNG MẠI CỦA EU VÀ MỸ 5
I.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN 5
I.1.1. Khái niệm và vai trò của hàng rào phi thuế quan 5
I.1.2. Các loại hàng rào phi thuế quan 5
II.1. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN
QUA 18
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Việt Nam bình thường hóa quan hệ ngoại giao với liên minh Châu Âu
(EU) vào ngày 20/10/1990, (kí hợp đồng buôn bán hàng dệt may với EU ngày
15/12/1992) và hiệp định khung với EU ngày 17/7/1995. Các sự kiện quan trọng
trên chính là yếu tố thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam – Liên minh
Châu Âu phát triển mạnh trên cả ba lĩnh vực : thương mại, đầu tư và viện trợ,
đặc biệt là lĩnh vực thương mại.
Hiện nay EU thực sự là thị trường tiềm năng của Việt Nam. Điều này
được thể hiện ở chỗ EU là một trong những trung tâm tiêu thụ lớn trên thế giới,
có nhu cầu rất đa dạng và phong phú về hàng hóa, nhu cầu nhập khẩu hàng năm
của EU về những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là rất lớn. Đồng
thời chính sách thương mại của EU đối với Việt Nam đang dần hoàn thiện. Hơn
nữa EU là khu vực phát triển kinh tế khá ổn định trên thế giới, cùng với sự ra
đời của đồng EURO, vị thế của EU ngày càng được nâng cao trên trường quốc
tế. Tại thời điểm này, Việt Nam lại đang thực hiện chiến lược “Công nghiệp hóa
hướng vào xuất khẩu”. Do vậy, thị trường EU là môi trường lí tưởng cho các
nhà xuất khẩu Việt Nam thể hiên sức mạnh của mình.
Bên cạnh đó, một thị trường tiềm năng không kém thị trường EU là Hoa
Kỳ. Kể từ ngày B.Clinton ký quyết định xóa bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam
(3/2/1994), thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa hai nước (28/1/1995) và
đặc biệt sau khi hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ có hiệu


lực (10/12/2001), quan hệ thương mại Việt - Mỹ đã có những bước phát triển
đáng kể, kim ngạch hàng hóa hai chiều tăng mạnh, mở ra cho các doanh nghiệp
hai nước cơ hội đầu tư, kinh doanh bình đẳng cùng có lợi, tạo đà quan trọng cho
tiến trình phát triển Việt Nam – Hoa Kỳ sau bình thường hóa quan hệ.
Trên thị trường thế giới, hàng thủy sản đựợc xếp vào nhóm sản phẩm cơ
bản, luôn trong tình trạng cung không đáp ứng nổi cầu trên quy mô toàn cầu.
2
Trong mấy năm vừa qua, Việt Nam luôn được xếp vào nhóm những nước xuất
khẩu thủy sản lớn nhất thế giới, tính đến hết tháng 11 năm 2006 kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam đã vượt ngưỡng trên ba tỷ USD (3,08 tỷ USD, tăng gần 25%
so với cùng kỳ năm trước). Cơ hội còn rất nhiều, áp lực cạnh tranh cũng rất lớn,
nếu muốn trụ vững trên thương trường quốc tế, đặc biệt khi một số nước tham
gia xuất khẩu tăng lên và mở rộng năng lực sản xuất, đồng thời các nước nhập
khẩu sẽ đưa ra những hàng rào thương mại ngày càng khắt khe hơn mà nhất là
những rào cản phi thuế quan của hai thị trường lớn là EU và Mỹ. Để xuất khẩu
thủy sản Việt Nam trụ vững trên thương trường thế giới, đồng thời đẩy mạnh
xuất khẩu thủy sản vào hai thị trường lớn này, chúng ta phải làm gì để vượt qua
được hàng rào phi thuế quan đó?
Xuất phát từ thực tế nêu trên và là một trong những người quan tâm đến
vấn đề này , em tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Những giải pháp vượt qua hàng rào phi thuế quan đối với xuất khẩu
thủy sản của Việt Nam vào thị trường EU và Mỹ”
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
a. Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam,
từ đó đề xuất những định hướng và giải pháp nhằm vượt qua hàng rào phi thuế
quan của hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU và Mỹ.
b.Mục tiêu cụ thể
-Tìm hiểu những rào cản phi thuế, cụ thể ở thị trường EU và Mỹ.
-Đánh giá thực trạng xuất khẩu thủy sản ở Việt Nam và tìm ra các nguyên

nhân chủ yếu.
-Đề xuất định hướng và đưa ra một số giải pháp cụ thể để vượt qua hàng
rào phi thuế quan của ngành xuất khẩu thủy sản Việt Nam trên hai thị trường EU
và Mỹ.
3
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
a.Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan về xuất khẩu hàng thủy
sản và một số hàng rào phi thuế quan.
b.Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Tập trung vào nghiên cứu hàng rào phi thuế quan và
các giải pháp vượt qua các hàng rào phi thuế quan của hàng xuất khẩu thủy sản
của Việt Nam trên hai thị trường EU và Mỹ.
Phạm vi về thời gian: tìm hiểu vấn đề chủ yếu qua các năm 2000 - 2006
4
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN
VÀ CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA EU VÀ MỸ
I.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN
I.1.1. Khái niệm và vai trò của hàng rào phi thuế quan
Chính sách thương mại quốc tế là một hệ thống các quan điểm, nguyên
tắc, mục tiêu, biện pháp và các công cụ mà các quốc gia sử dụng nhằm điều
chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế phù hợp với các lợi thế quốc gia trong
từng thời kỳ nhằm đem lại lợi ích cao nhất cho quốc gia từ thương mại quốc tế.
Khi tham gia vào thương mại quốc tế, các quốc gia sẽ phát huy được các
thế mạnh của nước mình, tận hưởng được những lợi thế từ thị trường thế giới.
Nhưng mặt khác cũng sẽ bộc lộ những mặt yếu kém và bất lợi của chính quốc
gia đó. Do vậy các quốc gia thường phải sử dụng một hệ thống các cộng cụ để
điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế. Trong đó phải kể đến việc sử dụng
hàng rào phi thuế quan – một công cụ được coi là linh hoạt, tác động nhanh,
mạnh.

