Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

Đánh giá thực trạng quản lý rừng và đất lâm nghiệp do uỷ ban nhân dân xã quản lý tại huyện lục nam, tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 127 trang )

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Nghĩa đầy đủ
BQL Ban quản lý
DT Diện tích
FAO Tổ chức Nông Lương của Liên hợp quốc
GDP Tổng sản phẩm nội địa
GIS Công gnhệ hệ thống toàn cầu
GTZ Tổ chức Hợp tác kỹ thuật Đức
IUCN Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế
JICA Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản
KFW3 Dự án Phục hồi và quản lý rừng bền vững tại Bắc Giang – pha 3
LNXH Lâm nghiệp xã hội
LSNG Lâm sản ngoài gỗ
NN Nhà nước
PRA Đánh giá nông thôn có sự tham gia
PTNT Phát triển nông thôn
SO Điểm mạnh-Cơ hội
ST Điểm mạnh-Thách thức
SWOT Điểm mạnh-Điểm yếu-Cơ hội-Thách thức
UBND Uỷ ban nhân dân
WO Điểm yếu-Cơ hội
WT Điểm yếu-Thách thức
WWF Tổ chức Bảo vệ động vật hoang dã thế giới
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
- Có tiềm năng đất lâm nghiệp thích hợp trồng nhiều loại cây trồng nông lâm nghiệp. Diện
tích đất phục vụ sản xuất kinh doanh phát triển lâm nghiệp bình quân đầu
người toàn huyện ở mức khá cao 0,13 ha/người 31
- Cơ sở hạ tầng đã từng bước được kiên cố hóa, rất thuận lợi cho việc bảo vệ và phát triển
rừng 31
- Huyện có vị trí thuận lợi gần các khu công nghiệp, thành phố có nhu cầu lớn về chế biến


gỗ nguyên liệu, gỗ xây dựng, gỗ gia công hàng mỹ nghệ cao cấp 31
- Vùng núi có nhiều khu du lịch sinh thái, cảnh quan đẹp như Khu bảo tồn thiên nhiên Tây
Yên Tử, suối Mỡ, suối Riêu, suối nước vàng… Đây là điều kiện thuận lợi để để
phát triển lâm nghiệp kết hợp du lịch sinh thái 31
- Vùng trung du có nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại, phát triển trồng cây ăn
quả, trồng cây đặc sản, cây lâm sản ngoài gỗ, 31
- Vùng đồi rừng có lực lượng lao động dồi dào, nhân dân cần cù chịu khó lao động và có
nhiều kinh nghiệm trong việc bảo vệ và phát triển rừng. 31
3.3.2. Khó khăn 31
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ
- Có tiềm năng đất lâm nghiệp thích hợp trồng nhiều loại cây trồng nông lâm nghiệp. Diện
tích đất phục vụ sản xuất kinh doanh phát triển lâm nghiệp bình quân đầu
người toàn huyện ở mức khá cao 0,13 ha/người 31
- Cơ sở hạ tầng đã từng bước được kiên cố hóa, rất thuận lợi cho việc bảo vệ và phát triển
rừng 31
- Huyện có vị trí thuận lợi gần các khu công nghiệp, thành phố có nhu cầu lớn về chế biến
gỗ nguyên liệu, gỗ xây dựng, gỗ gia công hàng mỹ nghệ cao cấp 31
- Vùng núi có nhiều khu du lịch sinh thái, cảnh quan đẹp như Khu bảo tồn thiên nhiên Tây
Yên Tử, suối Mỡ, suối Riêu, suối nước vàng… Đây là điều kiện thuận lợi để để
phát triển lâm nghiệp kết hợp du lịch sinh thái 31
ii
- Vùng trung du có nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế trang trại, phát triển trồng cây ăn
quả, trồng cây đặc sản, cây lâm sản ngoài gỗ, 31
- Vùng đồi rừng có lực lượng lao động dồi dào, nhân dân cần cù chịu khó lao động và có
nhiều kinh nghiệm trong việc bảo vệ và phát triển rừng. 31
3.3.2. Khó khăn 31
iii
ĐẶT VẤN ĐỀ
Vấn đề quản lý rừng đã được thực hiện từ rất lâu ở trên thế giới. Chính phủ
các nước có nền kinh tế phát triển như: Thụy Điển, Nhật Bản, Pháp,… rất quan tâm

chú ý tới những vấn đề này. Ở Thụy Điển nhà nước chỉ quản lý 25% diện tích rừng
và đất rừng, các công ty lớn sở hữu 25%, còn lại 50% diện tích rừng và đất rừng
còn lại thuộc sở hữu của các hộ tư nhân. Bên cạnh đó, chính phủ nhiều nước còn
thực hiện nhiều giải pháp nhằm khuyến khích người dân tham gia quản lý sử dụng
rừng một cách hiệu quả như: đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển lâm nghiệp,
hỗ trợ các hoạt động lâm sinh, cho vay vốn với lãi xuất thấp,…
Ở Việt Nam, trước năm 1986 chỉ công nhận 2 đối tượng quản lý sử dụng
rừng hợp pháp là lâm trường quốc doanh và hợp tác xã. Vì vậy, việc phát triển rừng
trong giai đoạn này ít mang lại hiệu quả, đặc biệt là đối với phát triển kinh tế của
những người dân sống gần rừng. Từ sau năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện đổi
mới về tư duy phát triển kinh tế trong đó có sự thay đổi tư duy về quản lý sử dụng
rừng. Trong giai đoạn này, Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh tế khác
tham gia các hoạt động phát triển rừng và thể hiện cho sự đổi mới đó là hàng loạt
các văn bản pháp luật có liên quan được ra đời như: Quyết định số 1171 LN/QĐ
ngày 30/12/1986 về quy chế quản lý 3 loại rừng và tiến hành phân cấp quản lý rừng,
chuyển dần từ cơ chế bao cấp sang cơ chế tự chủ sản xuất kinh doanh và từ sản xuất
tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hóa; Thông tư liên Bộ số 01/TT/LB hướng dẫn việc
giao rừng và đất để trồng rừng cho các tổ chức, cá nhân sử dụng vào mục đích lâm
nghiệp; Nghị định số 02/CP ngày 15/1/1994 về giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ
gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp; Nghị định
163/NĐ-CP, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và Tổng cục Địa chính đã ra
Thông tư liên tịch số 62/2000/TTLT/BNN-TCĐC ngày 06/6/2000, đề ra những quy
định về thủ tục giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm
nghiệp và tổ chức thực hiện giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp,… Trong giai đoạn
này rừng được gắn với chủ sở hữu cụ thể và nhà nước không ngừng từng bước có
những chính sách nhằm khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển
1
rừng như: cho vay vốn lãi suất thấp, giảm thuế thuê đất và đặc biệt hơn là nhà nước
đã tiến hành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để người dân yên tâm phát
triển rừng. Chính vì vậy, rừng của nước ta đã không ngừng được phát triển cả về số

