DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CP Protein thô
EE Lipid thô
CF Xơ thô
Cs Cộng sự
VCK vật chất khô
TCVN Tiêu chuẩn Việt Nam
TN Thí nghiệm
TĂ Thức ăn
KL Khối lượng
PI Chỉ số sản xuất
G Gram
Kg Kilogam
TLCĐ Tỷ lệ cơ đùi
TLCN Tỷ lệ cơ ngực
TLMB Tỷ lệ mỡ bụng
TLTT Tỷ lệ thân thịt
ĐC Đối chứng
GĐ Giai đoạn
% Phần trăm
EN Economic Number
CV Hệ số biến dị
P Xác suất
X
Số trung bình
X
S
Độ lệch tiêu chuẩn
X
m
Sai số của số trung bình
i
DANH MỤC CÁC BẢNG
ii
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ
iii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năng suất của vật nuôi chịu tác động của nhiều yếu tố ngoại cảnh,
trong đó phức hợp các yếu tố khí hậu được đánh giá là một tác nhân có ảnh
hưởng lớn đến tính trạng này
Chúng ta biết rằng vật nuôi nói chung và gia cầm nói riêng tồn tại trong
mối quan hệ tác động tương hỗ với ngoại cảnh. Một đàn gia cầm có năng suất
cao chỉ có thể tồn tại trong môi trường ngoại cảnh phù hợp, khi đó các yếu tố
ngoại cảnh chỉ tác động như một kích thích và không gây hại đối với cơ thể.
Trong mối quan hệ đó, gia súc, gia cầm càng cao sản càng đáp ứng nhạy cảm
đối với các yếu tố của môi trường. Chính vì vậy, dầu thế kỷ XIX cùng với
việc tạo ra nhiều giống gia súc, gia cầm có năng suất cao thì các biện pháp kỹ
thuật nhằm giúp cho chúng những điều kiện thuận lợi về tiểu khí hậu chuồng
nuôi cũng đã được quan tâm (Sorensen, 1962) [111]
Việc nghiên cứu tác động của các yếu tố ngoại cảnh đến cơ thể cũng
như việc tạo nên một chế độ tiểu khí hậu chuồng nuôi thích hợp trong chăn
nuôi gia súc, gia cầm đã dược chú ý từ lâu, đặc biệt là các nước Châu Âu và
Bắc Mỹ, nơi có nền chăn nuôi phát triển. Với những tiến bộ về giống và
những điều kiện thuận lợi về tiểu khí hậu chuồng nuôi phù hợp với đặc diểm
sinh lý và sức sản xuất của từng loại vật nuôi mà năng suất đã tăng lên nhiều
so với trước. Cũng từ đó, những vấn đề thuộc về sinh khí tượng vật nuôi đã
được các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu nhằm hạn chế các yếu tố bất lợi và
phát huy những yếu tố có lợi của môi trường không khí (Đào Ngọc Phong,
1984) [17]
Trong tất cả cả các yếu tố của môi trường không khí, nhiệt độ là yếu tố
thường xuyên ở trạng thái biến đổi và bị biến đổi, ngoài ra còn một số các
1
yếu tố như: Ẩm độ, ánh sáng, độ thông thoáng, mật độ nuôi v…v. Chúng
cũng là các yếu tố có tác động không nhỏ và ảnh hưởng đến trạng thái nhiệt
của cơ thể.
Ở nước ta những năm gần đây, xu hướng nuôi thuần chủng các giống
gà ngoại và tạo con lai có năng suất cao, đặc biệt là các giống gà Broiler như
Ross 208, 308, 508, 707 đang phát triển mạnh. Để khai thác tối đa khả năng
sản xuất của giống gà trên, phương pháp chăm sóc và nuôi dưỡng đã có sự
thay đổi để phù hợp với chức năng sinh lý của chúng. Vai trò của chế độ dinh
dưỡng trong khẩu phần phù hợp với đặc điểm giống cũng như tương tác giữa
môi trường và dinh dưỡng trong cấu thành năng suất chăn nuôi bước đầu đã
được chú ý. Trong khi đó việc nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ và tương
tác của mùa vụ đến khả năng sản xuất của gia cầm nói chung và giống gà
Ross nói riêng được nuôi ở vùng trung du miền núi phía bắc chưa được
tiến hành, đặc biệt là ở Thái Nguyên nơi có sự phân hóa mùa khá rõ rệt.
Xuất phát từ tình hình thực tế và đòi hỏi của sản xuất ở địa phương, chúng
tôi tiến hành triển khai đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ
chuồng nuôi kín đến sản xuất thịt của gà Ross308 trong vụ hè thu tại
Phú Lương - Thái Nguyên”
2. Mục tiêu của đề tài
- Đánh giá được ảnh hưởng của nhiệt độ đến sinh trưởng và sản xuất
thịt của gà Ross 308 nuôi nhốt trong vụ hè thu
- Xác định chế độ nhiệt độ thích hợp cho gà Ross 308 nuôi theo phương
thức nuôi nhốt trong vụ hè thu.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Hiểu biết thêm về ảnh hưởng nhiệt độ chuồng nuôi, khả năng tiêu tốn,
hấp thu thức ăn và sức sản xuất thịt của gà Ross 308
2
- Hoàn thiện qui trình điều chỉnh nhiệt độ cho gà Broiler nuôi nhốt
trong vụ hè thu
- Kết quả của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo để phục vụ giảng dạy
và các nghiên cứu tiếp theo
3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Cung cấp cơ sở khoa học cho việc áp dụng qui trình nhiệt độ cho gà
Ross 308 nuôi nhốt trong vụ hè thu
- Góp phần đẩy mạnh chương trình phát triển chăn nuôi bền vững
4. Những đóng góp mới của đề tài
- Đã tính toán chỉ số nhiệt nhằm dự báo mức độ stress nhiệt ở gia cầm
trong 2 mùa (hè và thu)
- Đã xác định ảnh hưởng của nhiệt độ chuồng nuôi đến một số chỉ số
như sinh trưởng, mức độ tiêu tốn thức ăn, tỷ lệ nuôi sống vv…
- Đã xác định ảnh hưởng của mùa vụ, mật độ, năng lượng trong khẩu
phần cũng như tương tác giữa chúng đến khả năng sản xuất thịt của gà Ross
308. Từ đó đề xuất tiêu chuẩn ăn (mức năng lượng) phù hợp với gia cầm nói
chung và gà Ross nói riêng khi nuôi ở vụ hè thu
- Những nội dung nghiên cứu của đề tài đã mở ra cho người chăn nuôi
một hướng đi mới khi họ cần có những kiến thức xác thực về yếu tố nhiệt độ
khi chăn nuôi gia cầm trong chuồng kín vào vụ hè thu. Từ đó cũng giúp cho
những nhà sản xuất thức ăn có những tính toán hợp lý để cân đối khẩu phần
mà vẫn đảm bảo sự phát triển và sinh trưởng bình thường của gia súc gia cầm
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Từ những năm 60 của thế kỷ XX, nhằm đưa các giống gia cầm thuần
chủng, có sức sản xuất cao chuyển từ các vùng ôn đới đến các vùng nhiệt đới,
các nhà khoa học đã tiến hành nhiều công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của
khí hậu đến gia súc gia cầm. Đáng chú ý là công trình nghiên cứu của Brody
ở Mỹ và những khảo sát cơ bản của Fildlay ở Anh (Sorensen, 1962 [111]).