Hiện nay có nhiều quan niệm về hàng rào phi thuế quan, tổ chức Hợp tác
và Phát triển kinh tế (OECD) năm 1997 đã định nghĩa : “Hàng rào phi thuế quan
là những biện pháp biên giới nằm ngoài phạm vi thuế quan có thể được các quốc
gia sử dụng, thông thường dựa trên cơ sở lựa chọn, nhằm hạn chế nhập khẩu”.
Như vậy vai trò chính của hàng rào phi thuế quan chính là nhằm hạn chế
nhập khẩu, một quốc gia khi sử dụng hàng rào phi thuế quan này thực chất
là việc bảo hộ cho nền sản xuất trong chính quốc gia đó. Ngoài ra, hàng
rào phi thuế quan không chỉ có ý nghĩa trong việc bảo hộ thị trường nội
địa, hướng dẫn tiêu dùng, điều tiết vĩ mô nền kinh tế khá có hiệu quả mà
còn là công cụ dùng để phân biệt đối xử trong quan hệ đối ngoại.
I.1.2. Các loại hàng rào phi thuế quan
Các hàng rào phi thuế quan chủ yếu mà các nước thường áp dụng là:
5
I.1.2.1. Hạn ngạch nhập khẩu
Hạn ngạch nhập khẩu được hiểu là quy định của Nhà nước về số lượng
cao nhất của một mặt hàng hoặc một nhóm hàng được phép nhập khẩu từ thị
trường nhất định trong một khoảng thời gian nhất định thông qua hình thức cấp
giấy phép.
Hạn ngạch nhập khẩu đưa tới sự hạn chế số lượng hàng nhập khẩu đồng
thời gây ra ảnh hưởng đến giá nội địa của hàng hóa, do mức cung hàng hóa thấp
đi làm cho giá cân bằng cao hơn so với giá trong thương mại tự do. Hạn ngạch
nhập khẩu tạo điều kiện cho các nhà sản xuất trong nước thực hiện quy mô sản
xuất với hiệu quả thấp hơn so với điều kiện thương mại tự do. Hạn ngạch nhập
khẩu là một công cụ quan trọng để thực hiện chiến lược sản xuất thay thuế nhập
khẩu bảo hộ nền sản xuất nội địa.
I.1.2.2. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là biện pháp hạn chế xuất khẩu mà theo đó
một quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc gia xuất khẩu phải hạn chế bớt lượng hàng
xuất sang nước mình một cách “tự nguyện”, nếu không các quốc gia nhập khẩu
sẽ áp dụng các biện pháp cần thiết để buộc các quốc gia xuất khẩu phải giảm bớt

số lượng hàng hóa xuất khẩu sang nước mình.
Thực chất hạn chế xuất khẩu tự nguyện là những cuộc thương lượng mậu
dịch giữa bên xuất khẩu và bên nhập khẩu để hạn chế bớt sự xâm nhập của hàng
hóa nhập khẩu nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định ở các nước nhập khẩu,
chẳng hạn: tạo công ăn việc làm, bảo hộ những ngành công nghiệp non trẻ có
tiềm năng Khi thực hiện hạn chế xuất khẩu tự nguyện nó có tác động kinh tế
tương tự như hạn ngạch nhập khẩu. Tuy nhiên hạn ngạch nhập khẩu mang tính
chủ động và thường là biện pháp tự bảo vệ thị trường trong nước còn hạn chế
xuất khẩu tự nguyện thực ra mang tính miễn cưỡng và gắn với những điều kiện
nhất định. Hình thức này thường được áp dụng đối với những quốc gia có sản
lượng xuất khẩu quá lớn ở một số mặt hàng nào đó.
6
I.1.2.3. Biện pháp liên quan đến quản lý giá
Các biện pháp quản lý giá nhập khẩu hoặc giá bán trong nước có thể tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp tới xuất nhập khẩu hàng hóa. Việc tính giá tùy tiện
sẽ gây nên những khó khăn lớn cho thương mại quốc tế vì giá tính thuế cao thì
giá của sản phẩm nhập về sẽ cao, khả năng thanh toán sẽ giảm. Một số nước
ngoài mục tiêu tránh gian lận thương mại họ khéo sử dụng biện pháp liên quan
đến việc xác định trị giá tính thuế hải quan như một công cụ gián tiếp bảo hộ sản
xuất trong nước. Trị giá tính thuế hải quan cao hoặc thấp sẽ tác động trực tiếp
đến khoản thuế nhập khẩu mà các doanh nghiệp phải nộp và qua đó tác động lên
giá bán của sản phẩm.
Ở một số nước phát triển thường không sử dụng giá bán thực tế ghi trên
hóa đơn để tính thuế mà dùng trị giá tính thuế tối thiểu hoặc giá tham khảo.
Thậm chí có nước còn sử dụng giá hóa đơn cao nhất của sản phẩm cùng loại
nhập khẩu từ bất kì nước nào trong thời gian trước đó để xác định trị giá tính
thuế. Cách xác định trị giá tính thuế như vậy khiến các nhà xuất khẩu phải chịu
giá cao một cách vô lý và không thể dự đoán được khả năng cạnh tranh về giá
sản phẩm của mình.
Hiệp định xác định trị giá tính thuế quan của tổ chức thương mại thế giới

quy định giá tính thuế hàng nhập khẩu là giá giao dịch, tức giá đã trả hoặc phải
trả cho hàng hóa khi được bán để xuất khẩu đến nước nhập khẩu có tính đến
những điều chỉnh nhất định như phí hoa hồng, môi giới, đóng gói…
Tổ chức thương mại thế giới không cho phép xác định trị giá tính thuế
quan theo giá nhập khẩu tối thiểu và giá bán trong nước của hàng hóa tương tự
được sản xuất tại nước nhập khẩu. Giá bán tối đa trong nước đối với một hàng
hóa nào đó cũng có thể hạn chế nhập khẩu. Chính vì vậy Tổ chức thương mại
thế giới thừa nhận các biện pháp quản lý giá tối đa dù cho có phù hợp với
nguyên tắc không phân biệt đối sử cũng có thể tác động xấu tới lợi ích của các
nước thành viên xuất khẩu.
7
I.1.2.4. Biện pháp liên quan đến doanh nghiệp
Với các hình thức sở hữu khác nhau nếu Nhà nước ban cho doanh nghiệp
Nhà nước những độc quyền nhất định thì có thể gây ra những trở ngại nhất định
đối với hoạt động thương mại quốc tế. Các doanh nghiệp Nhà nước được quyền
kinh doanh xuất nhập khẩu đã tạo ra một rào cản đối với hoạt động mua bán trên
thị trường thế giới. Các nước sử dụng biện pháp này thường cho rằng họ cần
phải bình ổn giá cả và khối lượng của các mặt hàng có ảnh hưởng lớn đến các
cân đối lớn của nền kinh tế. Tuy nhiên trên thực tế biện pháp này đã hạn chế
quyền kinh doanh xuất nhập khẩu tạo độc quyền cho một số doanh nghiệp nhất
định.
I.1.2.5. Biện pháp liên quan đến tiêu chuẩn kỹ thuật
Những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật đều là những quy định về vệ sinh
đo lường, an toàn lao động, bao bì, đóng gói ….Các tiêu chuẩn này thường được
các nước áp dụng, một mặt chúng tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế bằng
cách giúp cho người mua đánh giá được quy cách chất lượng sản phẩm, mặt
khác chúng dễ trở thành rào cản thương mại nếu quá khác biệt giữa các nước.
Trên thực tế một sản phẩm nhập khẩu nếu không đáp ứng được các quy
định của yêu cầu kỹ thuật thì sẽ không được phép bán ra trên thị trường; về mặt
tiêu chuẩn, nếu hàng nhập khẩu không tuân thủ các tiêu chuẩn đặt ra thì vẫn