lượng lẫn chất lượng. Tuy nhiên, trong quá trình quản lý đất lâm nghiệp ở các địa
phương bên cạnh những mặt đã đạt được thì vẫn còn rất nhiều những mặt hạn chế,
yếu kém cả về mặt chính sách lẫn việc tổ chức thực hiện gây cản trở hiệu quả quản
lý đất lâm nghiệp.
Huyện Lục Nam thuộc tỉnh Bắc Giang là một huyện miền núi có diện tích
rừng và đất lâm nghiệp là 32.153,5 ha, chiếm 54% tổng diện tích tự nhiên. Cũng
như các địa phương khác trên phạm vi cả nước, vấn đề thực hiện giao đất, giao rừng
trên địa bàn huyện cũng được thực hiện từ khá lâu, góp phần bảo vệ và phát triển
rừng, nâng cao độ che phủ và cải thiện sinh kế cho cộng đồng trong thời gian qua.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, toàn huyện có khoảng 1.417,07 ha rừng và đất
rừng thuộc địa bàn 3 xã Nghĩa Phương (767,07 ha), Lục Sơn (500 ha) và Cẩm Lý
(150 ha) hiện đang được quản lý, sử dụng một cách chưa thực sự hiệu quả do rừng
chưa có chủ quản lý, sử dụng cụ thể mà những diện tích này vẫn thuộc quản lý của
UBND xã nên mức độ đầu tư, chăm sóc, bảo vệ và phát triển rừng đối với các diện
tích đất và rừng này là chưa thật sự được chú trọng. Do vậy, một đòi hỏi thực tế đặt
ra là làm thế nào để có thể quản lý, sử dụng các diện tích rừng và đất rừng này một
cách hiệu quả, bền vững để góp phần phát triển kinh tế, xã hội và cải thiện sinh kế
cho cộng đồng địa phương. Xuất phát từ yêu cầu đó, đề tài “Đánh giá thực trạng
quản lý rừng và đất lâm nghiệp do uỷ ban nhân dân xã quản lý tại huyện Lục
Nam, tỉnh Bắc Giang” được đặt ra là thật sự cần thiết và có ý nghĩa.
Chương 1
2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
Vấn đề quản lý đất lâm nghiệp đã được các nước trên thế giới quan tâm thực
hiện từ rất lâu, có thể điểm qua tình hình quản lý đất lâm nghiệp tại một số quốc gia
như sau:
- Thụy Điển: Nhà nước quản lý 25% diện tích rừng và đất rừng, các công ty
lớn sở hữu 25%, còn lại 50% diện tích rừng và đất rừng và đất rừng còn lại thuộc sở
hữu của các hộ tư nhân.

- Pháp: Rừng tư nhân chiếm khoảng 10 triệu ha và rừng nhà nước chỉ chiếm
khoảng 4 triệu ha. Trong 10 triệu ha rừng tư nhân thì có một nửa thuộc về 1,5 triệu
tiểu chủ.
- Phần Lan: Sở hữu tư nhân về rừng và đất rừng ở Phần Lan mang tính
truyền thống, có tới 2/3 diện tích rừng và đất rừng thuộc sở hữu của tư nhân và có
khoảng 430.000 chủ rừng, bình quân mỗi chủ rừng sở hữu 33 ha.
- Nhật bản: Có 3 hình thức sở hữu đất lâm nghiệp đó là sở hữu nhà nước, sở
hữu công cộng và sở hữu tư nhân:
+ Nhà nước sở hữu 7,84 triệu ha chiếm 31,2% rừng và đất rừng của cả nước,
những diện tích rừng và đất rừng này chủ yếu ở những nơi xa xôi hẻo lánh, địa hình
hiểm trở,… thuộc quyền quản lý của Cục Lâm nghiệp - Bộ Nông lâm thủy sản.
+ Các tổ chức chính quyền địa phương sở hữu trên 2,7 triệu ha chiếm
10,74%. Các công ty tư nhân và các hộ gia đình sở hữu 14,6 triệu ha, chiếm 58,1%.
Có tới 88% chủ rừng là các hộ tư nhân, trong đó phần lớn các chủ rừng sở hữu dưới
5 ha đất lâm nghiệp nên các chủ rừng này liên kết với nhau thành các hội. Hiện nay,
ở Nhật Bản có khoảng 1.430 Hội các chủ rừng với 1.718.000 thành viên.
Chính phủ có chương trình trợ cấp nhằm hỗ trợ cho các hoạt động lâm sinh,
xây dựng đường lâm nghiệp thông qua Hội các chủ rừng, ngoài ra các chủ rừng còn
được ưu tiên vay vốn để sản xuất kinh doanh với lãi xuất thấp, đồng thời còn được
giảm thuế đất lâm nghiệp [24].
3
- Trung quốc: Theo hiến pháp của nhà nước vào đầu những năm 1980,
chính quyền nhà nước từ Trung ương tới tỉnh và huyện bắt đầu cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho tất cả các chủ rừng là các tổ chức nhà nước, tập thể và tư
nhân. Mỗi hộ nông dân được phân phối một diện tích đất rừng để sản xuất kinh
doanh “Luật lâm nghiệp quy định đơn vị tập thể và nông dân trồng cây trên đất
mình làm chủ thì hoàn toàn được hưởng sản phẩm trên mảnh đất đó”. Sau khi được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chính phủ đã áp dụng chính sách nhạy bén
thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại rừng và kinh doanh đa dạng để có lợi trước mắt
và lâu dài.

Có 2 hình thức sở hữu đất đai là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể (sở hữu
cộng đồng). Sở hữu nhà nước đối với đất trang trại quốc doanh hoặc đất do nhà
nước sử dụng, sở hữu tập thể đối với đất của các làng nông thôn [22] (dẫn theo
Tổng cục địa chính, 2000).
- Indonesia: Mỗi gia đình ở gần rừng được khoán 2.500 m
2
đất trồng cây,
trong 2 năm đầu được phép trồng lúa cạn, hoa màu trên diện tích đó và được hưởng
toàn bộ sản phẩm hoa màu không phải nộp thuế. Công ty lâm nghiệp cho nông dân
vay vốn dưới hình thức cung cấp giống, phân hóa học, thuốc trừ sâu, sau khi thu
hoạch người nông dân phải trả đầy đủ toàn bộ số vốn đã vay, còn phân hóa học và
thuốc trừ sâu chỉ phải trả 70%. Trong trường hợp rủi ro, nếu mất mùa thì không
phải trả vốn vay đó. Ngoài ra, nhà nước còn hỗ trợ một phần kinh phí để xây dựng
cơ sở hạ tầng nông thôn. Hướng dẫn kỹ thuật nông lâm nghiệp được thực hiện
thông qua các hoạt động khuyến lâm, tổ chức làm thí điểm, học tập rút kinh nghiệm
và triển khai trên diện rộng [22].
- Philippin: Chính sách lâm nghiệp xã hội “Institutional Social Forestry
Program” (ISFP) năm 1980 của chính phủ nhằm dân chủ hóa việc sử dụng đất rừng
công cộng và khuyến khích việc phân chia một cách hợp lý các lợi ích từ rừng,
chương trình này nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội cho cộng đồng người
dân sống phụ thuộc vào đất rừng thông qua đó bảo vệ và phát triển tốt tài nguyên
rừng [22].
4
- Thái Lan: Hiện nay, Thái Lan đang thí điểm giao rừng cho cộng đồng, đã
giao được khoảng 200.000 ha ở gần các điểm dân cư, nhà nước trợ cấp tối đa cho
mỗi hộ 50 rai và tối thiểu là 5 rai (1 rai = 1.600 m
2
). Thái lan dự kiến áp dụng một
chính sách nông lâm nghiệp toàn diện, chú trọng tới các vấn đề xã hội, môi trường
và người nghèo, lấy cộng đồng làm đơn vị cơ sở [22].

