1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BVTV : Bảo vệ thực vật
cm : Centimet
CV : Hệ số biến động (Coefficients of variation)
Đ/c : Đối chứng
ĐVT : Đơn vị tính
g : Gam
kg : Kilogam
LSD.
05
: Sự sai khác nhỏ nhất có ý nghĩa ở mức 0,05 (Least significant
difference)
mm : Milimet
FAO : Tổ chức Nông Lương liên hiệp quốc (Food and Agriculture
Organization of the United Nations)
STT : Số thứ tự
TTTB : Tăng trưởng trung bình
T : Tháng
∑ : Tổng
2
DANH MỤC CÁC BẢNG
3
HÌNH
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây ăn quả có vai trò rất lớn trong đời sống, kinh tế và sản xuất nông
nghiệp của kinh tế gia đình cũng như phát triển kinh tế của một vùng sinh thái
và cả đất nước. Cây ăn qủa cung cấp nguồn dinh dưỡng quý giá cho con
người, sản xuất cây ăn quả không chỉ cung cấp lượng hàng hóa quả tươi cho
thị trường trong nước và xuất khẩu mà còn cung cấp nguyên liệu cho ngành
công nghiệp chế biến.
Cây đào (Prunus persica) thuộc họ hoa hồng (Rosaceae) được trồng để
lấy hoa và quả. Hoa đào rực rỡ và được người dân Việt Nam coi trọng lấy làm
hoa xuân tết, qủa đào có mã đẹp, vị ngọt, chua, rất hợp khẩu vị của nhiều
người, quả đào được dùng chính để ăn tươi ngoài ra còn có thể chế biến thành
các sản phẩm như: Đào ướp đường, ô mai đào, rượu đào… đặc biệt đào phơi
khô là một sản phẩm quý có tác dụng nhuận tràng, dễ tiêu, kích thích thần
kinh tốt Quả đào chứa nhiều dinh dưỡng, trong 100 gam thịt quả đào có
chứa 85,1% nước; 0,7% protit; 0,2% lipit; 13,5% gluxit, 16mg Ca, 32mg
photpho; 145mg kali và các vitamin B1, B2, C
Bắc Kạn là một tỉnh miền núi, vùng cao, có địa hình phức tạp, độ chia
cắt mạnh, có núi đá xen kẽ núi đất, độ đốc lớn bình quân: 26-30
0
, một số vùng
có độ cao từ 700 đến trên 1000m so với mặt nước biển nên mang đặc điểm
của khí hậu ôn đới, có thể trồng một số loại cây ăn quả ôn đới như: Đào, lê,
hồng, mận… Với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, bằng việc
khai thác các tiềm năng của từng vùng về điều kiện đất đai, khí hậu thời tiết
để đưa các giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao nhằm từng bước
nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo, ổn định cho đồng bào dân tộc trong
tỉnh, bảo vệ môi trường sinh thái bền vững. Trong những năm qua ngoài việc
phát triển cây ăn quả đặc sản của địa phương thì tỉnh cũng đã quan tâm tới
5
việc nhập nội của Đài Loan, Trung Quốc, Nhật… đã nhập về một số giống
cây ăn quả ôn đới để nghiên cứu trồng khảo nghiệm tại tỉnh để bổ sung và làm
phong phú cơ cấu giống cây ăn quả tại địa phương.
Cây đào là một trong những cây ăn quả quan trọng của vùng ôn đới và
á nhiệt đới. Cây đào được trồng ở nhiều nước trên thế giới như: Trung Quốc,
Italy, Tây Ban Nha, Mỹ… Ở Việt Nam đào được trồng chủ yếu tại các tỉnh
miền núi như: Sơn La, Lào Cai, Lạng Sơn, Hà Giang, Bắc Kạn… nơi có độ
lạnh cần thiết vào mùa đông để giúp cho đào có thể tích lũy độ lạnh để ra hoa
và đậu quả.
Tại Bắc Kạn, cây đào được trồng từ rất lâu ở các huyện Ngân Sơn và
Ba Bể với diện tích khoảng 80ha, đã trở thành đặc sản của địa phương. Giống
đào Ngân Sơn thường chín vào tháng 7-8 dương lịch, quả trung bình 12-15
quả/kg, dóc hạt, vị ngọt, thịt giòn. Tuy nhiên thời gian ra hoa đậu quả vào
tháng 3 đầu tháng 4 nên thường bị ruồi đục quả hại nặng. Do đó đã ảnh hưởng
tới năng suất, chất lượng quả đào. Vì vậy việc nhập nội, trồng thử nghiệm một
số giống mới, năng suất cao, chất lượng tốt là rất cần thiết. Từ những vấn đề
đặt ra ở trên chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: "Nghiên cứu khả năng sinh
trưởng phát triển và biện pháp kỹ thuật đối với giống đào có triển vọng tại
huyện Ba Bể tỉnh Bắc Kạn".