Tập trung hơn cả là các nghiên cứu về phản ứng tự bảo vệ của trâu, bò đối
với ảnh hưởng của nhiệt độ cao, ở gia cầm chỉ có một vài kết quả khảo sát về
ảnh hưởng của các yếu tố khí hậu khác nhau được công bố. Tuy nhiên, những
kết quả thu được này cũng đã góp một phần làm cơ sở cho việc xác định điều
kiện khí hậu môi trường thích hợp để đạt được mức thỏa đáng ở gia cầm.
Như chúng ta đã biết, sức sản xuất tối đa của gà thường phụ thuộc vào
khả năng duy trì mức hoạt động sinh lý cần thiết cho sự tồn tại và phát triển
cho điều kiện bất lợi. Mức độ stress của gà nuôi thịt phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố như: Nhiệt độ, độ ẩm và sự chuyển động của không khí. Ảnh hưởng
của nhiệt độ cao làm tiêu tốn thức ăn tăng, tốc độ sinh trưởng giảm và sự bảo
vệ của con vật có thể bị hạn chế (Bond và cs, 1959 [32]; Roller và Goldman,
1969 [107]; Christenbury và cs, 1988 [35]; Lopez và cs, 1991 [78]).
Mức độ stress gây nên do yếu tố khí hậu như nhiệt độ không khí được
phản ánh qua sự thay đổi một số phản ứng sinh lý của cơ thể, chẳng hạn gà
phải cố duy trì sự ổn định thân nhiệt. Sức sản xuất giảm trong điều kiện khí
hậu nóng trước tiên là do giảm mức ăn vào và sau đó là tốc độ phát triển
(Heitman và Hughes, 1949 [61]; Bond và cs, 1952 [31]; Mangold và cs, 1960
[82]; Straub và cs, 1976 [112]). Ngoài ra, dưới tác động của nhiệt độ cao làm
thay đổi khả năng phát triển (Fuller, 1965 [51]; Pearson và cs, 1966 [101];
Hale và Johnson, 1970 [57]); ảnh hưởng đến các cơ quan nội tạng (Sugahara
4
và cs, 1970 [113]; Holmes, 1971 [63]; Straub và cs, 1976 [112]), ảnh hưởng
đến tốc độ trao đổi chất (Marple và cs, 1974[84]; Lynch, 1978 [81]; Close và
cs, 1981 [38]) cũng như khả năng sinh sản (Signoret, 1980 [109]). Đáng chú ý
là stress nóng rất nguy hiểm và nó có thể gây chết gia súc, gia cầm (Marple và
cs, 1974[84]) .
1.1. Tương tác giữa cơ thể và Môi trưởng
1.1.1. Trao đổi nhiệt giữa gia cầm và môi trường
Động vật nói chung và gia cầm nói riêng tồn tại trong mối quan hệ và
tác động qua lại với môi trường và luôn chịu sự tác động trực tiếp của các yếu
tố môi trường. Quá trình trao đổi chất luôn luôn tạo ra một lượng nhiệt và
nhiệt năng này thoát ra bên ngoài khi môi trường xung quanh có nhiệt độ thấp
hơn. Tốc độ mất nhiệt phụ thuộc vào thang chênh lệch giữa 2 mốc nhiệt độ và
trạng thái tự nhiên của môi trường (Callen, 1960 [33]; Fong, 1976 [48]). Vì
vậy, sự thay đổi các yếu tố tác động đến tốc độ mất nhiệt của gia cầm ra môi
trường sẽ ảnh hưởng đến mức độ căng thẳng do stress nhiệt gây nên.
1.1.2. Phương thức trao đổi nhiệt giữa cơ thể và môi trường
Sở dĩ nhiệt độ cơ thể động vật đẳng nhiệt nói chung và gia cầm nói riêng
được giữ ở mức ổn định cao là nhờ quá trình sinh nhiệt luôn xẩy ra đồng thời.
1.1.2.1. Quá trình sinh nhiệt
Sinh nhiệt là kết quả của các phản ứng oxy hóa khác nhau, do đó sự
sinh nhiệt của chúng không giống nhau. Khi nghỉ ngơi, 10-15% nhiệt sinh ra
từ gan, 20% từ cơ; 25% từ bộ máy tiêu hóa và phần còn lại từ tim, thận, hệ
thần kinh, da (Mount, 1979 [91]).
Sự sinh nhiệt của gia súc chịu ảnh hưởng của ngoại cảnh và trang thái
sinh lý của cơ thể, như khi ăn no lượng nhiệt sinh ra gấp nhiều lần do tăng
hoạt động của bộ máy tiêu hóa. Vào mùa lạnh, con vật phải tăng sinh nhiệt để
chống lạnh, do đó động vật ăn nhiều. Còn vào mùa hè, con vật sinh nhiệt
5
giảm nhất là khi nhiệt độ bên ngoài tiến tới gần bằng hoặc cao hơn nhiệt độ
cơ thể. Trong trường hợp đó, một phần nhiệt bên ngoài xâm nhập vào cơ thể
làm giảm sinh nhiệt của cơ thể.
1.1.2.2. Quá trình tỏa nhiệt
Ở môi trường nhiệt cao hoặc thấp, các phản ứng của gia súc chủ yếu là
do kết quả của sự cản trở hoặc thúc đẩy phát tán nhiệt sinh ra trong quá trình
duy trì sự sống, hoạt động sản xuất và ăn uống. Đối với gà, sự mất nhiệt bằng
4 phương thức tự nhiên như sau:
Tiếp xúc với nền chuồng (đệm lót).
Đối lưu với không khí hoặc nước chuyển động.
Bức xạ bền mặt xung quanh.