- Ở Nepal: Nhà nước cho phép chuyển giao một số khu rừng có diện tích lớn
ở vùng núi trung du cho các cộng đồng, thông qua tổ chức chính quyền cấp cơ sở,
thành lập các thành viên ủy ban về rừng cam kết quản lý bảo vệ các khu rừng ở địa
phương [14]. Từ năm 1978 chính quyền đã trao quyền bảo vệ và quản lý rừng cho
người dân địa phương để thực hiện chính sách phát triển lâm nghiệp cộng đồng.
Panchayat là tổ chức quản lý thấp nhất. Tuy nhiên, sau một thời gian người ta nhận
ra các Panchayat không phù hợp với việc quản lý và bảo vệ rừng do các khu rừng
nằm phân tán, không theo đơn vị hành chính và người dân có các nhu cầu, sở thích
khác nhau. Tiếp sau, Nhà nước đã phân biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng. Quyền
sở hữu rừng chia ra làm 2 loại là sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước. Trong sở hữu
nhà nước chia rừng thành các quyền sử dụng khác nhau: rừng cộng đồng theo các
nhóm sử dụng, rừng tín ngưỡng, rừng phòng hộ, rừng nhà nước. Nhà nước công
nhận quyền pháp nhân và quyền sở và quyền sử dụng cho các nhóm sử dụng rừng.
Trong vòng 14 năm, Nhà nước giao khoảng 9000 ha rừng quốc gia cho các cộng
đồng. Tính đến năm 1992 đã có 1908 nhóm sử dụng rừng hình thành. Từ năm 1993,
chính sách lâm nghiệp mới nhấn mạnh đến các nhóm sử dụng rừng, cho phép gia
tăng quyền hạn và hỗ trợ cho các nhóm sử dụng rừng, thay đổi chức năng của các
phòng lâm nghiệp huyện từ chức năng cảnh sát và chỉ đạo sang chức năng hỗ trợ và
thúc đẩy cho các cộng đồng, từ đó rừng được quản lý và bảo vệ có hiệu quả hơn [3].
- Ở Ấn Độ: Vào những năm 70 của thế kỷ 20, Ấn Độ đã phát triển lâm
nghiệp xã hội (LNXH), năm 1986 Ấn Độ hoàn thành mục tiêu phát triển LNXH tại
các bang khác nhau. Ấn Độ đã coi cộng đồng như một đối tác quản lý những vùng
đất rừng của chính phủ. Chính phủ cho phép các cộng đồng được sử dụng tất cả các
sản phẩm không phải là gỗ, còn việc phân chia quyền lợi cây gỗ lại có sự thay đổi
5
nhiều giữa các bang, gỗ được sử dụng làm chất đốt ở Bi Har và được phép sử dụng
ở Orissa thì ở Rajas than có đến 60% nguồn thu nhập của cộng đồng là từ buôn bán
gỗ [14]. Tại Ấn Độ, liên kết quản lý rừng đã đem lại những lợi ích nhất định cho cả
2 bên: Chính phủ (cơ quan lâm nghiệp) và cộng đồng địa phương. Chính sách lâm
nghiệp quốc gia 1988 khẳng định sự tham gia của người dân vào sự phát triển và

bảo vệ rừng và khẳng định một trong những điểm thiết yếu của quản lý rừng chính
là các cộng đồng tại rừng phải được khuyến khích để tự nhận biết vai trò của bản
thân họ trong phát triển và bảo vệ rừng mà họ được hưởng lợi từ đó. Một số quy
định cụ thể về cơ chế hưởng lợi được thể hiện như sau:
+ Quyền sử dụng đất rừng và các lợi ích khác chỉ dành cho những người
hưởng lợi thuộc tổ chức thiết chế làng xã tái tạo và bảo vệ rừng. Những tổ chức này
có thể là những Panchayat hay hợp tác xã hay hội đồng lâm nghiệp làng. Những
nhóm hưởng lợi có thể được hưởng những sản phẩm như: cỏ, cành ngọn, và các vật
phẩm khác. Nếu họ bảo vệ rừng thành công, họ có thể được hưởng một phần từ thu
nhập do bán gỗ đã thành thục. Ví dụ, chính quyền Bengal (và có thể các bang khác)
đã cho phép các cộng đồng địa phương được hưởng 25% tổng thu nhập từ bán gỗ.
+ Cùng với cây làm củi, thức ăn gia súc và gỗ, cộng đồng địa phương cũng
được phép trồng các cây ăn quả sao cho phù hợp với quy hoạch trồng rừng chung,
và cả cây bụi, cây họ đậu và cỏ để nhằm đáp ứng nhu cầu tại chỗ, bảo vệ đất và
nguồn nước, làm giàu rừng. Ngay cả cây dược dược liệu cũng có thể được trồng
theo yêu cầu.
- Cây gỗ chỉ được khai thác cho đến khi cây đã trưởng thành. Các cơ quan
lâm nghiệp cũng không được chặt cây trên đất lâm nghiệp đang do cộng đồng bảo
vệ trừ trường hợp theo kế hoạch.
Bên cạnh những nghiên cứu về giao đất lâm nghiệp cho các đối tượng thực
hiện quản lý thì một vấn đề khác cũng được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu
đó là cơ chế hưởng lợi ích từ việc giao quản lý đất lâm nghiệp.
Khi nghiên cứu một quá trình thay đổi trong quá trình quản lý lâm nghiệp ở
Ấn Độ và Nepal, Hobley (1996) đã phân loại các đối tượng hưởng lợi thành đối
6
tượng hưởng lợi trực tiếp và đối tượng hưởng lợi gián tiếp, theo mức độ phụ
thuộc vào tài nguyên. Theo cấp hành chính, đối tượng hưởng lợi có thể hoạt
động ở cấp vi mô (địa phương) hay vĩ mô (trung ương). Tác giả cũng đi sâu vai
trò và sự tham gia của các nhóm đối tượng hưởng lợi trong quản lý rừng qua
các giai đoạn lịch sử khác nhau.

Đối tượng hưởng lợi là thuật ngữ bao trùm “mọi cá nhân và tổ chức có
quyền lợi và có thể bị ảnh hưởng bởi một hoạt động, một chương trình phát triển
hay một hoàn cảnh, hoặc là những người có ảnh hưởng hay tác động tới hoạt động
hay chương trình đó” (Hobley, 1996) [25]. Trong một số trường hợp đối tượng
hưởng lợi vừa có thể chịu ảnh hưởng vừa có thể gây ảnh hưởng tới hoạt động đó.
Về vấn đề hưởng lợi trong quản lý sử dụng rừng, phân tích của Hobley
(1996) cho thấy các hệ thống Taungya được áp dụng tại Myanmar từ năm 1850 đã
cho phép những người dân du canh được chiếm một diện tích rừng khoảng 3 - 4 ha
với điều kiện họ phải trồng và chăm sóc cây con khi chăm sóc cây nông nghiệp. Do
vậy, cơ quan lâm nghiệp có thể kiểm soát những người du canh thông qua các hoạt
động canh tác của họ cùng với việc tái sinh rừng với các loài cây có giá trị.
Trong một nghiên cứu khác về lâm nghiệp xã hội tại Bangladesh, Khan
(1998) cho rằng lợi ích của các đối tượng hưởng lợi khác nhau thường khác nhau và
nhiều khi đối kháng . Nhà nước cần đóng vai trò cầu nối hay xúc tác để dung hòa
lợi ích hoặc để giải quyết mâu thuẫn giữa các đối tượng hưởng lợi [26].
1.2. Ở Việt Nam
Chính sách quản lý đất lâm nghiệp ở Việt Nam được thực hiện từ năm 1968
đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm với nhiều nghị định, quyết định của
Chính phủ về chính sách giao đất lâm nghiệp được ban hành như: quyết định
272/CP ngày 3/10/1977 về việc ban hành chính sách đối với Hợp tác xã mở rộng
diện tích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, xây dựng vùng kinh tế mới, thực hiện
định canh định cư; quyết định số 184-HĐBT ngày 6/11/1982 đẩy mạnh giao đất lâm
nghiệp cho tập thể và cá nhân trồng cây gây rừng; Quyết định số 1171 LN/QĐ ngày
30/12/1986 về quy chế quản lý 3 loại rừng: rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản
7
xuất, Luật đất đai 1993, Luật đất đai 2003, Quyết định 186/QĐ-TTg về quy chế
quản lý 3 loại rừng,… [1], [15], [2], [7], [8], [9].
Nghị định số 01/CP, 02/CP, 163/NĐ-CP, Thông tư liên tịch số
62/2000/TTLT/ BNN-TCĐC đã quy định rất rõ về đối tượng được giao, khoán đất
lâm nghiệp có thu tiền sử dụng hay không thu tiền sử dụng; loại đất lâm nghiệp