được phép bán ra trên thị trường mặc dù có thể bị người tiêu dùng không ưa
chuộng. Nói chung những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật là xuất phát từ đòi hỏi
thực tế của đời sống xã hội phản ánh trình độ phát triển mà con người đã đạt
được.
Tuy nhiên, trên thực tế người ta thường khéo sử dụng các quy định này
một cách thiên lệch giữa các doanh nghiệp trong nước với các công ty nước
ngoài để biến chúng trở thành công cụ cạnh tranh trong quan hệ thương mại
quốc tế. Để khắc phục tình trạng này người ta tìm cách ban hành các tiêu chuẩn
kỹ thuật quốc tế thống nhất.
8
I.1.2.6. Biện pháp quản lý hành chính
Mặc dù hầu hết các nước trên thế giới đều có mục tiêu chung là tự do hóa,
thuận lợi hóa thương mại quốc tế. Nhưng trên thực tế vì những lý do kinh tế
chính trị nhất định mà mỗi nước áp dụng những biện pháp khá tinh vi nhằm cản
trở tự do hóa thương mại quốc tế. Ví dụ như: quy định về thanh toán, quy định
về đặt cọc, quy định về quảng cáo…
I.2. CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA EU VÀ MỸ
I.2.1. Chính sách thương mại chung của liên minh Châu Âu (EU)
Liên minh Châu Âu (EU) ngày nay được xem như một đại quốc gia ở
Châu Âu, bởi vậy chính sách thương mại của EU cũng giống như chính sách
thương mại của một quốc gia, gồm: chính sách thương mại nội khối, chính sách
ngoại thương và quy chế nhập khẩu chung của EU .
I.2.1.1. Chính sách thương mại nội khối
Chính sách này tập trung vào việc xây dựng và vận hành thị trường chung
Châu Âu nhằm xóa bỏ việc kiểm soát biên giới lãnh thổ quốc gia, biên giới hải
quan (xóa bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan) để tự do lưu thông hàng hóa,
sức lao động, dịch vụ và vốn, điều hòa các chính sách kinh tế xã hội của các
nước thành viên.
I.2.1.2. Chính sách ngoại thương của EU
Tất cả các nước thành viên EU cùng áp dụng một chính sách ngoại thương

chung đối với các nước ngoài khối. Ủy ban Châu Âu (EC) là người đại diện duy
nhất cho liên minh trong việc đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại và dàn
xếp tranh chấp trong lĩnh vực này.
Chính sách ngoại thương của EU gồm: chính sách thương mại tự trị và
chính sách thương mại dựa trên cơ sở hiệp định. Các biện pháp được áp dụng
phổ biến trong chính sách này là: thuế quan, hạn chế về số lượng (Quota), hàng
rào kỹ thuật (TBT: Technical Barrier to Trade), hàng rào an thực phẩm và dịch
bệnh thủy sản (SPS: Sanitary and Phitosanitary), chống bán phá giá
(Untidumping), và trợ cấp xuất khẩu.
9
Hiện nay, 25 nước thành viên EU (bao gồm 15 nước cũ và 10 nước mới
gia nhập ngày 1/5/2004) đều áp dụng một biểu thuế quan chung đối với hàng
hóa xuất nhập khẩu, EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hóa: đẩy
mạnh tự do hóa thương mại (giảm thuế quan đánh vào hàng hóa xuất nhập khẩu
và tiến tới xóa bỏ hạn ngạch). Đối với hàng hóa xuất khẩu vào EU, mức thuế
trung bình đánh vào hàng nông sản là 18%, còn hàng công nghiệp chỉ là 2%.
Chính sách phát triển ngoại thương của EU từ năm 1951 đến nay gồm
những nhóm chính sách chủ yếu sau: chính sách khuyến khích xuất khẩu, chính
sách thay thế nhập khẩu, chính sách tự do hóa thương mại. Việc ban hành và
thực hiện các chính sách này có liên quan chặt chẽ đến tình hình phát triển kinh
tế, tiến trình nhất thể hóa Châu Âu và khả năng cạnh tranh trong từng thời kỳ
của các sản phẩm trong liên minh trên thị trường thế giới. Ngoài các chính sách
trên, EU còn có Quy chế nhập khẩu chung.
EU không chỉ sử dụng các biện pháp chống cạnh tranh không lành mạnh
trong thương mại mà còn sử dụng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập GSP
(General System of Preferences) – một biện pháp quan trọng nhằm đẩy mạnh
thương mại với các nước đang phát triển và chậm phát triển. Bằng cách này, EU
có thể làm cho nhóm các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam ) và các
nước chậm phát triển dễ dàng thâm nhập vào thị trường của mình. Nhóm các
nước chậm phát triển được hương ưu đãi cao hơn nhóm các nước phát triển. EU

áp dụng chương trình thuế quan ưu đãi phổ cập (GSP) cho thời kỳ từ 1/7/1999
đến 31/12/2001.
I.2.1.3. Quy chế nhập khẩu chung của EU
Tất cả các nước thành viên EU đều áp dụng chính sách thương mại chung
đối với những nước ngoài khối. Để thực thi chính sách thương mại, ngoài các
biện pháp thuế quan và phi thuế quan, EU còn ban hành và thực hiện Quy chế
nhập khẩu chung.
Các nhà xuất khẩu có thể xâm nhập vào thị trường EU với điều kiện có
các hiệp định thương mại song phương, vượt qua hàng rào thuế quan và phi thuế
10
quan, tuân thủ quy chế nhập khẩu chung và các yêu cầu của thị trường về chất
lượng, an toàn cho người sử dụng và bảo vệ môi trường. Hiện nay hàng rào kỹ
thuật (TBT), quy chế nhập khẩu chung và các yêu cầu của thị trường chính là
những rào cản khó vượt qua đối với hàng xuất khẩu của các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam.
Quy chế nhập khẩu chung của EU chính là quy định cụ thể để thực hiện
chính sách nhập khẩu của EU như sau:
i. Về thuế
1. Thuế nhập khẩu: một trong những việc đáng chú ý nhất của việc hình
thành thị trường chung là các thủ tục thông quan đồng nhất và thuế nhập khẩu
chỉ phải thanh toán tại cảng vào EU. Khi đã vào EU thì không cần các thủ tục
thông quan tại biên giới nội địa. Bởi vậy, hàng có thể được vận chuyển nhanh
với giá cước rẻ trong phạm vi EU.
Thuế nhập khẩu được áp dụng đối với tất cả các sản phẩm nhập khẩu vào
EU. Nhờ chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập và các hiệp định thương mại
mà xuất khẩu từ các nước đang phát triển có thể miễn thuế nhập khẩu hoặc chịu
một mức thuế thấp. Trong các trường hợp đặc biệt, hàng hóa có thể được miễn
thuế vì các lý do khác nhau: vận chuyển hàng mẫu không có giá thương mại,
hàng hóa để sửa chữa hoặc các sản phẩm nhập khẩu tạm thời.
2. Thuế nhằm bảo hộ