Bốc hơi qua các lỗ tự nhiên (chủ yếu qua đường hô hấp và tiêu hóa)
1.2. Cơ sở khoa học về sự di truyền các tính trạng năng suất
1.2.1. Tính trạng số lượng
Theo Trần Huê Viên, 2001 [39]: Phần lớn các tính trạng có giá trị kinh
tế của vật nuôi đều thuộc nhóm tính trạng số lượng. Tính trạng số lượng là
những tính trạng mà ở đó sai khác giữa các cá thể là sự sai khác nhau về mức
độ hơn là sự sai khác về chủng loại. Tính trạng số lượng còn gọi là tính trạng
đo lường, bản chất của di truyền các tính trạng có thể xác định bằng cân, đo,
đong, đếm (như tốc độ tăng khối lượng, kích thước các chiều đo, sản lượng
trứng, tỷ lệ ấp nở,…
Nguyễn Ân, 1993 [1] cho biết, cơ sở lý thuyết của di truyền học số
lượng được thiết lập vào khoảng năm 1920 bởi công trình của Fishter R. A.
(1918), Wright (1926) và Haldane J. B. C. (1932), sau đó môn di truyền học
số lượng được nhiều nhà di truyền và thống kê bổ sung nâng cao, trở thành cơ
sở vững chắc và được áp dụng rộng rãi trong việc cải tiến giống vật nuôi.
6
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tính trạng số lượng
Các đặc tính bên ngoài hoặc các biểu hiện bên ngoài của một cá thể
được gọi là kiểu hình, kiểu hình là do kết quả tương tác giữa kiểu gen và môi
trường gây ra. Như vậy, giá trị kiểu hình của tính trạng nào đó được quy định
bởi kiểu gen của cá thể và tác động của môi trường có thể biểu thị như sau:
P = G + E
Trong đó:
P: là giá trị kiểu hình (Phenotypic Value).
G: là giá trị kiểu gen (Genotypic Value).
E: là sai lệch môi trường (Environmental Deviation).
Cũng theo Trần Huê Viên, 2001 [39]: Kiểu gen của tính trạng số lượng
thường do nhiều gen quyết định, giá trị kiểu gen của tính trạng số lượng
thường do nhiều gen cấu tạo thành, đó là các gen mà hiệu ứng riêng biệt của
từng gen thì rất nhỏ, nhưng tập hợp nhiều gen nhỏ sẽ có ảnh hưởng rõ rệt đến
tính trạng nghiên cứu, hiện tượng này gọi là hiện tượng đa gen (Polygene).
Tuy nhiên, sự phân chia hiệu ứng của gen làm hai loại nhỏ và lớn chỉ là tương
đối vì còn có nhiều gen có hiệu ứng trung gian, hơn nữa do hiện tượng đa
hiệu của gen một gen có thể có hiệu ứng nhỏ đối với một tính trạng này
nhưng lại có hiệu ứng lớn đối với một tính trạng khác.
Đối với tính trạng số lượng, thường giá trị kiểu gen chịu ảnh hưởng bởi
ba loại tác động của các gen, đó là giá trị cộng gộp (hoặc giá trị giống)
(Additive Value - A), sai lệch trội (Dominance Deviation - D) và sai lệch
tương tác giữa các gen (Interaction Deviation - I):
G = A + D + I
Ngoài ảnh hưởng của kiểu gen, giá trị kiểu hình của tính trạng số lượng
còn chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện môi trường.
Theo Nguyễn Văn Thiện, 1998 [26], điều kiện môi trường được phân
làm hai loại, đó là sai lệch môi trường chung (General Environmental
7
Deviation - Eg) và sai lệch môi trường riêng (môi trường đặc biệt) (Special
Environmental Deviation - Es).
Như vậy, đối với tính trạng số lượng, giá trị kiểu hình (Phenotypic
Value - P) được biểu thị qua mối quan hệ sau:
P = A + D + I + Eg + Es
Như vậy, để nâng cao năng suất vật nuôi ngoài việc cải tiến kiểu gen
còn phải tạo ra môi trường thích hợp, đây là cơ sở khoa học để thiết lập một
điều kiện ngoại cảnh thích hợp nhằm củng cố phát huy tối đa khả năng di
truyền của các giống vật nuôi trong đó có gia cầm.
1.3. Cơ sở khoa học về việc nghiên cứu khả năng sinh trưởng và cho thịt
của gia cầm
1.3.1. Sinh trưởng
* Khái niệm sinh trưởng:
Khi còn là hợp tử có khối lượng rất nhỏ, khi trưởng thành ta thấy có sự
biến đổi về phương diện khối lượng. Sự biến đổi này gọi là sự tăng trưởng
hay sự sinh trưởng và được định nghĩa như sau: Sinh trưởng là quá trình tích
lũy các chất do đồng hóa và dị hóa, là sự tăng lên về chiều cao, chiều dài,
chiều ngang, khối lượng của cơ thể và các bộ phận trong cơ thể trên cơ sở tính
di truyền (Trần Đình Miên, Nguyễn Kim Đường, 1992 [19]). Theo Chambers
J.R., 1990 [47] Sinh trưởng là một quá trình sinh lý, sinh hóa phức tạp, duy trì
từ khi phôi được hình thành cho đến khi con vật đã trưởng thành.
* Đánh giá sinh trưởng:
- Sinh trưởng tích lũy:
Độ sinh trưởng tích lũy là khối lượng, kích thước, thể tích của toàn cơ
thể hay của từng bộ phận cơ thể tại các thời điểm sinh trưởng, nghĩa là các
thời điểm thực hiện các pháp đo. Các thông số thu được qua các lần cân, đo là
biểu hiện sự sinh trưởng tích lũy. Ta có thể biểu thị trên đồ thị gọi là đồ thị
sinh trưởng hay tích lũy.
8
Đối với gà broiler đây là tính trạng sản xuất quan trọng được tính bằng
kg hoặc g/con và cũng là căn cứ để so sánh khối lượng cơ thể của các tổ hợp
lai tốt nhất.
- Sinh trưởng tuyệt đối:
Là sự tăng lên về khối lượng kích thước và thể tích cơ thể trong khoảng
thời gian giữa hai lần khảo sát (T.C.V.N 2-39-77) [29].
Đồ thị sinh trưởng tuyệt đối có dạng Parapol. Với gà broiler hướng thịt
thường đạt đỉnh cao từ 6 - 8 tuần tuổi. Sinh trưởng tuyệt đối thường được tính
bằng g/con/ngày. Giá trị sinh trưởng tuyệt đối càng cao thì hiệu quả kinh tế
càng lớn.
- Sinh trưởng tương đối:
Là tỷ lệ phần trăm tăng lên của khối lượng, kích thước và thể tích cơ
thể lúc kết thúc khảo sát so với lúc đầu khảo sát (T.C.V.N 2-40-77) [30].
Đồ thị sinh trưởng tương đối có dạng Hypepol. Đơn vị tính sinh trưởng
tương đối là %, vật nuôi nói chung và gà broiler thường có tốc độ sinh trưởng
tương đối giảm qua các tuần tuổi.
- Đường cong sinh trưởng:
Đường cong sinh trưởng biểu thị tốc độ sinh trưởng. Chamber J. A.,
1990 [47] đường cong sinh trưởng của gà thịt có 4 đặc điểm chính gồm 4 pha:
+ Pha sinh trưởng tích lũy: Tăng tốc độ nhanh sau khi nở.