được phép giao, khoán; căn cứ để tiến hành giao, khoán đất lâm nghiệp, thời hạn
được giao, khoán đất lâm nghiệp,…các quy định của pháp luật này đã tạo ra một
khung pháp lý cụ thể và rõ ràng trong việc triển khai tiến hành giao, khoán đất lâm
nghiệp tại các địa phương [5], [6], [10].
Tình hình thực hiện chính sách giao khoán đất lâm nghiệp phục vụ cho công
tác quản lý và phát triển rừng ở Việt Nam trong những năm qua như sau:
- Thời kỳ 1969 - 1982:
Đã giao được 2,5 triệu ha cho 3.998 hợp tác xã và tập đoàn sản xuất quản lý,
chưa giao đến hộ gia đình.
- Thời kỳ 1983 - 1992:
+ Từ năm 1983 - 1989: đã giao được 1.934.000 ha cho 1.724 hợp tác xã, 610
cơ quan, trường học và cho 349.750 hộ gia đình để thực hiện quản lý.
+ Từ năm 1989 - 1992: đã giao được 796.000 ha cho 440.000 hộ gia đình và
5,8 triệu ha cho khu vực quốc doanh.
Sau 24 năm thực hiện giao đất lâm nghiệp từ năm 1968 - 1992 cả nước đã
giao được tổng số hơn 11 triệu ha, trong đó có 5,8 triệu ha cho khu vực quốc doanh,
3,7 triệu ha cho hợp tác xã nông nghiệp và 1,53 triệu ha cho các hộ gia đình.
Việc tổ chức thực hiện việc giao đất lâm nghiệp trong giai đoạn đầu từ 1968
- 1982 còn nhiều thiếu sót do nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của người dân trong
kinh doanh rừng, việc tổ chức quản lý đất lâm nghiệp không đồng bộ và được thực
hiện còn thiếu chặt chẽ, làm ồ ạt, mang tính hình thức, chạy theo số lượng diện tích,
chưa có quy hoạch đất đai, chưa phân hạng 3 loại rừng và xác định giao đất lâm
nghiệp cho từng đối tượng cụ thể. Giai đoạn 1983 - 1989 việc tổ chức thực hiện chủ
trương giao đất giao rừng của ngành lâm nghiệp là nghiêm túc, cụ thể, có những
8
bước đi cơ bản và đã đạt được những thành tựu đáng kể, đã tạo ra động lực phát
triển kinh tế nông lâm nghiệp miền núi, bước đầu đã hình thành nên thị trường ở
trung du miền núi. Thực tế cho thấy, ở nhiều nơi sau khi tập thể, hộ gia đình, cá
nhân nhận đất lâm nghiệp đã tiến hành tổ chức sản xuất kinh doanh và đã có thu
nhập đáng kể do xác định được cơ cấu cây trồng vật nuôi thích hợp với điều kiện

khí hậu, đất đai ở địa phương cụ thể như cây quế ở Yên Bái, cây Vải thiều ở Bắc
Giang, cây Tiêu, cây Cà phê ở Tây nguyên.
Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng trên thực tế hiệu quả của việc sử dụng đất
thời gian này còn thấp, chỉ sử dụng hiệu quả khoảng 30% diện tích được giao, số
còn lại vẫn bị khai thác và không được bảo vệ, bỏ hoang hóa [21]. Đặc biệt từ năm
1988, nhà nước chuyển đổi cơ chế kinh tế, thay đổi phương pháp quản lý và sử
dụng đất lâm nghiệp, hơn 3,7 triệu ha đất lâm nghiệp giao cho hợp tác xã nông
nghiệp do không có người làm chủ cụ thể nên khi hợp tác xã tan vỡ thì hầu hết số
diện tích này đều bị tàn phá [2].
- Thời kỳ 1993 đến nay:
Sau khi luật đất đai 1993 ra đời, Chính phủ ban hành Nghị định 02/CP, Nghị
định 01/CP, Nghị định 163/CP,… Sự ra đời của các chính sách này nhằm gắn
lao động với đất đai, tạo thành động lực để phát triển sản xuất nông lâm ngư
nghiệp, công tác giao đất lâm nghiệp được thực hiện theo những nguyên tắc và
quy định mới.
Theo số liệu ngày 21/5/2000 của Cục Kiểm lâm [12], đến cuối năm 1999 cả
nước đã giao được 8.786.572 ha đất lâm nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân trong đó bao gồm: 972.357 ha rừng đặc dụng, 3.196.343 ha rừng phòng hộ,
4.617.872 ha rừng sản xuất.
Trong tổng số diện tích đã được giao ở trên, có 2.666.659 ha đã được giao
cho 452.168 hộ, có 6.179.913 ha được giao cho 27.312 tổ chức.
Đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 1.3868 tổ chức và 200.867
hộ gia đình, cá nhân với tổng diện tích là 1.173.965 ha chiếm 13% tổng diện tích đã
đươc giao.
9
Theo báo cáo của Cục kiểm lâm trong quá trình thực hiện công tác giao đất
lâm nghiệp theo nghị định 02/CP, có một số tỉnh đã làm tốt công tác này điển hình
là tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện việc giao đất lâm nghiệp theo đúng các văn bản quy
phạm, pháp luật về giao đất lâm nghiệp mà trọng tâm là giao tới hộ gia đình, giao
đến đâu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngay tới đó, hồ sơ giao đất được