Các sản phẩm thực phẩm: chính sách nông nghiệp chung (CAP) đã được
ban hành và thực thi ở EU trong nỗ lực để bảo hộ sản xuất thực phẩm nội địa.
Một đặc điểm quan trọng của CAP là hệ thống thuế. Các loại thuế được hợp
nhất thành hệ thống giá khởi điểm. Nếu giá nhập khẩu nằm dưới giá khởi điểm
tối thiểu, một mức thuế bổ sung được đánh thêm vào thuế hải quan.
Thuế chống bán phá giá: thuế chống bán phá giá là thuế đánh vào các sản
phẩm nhập khẩu được bán ở EU với mức giá thấp hơn so với mức giá được bán
ở các nước sản xuất. Khi các sản phẩm nhập khẩu gây ảnh hưởng tiêu cực
nghiêm trọng đối với ngành công nghiệp nội địa của EU, ngành công nghiệp này
11
có thể gửi đơn kiện đến Brussels. Nếu qua điều tra nhận thấy có hiện tượng bán
phá giá thì thuế chống bán phá giá được áp dụng trên cơ sở điều khoản 113 của
hiệp ước EU. Thuế này có thể đánh vào hàng hóa ngay khi thông báo.
3. Thuế tiêu thụ
Thuế tiêu thụ áp dụng đối với một số sản phẩm phụ thuộc vào dung lượng,
được áp dụng phổ biến đối với các sản phẩm nội địa và hàng nhập khẩu. Mức
thuế tiêu thụ đối với một sản phẩm nhất định có thể rất khác biệt giữa các nước
thành viên EU.
Thuế giá trị gia tăng (VAT): Tất cả sản phẩm bán ở EU là đối tượng chịu
thuế VAT. Nhìn chung mức thuế áp dụng đối với các sản phẩm thiết yếu là thấp
và mức thuế áp dụng đối với các sản phẩm xa xỉ là cao. Mặc dù mục tiêu ban
đầu là hài hòa thuế quan, các miền thuế đã được thu hẹp, nhưng sự khác biệt vẫn
còn tồn tại giữa các nước thành viên EU.
ii.Giấy phép nhập khẩu
Giấy phép nhập khẩu có thể được yêu cầu đối với hàng nhạy cảm và hàng
chiến lược, trong số này có hàng dệt, các sản phẩm đá, thép và vũ khí. Giấy
phép nhập khẩu thông thường được cấp không có quá nhiều khó khăn và các nhà
nhập khẩu có trách nhiệm viết đơn xin giấy cấp phép.
iii.Hạn ngạch
Hạn ngạch là sự hạn chế về số lượng nhập khẩu hoặc xuất khẩu và được

sử dụng để điều chỉnh nguồn cung. Hạn ngạch phổ biến nhất ở EU là hạn ngạch
số lượng. Các quốc gia EU đang tiến hành hủy bỏ dần hạn ngạch nên hệ thống
hạn ngạch đang bị tháo dỡ ở một số nước. Sự điều chỉnh hoạt động nhập khẩu
hàng nông sản vẫn được thực hiện thông qua hệ thống thuế và giá khởi điểm.
Như vậy hạn ngạch sẽ không tồn tại lâu.
iv. Giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật
Các quy định kiểm dịch thực vật có thể áp dụng đối với các sản phẩm tươi
như hoa quả. Điều đó có nghĩa là giấy chứng nhận phải được cung cấp bởi nước
có sản phẩm xuất khẩu trong điều kiện đảm bảo sức khỏe. Sản phẩm phải được
12
giám định bởi cơ quan giám định thực phẩm có thẩm quyền của nước sản xuất
để đảm bảo rằng không bị côn trùng và dịch bệnh.
v.Lệnh cấm
EU ban hành lệnh cấm đối với một số sản phẩm, điều này có nghĩa là sản
phẩm nhập khẩu bị cấm hoặc chỉ cho phép trong những điều kiện nhất định.
Lệnh cấm này chủ yếu được áp dụng đối với việc mua bán các sản phẩm nguy
hiểm như: phế thải hóa chất, thuốc tân dược, thuốc trừ sâu. Thực phẩm, cây
trồng và vật nuôi nhập khẩu cũng có thể là đối tượng bị cấm trên cơ sở cân nhắc
về an toàn và sức khỏe. Các luật quốc tế đối với sản phẩm này là: luật về chất
thải hóa chất và công ước thương mại quốc tế về các loại hàng hóa gây nguy
hiểm.
vi. Chính sách hóa chất – rào cản mới của EU
Ủy ban Châu Âu (EC) đang chuẩn bị ban hành chính sách hóa chất trên
lãnh thổ EU nhằm ngăn ngừa tác hại của hóa chất đối với sức khỏe con người và
môi trường. Theo đó, chính sách mới sẽ ban hành những quy định về đăng ký,
kiểm tra, cấp phép và hạn chế đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, lưu hành
và sử dụng hóa chất được sử dụng làm nguyên liệu đầu vào và hóa chất để xử lý
nguyên liệu trong quá trình sản xuất.
I.2.2. Chính sách thương mại của Mỹ
Dù là một nước chủ trương tự do hóa thương mại, nhưng Mỹ cũng có

những chính sách về nhập khẩu nhằm bảo vệ người tiêu dùng và sản xuất trong
nước.
I.2.2.1. Quy định về hải quan
Hải quan Mỹ là cơ quan thực thi và áp dụng các quy định của luật thuế
quan và những luật lệ khác của các bộ để điều chỉnh việc nhập khẩu hàng hóa.
Họ cũng phụ trách việc chống các hành vi buôn lậu, vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ, hàng gian, hàng giả được nhập khẩu.
Ngoài các yêu cầu khắt khe của hải quan và nhà nhập khẩu, doanh nghiệp
phải chú ý đến xuất xứ của các linh kiện hoặc nguyên liệu được dùng để sản
13
xuất. Hải quan không cho phép lô hàng nhập khẩu nào có linh kiện hay nguyên
liệu từ các nước bị lệnh cấm vận và trừng phạt của Mỹ như: Cuba, Iran… Sản
phẩm do phạm nhân, trẻ em dưới tuổi vị thành niên tại các trại lao động cải tạo
làm ra cũng bị coi bất hợp pháp và không được hải quan Mỹ chấp nhận.
Hải quan Mỹ cũng có quyền bắt giữ và phạt rất nặng những lô hàng nhập
khẩu bị nghi ngờ là hàng giả, hàng ăn cắp bản quyền và những lô hàng ghi nhãn
hiệu, thành phần … sai với thực tế kiểm tra của hải quan.Một nhà nhập khẩu có
thể bị khép tội lừa dối khách hàng nếu không ghi chi tiết, thành phần sản phẩm
ngay trên nhãn hiệu bao bì.
I.2.2.2. Quy chế nhập khẩu chung của Mỹ
a) Về thuế
Điều này ở Mỹ được căn cứ trên bảng hệ thống điều hòa trong mô tả và
mã hàng (HS – Harmonized tarriff System) của hội đồng hợp tác hải quan. Bảng
này liệt kê các loại hàng hóa và mã số của chúng với mức thuế áp dụng. Giá tính
thuế của Mỹ dựa trên cơ sở giá FOB chứ không phải giá CIF, áp dụng cho cả
hàng xuất và nhập khẩu, do đó chi phí vận tải và bảo hiểm không bị gộp vào giá
trị hàng hóa để tính thuế.
Hoa Kỳ ấn định thuế quan theo ba cách:
Thứ nhất, thuế tính theo giá (ad valorem ) là thuế tính theo tỷ lệ phần trăm
trên giá hàng hóa nhập khẩu. Cách tính này chiếm tỷ lệ lớn trong biểu thuế của