+ Điểm uốn của đường cong tại thời điểm có tốc độ sinh trưởng cao nhất.
+ Pha sinh trưởng có tốc độ giảm dần sau điểm uốn.
+ Pha sinh trưởng tiệm cận có giá trị khi gà trưởng thành. Knizetova H.
J., Hyanck, Knize B. and Roubicek J., 1991 [57] đường cong sinh trưởng
không những được sử dụng để chỉ rõ về khối lượng mà còn làm rõ về mặt
chất lượng, sự sai khác giữa các dòng, giống, giới tính. Trần Long và cộng sự,
1994 [14] khi nghiên cứu về đường cong sinh trưởng của các dòng gà A, V1,
9
V3, trong giống gà Hybro (HV85) cho thấy đường cong sinh trưởng của cả
bốn dòng đều phát triển đúng quy luật. Đường cong sinh trưởng của 3 dòng
có sự khác nhau và trong mỗi dòng giữa gà trống và gà mái cũng có sự khác
nhau: Sinh trưởng cao ở 7 - 8 tuần tuổi đối với gà trống và 6 – 7 tuần tuổi đối
với gà mái.
Theo Nguyễn Đăng Vang, 1983 [37] khi nghiên cứu về đường cong
sinh trưởng của ngỗng Rheinland từ sơ sinh đến 77 ngày tuổi thấy hoàn toàn
phù hợp với quy luật sinh trưởng của gia cầm nói chung.
1.3.2. Năng suất thịt
Năng suất thịt của gà broiler được thể hiện qua khối lượng sống, tỷ lệ
thân thịt, tỷ lệ thịt đùi, tỷ lệ thịt ngực, tỷ lệ mỡ bụng,… Rose S. P., 1997 [65]
về tỷ lệ các phần thân thịt của 1 gà thương phẩm 1,8 kg như sau: thịt lườn:
13,95 %; thịt đùi: 15,7 %; da: 10,5 %; xương: 16,2 %; mỡ: 1,65; tim, gan, mề:
3,9 %; tỷ lệ hao hụt do giết mổ: 26,3 %; thịt cánh và thịt khác: 11,9 %.
Khối lượng sống của gia cầm 100 % thì khối lượng thân thịt chiếm
khoảng 64 % (trong đó 52 % là thịt và 12 % là xương); Phủ tạng chiếm
khoảng 6 %; máu, lông, đầu, chân, ruột chiếm khoảng 17% và tỷ lệ hao hụt
khi giết mổ chiếm 13 %. Năng suất thịt liên quan chặt chẽ tới khối lượng
sống. Theo Ricard F. H. và Rouvier, 1967 [64] thì mối tương quan giữa khối
lượng sống và khối lượng thịt xẻ rất cao thường là (r = 0,9). Còn tương quan
giữa khối lượng sống và khối lượng mỡ bụng thấp hơn, thường là (r = 0,2 -
0,5). Các giống, các dòng khác nhau thì cho năng suất khác nhau. Theo Đoàn
Xuân Trúc, Lê Hồng Mận, Nguyễn Huy Đạt, Trần Long, 1993 [35] khi mổ
khảo sát bốn tổ hợp lai V135 , V153 , AV35, AV53 ở 49 và 56 ngày tuổi, tỷ
lệ thân thịt đạt cao từ 67 - 75 % thịt đùi và thịt ngực 39 - 41 %. Ngô Giản
Luyện, 1994 [18] đã nghiên cứu 3 dòng gà thuộc giống gà Hybro khi mổ khảo
sát ở 42 ngày tuổi đã kết luận: Trong cùng một dòng gà tỷ lệ thân thịt con
10
trống cao hơn con mái 1 - 2 % trong khi tỷ lệ thịt ngực của con mái lại cao
hơn con trống.
Trần Công Xuân, 1995 [40] thí nghiệm ở 9 ô với ba mức năng lượng và
protein, kết quả mổ khảo sát ở 8 tuần tuổi gà broiler Ross - 208 cho tỷ lệ than
thịt đạt cao 72,69 - 74,59 %, tỷ lệ thịt đùi 20,51 - 22,05 %, tỷ lệ thịt ngực đạt
21,74 - 23,18 %.
Bouw Kamp E. L., 1973 [43] khi nghiên cứu, so sánh tỷ lệ thịt xẻ và
các phần thịt trên đàn gà thịt thương phẩm đã khẳng định rõ sự sai khác các
chỉ tiêu trên giữa các công thức lai. Craing Mortoras, 1996 [51] với tiến bộ di
truyền hiện nay người ta đang mong đợi một cách tin tưởng rằng các tỷ lệ
được nâng cao ở gà broiler là khối lượng sống tăng 59 gam, tiêu tốn thức ăn
giảm 0,04 - 0,05 và cơ ngực sẽ tăng từ 0,2 - 0,3 %. Vereken A. L. J., 1992
[72] cho biết mối liên hệ tiến bộ di truyền giữa điểm cấu trúc của cơ thể với
khối lượng cơ thể là 0,5; với tổng số thân thịt là 0,45; tỷ lệ thịt ngực là 0,6;
khả năng di truyền được ước tính theo cấu trúc cơ thể giao động từ 0,3 - 0,45;
kết quả này cho thấy sản lượng thịt ngực của các dòng gà broiler có thẻ được
nâng lên bởi chọn lọc qua điểm cấu trúc của cơ thể. Tóm lại, năng suất thịt
của gà broiler phụ thuộc vào dòng, giống, tính biệt, chế độ dinh dưỡng và quy
trình vệ sinh thú y.
1.3.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất
Theo Nguyễn Duy Hoan, Trần Thanh Vân, 1998 [5] sinh trưởng của
vật nuôi nói chung và của gà nói riêng chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố,
giống, dinh dưỡng, tuổi, tính biệt, hướng sản xuất và các điều kiện chăm sóc
nuôi dưỡng:
* Ảnh hưởng của dòng, giống
Các dòng, giống khác nhau thì năng suất thịt cũng khác nhau. Nguyễn
Mạnh Hùng và cộng sự, 1994 [8] sự khác nhau về khối lượng giữa các giống
11
gia cầm là rất lớn, giống gà kiêm dụng nặng hơn giống gà hướng trứng
khoảng 500 - 700 g (Tức là khoảng 13 - 30 %).