lưu trữ trong máy vi tính. Tỉnh Bắc Thái đã chủ động cấp kinh phí để thực hiện việc
giao đất lâm nghiệp, sử dụng lực lượng các đội điều tra quy hoạch rừng ở trung
ương làm các thủ tục giao đất, có hệ thống thống kê lưu trữ hồ sơ từ Chi cục Kiểm
lâm - Hạt Kiểm lâm - xã [11].
Chính sách quản lý giao rừng cùng với các chính sách hỗ trợ của nhà nước
trong thời gian qua đã tạo điều kiện khai thác tiềm năng, lao động, tiền vốn tại chỗ.
Tình trạng chặt phá rừng đã bị hạn chế, rừng trồng đạt tỷ lệ sống cao, đã xuất hiện
nhiều mô hình trang trại nông lâm nghiệp, mô hình kinh tế hộ gia đình có hiệu quả
kinh tế cao, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của người
dân, một bộ phận người dân đã giàu lên từ sản xuất kinh doanh trên đất được giao,
mở hướng sản xuất hàng hóa gắn với thị trường tiêu thụ ở nhiều nơi, góp phần xóa
đói giảm nghèo, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn miền núi.
Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách quản lý giao đất lâm
nghiệp, bên cạnh những kết quả đạt được, cũng còn nhiều hạn chế như:
+ Một số nơi không thực hiện đúng quy trình giao đất lâm nghiệp, chưa có
quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp trước khi giao, không coi trọng việc bàn giao
ranh giới đất đai cụ thể ngoài thực địa, dẫn tới tình trạng sau khi giao nhiều trường
hợp nhiều hộ gia đình, cá nhân, không xác định được ranh giới đất của mình ở
ngoài thực địa. Có tình trạng giao đất sai thẩm quyền, sai tinh thần nghị định số
02/CP, một số nơi trong quá trình thực hiện còn nhầm giữa giao đất theo nghị định
02/CP và khoán đất theo nghị định 01/CP. Một số lâm trường cũng đứng ra giao đất
cho hộ gia đình, giao cả vào rừng đặc dụng, rừng phòng hộ. Thiếu kiểm tra theo dõi
việc sử dụng đất được giao, nhiều hộ được giao 3 - 4 năm vẫn chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, không làm khế ước giao rừng theo quy định gây ảnh
10
hưởng xấu tới công tác quản lý đất lâm nghiệp của địa phương, nhiều diện tích rừng
và đất lâm nghiệp chưa thể giao cho dân mà vẫn phải do chính quyền UBND các xã
thực hiện quản lý một cách chưa thực sự hiệu quả.
+ Vấn đề hỗ trợ, chuyển giao kỹ thuật canh tác cho các hộ nhận đất lâm
nghiệp còn nhiều bất cập, lực lượng khuyến nông, khuyến lâm hiện nay còn quá

mỏng, nội dung chuyển giao còn nghèo nàn, chưa phù hợp với điều kiện tự nhiên đa
dạng của miền núi, chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất của người dân địa phương.
Dự án “Đổi mới chiến lược ngành lâm nghiệp” là dự án tiêu biểu xuất phát từ
yêu cầu cấp bách của thực tiễn nước ta sau khi ban hành Luật Bảo vệ phát triển
rừng năm 1991. Mục tiêu của dự án là bằng quá trình tìm tòi học hỏi và hợp tác để
góp phần tìm ra các giải pháp chiến lược nhằm từng bước thực thi có hiệu quả mục
tiêu phát triển ngành lâm nghiệp trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Dự án đã góp
phần xây dựng phương pháp mới về giao đất lâm nghiệp, trên cơ sở học tập kinh
nghiệm của các năm trước và dựa vào các văn bản pháp quy liên quan tới luật đất
đai, Luật Bảo vệ phát triển rừng. Phương pháp này gồm 3 thành phần cơ bản sau:
+ Ưu tiên đáp ứng yêu cầu của chính phủ làm sao để rừng và đất rừng có chủ
thực sự, đồng thời đáp ứng được nguyện vọng của người dân về quyền sử dụng
rừng và đất rừng một cách bền vững ngay trên quê hương của họ. Gắn lợi ích của
người dân và cộng đồng địa phương với lợi ích quốc gia về kinh tế - xã hội và môi
trường sinh thái.
+ Căn cứ vào quỹ đất và nhu cầu sử dụng quỹ đất lâm nghiệp của các đối
tượng trên từng địa bàn xã để tiến hành giao cho các thành phần kinh tế như: Lâm
trường quốc doanh, hợp tác xã kiểu mới, cộng đồng thôn bản, các hộ gia đình, cá
nhân sử dụng vào mục đích lâm nghiệp, với phương châm giao một lần và khép kín
trên địa bàn từng xã.
+ Căn cứ vào các cơ sở pháp lý hiện hành, xây dựng cơ chế chính sách quản
lý sử dụng đất đai thích hợp nhằm khuyến khích và tạo ra động lực phát triển sản
xuất, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình giao đất lâm nghiệp trên phạm vi toàn quốc
[16] (dẫn theo Triệu Văn Lực, 1999).
11
Phương pháp này được thực hiện thí điểm ở xã Tử Nê, huyện Tân Lạc, tỉnh
Hòa Bình vào cuối năm 1993 với kết quả rất khả quan. Đây là xã đầu tiên trong cả
nước được giao đất lâm nghiệp để quản lý khép kín trên địa bàn toàn xã. Tiếp theo
là thí điểm trên 2 xã vùng cao Hang Kim và Pà Cò thuộc huyện Mai Châu tỉnh Hòa
Bình là nơi chủ yếu là đồng bào Mông sinh sống cũng thu được kết quả tốt [18].

Đề tài “Định hướng và các giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội nông
thôn miền núi” của tác giả Trần Thanh Bình, đã đưa ra một số khuyến nghị nhằm
góp phần ổn định và phát triển kinh tế xã hội nông thôn miền núi [21] (dẫn theo
Phạm Quốc Tuấn, 2000).
Đề tài “Những định hướng và giải pháp bước đầu nhằm đổi mới việc giao
đất giao rừng ở miền núi” của Nguyễn Đình Tư đã xem xét tình hình giao đất từ
năm 1968 - 1992, đánh giá được thực trạng sau khi nhận đất, nhận rừng thì vấn đề
quản lý đất và rừng đó vẫn chưa thực sự hiệu quả qua đó đề tài cũng đã chỉ ra được
những định hướng và những giải pháp cơ bản nhằm đổi mới công tác giao đất lâm
nghiệp ở miền núi [21] (dẫn theo Phạm Quốc Tuấn, 2000).
Đề tài “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần xây dựng chính sách
quản lý và khuyến khích phát triển rừng của các hộ nông dân” của tác giả Nguyễn
Đình Tư và Nguyễn Văn Tuấn, đã tiến hành nghiên cứu phân tích các cơ sở lý luận
và cơ sở thực tiễn của việc xây dựng hệ thống chính sách, chế độ quản lý và khuyến
khích phát triển rừng cho các hộ gia đình nông dân. Trên cơ sở tổng kết đánh giá hệ
thống chính sách, chế độ hiện hành, bước đầu đề xuất các khuyến nghị về việc hoàn
thiện hệ thống chế độ, chính sách quản lý và khuyến khích phát triển rừng của các
hộ gia đình nông dân [20] (dẫn theo Trung tâm tài nguyên môi trường, 1997).
Công trình “Tăng cường công tác giao đất lâm nghiệp và khuyến khích trồng
rừng trên đất được giao” của tác giả Đoàn Diễm đã đưa ra những tồn tại trong việc
quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp, đưa ra những kiến nghị đẩy nhanh
tiến độ quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp trong thời gian tới [1] (dẫn
theo Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 1997).
12
Đề tài “Tìm hiểu tác động của giao đất giao rừng đến phát triển kinh tế, xã
hội và môi trường tại xã Văn Lang huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên” của nhóm tác
giả trường đại học Nông lâm Thái Nguyên (Đặng Kim Vui, Lý Văn Trọng, Lê Sỹ
Trung) đã tiến hành đánh giá hiệu quả việc thực hiện chính sách giao đất lâm
nghiệp tới việc quản lý và sử dụng đất và rừng trên phạm vi ở một xã miền núi [23].
Báo cáo “Người nông dân mong muốn được lợi ích gì trên đất được giao để