Hoa Kỳ.
Thứ hai, thuế đặc định hay thuế theo lượng (specific) là thuế đánh theo
trọng lượng hay dung tích hàng hóa.
Thứ ba, thuế hàng hóa được tính dựa trên cơ sở cả hai cách tính trên.
Ngoài ra có một số mặt hàng phải chịu thêm thuế doanh thu hay mua bán
(ngoài thuế quan) như rượu, bia, thuốc lá, nước hoa và các sản phẩm dầu khí.
b) Lệ phí
Lệ phí gồm có: phí xử lý hàng và phí bảo dưỡng cảng.
14
Phí xử lý hàng: được đánh vào từng chuyến tàu hàng. Biểu thuế dành cho
việc nhập hàng chính thức (tức là hàng có giá trị trên 1500 USD, gọi là hàng
mậu dịch) liệt kê các loại phí khác nhau từ 21 đến 400 USD cho mỗi lần nhập
cùng với một số phí đánh theo tỷ lệ của món hàng này là 19%. Cũng chi phí này
nhưng cho loại hàng hóa nhập không chính thức (tức là phi mậu dịch) thì mức
phí là 2 USD cho hàng xử lý bằng máy, 4 USD cho hàng xử lý bằng tay mà
không phải do hải quan Mỹ làm và 8 USD do họ làm. Giá trị cho hàng phi mậu
dịch lớn nhất là 2500 USD. Một vài mặt hàng như vải sợi không được nhập theo
lối phi mậu dịch và nếu có thì giá trị tối đa cũng rất thấp.
Phí bảo dưỡng cảng: là phí tính theo giá trị % của chuyến tàu hàng nhập
vào, phí này là 0,125% trên giá trị tiền hàng và trả hàng quý.
c) Hạn ngạch (quota)
Hạn ngạch là sự kiểm soát về mặt số lượng hàng nhập khẩu trong một thời
gian nhất định vào Mỹ. Có một số mặt hàng nằm trong sự hạn chế này theo luật
của Quốc hội, quy định của các cơ quan quản lý theo lệnh của Tổng thống. Có
hai loại hạn ngạch:
• Hạn ngạch ấn định theo mức thuế quan: loại này cho người nhập được
đem vào Mỹ một mặt hàng nhất định nào đó với mức thuế được giảm bớt trong
một khoảng thời gian nhất định. Số hàng nào nhập vào mà vượt quá số lượng
cho phép sẽ bị đánh thuế cao. Các mặt hàng này thường là: sữa, kem, cá hồi…
•Hạn ngạch tuyệt đối: cho phép nhập một số lượng của mặt hàng nào đó

trong một khoảng thời gian nhất định. Hàng đem vào quá hạn ngạch sẽ bị trả về
hay cho vào kho để chờ đưa vào trong thời gian có hiệu lực của hạn ngạch mới.
Các mặt hàng này là: một vài loại cồn, sữa đặc, bơ hỗn hợp…
d) Giấy phép nhập khẩu
Những mặt hàng dưới đây khó đem vào Mỹ, muốn nhập phải xin giấy
phép cơ quan có thẩm quyền: vũ khí đạn dược,rượu và thức uống có cồn, sản
phẩm từ sữa, thuốc, vật liệu sinh học và côn trùng, các loại giống gây nguy hiểm
15
hay có tính đe dọa, các chất độc hại, côn trùng, gia súc, thịt và các sản phẩm từ
thịt, máy móc động cơ, các chất phống xạ và phản ứng hạt nhân.
Yêu cầu giấy phép nhập khẩu có thể là một biện pháp duy trì sự kiểm soát
trong quản lý ngoại hối, quota, và thuế quan. Giấy phép nhập khẩu cũng có thể
được sử dụng tương tự như quota để hạn chế số lượng hàng hóa nhập vào.Sự
khác nhau giữa quota và giấy phép nhập khẩu là quota kiểm soát lượng hàng
đưa vào một nước, còn chế độ giấy phép nhập khẩu mềm mại hơn. Nói chung
quota chỉ nêu ra một giai đoạn thời gian nhất định, còn giấy phép thì hạn chế số
lượng dựa trên cơ sở trù tính cho từng ngày.
e) Các tiêu chuẩn kỹ thuật bắt buộc
Có nhiều mặt hàng cả nội lẫn ngoại bán ở Mỹ đều phải tuân thủ những
tiêu chuân về chất lượng an toàn. Ai nhập khẩu vào Mỹ những mặt hàng này đều
phải xin giấy xác nhận đạt chuẩn. Giấy này phải được xuất trình cùng lúc với
hàng rào và người nhập phải nộp số tiền kí quỹ đảm bảo để chắc chắn là hàng
phù hợp với tiêu chuẩn đòi hỏi. Các mặt hàng thuộc loại này thường là: xe hơi
và phụ tùng, sản phẩm men,đò điện gia dụng…
f) Ghi dấu hiệu
* Nước xuất xứ: Thông thường, người nhập hàng phải ghi rõ ở bên ngoài
sản phẩm một nhãn hàng bằng tiếng Anh của nước sản xuất hay chế tạo món
hàng. Dấu hiệu phải ghi ở nơi dễ thấy, rõ ràng và bền như chính tuổi thọ của sản
phẩm. Nếu sản phẩm không có nhãn hàng đúng cách, khi nhập vào nước Mỹ thì
người nhập phải trả một khoản thu bằng 10% của tiền thuế quan đóng cho sản

phẩm đó.
* Ghi dấu đặc biệt: Ngoài những yêu cầu về ghi nước xuất xứ của hàng
hóa, có một số mặt hàng đòi hỏi phải có dấu hiệu đặc biệt như: chữ không được
phai, chữ nổi, chữ lõm cho những mặt hàng như ống sắt hay thép, khung, xi
lanh, các dụng cụ kỹ thuật, kéo kim…Có những cơ quan chỉ dẫn việc ghi những
nhãn hiệu đặc biệt này. Trong trường hợp sản phẩm bị ghi sai làm người tiêu thụ
hiểu nhầm sẽ không được nhập khẩu.
16
g) Các biện pháp hỗ trợ thương mại
* Thuế chống bán phá giá: Luật chống bán phá giá phân tích hành vi định
giá của các nhà sản xuất nước ngoài. Việc phân tích luôn được thực hiện theo
cách riêng biệt đối với từng công ty. Khái niệm đơn giản nhất về chống bán phá
giá tại thị trường Mỹ là bán một sản phẩm ở Mỹ với mức giá thị trường thấp hơn
giá của chính sản phẩm đó tại thị trường nước xuất khẩu. Mỹ sẽ áp dụng quy
định tính tỷ lệ lợi nhuận đặc biệt đối với các nước mà họ coi là nền kinh tế phi
thị trường như Trung Quốc, Việt Nam …Giá sản phẩm ở những nước này không
được công nhận với lý do là nền kinh tế do Chính phủ điều tiết.
Một vấn đề tiếp theo được xem xét là việc xét duyệt hành chính nhằm xác
định mức thuế phá giá thực tế mà người nhập khẩu phải nộp. Nếu chưa được xét
duyệt, khoản tiền mặt đặt cọc nộp cho hải quan Mỹ sẽ chính thức là mức thuế
chống bán phá giá. Việc định giá này có thể được thực hiện hàng năm. Còn một
lệnh chống bán phá giá có thể có hiệu lực vô hạn, mặc dù cứ 5 năm một lần
công tác đánh giá lại được tiến hành.
* Thuế chống trợ giá: Luật pháp Mỹ quy định những hình thức trợ giúp
doanh nghiệp của Chính phủ bao gồm: trợ cấp tiền mặt,trợ cấp xuất khẩu, các
khoản cho vay với lãi suất ưu đãi, các khoản bảo lãnh tín dụng, xóa nợ, giảm
thuế. Giống như trong một vụ điều tra thuế chồng bán phá giá, số tiền trợ cấp
được định lượng và tính theo tỷ lệ % để làm cơ sở áp thuế theo giá hàng vào tất
cả các sản phẩm nhập khẩu được trợ giá.
17