Mỗi giống có một khả năng sinh trưởng nhất định, sự khác nhau về sinh
trưởng đó là do bản chất di truyền quy định. Đặc điểm di truyền của giống và
ngoại cảnh có tác động qua lại với nhau, nghĩa là cùng một kiểu gen nhưng ở
các môi trường khác nhau thì có sinh trưởng khác nhau. Cho nên việc cần
thiết là phải tạo ra môi trường phù hợp với kiểu gen đó để phát huy tối đa
tiềm năng di truyền của giống. Theo Nguyễn Thị Thúy Mỵ, 1997 [21] thì kết
quả nghiên cứu trên ba giống gà AA, Avian và BE88 nuôi 49 ngày tuổi tại
Thái Nguyên có khối lượng khác nhau, khối lượng cụ thể của từng giống như
sau: giống gà AA là 2501,09 g; giống gà Avian là 2423,28 g; giống BE88 là
2305,14 g. Nhìn chung hệ số di truyền về khối lượng và sinh trưởng biến
động từ (h2 = 0,26 - 0,70).
* Ảnh hưởng của tính biệt và độ tuổi
Tốc độ sinh trưởng ở con đực và con cái có sự khác nhau, con đực có
tốc độ sinh trưởng nhanh hơn con cái. Theo Nguyễn Duy Hoan, Trần Thanh
Vân, 1998 [5] ở gà tây khối lượng con đực lớn hơn con cái tới 50 - 60 %. Gà
trống, ngỗng đực, vịt đực, gà Phi đực nặng hơn con cái cùng loài, cùng tuổi
25 - 30%. Sự khác nhau này còn phụ thuộc vào hướng sản xuất: gà 60 - 70
ngày tuổi sự thì khác nhau về khối lượng của gà trống và gà mái hướng trứng
là 50 - 100g, hướng kiêm dụng là 100 - 150 g, hướng thịt là 180 - 250 g. Theo
North M.O., Bell P. D., 1990 [63] sự sai khác về tốc độ sinh trưởng giữa con
đực và con cái càng lớn khi ngày tuổi tăng. Ở gà lúc mới nở gà trống chỉ nặng
hơn gà mái 1 %, ở 2 tuần tuổi là 5 %, ở 3 tuần tuổi là 11 % nhưng ở 8 tuần
tuổi thì sự sai khác này là 27 %. Theo Trần Đình Miên, 1994 [20] sự sai khác
về tốc độ sinh trưởng giữa con đực và con cái càng lớn khi ngày tuổi tăng. Ở
gà lúc mới nở gà trống chỉ nặng hơn gà mái 1 % nhưng ở 8 tuần tuổi thì sự sai
12
khác này là 27 %. Mỗi giống đều có khối lượng đặc trưng cho con đực và con
cái, mặc dù có sự sai khác khá lớn giữa các cá thể. Các nhà di truyền học về
gia cầm đã kết luận: sự sai khác này là do tổ hợp gen liên kết xác định giới
tính, ở con đực nó tác động mạnh hơn ở con cái. Chính vì vậy, trong chăn
nuôi gia cầm nên nuôi tách riêng trống mái nhằm đạt hiệu quả cao (Hoàng
Toàn Thắng, 1996 [25]). Giữa con trống và con mái có sự khác nhau về quá
trình trao đổi chất, đặc điểm sinh lý, tốc độ sinh trưởng và khối lượng cơ thể.
Đã có nhiều chứng minh rằng gà trống lớn nhanh hơn gà mái trong cùng một
thời gian và chế độ ăn như nhau. Bùi Đức Lũng, Lê Hồng Mận, 1993 [16]
khối lượng cơ thể của gà trống, gà mái Broiler V135 là có sự khác nhau từ
một tuần tuổi. North M.O., và cộng sự (1992) cho biết lúc mới nở gà trống
nặng hơn gà mái 1%, tuổi càng tăng sự khác nhau càng lớn, ở 8 tuần tuổi sự
khác nhau về khối lượng giữa gà trống và gà mái là 27% (Dẫn theo Bế Kim
Thanh, 2002 [24]).
Ở một độ tuổi nhất định tỷ lệ thân thịt chỉ tăng đến một mức nào đó, tỷ
lệ thân thịt ở gà trống và gà mái khác nhau ví dụ như tỷ lệ thịt ức ở gà trống
thấp hơn ở gà mái. Đã có nhiều nghiên cứu cho rằng tỷ lệ thân thịt ở gia cầm
hướng thịt tăng lên theo tuổi, tức là tuổi gia cầm càng cao thì tỷ lệ này càng
cao. Theo Touraille C. và cộng sự, 1981 [70] khi tuổi gia cầm càng tăng thì tỷ
lệ đùi, lườn càng tăng và tuổi giết mổ gia cầm còn ảnh hưởng đến độ ngon
của thịt. Còn theo kết quả của các nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Hải, 1999 [4],
Đoàn Xuân Trúc, 2006 [36] cho biết trong cùng một loại gà thì tỷ lệ thịt xẻ
của gà mái thấp hơn tỷ lệ thịt xẻ của gà trống tư 1 - 2 % trong khi đó tỷ lệ thịt
lườn của gà mái lại cao hơn tỷ lệ thịt lườn của gà trống. Theo Đỗ Xuân Tăng,
1980 [23] cho biết tỷ lệ thịt đùi của gà trống cao hơn tỷ lệ thịt đùi của gà mái
còn tỷ lệ thịt ngực ở gà mái lại cao hơn tỷ lệ thịt ngực ở gà trống. Brake J. và
cộng sự, 1993 [44] cho thấy gà ở 8 tuần tuổi tỷ lệ thịt lườn ở gà mái cao hơn
13
tỷ lệ thịt lườn ở gà trống là 2,5 %, trong khi đó tỷ lệ thịt đùi không có sự sai
khác đáng kể. Nhưng ở 12 tuần tuổi thì tỷ lệ thịt lườn ở gà mái cao hơn 1,7 %
so với tỷ lệ thịt lườn của gà trống nhưng tỷ lệ thịt đùi của gà mái lại thấp hơn
tỷ lệ thịt đùi của gà trống là 1,4 %.
* Ảnh hưởng của tốc độ mọc lông
Qua những kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học đã xác định
trong cùng một giống, cùng giới tính ở gà có tốc độ mọc lông nhanh có tốc độ
sinh trưởng, phát triển cao hơn gà mọc lông chậm. Kushner K. F., 1973 [11]
cho rằng tốc độ mọc lông có quan hệ chặt chẽ tới tốc độ sinh trưởng, thường
gà lớn nhanh thì mọc lông nhanh và đều hơn ở gà chậm mọc lông. Theo
Siegel P. B. và Dumington E. D., 1978 [68] thì những alen quy định tốc độ
mọc lông nhanh phù hợp với tăng khối lượng cao. Hayer J. F. và cộng sự,
1970 [54] đã xác định trong cùng một giống thì gà mái mọc lông đều hơn gà
trống và tác giả cho rằng ảnh hưởng của hoocmon sinh trưởng có tác dụng
ngược chiều với giới tính quy định tốc độ mọc lông.