trồng rừng” của Phạm Sinh đã đề xuất một số quan điểm có liên quan tới lợi ích của
người trồng rừng và nêu lên một số mong muốn của họ khi nhận đất nhận rừng để
thực hiện quản lý và sản xuất kinh doanh [16] (dẫn theo Triệu Văn Lực, 1999).
Hội thảo với chủ đề “Chủ rừng và lợi ích của chủ rừng trong kinh doanh
rừng trồng” do Vụ Chính sách, Vụ hợp tác quốc tế, Cục phát triển lâm nghiệp - Bộ
Nông nghiệp và PTNT phối hợp tổ chức tại Sầm Sơn tỉnh Thanh Hóa, từ ngày 13
đến ngày 17/7/1998 đã xem xét nghiên cứu khuôn khổ pháp lý và tác động của hệ
thống khuôn khổ pháp lý đang tồn tại đối với từng loại chủ rừng và nhận thấy nổi
lên những vấn đề sau đây:
+ Cần xác định rõ địa vị pháp lý của các loại chủ rừng bao gồm: hộ gia đình,
cá nhân, doanh nghiệp tư nhân kinh doanh rừng trồng, lâm trường quốc doanh, ban
quản lý rừng đặc dụng, phòng hộ, các chủ rừng là công ty liên doanh, các chủ rừng
là nhà đầu tư nước ngoài, các cộng đồng dân cư,…
+ Cần xác định rõ hơn quyền hạn của họ đối với đất đã được giao, đất cho
thuê để tạo nên những động lực mới đẩy mạnh các hoạt động trồng rừng ở nước ta
trong thời gian tới [3].
Hội thảo quốc gia với chủ đề “Chính sách và thực tiễn phục hồi rừng ở Việt
Nam” do Cục Phát triển lâm nghiệp phối hợp với một số tổ chức quốc tế IUCN,
GTZ, WWF tổ chức vào tháng 11 năm 1999 tại Hòa Bình đã phân tích những
nguyên nhân mất và suy thoái rừng đồng thời chỉ ra những tồn tại trong quá trình
giao đất lâm nghiệp: quá trình giao đất lâm nghiệp diễn ra tương đối chậm và chưa
mang lại cảm giác thỏa mái về quyền sở hữu cho các hộ gia đình và cộng đồng địa
phương dẫn tới việc quản lý rừng và đất lâm nghiệp đạt được là chưa thực sự hiệu
13
quả. Có 2 nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng này đó là khả năng có hạn của các
cơ quan được giao nhiệm vụ để thực hiện quá trình giao đất một cách hữu hiệu,
cũng như thời hạn và điều kiện hạn chế đi kèm với quá trình giao đất [12].
Đề tài “Đánh giá hiệu quả sử dụng đất lâm nghiệp nhà nước giao cho hộ gia
đình” của tác giả Nguyễn Thị Lai - Viện Khoa học Lâm Nghiệp đã tiến hành đánh
giá hiệu quả kinh tế của các hộ gia đình khi nhận đất, nhận rừng để quản lý và sử

dụng trên cơ sở đó đề ra những khuyến nghị thiết thực với mục đích nâng cao hiệu
quả quản lý sử dụng đất tại huyện Yên Bình tỉnh Bắc Thái, đề tài đã tiến hành đánh
giá hiệu quả kinh tế của việc canh tác các mô hình sản xuất chính trên đất lâm
nghiệp được giao của hộ gia đình [17].
Hội thảo với chủ đề “Giao rừng tự nhiên và quản lý rừng cộng đồng” do Cục
Phát triển lâm nghiệp - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tổ chức tại Hà Nội
đã tiến hành đánh giá bước đầu về giao rừng tự nhiên và cách chính sách hỗ trợ
quản lý rừng cộng đồng tại một số tỉnh, giới thiệu quy trình thiết lập quản lý rừng
cộng đồng thí điểm do Tổ công tác Quốc tế về quản lý rừng cộng đồng soạn thảo.
Vấn đề giao rừng cho cộng đồng là một hướng đi mới và có hiệu quả trong chính
sách quản lý rừng của nước ta hiện nay [13].
Cũng như đối với thế giới, ở Việt Nam khi đi nghiên cứu về giao đất, giao
rừng để thực hiện mục tiêu quản lý rừng bền vững thì một vấn đề nóng bỏng cũng
được quan tâm nhiều nhất đó là lợi ích phân chia từ việc giao đất, giao rừng.
Trong quá trình triển khai chính sách giao đât, giao rừng theo Nghị định
02/CP ngày 15/4/1994 (nay là nghị định 163/CP ra ngày 16/11/1999), Nghị định
01/CP của chính phủ ngày 4/1/1995, Nhà nước đã ban hành một số chính sách có
liên quan đến hưởng lợi của các hộ gia đình, cá nhân nhận rừng, đất lâm nghiệp.
Trong hàng loạt các văn bản chính sách trên có quyết định 178/2001 QĐ - TTg của
thủ tướng chính phủ ra ngày 12/11/2001 và thông tự liện tịch số 80/2003/TTLT -
BTC/BNN&PTNT ngày 3/9/2003 về việc hướng dẫn thực hiện quyết định số 178,
đã được thông qua và triển khai rộng rãi. Tuy nhiên, có thể thấy rằng trong thời qua
đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu, tổng kết về chính sách giao đất, giao rừng theo
14
nghị định 02/CP và 01/CP, nhưng những nghiên cứu đánh giá về cơ chế hưởng lợi
từ đất lâm nghiệp còn rất hạn chế cả về số lượng đề tài, đối tượng nghiên cứu cũng
như phạm vi địa lý. Cho đến nay, mới chỉ có một số ít đề tài nghiên cứu được biết
đến, đã và đang được tiến hành nhằm đánh giá cơ chế hưởng lợi trong lâm nghiệp,
cụ thể như sau:
- Hội thảo quốc gia về chủ rừng và lợi ích của chủ rừng trong kinh doanh

rừng trồng do Bộ NN&PTNT, tổ chức Nông nghiệp và Lương thực của Liên hợp
quốc (FAO), cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tổ chức vào tháng 7 năm
1998. Cuộc hội thảo chỉ quan tâm đến rừng trồng sản xuất còn rừng tự nhiên, rừng
phòng hộ, rừng đặc dụng không được đề cập. Nội dung của cuộc hội thảo đề cập
đến những vấn đề sản xuất kinh doanh của các chủ rừng sản xuất kinh doanh rừng
trồng sản xuất, lợi ích của các chủ kinh doanh rừng sản xuất, các giải pháp để thúc
đẩy việc sản xuất kinh doanh rừng sản xuất [3].
- Từ năm 1998, Chương trình phát triển nông thôn miền núi Việt Nam Thụy
điển đã triển khai thử nghiệm một số mô hình quản lý bảo vệ rừng cộng đồng ở hai
tỉnh Yên Bái và Hà Giang. Khi việc thử nghiệm kết thúc người ta đã tiến hành đánh
giá mô hình quản lý rừng cộng đồng dựa trên 5 tiêu chí sau:
+ Trạng thái rừng cho các cộng đồng.
+ Sự tác động của nhà nước.
+ Sự tham gia của cộng đồng người dân vào quản lý bảo vệ rừng.
+ Quyền sử dụng đất của người dân.
+ Những lợi ích của cộng đồng được hưởng.
Việc đánh giá trên làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp phát triển mô
hình quản lý bảo vệ rừng cộng đồng. Nhìn chung chương trình thử nghiệm chỉ gói
chọn trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng cộng đồng còn các loại hình quản lý bảo vệ
rừng khác không được đề cấp ở đây.
Phạm Xuân Phương, Ngô Đình Thọ, Đỗ Anh Minh (2004) đã tiến hành
nghiên cứu khảo sát, đánh giá tình hình triển khai chính sách hưởng lợi đối với hộ
gia đình, cá nhân, cộng đồng được giao, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp tại các
15
tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk, Sơn La, Điện Biên tới vấn đề quản lý, sử dụng rừng ở 2 khía
cạnh chủ yếu: pháp lý và thực tiễn. Nhóm tác giả đã cố gắng làm rõ những bất cập,
những thiếu hụt và những vấn đề nảy sinh khi triển khai chính sách hưởng lợi tại địa
phương, cũng như việc tìm hiểu nguyện vọng của người dân và đề xuất của chính
quyền địa phương nơi nghiên cứu để đề xuất biện pháp quản lý sử dụng rừng một
cách hiệu quả hơn. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả đã đề xuất một số ý kiến liên quan