PHẦN II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT
NAM VÀ HÀNG RÀO PHI THUẾ QUAN ĐỐI VỚI HÀNG
THỦY SẢN VIỆT NAM XUẤT KHẨU VÀO EU VÀ MỸ
II.1. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI
GIAN QUA
II.1.1. Tình hình sản xuất, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản
Việt Nam là nước có tiềm năng lớn về NTTS với diện tích mặt nước nội
địa khoảng 1 triệu ha, vùng triều khoảng 0,7 triệu ha và hệ thống đầm phá ven
biển có thể phát triển NTTS. Trong khi diện tích có khả năng NTTS của cả nước
ước tính khoảng gần 2 triệu ha thì mới chỉ sử dụng 902.900 ha (năm 2004).
Từ giữa thập kỷ 90 trở lại đây, NTTS của Việt Nam phát triển rất nhanh.
Qua bảng dưới ta cũng có thể thấy tổng diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản
của nước ta trong mấy năm qua tăng rất nhanh, tăng từ 641,9 nghìn ha năm 2000
lên đến 959,9 nghìn ha năm 2005.
Bảng 1: Diện tích mặt nước nuôi trồng và sản lượng thuỷ sản
giai đoạn 2000 – 2006
1) Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005
2006
(ước
tính)
A.Tổng số diện tích nuôi trồng (nghìn ha) 641,9 755,2 797,7 867,6 920,1 959,9
1.Diện tích nước mặn, lợ 397,1 502,2 556,1 612,8 642,3 677,2
Nuôi cá 50,0 24,7 14,3 13,1 11,2 16,5
Nuôi tôm 324,1 454,9 509,6 574,9 598,0 616,9
Nuôi hỗn hợp và thuỷ sản khác 22,5 22,4 31,9 24,5 32,7 43,4
Ươm, nuôi giống thuỷ sản 0,5 0,2 0,3 0,3 0,4 0,4
2. Diện tích nước ngọt 244,8 253,0 241,6 254,8 277,8 282,7
Nuôi cá 225,4 228,9 232,3 245,9 267,4 272,1
Nuôi tôm 16,4 21,8 6,6 5,5 6,4 6,5
Nuôi hỗn hợp và thuỷ sản khác 2,2 0,5 0,4 1,0 1,1 1,2

Ươm, nuôi giống thuỷ sản 0,8 1,8 2,3 2,4 2,9 2,9
B. Tổng sản lượng thuỷ sản (nghìn tấn) 2250,5 2434,7 2647,4 2859,2 3142,5 3432,8 3707,4
Khai thác 1660,9 1724,8 1802,6 1856,1 1940,0 1995,4
2155,0
Nuôi trồng 589,6 709,9 844,8 1003,1 1202,5 1437,4
1552,4
Nguồn: Tổng cục Thống kê
18
Những nỗ lực trong việc đổi mới đã đem lại kết quả đáng khích lệ là
ngành thuỷ sản phát triển toàn diện trên các mặt nuôi trồng, khai thác, chế biến
và xuất khẩu.
Cũng từ đầu năm 2006 đến nay, toàn ngành đã khai thác được gần 3,5
triệu tấn, tăng 8% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó sản lượng thu được từ
nuôi trồng thuỷ sản trên 1,5 triệu tấn và còn lại là từ khai thác biển. Tốc độ tăng
bình quân hàng năm của giá trị sản xuất thuỷ sản thời kỳ 1986 – 2006 đạt mức
cao, gần 10%. Theo Bộ Thủy sản, tính đến ngày 24-11, kim ngạch xuất khẩu
thủy sản của cả nước đã đạt gần 3,1 tỉ USD, bằng 110,06% kế hoạch đề ra cho
cả năm (3 tỉ USD) và tăng 24,45% so với cùng kỳ.
Quá trình tăng trưởng sản lượng thuỷ sản diễn ra đồng thời với quá trình
tăng trưởng diện tích NTTS. Tuy nhiên, tốc độ tăng sản lượng nhanh hơn do
năng suất nuôi trồng tăng lên.
Bảng 2:Xuất khẩu thuỷ sản chính ngạch sang các thị trường
năm 2005
Thị trường Số
lượng(tấn)
Giá trị(USD)
Châu Á (không kể Nhật
Bản)
131559.9 378035774
Châu Âu 115696.6 380904754

Mỹ 89025.6 617172589
Nhật Bản 123078.8 785875894
Thị trường khác 177018.9 576737747
Total 636379.8 2738726758
Nguồn: Trung tâm Tin học - Bộ Thủy sản
Tuy vậy, trong quá trình phát triển và nuôi trồng thủy sản cũng đã thể
hiện nhiều bất cập như: diện tích nuôi tôm và diện tích thâm canh ở nhiều địa
phương tăng quá nhanh, chưa có hoặc không theo quy hoạch đang diễn ra ở
nhiều nơi. Việc quản lý chất lượng con giống và quản lý an toàn vệ sinh trong
nuôi trồng thủy sản còn chưa đáp ứng yêu cầu, mặc dù đã đầu tư khá nhiều. Cả
nước chỉ có 7 phòng kiểm nghiệm lớn,nhiều địa phương thiếu cán bộ và phương
19
tiện kiểm tra. Nhiều doanh nghiệp thực hiện HACCP theo kiểu đối phó…
Những bất cập trên đã tác động không nhỏ đến môi trường sinh thái và hình
thành nguy cơ cho sự phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững.
II.1.2. Thực trạng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào các thị trường
II.1.2.1. Đối với thị trường EU
Từ những năm 1980, sản phẩm thủy sản xuất khẩu của Việt Nam đã xuất
hiện trên thị trường EU dưới một nhãn hiệu chung là Seaprodex. Ngay từ những
năm đầu thâm nhập thị trường EU, sản phẩm thủy sản được xuất khẩu chung với
các sản phẩm nông sản khác với số lượng ít nhưng đã gây được cảm tình của
người tiêu dùng châu Âu. Vào năm 1985, 1986, Công ty xuất nhập khẩu thuỷ
sản Việt Nam SEAPRODEX đã được trao tặng danh hiệu “ Nhãn hiệu sản phẩm
thủy sản uy tín”.
Nhận thức được rằng, quá trình tiêu thụ sản phẩm cuối cùng, đặc biệt là
tiêu thụ với giá trị gia tăng thông qua xuất khẩu, là động lực bảo đảm cho sự
tăng trưởng và phát triển của các hoạt động sản xuất khai thác và nuôi trồng, bên
cạnh việc giữ vững các thị trường truyền thống, ngành thuỷ sản đã chủ trương
tích cực đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, trong đó EU là một trong những lựa
chọn hàng đầu. Do đây là một thị trường lớn, ổn định, giá tốt nhưng có đòi hỏi