* Ảnh hưởng của chế độ dinh dưỡng
- Chế độ dinh dưỡng ảnh hưởng tới sự phát triển các bộ phận khác nhau
của cơ thể nó còn ảnh hưởng tới sự phát triển của từng mô này đối với mô
khác. Chambers J. R., 1990 [47] cho biết: Sinh trưởng là tổng số của sự phát
triển các phần cơ thể như thịt, xương, da. Bên cạnh đó theo tác giả Epym R.
A. và cộng sự, 1979 [52] cho biết: Dinh dưỡng không chỉ cần thiết cho sinh
trưởng mà còn cần thiết để thể hiện khả năng di truyền của sinh trưởng. Gà
broiler phát triển mạnh nên đòi hỏi lượng thức ăn tương ứng để phát huy tiềm
năng di truyền của chúng. Chi phí thức ăn chiếm 70 % giá thành gà Broiler,
do vậy để có năng suất cao trong chăn nuôi gia cầm, đặc biệt để phát huy tiềm
năng sinh trưởng, thì một trong những vấn đề căn bản là lập ra những khẩu
phần dinh dưỡng hoàn hảo, cân đối trên cơ sở đảm bảo nhu cầu của gia cầm
qua từng giai đoạn nuôi.
14
- Khả năng chuyển hoá thức ăn:
Lượng thức ăn thu nhận hàng ngày phản ánh khả năng chuyển hoá thức
ăn của đàn gà, chất lượng thức ăn, chăm sóc nuôi dưỡng.
Trong chăn nuôi ngoài việc tạo ra các giống mới có năng suất cao thì
các nhà chăn nuôi cần phải chú ý tới nguồn thức ăn cân bằng đầy đủ các chất
dinh dưỡng phù hợp với đặc tính sinh vật học của gia cầm và phù hợp với
mục đích sản xuất của từng giống, dòng, phù hợp với từng giai đoạn phát
triển của cơ thể, mà vẫn đảm bảo được các chỉ tiêu về kinh tế, vì chi phí cho
thức ăn thường chiếm tới 70% giá thành sản phẩm. Để đánh giá về vấn đề này
người ta đưa ra chỉ tiêu: “Tiêu tốn thức ăn cho tăng khối lượng (F.C.R)”. Tiêu
tốn thức ăn trên kg tăng khối lượng càng thấp thì hiệu quả kinh tế càng cao và
ngược lại. Tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng là tỷ lệ chuyển hoá thức ăn để
đạt được 1 kg thịt, với gà broiler tiêu tốn thức ăn chủ yếu dùng cho việc tăng
khối lượng. Nếu tăng khối lượng càng nhanh thì cơ thể đồng hoá, dị hoá tốt
hơn, khả năng trao đổi chất cao, do vậy hiệu quả sử dụng thức ăn cao dẫn đến
tiêu tốn thức ăn thấp.
Tiêu tốn thức ăn trên một đơn vị sản phẩm là chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật
quan trọng. Tiêu tốn thức ăn chính là hiệu suất giữa thức ăn/kg tăng khối
lượng, chỉ tiêu này càng thấp thì hiệu quả kinh tế càng cao.
Đối với gà thịt, thức ăn ăn vào một phần dùng để duy trì cơ thể còn một
phần dùng để tăng khối lượng.
Theo Chambers và cộng sự, 1984 [46] cho biết hệ số tương quan di
truyền giữa khối lượng cơ thể và tăng khối lượng với tiêu tốn thức ăn thường
rất cao là 0,5 - 0,9 còn tương quan di truyền sinh trưởng và chuyển hoá thức
ăn là âm và thấp từ -0,2 đến -0,8. Theo Arbor Acres, 1993 [41] thì gà broiler
nuôi chung trống mái 49 ngày tuổi, khối lượng cơ thể đạt 2.675 gam - 2.700
gam, F.C.R là 1,92 - 1,95.
15
Theo kết quả của Ross 308, 1996 [66] thì gà broiler nuôi chung trống
mái 42 ngày tuổi, khối lượng cơ thể đạt 2.425 gam, F.C.R là 1,71. Kết quả
nuôi gà AA ở 49 ngày tuổi của Ngôn Thị Hoán và Nguyễn Duy Hoan, 1996
[7] cho thấy khối lượng cơ thể đạt 2.320 gam, F.C.R là 1,9.
Tiêu tốn thức ăn ở gà thịt giai đoạn đầu là thấp, đến giai đoạn sau tiêu
tốn thức ăn cao. Bùi Đức Lũng, 1992 [15] cho thấy gà lai V135 tiêu tốn thức
ăn/kg tăng khối lượng ở các độ tuôi có sự khác nhau: ở 4 tuần tuổi F.C.R là
1,91; ở 5 tuần tuổi là 1,98; ở 6 tuần tuổi là 2,01; ở 7 tuần tuổi là 2,13; ở 8 tuần
tuổi F.C.R là 2,26.
Tóm lại, tiêu tốn thức ăn là một chỉ tiêu quyết định đến hiệu quả kinh tế
trong chăn nuôi gà Broiler. Do vậy, hiện nay có rất nhiều công trình nghiên
cứu để tạo ra các tổ hợp lai, các khẩu phần thức ăn, quy trình nuôi dưỡng
chăm sóc để gà sinh trưởng nhanh, tiêu tốn thức ăn thấp.
* Ảnh hưởng của môi trường, chăm sóc, nuôi dưỡng
- Ảnh hưởng của nhiệt độ
Nhiệt độ là một yếu tố ảnh hưởng lớn tới sinh trưởng của gà. Bùi Đức
Lũng, Lê Hồng Mận, 1993 [16] thì tiêu chuẩn nhiệt độ trong chuồng nuôi cần
18 - 20 0C nhưng trong điều kiện thông thoáng tự nhiên như ở nước ta rất khó
đạt tiêu chuẩn này vì giữa mùa đông và mùa hè có sự chênh lệch nhiệt độ rất
lớn. Do đó trong chăn nuôi cần có các biện pháp khắc phục để nhiệt độ đạt
xấp xỉ tiêu chuẩn nhiệt. Giai đoạn gà con dưới 3 tuần tuổi cần duy trì nhiệt độ
> 30 0C nếu không đủ ấm gà sẽ tụm lại không ăn hoặc ăn rất ít nên gà sẽ
chậm lớn và chết nhiều, nếu nhiệt độ quá cao so với tiêu chuẩn nhiệt thì gà sẽ
tản ra xa cũng làm cho gà không muốn ăn hoặc ăn rất ít dẫn đến gà chậm lớn
và tỷ lệ chết cao. Giai đoạn sau 4 tuần tuổi hiệu quả thức ăn đạt mức tối đa ở
nhiệt độ chuồng nuôi là 24 0C, gà trống broiler với khối lượng cơ thể cao có
thể bị chết vì Stress nhiệt ở mức 35 0C. Nếu nhiệt độ môi trường cao trên
16
mức 44 - 46 0C thì gà sẽ bị chết hàng loạt, còn nếu nhiệt độ môi trường ơ
mức giới hạn đó thì cần cung cấp đầy đủ nước uống cho gà và làm các biện
pháp làm mát chuồng nuôi để gà duy trì sức chịu đựng.