đến tổ chức triển khai thực hiện chính sách hưởng lợi tại các tỉnh nói trên trong thời
gian tới. Tuy nhiên, nghiên cứu này mới chỉ tập trung vào tìm hiểu, phát hiện vấn đề
phát sinh trong triển khai chính sách hưởng lợi đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng
đồng được giao, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp tại một số địa phương, mà chưa
đi sâu phân tích một cách hệ thống các nguyên nhân sâu xa và trực tiếp ảnh hưởng
đến việc thực hiện chính sách hưởng lợi hiện nay, cũng như đưa ra được những đề
xuất, giải pháp cụ thể mang tính đột phá nhằm hoàn thiện cơ chế hưởng lợi theo
quyết định 178 trên phạm vi toàn quốc [19].
- Nghiên cứu “Nghĩa vụ và quyền hưởng lợi của cộng đồng quản lý rừng”
của nhóm tác giả: Nguyễn Bá Ngãi, Nguyễn Ngọc Lung và cộng tác viên năm 2004
đang được triển khai nhằm xác lập rõ trách nhiệm và quyền hưởng lợi của các cộng
đồng dân cư trực tiếp quản lý rừng của mình trong khuôn khổ chính sách hiện hành,
đồng thời đưa ra những ý kiến đóng góp và việc xây dựng chính sách quản lý rừng
có sự tham gia của cộng đồng trên. Nội dung nghiên cứu chủ yếu đề cập về những
điều cơ bản về mặt pháp lý và chính sách liên quan đến nghĩa vụ và quyền hưởng
lợi của cộng đồng quản lý rừng tại 4 tỉnh: Sơn La, Diện Biên, Thanh Hóa, Thừa
Thiên Huế. Các ý kiến đề xuất chủ yếu tập trung vào:
+ Phân nhóm cộng đồng và quy hoạch.
+ Giao rừng.
+ Quyền và nghĩa vụ của cộng đồng dân cư, thôn và nhóm hộ được nhà nước
giao quyền sử dụng rừng.
Nghiên cứu này cũng chỉ tập trung vào nghĩa vụ và quyền lợi của cộng đồng
địa phương tham gia quản lý rừng. Do vậy, phạm vi ứng dụng kết quả nghiên cứu
trong thực tế rất bị hạn chế.
16
- Năm 2005, Nguyễn Nghĩa Biên và cộng sự thuộc trường Đại học Lâm
Nghiệp đã tiến hành đề tài nghiên cứu: “Đánh giá tình hình thực hiện Quyết định
178/2001/QĐ-TTg và đề xuất sửa đổi, bổ xung chính sách hưởng lợi đối với cá
nhân, hộ gia đình và cộng đồng được giao, được thuê và nhận khoán rừng và đất
lâm nghiệp”. Đề tài đã đánh giá tình hình thực hiện chính sách hưởng lợi theo

Quyết định 178/2001/QĐ-TTg và đề xuất sửa đổi, bổ sung góp phần hoàn thiện cơ
chế hưởng lợi đối với các hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng được giao, được thuê
và nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp từ đó tăng cường hiệu quả của công tác quản
lý rừng bền vững [4].
1.3. Nhận xét đánh giá chung
Như vậy, điểm qua tình hình nghiên cứu công tác quản lý rừng và đất lâm
nghiệp ở trên thế giới và ở trong nước có thể rút ra một số nhận xét cơ bản sau:
Ở trên thế giới, việc thực hiện các biện pháp nhằm quản lý, sử dụng rừng
một cách hiệu quả đã được quan tâm thực hiện từ rất lâu, trong đó biện pháp chủ
yếu được thực hiện vẫn là giao đất, giao rừng gắn với chủ sử dụng cụ thể từ đó gắn
chặt quyền lợi và nghĩa vụ của chủ rừng với tài nguyên rừng và đất rừng nhằm
hướng tới việc quản lý rừng bền vững. Có 4 nhóm đối tượng chủ yếu được các nước
trên thế giới thực hiện quản lý rừng là: Nhà nước, các tổ chức, tư nhân và hộ gia
đình, trong đó vấn đề giao rừng cho tư nhân và hộ gia đình thực hiện quản lý hiện
đang rất được quan tâm thực hiện, góp phần quan trọng vào công tác quản lý rừng
của các quốc gia.
Ở Việt Nam, các biện pháp quản lý rừng được thực hiện khá muộn so với thế
giới, tuy nhiên cũng đã có sự chuyển biến tích cực trong cả nhận thức lẫn chính
sách quản lý rừng. Từ việc chỉ công nhận 2 đối tượng quản lý rừng duy nhất là Nhà
nước và Hợp tác xã thì cho tới nay chúng ta đã thu hút được nhiều thành phần kinh
tế cùng tham gia quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bao gồm cả nhà nước, các tổ
chức nước ngoài, hộ gia đình, cá nhân, tổ chức trong nước, cộng đồng địa phương,
… tạo ra nhiều cơ chế chia sẻ lợi ích phù hợp hơn, trong đó hình thức giao rừng cho
hộ gia đình, tư nhân và cộng đồng hiện đang rất được quan tâm trong công tác quản
17
lý rừng ở nước ta, góp phần quan trọng trong công tác bảo vệ và phát triển rừng của
nước ta trong thời gian qua. Huyện Lục Nam là một huyện miền núi thuộc tỉnh Bắc
Giang có diện tích rừng và đất lâm nghiệp rất lớn, trong những năm qua công tác
giao đất, giao rừng cho các đối tượng thực hiện quản lý sử dụng cũng rất được tỉnh
quan tâm thực hiện góp phần quan trọng vào việc phát triển tài nguyên rừng và tạo

sinh kế cho cộng đồng địa phương. Tuy nhiên, cũng như nhiều địa phương khác
trên cả nước do nhiều nguyên nhân khác nhau mà cho tới nay vẫn còn không ít diện
tich rừng và đất rừng vẫn chưa giao được cho chủ quản lý, sử dụng cụ thể mà các
diện tích này vẫn do UBND các xã thực hiện quản lý. Phần lớn các diện tích này đều là
rừng nghèo kiệt, đất đai có tiềm năng sản xuất thấp, phân bố ở những nơi xa xôi hẻo
lánh, khó quản lý, trong khi đó từ phía nhà nước và chính quyền địa phương lại chưa có
biện pháp gì hữu hiệu để thu hút được các đối tượng trên địa bàn tham gia vào nhận đất,
nhận rừng ở những khu vực này dẫn tới công tác đầu tư cho phục hồi và phát triển rừng
ở những vị trí này kém, hiệu quả thấp. Do vậy, đề tài “Đánh giá thực trạng quản lý rừng
và đất lâm nghiệp do uỷ ban nhân dân xã quản lý tại huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang”
được đặt ra là thực sự có ý nghĩa.
18
Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu chung
Góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoàn thiện chính sách giao đất,
giao rừng và quản lý rừng có hiệu quả tại Việt Nam.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá được thực trạng công tác quản lý rừng và đất lâm nghiệp do
UBND xã quản lý trên địa bàn huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, rút ra được những
bài học kinh nghiệm trong công tác quản lý rừng.
- Bước đầu đề xuất được một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả quản
lý rừng và đất lâm nghiệp do UBND xã quản lý trên địa bàn huyện Lục Nam, tỉnh
Bắc Giang.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là diện tích rừng và đất lâm nghiệp hiện do
UBND cấp xã thuộc huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang quản lý.
2.3. Giới hạn nghiên cứu