rất cao về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, nhất là sau những vụ ngộ
độc thực phẩm, nên để thu được thành công ở thị trường này, ngành đã xác định
không ngừng nâng cao chất lượng và vệ sinh an toàn sản phẩm là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu trong chiến lược xúc tiến thâm nhập thị trường. Ngành đã hướng
dẫn các doanh nghiệp phấn đầu liên tục nhiền năm để tạo nên những bước
chuyển biến tích cực theo hướng này. Từ Bộ Thuỷ sản đến các doanh nghiệp đã
thực hiện hàng loạt biện pháp, từ cải thiện hệ thống thể chế, hoàn thiện văn bản
quy phạm pháp luật, nâng cao năng lực các cơ quan thẩm quyền, đổi mới cách
tiếp cận trong quản lý chất lượng, an toàn sản phẩm, cho đến đầu tư đổi mới
công nghệ, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất, nâng cấp điều
kiện sản xuất nhằm thoả mãn các điều tương đồng với các nước nhập khẩu về hệ
20
thống pháp lý, năng lực của cơ quan thực thi pháp lý và điều kiện sản xuất của
các doanh nghiệp.
Từ một hệ thống nhà máy chế biến lạc hậu và cũ kỹ, phụ thuộc hầu như
hoàn toàn vào thị trường Nhật, với quyết tâm đổi mới cơ bản về điều kiện vệ
sinh và công nghệ sản xuất, áp dụng các hệ thống đảm bảo chất lượng tiên tiến
nhất theo yêu cầu của thị trường tiêu thụ, gần 200 nhà máy chế biến thủy sản
của Việt Nam đã gần như trải qua một cuộc lột xác với quá trình tiếp cận những
phương pháp công nghệ, quản lý an toàn vệ sinh tiến tiến, quá trình đổi mới
trong chế biến phục vụ hoạt động xuất khẩu được tiến hành trên mọi mặt: từ
nâng cấp điều kiện sản xuất; đổi mới công nghệ thiết bị; thay đổi cách tiếp cận
trong quản lý an toàn, chất lượng theo HACCP, từ quản lý sản phẩm đầu cuối
sang quản lý toàn bộ quá trình sản xuất; tăng cường hệ thống luật pháp; tăng
cường năng lực hệ thống thanh, kiểm tra; đổi mới cách tiếp cận thị trường từ
“bán cái mình có” sang “bán cái khách hàng cần”, chủ động tìm đến với khách
hàng.
Việt Nam cũng đã thực hiện các chương trình giám sát dư lượng các hoá
chất độc hại có trong thủy sản nuôi từ vùng nuôi đến nhà máy chế biến, giám sát
vùng thu hoạch nhuyễn thể hai mảnh vỏ và được EU đánh giá cao. Và cùng với

nguồn nguyên liệu nhiệt đới phong phú về chủng loại và khối lượng, chất lượng
cao, thủy sản Việt Nam đã hội tụ đầy đủ những điều kiện cần thiết để trở thành
một đối tác lớn xuất khẩu thủy sản cho bạn hàng EU.
Những nỗ lực đó đã đem lại kết quả rõ rệt. Từ tháng 11/1999, Việt Nam
được công nhận vào danh sách 1 (List A) các nước xuất khẩu thuỷ sản vào EU,
sản phẩm thủy sản của Việt Nam đã chính thức được công nhận về pháp lý để
khẳng định được chỗ đứng tại 15 nước EU. Đến 01/01/2006, Việt Nam có 171
doanh nghiệp (trong tổng số 394 doanh nghiệp chế biến thủy sản lớn của cả
nước) đủ tiêu chuẩn được cấp phép (code) xuất khẩu thủy sản vào thị trường
EU.
21
Từ năm 1996 – 1999, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang
EU tăng rất nhanh với tốc độ trung bình hàng năm 54,92%. Theo số liệu thống
kê của EU, năm 1996 kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản từ Việt Nam đạt 26,9 triệu
USD, năm 1998 tăng lên 92,5 triệu USD. Theo số liệu thống kê của Trung tâm
Tin học Bộ Thuỷ sản, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU năm
1999 đạt 89,1 triệu. Trong những năm 2000 – 2002, hoạt động xuất khẩu bị
chững lại và có xu hướng giảm sút, sau khi EU tăng cường kiểm tra dư lượng
các chất kháng sinh và hạ thấp ngưỡng phát hiện dư lượng các chất này trong
sản phẩm. Nhờ những nỗ lực khắc phục của các cơ quan quản lý, các doanh
nghiệp và nông ngư dân Việt Nam, từ năm 2003, kim ngạch xuất khẩu thủy sản
của Việt Nam đã tăng trưởng nhanh chóng trở lại. Năm 2003, kim ngạch xuất
khẩu thuỷ sản Việt Nam sang EU đạt 116, 7 triệu đôla, năm 2004 - 231,5 triệu
đôla, năm 2005 - 367,3 triệu đôla. Hàng thủy sản hiện là mặt hàng có kim ngạch
đứng thứ tư trong số các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU. Tuy
nhiên, cho đến nay, tỷ trọng nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam hàng năm chỉ
bằng 0,3-0,4% trị giá nhập khẩu thủy sản của toàn EU. Khối lượng thuỷ sản xuất
khẩu của Việt Nam vào EU năm 2005 mới đạt gần 120 nghìn tấn, trị giá 380,9
triệu USD, chiếm 7% kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước.
Bảng 3: Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào EU

Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Kim ngạch
(triệuUSD)
71,8 90,7 73,7 116,7 231,5 380,9
Khối lượng
(tấn)
20.290,8 26.659,1 28.612,8 38.186,8 73.459,2 115.696,6
(Nguồn: Trung tâm Tin học, Bộ Thuỷ sản)
Sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam chủ yếu là cá, tôm, mực, bạch tuộc, cá
ngừ, đồ hộp. Trong giai đoạn từ 2000-2001, mặt hàng có khối lượng nhập khẩu
lớn nhất của EU từ Việt Nam là tôm đông lạnh. Kim ngạch xuất khẩu tôm đông
lạnh năm 2000 đạt 38,6 triệu đôla, năm 2001 - 43,6 triệu đôla. Năm 2002, kim
22
ngạch xuất khẩu tôm của Việt Nam có giảm sút, chỉ còn 15,7 triệu đôla. Thời
gian đó, một số lô tôm đông lạnh của Việt Nam xuất sang EU bị phát hiện có dư
lượng kháng sinh cao quá mức cho phép và bị huỷ, gây thiệt hại lớn cho nhà
xuất khẩu. Nguyên nhân của tình trạng trên là do chúng ta chưa đáp ứng được
yêu cầu vệ sinh thực phẩm từ khâu nuôi trồng đến bàn ăn được công bố trong
Sách Trắng của EU đối với thực phẩm chế biến nhập khẩu. Thực hiện chính
sách bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng EU quy định “cấm” sử dụng 16 loại
hoá chất trong đó có chloramphenicol và nitrofuran có trong thực phẩm, tức phải
hiểu là “dư lượng kháng sinh bằng 0”. Trong thực tế EU cho phép dư lượng
kháng sinh dưới 0,3 phần tỷ là đạt yêu cầu.
Từ năm 2002, thương mại tôm giữa Việt Nam và EU đã có những dấu
hiệu phục hồi và có sự gia tăng cả về giá trị và khối lượng tôm xuất sang thị
trường này trong năm 2003 và 2004. Năm 2003, Việt Nam đã xuất khẩu hơn
5316 tấn tôm sang EU, tăng 28% so với 4000 tấn năm 2002. Năm 2004, tôm
Việt Nam đã thâm nhập mạnh hơn vào các thị trường mới tại khu vực EU, khi
các nhà xuất khẩu tôm Việt Nam chuyển hướng từ Bỉ, thị trường truyền thống số
một tại EU, sang các thị trường khác như Anh, Đức, Italy. Đối với mặt hàng tôm

của Việt Nam, vấn đề quan trọng nhất là đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm,
ngoài ra không bị cản trở bởi các biện pháp phi quan thuế nào khác.
Cá đông lạnh cũng là mặt hàng có mức tăng xuất khẩu sang EU đều và
đáng kể. Xuất khẩu cá của Việt Nam sang thị trường này đã vượt xa tôm không
những về khối lượng mà cả về giá trị, vươn lên đứng trên Nhật (66 triệu USD
năm 2003), chỉ sau Mỹ (141 triệu USD) và chiếm 20% tổng giá trị xuất khẩu cá
của Việt Nam (552 triệu USD). Năm 2004, xuất khẩu cá của Việt Nam sang EU
tiếp tục tăng trưởng với giá trị xuất khẩu đạt 231,5 triệu USD, gấp 3 lần so với
năm 2003, chiếm gần một nửa giá trị xuất khẩu thủy sản sang EU. Sản phẩm cá
chủ lực của Việt Nam xuất sang thị trường này là cá tra, cá basa (pangasius) và
cá ngừ.
23
II.1.2.2. Đối với thị trường Mỹ
Trước năm 1994, do chính sách cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam,
sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam không thể xuất trực tiếp sang Hoa Kỳ. Tuy
nhiên, thuỷ sản Việt Nam vẫn xuất sang Hoa Kỳ thông qua nước hoặc vùng lãnh
thổ thứ ba mà chủ yếu là Singapo và Hồng Kông. Tháng 2 năm 1994 Hoa Kỳ
chính thức bãi bỏ lệnh cấm vận kinh tế với Việt Nam. Tháng 7 năm 1994 lô
hàng thuỷ sản đầu tiên của Việt Nam do Công ty Cafatex xuất khẩu cập cảng
tiểu bang Florida, mở đầu cho một giai đoạn mới trong quan hệ thương mại thuỷ
sản giữa hai nước. Năm 1995 Hoa Kỳ và Việt Nam chính thức bình thường hoá
quan hệ và quan hệ ngoại giao giữa hai nước chính thức được thiết lập. Kể từ đó
Việt Nam và Hoa Kỳ đã hình thành và phát triển quan hệ hợp tác trong lĩnh vực
thuỷ sản, cả về quản lý, khoa học công nghệ và thương mại. Bộ Thuỷ sản Việt
Nam, Hiệp hội chế biến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) thường xuyên
có liên hệ, trao đổi với Cục nghề cá biển Hoa Kỳ (MNFS), Cục quản lý thực
phẩm và dược phẩm (FDA). Phía Hoa Kỳ đã cử nhiều đoàn đại biểu sang làm
việc với Việt Nam và toạ đàm về áp dụng HACCP đối với các cơ sở chế biến
xuất khẩu. Năm 1998, hai nước đã ký biên bản thoả thuận hợp tác giữa nghề cá
hai nước và kể từ đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ đã tăng

đáng kể.
Sau khi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực tháng
12/2001, kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã phát triển nhảy vọt.
Hiệp định đã tác động rất lớn tới việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thuỷ sản của
Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, đưa Hoa Kỳ trở thành một trong những thị
trường nhập khẩu thuỷ sản hàng đầu của Việt Nam.
24
Bảng 4 : Mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ
năm 2000 - 2004
Đơn vị : Nghìn USD
i. Mặt hàng 2000 2001 2002 2003 2004
Tôm nước lợ 185,12 308,70 368,62 468,93 277,45
Cá sống 175 216 201 271 357
Cá sấy khô, ướp muối, hun khói … 374 596 722 1,005 3,549
Hải sản thân mềm, nhuyễn thể 8,17 6,16 5,82 7,44 6,18
Cá đông lạnh (không bao gồm cá
filê hoặc cá thịt khác)
6,80 10,22 9,23 10,70 14,71
Cá tươi (không bao gồm cá filê
hoặc cá thịt khác)
9,59 16,64 24,67 23,66 25,38
Cá filê và cá thịt khác tươi, hoặc
đông lạnh
32,61 41,72 69,17 56,45 78,36
Nguồn : Số liệu của Bộ Thương mại Hoa Kỳ
Năm 2000, cơ cấu thị trường nhập khẩu Hoa Kỳ có sự điều chỉnh mạnh và
Việt Nam đã nắm bắt cơ hội chen chân vào thị trường rộng lớn này. Xuất khẩu
thuỷ sản của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng đột ngột lên 2,14 lần so với năm 1999
và là mức tăng nhanh nhất trong số các quốc gia xuất khẩu thuỷ sản vào Hoa
Kỳ. Trong các mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ, tôm chiếm tỷ

trọng chính 74% tổng giá trị hàng thuỷ sản xuất khẩu. Việt Nam vươn lên vị trí
thứ tư về giá trị xuất khẩu tôm sang Hoa Kỳ (về khối lượng đứng hàng thứ 7).
Cá tra, ba sa philê đông lạnh là mặt hàng độc đáo của Việt Nam tại thị trường
Hoa Kỳ.
Năm 2002, khối lượng các mặt hàng xuất khẩu đã tăng lên 98.664 tấn, đạt
654.98 triệu USD, chiếm 32,4% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng hải sản (kể cả chế biến) đạt
777.66 triệu USD, tiếp tục xếp vị trí thứ hai sau hàng dệt may trong bảng xuất
khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ, chiếm 35,3% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản
của Việt Nam. Trong nhóm hàng thuỷ sản, tôm đông lạnh đạt kim ngạch 469
25

×