Ở nhiệt độ 35 0C đối với gà từ 7 tuần tuổi trở đi sẽ tiêu thụ lượng nước
uống tăng lên 4 lít/giờ/100 gà. Mùa hè thời tiết nóng cần pha thêm vitamin C,
đường glucoza và các chất điện giải vào nước uống cho gà. Nhiệt độ môi
trường ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu năng lượng trao đổi và protein thô của
gà broiler. Điều kiện nhiệt độ khác nhau thì mức tiêu thụ thức ăn của gà cung
khác nhau. Nếu nhiệt độ chuồng nuôi ổn định thì mức tiêu thụ thức ăn của gà
tăng khi giảm mức năng lượng trong thức ăn và mức tiêu thụ thức ăn của
giảm khi tăng mức năng lượng trong thức ăn. Theo Herbert G. J. và cộng sự,
1993 [55] khi nhiệt độ chuồng nuôi thay đổi 10C thì tiêu thụ của gà mái biến
đổi tương đương 2 Kcal ME. Theo Salah H. M., 1996 [67] thì nhiệt độ trong
ngày đầu tiên nên từ 28 - 35 0C sau đó giảm dần đến 21 0C. Kết quả thí
nghiệm cho thấy gà broiler 4 – 8 tuần tuổi tăng khối lượng đạt 1.225 gam ở 21
0C còn ở nhiệt độ 26 0C chỉ đạt 1.087 gam, theo tác giả thì sự giảm tăng khối
lượng này chủ yếu là do nhiệt độ cao nên lượng thức ăn ăn vào giảm. Theo
Nir I., 1992 [62] cho biết nhiệt độ môi trường 35 0C, ẩm độ tương đối 66 %
đã làm giảm khối lượng cơ thể 300 - 355 ở gà trống, 20 - 30 % ở gà mái so
với điều kiện khí hậu thích hợp.
Tóm lại, đối với khí hậu nước ta tùy theo từng mùa, dựa vào nhiệt độ
của từng giai đoạn mà người chăn nuôi nên chỉnh mức ME và tỷ lệ ME/CP
cho phù hợp trong chăn nuôi.
Nhiệt độ ảnh hưởng lớn đến khả năng sinh trưởng gà, nếu nhiệt độ cao
khả năng sử dụng thức ăn của gà sẽ giảm. Để khắc phục, cần cho gà sử dụng
thức ăn có mức năng lượng cao nhưng phải cân bằng về tỷ lệ ME/CP cũng
như tỷ lệ axit amin/ME, và tỷ lệ khoáng, vitamin trong thức ăn cần phải cao,
17
đảm bảo lượng dinh dưỡng mà gia cầm nhận được không thấp hơn so với nhu
cầu của chúng. Nếu nhiệt độ thấp hơn so với yêu cầu của cơ thể thì gà ăn
kém, sinh trưởng chậm, tỷ lệ sống thấp. Giai đoạn gà con cần nhiệt độ 30 -
350C, nếu nhiệt độ thấp hơn gà sẽ chậm lớn, ăn kém, chết nhiều.
Như vậy nhiệt độ ảnh hưởng rất lớn tới nhu cầu năng lượng và protein
của gà broiler nên tiêu thụ thức ăn của gà broiler chịu sự chi phối của nhiệt độ
môi trường, trong điều kiện nhiệt độ khác nhau thì mức độ tiêu thụ thức ăn
cũng khác nhau. Do vậy, nước ta có khi hậu theo mùa thì khi nuôi gà broiler
phải căn cứ vào từng giai đoạn cụ thể mà điều chỉnh mức năng lượng và tỷ lệ
ME/CP cho phù hợp để đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất trong ngành chăn
nuôi gà broiler.
Wesh Bunr, Wetal K., 1992 [73] nhiệt độ cao làm gà sinh trưởng chậm,
tăng tỷ lệ chết, gây thiệt hại lớn ở các khu vực chăn nuôi công nghiệp vùng
khí hậu nhiệt đới. Cerniglia và cộng sự, 1983 [49] cho biết nhiệt độ chuồng
nuôi thay đổi 10C thì tiêu thụ năng lượng của gà biến đổi tương đương 2 Kcal
ME, mà khi năng lượng thay đổi thì tỷ lệ các chất dinh dưỡng khác cũng thay
đổi theo. Khi nhiệt độ cao khả năng ăn của gia cầm giảm nên có một biện
pháp khắc phục đó là sử dụng khẩu phần ăn có mức năng lượng cao tuy nhiên
phải dựa vào cân bằng tỷ lệ ME/CP và axitamin/ME, tỷ lệ khoáng, Vitamin
cần phải cao hơn để đảm bảo lượng dinh dưỡng gia cầm nhận được không
thấp hơn nhu cầu của chúng.
- Ảnh hưởng của ẩm độ, độ thông thoáng
Ẩm độ cũng là một trong các yếu tố ảnh hưởng yới sự sinh trưởng. Ẩm
độ cao sẽ làm thức ăn dễ nấm mốc, chất độn chuồng dễ ẩm ướt, NH3 do vi
khuẩn phân hủy các axit Uric trong phân và chất độn chuồng sẽ làm tổn
thương đến hệ hô hấp của gà, làm tăng khả năng nhiễm bệnh Cầu trùng và
Newcastle, E. coli, CRD từ đó gà sẽ giảm khả năng tăng khối lượng. Ẩm độ
18
tăng cũng có thể do nuôi nhốt với mật độ quá nhiều, do vậy để khắc phục cần
có diện tích nuôi thích hợp đối với từng giai đoạn phát triển của gà. Muốn hạn
chế bệnh tật, có nhiệt độ, ẩm độ chuồng nuôi phù hợp thì độ thông thoáng
trong chuồng nuôi cũng là yếu tố quan trọng, nó có vai trò quan trọng trong
việc giúp gà broiler có đủ O2 và thải khí CO2 , các chất thải khác trong
chuồng nuôi. Nhiệt độ cao cần có tốc độ lưu thông khí khác nhau, tốc độ lưu
thông khí cao đối với gà lớn và tốc độ lưu thông khí thấp đối với gà con. Theo
Ing J. E., Whyte M., 1995 [56] đã cho ra khuyến cáo về thành phần tối đa của
các chất khí trong chuồng nuôi gia cầm như sau: NH3 = 0,01 g/m3, H2S =
0,002 g/m3, CO2 = 0,35 g/m3.