* Giới hạn về nội dung:
Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về tình hình thực hiện công tác giao đất giao
rừng trên địa bàn huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang từ đó đi sâu vào phân tích tình
hình quản lý, sử dụng những diện tích rừng và đất lâm nghiệp do UBND các xã
thuộc huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang quản lý, qua đó đề xuất biện pháp quản lý,
sử dụng hiệu quả những diện tích này.
* Giới hạn về địa điểm:
Địa bàn các xã có rừng và đất lâm nghiệp hiện đang do UBND các xã quản
lý của huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Việc điều tra, đánh giá chi tiết được giới
hạn trong 3 xã là: Nghĩa Phương, Lục Sơn, Cẩm Lý.
19
2.4. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, đề tài đặt ra các nội dung nghiên cứu
như sau:
- Đánh giá thực trạng công tác giao đất, giao rừng tại huyện Lục Nam.
- Đánh giá hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp do UBND xã quản lý tại huyện
Lục Nam.
- Đánh giá tình hình tổ chức quản lý rừng và đất lâm nghiệp do UBND xã
quản lý tại huyện Lục Nam.
- Phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức và bài học kinh nghiệm
trong quản lý rừng và đất lâm nghiệp do UBND xã quản lý tại huyện Lục Nam.
- Bước đầu đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả quản lý
rừng và đất lâm nghiệp do UBND xã quản lý tại huyện Lục Nam.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
2.5.1. Quan điểm và cách tiếp cận của đề tài
Chính sách và pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý mọi hoạt động của
xã hội. Tuy nhiên, dù bất cứ một chính sách pháp luật nào khi được triển khai thực
hiện đều thể hiện rõ 2 mặt: tích cực và hạn chế. Bên cạnh đó, trong thực tiễn đã xuất
hiện tình trạng mặc dù chủ trương chính sách của Nhà nước là đúng đắn nhưng khi
triển khai thực hiện tại các địa phương lại không mang lại hiệu quả. Do vậy, việc

tìm hiểu rõ nguyên nhân của sự yếu kém và đề xuất giải pháp khắc phục là phương
hướng giải quyết chung của đề tài nghiên cứu.
Quản lý rừng là một vấn đề rất phức tạp vì nó liên quan đến nhiều yếu tố, từ
các chính sách vĩ mô của Chính phủ cho tới các vấn đề kinh tế, xã hội và điều kiện
cụ thể của địa phương. Vì vậy, quan điểm và cách tiếp cận chung trong nghiên cứu
này sẽ là tổng hợp. Đề tài sẽ xem xét đánh giá công tác quản lý rừng gắn với các
chính sách giao đất lâm nghiệp trên địa bàn.
Công tác quản lý rừng và đất lâm nghiệp do UBND xã quản lý ở huyện Lục
Nam có liên quan tới rất nhiều tới các chủ thể khác nhau như các hộ gia đình, cá
20
nhân, cộng đồng, Hạt kiểm lâm, phòng nông nghiệp huyện,… Vì vậy, cách tiếp cận
của đề tài sẽ là có sự tham gia.
Phương hướng giải quyết vấn đề của đề tài được cụ thể hóa qua sơ đồ sau:
Hình 2.1: Sơ đồ các bước nghiên cứu của đề tài
Do thời gian nghiên cứu của đề tài ngắn, địa bàn nghiên cứu rộng với nhiều
tính đặc thù khác nhau, vì vậy cách tiếp cận chủ yếu của đề tài là kế thừa các thông
tin, số liệu đã có.
Trong quá trình nghiên cứu, quan điểm lịch sử sẽ được quán triệt. Đề tài
không chỉ quan tâm đánh giá công tác quản lý rừng hiện tại mà sẽ xem xét nó trong
Thu thập các thông tin, tài liệu
đã có, điều kiện tự nhiên, kinh tế
- xã hội khu vực nghiên cứu
Khảo sát sơ bộ khu vực nghiên
cứu, lựa chọn địa điểm điều tra
Tình hình giao đất, giao rừng do UBND
xã quản lý thuộc huyện Lục Nam
Tình hình
giao đất,
giao rừng
cho

hộ dân
Tình hình
giao đất,
giao rừng
cho cộng
đồng địa
phương
Giao đất,
giao rừng
cho các tổ
chức,
đoàn thể
Diện tích rừng
và đất rừng
chưa được
giao hiện do
UBND xã
quản lý
Đánh giá hiệu quả quản lý
rừng và đất lâm nghiệp
Đề xuất giải pháp
21
quá trình lịch sử từ trong quá khứ đến hiện tại (giai đoạn 2005 đến nay) cũng như
những dự đoán có thể xảy ra trong tương lai.
2.5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
2.5.2.1. Phương pháp kế thừa số liệu
Đề tài kế thừa các thông tin và số liệu sau:
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Lục Nam.
- Các kết quả giao đất, giao rừng và các bản đồ có liên quan của tỉnh Bắc
Giang và huyện Lục Nam.

- Các số liệu về diện tích, trạng thái rừng UBND xã đang quản lý tại huyện
Lục Nam.
- Các báo cáo sơ kết, tổng kết, đánh giá về giao đất, giao rừng, quản lý rừng
trên địa bàn huyện Lục Nam.
- Báo cáo đánh giá về hiện trạng diện tích, chất lượng rừng và tình hình thực
hiện công tác quản lý rừng do UBND xã quản lý trên địa bàn huyện Lục Nam và
các xã trên địa bàn huyện,…
2.5.2.2. Phương pháp điều tra, khảo sát thực địa
- Phương pháp chủ đạo được sử dụng trong đề tài là phương pháp tiếp cận có
sự tham gia PRA để tiến hành điều tra phỏng vấn các nhóm đối tượng có liên quan.
Trước hết, thông qua Chi cục lâm nghiệp tỉnh Bắc Giang đề tài đã gửi công văn tới
UBND huyện Lục Nam và 3 xã Nghĩa Phương, Lục Sơn và Cẩm Lý để thu thập
những thông tin chung về giao đất lâm nghiệp, tình hình quản lý rừng được giao,…
Sau đó đề tài đã làm việc trực tiếp với UBND huyện, phòng tài nguyên môi
trường, phòng Nông nghiệp huyện Lục Nam, UBND các xã,… để nắm chi tiết một
số thông tin sau:
- Tình hình thực hiện công tác giao đất, giao rừng và quản lý đất lâm nghiệp
trong những năm qua trên địa bàn huyện, xã.
- Quy trình, thủ tục giao đất, giao rừng cho các đối tượng trên địa bàn.
- Các kết quả giao đất, giao rừng của huyện qua các năm, tình hình cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của huyện và chính sách quản lý, sử dụng rừng và
đất lâm nghiệp trên địa bàn huyện.
22

×