Phương thức chăn nuôi ở nước ta chủ yếu là nuôi chuồng thông thoáng
tự nhiên nên các mùa khác nhau người chăn nuôi cần có các biện pháp khác
nhau để đảm bảo mùa đông thì ấm áp còn mùa hè thì thoáng mát.
- Ảnh hưởng của mật độ nuôi nhốt
Mỗi giai đọan phát triển gà cần có mật độ thích hợp cho sự vận động
suốt cả ngày của gà thì gà mới sinh trưởng phát triển tốt. Nếu mật độ nuôi cao
thì chuồng nuôi nhanh bẩn, nồng độ khí độc NH3, H2S, CO2, và các vi sinh
vật gây bệnh trong chuồng cao làm cho gà sinh trưởng chậm, tỷ lệ mắc bệnh
cao, tỷ lệ đồng đều kém dẫn đến hiệu quả chăn nuôi giảm. Theo Van Horne
P., 1991 [71] Khi chăn nuôi gà ở mật độ cao thì hàm lượng NH3, CO2, H2S
được sinh ra trong chất độn chuồng cao. Vì khi mật độ gà đông thì lượng bài
tiết thải ra nhiều hơn, trong khi đó gà cần tăng cường trao đổi chất nên lượng
nhiệt thải ra cũng nhiều, do đó nhiệt độ chuồng nuôi tăng, nên sẽ ảnh hưởng
đến việc tăng khối lượng gà và làm tăng tỷ lệ chết khi mật độ chuồng nuôi
quá cao cùng nhiệt độ không khí cao. Nếu mật độ nuôi thấp thì chuồng nuôi
có nhiều khoảng trống gà sẽ tăng sự vận động dẫn đến tăng trọng giảm.Theo
Lewis N. J., Hurnik J. F., 1990 [58] thì sự vận động của gà có ảnh hưởng chủ
19
yếu tới sức sản xuất, vì nó có liên quan đến sự đi tìm kiếm và sử dụng thức
ăn, nước uống. Ông thấy rằng gà broiler hoạt động suốt ngày và đi lại với
khoảng cách trung bình là 8,8 m/giờ hay 212 m/ngày. Mật độ chuồng nuôi
tăng đã làm giảm khoảng cách đi lại, nhưng không ảnh hưởng đến số trung
bình của gà đi đến máng ăn (4 lần/giờ) và máng uống (2 lần/giờ). Nhiều tác
giả cũng đưa ra khuyến cáo: Nuôi gà broiler ở mật độ nuôi từ 11 con/m2 - 12
con/m2 là thích hợp, nếu nuôi ở mật độ cao thì tỷ lệ chết cũng cao và khối
lượng cơ thể giảm, đặc biệt nuôi trên 14 con/m2 - 15 con/m2.
Theo khuyến cáo của hãng Abor Acres, 1993 [41] thì mật độ nhốt tối
đa cho gà broiler như sau:
Khối lượng sống
trung bình khi
xuất bán (kg)
Mật độ gà/m2
Chuồng nuôi thông thoáng tự
nhiên
Chuồng nuôi điều khiển
được khí hậu
1,0 22 33
1,5 15 22
1,8 12 18
2,0 11 17
2,5 9 14
3,0 7 11
- Ảnh hưởng của đệm lót
Đệm lót giúp cho gà con tránh tiếp xúc với mặt đất và giữ nhiệt cho
khu vực nuôi nhốt được đảm bảo tốt hơn. Đệm lót chuồng rất hữu dụng đối
với việc hấp thụ ẩm và nghỉ ngơi, vận động của gà.
1.4. Vài nét về gà thí nghiệm broiler giống Ross 308
* Nguồn gốc
Có nguồn gốc ở nước Anh.
* Đặc điểm
Lông trắng, mào đơn, ngực sâu, rộng, cơ ngực và cơ đùi phát triển, thịt
thân chiếm tỷ lệ tương đối cao so với khối lượng sống.
20
* Khả năng sản xuất thịt
Đây là một trong những giống gà thịt cao sản của thế giới. Nuôi 42
ngày đã đạt 2,2 đến 2,3 kg/con. Tiêu tốn 2,0 - 2,1 kg cho 1 kg tăng khối
lượng. Tỷ lệ thân thịt, thịt đùi, thịt lườn rất cao. Tỷ lệ thân thịt đạt 74 - 75 %,
thịt đùi chiếm 15 - 16 %, thịt lườn chiếm 16 - 17 %.
1.5. Tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài
1.5.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Trong ngành chăn nuôi nói chung thì ngành chăn nuôi gia cầm, đặc biệt
là chăn nuôi gà thịt thương phẩm hiện nay rất phát triển và có hiệu quả kinh tế
cao vì có thời gian nuôi ngắn nếu được chăm sóc và nuôi dưỡng đúng quy
trình kỹ thuật. Gà broiler công nghiệp được các nước trên thế giới, nhất là các
nước Châu Âu nuôi với phương thức nuôi nhốt chuồng kín hoàn toàn và sử
dụng môi trường nhân tạo. Nên yếu tố về nhiệt độ của mùa vụ ít ảnh hưởng
đến khả năng sản xuất.
1.5.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Có rất nhiều công trình nghiên cứu về gà thịt thương phẩm, đó là những
nghiên cứu về dinh dưỡng, chế độ chiếu sáng, chuồng trại cho gà. Còn những
nghiên cứu về nhiệt độ của mùa vụ ( hè- thu) cho gà thịt thương phẩm nuôi theo
phương thức nuôi nhốt chuồng kín thì chưa được chú ý nghiên cứu nhiều.
21
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu
2.1.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu trên gà Ross 308 nuôi đến 6 tuần tuổi.
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu
Xã Phấn Mễ (huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên).
2.1.3. Thời gian nghiên cứu
Từ 20/9/2012 - 20/10/2013.
2.2 Nội dung và phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ chuồng nuôi đến khả năng sản xuất
thịt của gà Ross 308 nuôi tại Phú Lương - Thái Nguyên.
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành theo phương pháp phân lô so sánh có lặp
lại, tất cả các yếu tố đều giống nhau, chỉ khác ở chế độ nhiệt độ.
Các lô sẽ lặp lại 3 lần. Lô I:
Lô II:
Lô III:
Lô IV:
Lô V:
Lô VI:
- Lô I, II, III, IV,V : Nuôi trong chuồng kín có lắp hệ thống điều chỉnh
nhiệt độ (lô thí nghiệm)
- Lô VI: Nuôi chuồng kín có đầy đủ hệ thống làm mát (lô đối chứng).
- Giữa các lô đảm bảo sự đồng đều về: Giống, tuổi, thức ăn, mùa vụ,
mật độ, quy trình, thú y, phòng bệnh.
22