2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
2.1. Mục đích
Thông qua nghiên cứu đặc điểm nông sinh học của các giống đào nhập
nội để chọn được giống đào chín sớm phù hợp với điều kiện tự nhiên tỉnh Bắc
Kạn góp phần khai thác thế mạnh điều kiện tự nhiên của tỉnh nhằm nâng cao
thu nhập, xóa đói giảm nghèo.
Trên cơ sở đó xác định được biện pháp kỹ thuật đối với giống đào có
triển vọng.
6
2.2. Yêu cầu
Đánh giá được khả năng sinh trưởng, phát triển và chống chịu của
các giống đào nghiên cứu để lựa chọn được giống có triển vọng.
Nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật đối với giống đào có triển vọng.
Nhằm tăng năng suất, chất lượng quả của giống.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài và ý nghĩa thực tiễn
Cây đào là loại cây ăn quả lâu năm chịu ảnh hưởng rất rõ các điều kiện
ngoại cảnh, biểu hiện qua sinh trưởng, phát triển, năng suất và chất lượng quả.
Những đặc trưng, đặc tính của cây đào biểu hiện ra trong một đời hay một
năm đều là kết quả phản ánh tổng hợp giữa đặc điểm của giống với điều kiện
ngoại cảnh. Việc điều tra, phân tích đặc điểm thực vật học, sinh vật học của
giống đào ở các điều kiện ngoại cảnh khác nhau, sẽ phân biệt được giống và
xác định được khả năng thích ứng của giống cho từng vùng sinh thái, đồng
thời điều tra tình hình trồng trọt, sẽ là cơ sở đề ra được những biện pháp kỹ
thuật nông nghiệp có hiệu quả. Do đó điều tra sinh vật học cây ăn quả là một
trong những biện pháp cơ bản để nghiên cứu quy luật sinh trưởng phát triển
của cây và làm nền tảng cho những thí nghiệm khoa học về cây ăn quả nói
chung và cây đào nói riêng .
Cây đào trong quá trình sống thường bị các loại sâu bệnh hại làm giảm
năng suất và chất lượng của quả, làm cho mẫu mã quả xấu, hiệu quả kinh tế
không cao và còn làm cho cây đào thoái hoá giống. Do vậy cần nghiên cứu tình
hình sâu bệnh để làm cơ sở cho biện pháp phòng trừ một cách có hiệu quả.
Thông qua việc điều tra cho thấy cây đào có thời gian quả chín tập
trung, khi chín nếu không thu hoạch kịp thời thì tỷ lệ thiệt hại do sâu bệnh,
điều kiện khắc nhiệt của ngoại cảnh gây nên tổn thất lớn. Vì thời gian thu
hoạch quả ngắn, gặp nhiều khó khăn trong vận chuyển, cung ứng sản phẩm
quả tươi cho thị trường dẫn đến bị ép giá. Giá cả thấp không đủ đầu tư trở lại
nên chất lượng quả và vườn cây ngày càng giảm.
Tính trạng chín tập trung ở cây đào nói riêng đã làm giảm giá trị
thương mại của các loại quả. Do vậy cần phải nghiên cứu thử nghiệm các
8
giống đào chín sớm để làm phong phú và đa dạng tập đoàn giống cây ăn quả ôn
đới của tỉnh cũng khai thác tiềm năng về điều kiện tự nhiên khí hậu của vùng.
Nâng cao thu giá trị sản phẩm, tăng thu nhập trên đơn vị diện tích canh tác.
Các giống đào chín sớm là giống nhập nội từ Đài Loan. Sau 5 năm
trồng thử nghiệm tại huyện Ba Bể và Ngân Sơn chúng tôi thấy có một số
giống triển vọng thể hiện ở đặc điểm sinh trưởng, phát triển khá, mẫu quả
đẹp, thu quả vào đầu tháng 5. Tuy nhiên để có thể đánh giá một cách chính
xác thì chúng ta cần nghiên cứu một cách có khoa học.
1.2. Nguồn gốc và phân loại
1.2.1. Nguồn gốc
Cây đào danh pháp khoa học Prunus persica là một loài cây có lẽ có
nguồn gốc từ Trung Quốc, được trồng để lấy quả hay hoa. Tên gọi khoa học
persica có lẽ có từ niềm tin ban đầu của người châu Âu cho rằng đào có
nguồn gốc từ khu vực Ba Tư (Persia- hiện nay là Iran). Sự đồng thuận lớn
trong giới các nhà thực vật học ngày nay đã cho rằng nó có nguồn gốc từ
Trung Quốc và được đưa vào Ba Tư cũng như khu vực Địa Trung Hải theo
con đường tơ lụa vào khoảng thời gian ban đầu của lịch sử nhân loại, có lẽ
vào khoảng thiên niên kỷ 2 trước công nguyên (Huxley và cs, 1992) [30].
Các giống đào trồng được chia thành hai loại là “hột rời” và “hột dính”,
phụ thuộc vào việc hột dính với cùi thịt hay không; cả hai loại này đều có cùi
thịt trắng hay vàng. Quả đào với cùi thịt trắng thông thường có vị rất ngọt và
ít vị chua, trong khi loại có cùi thịt màu vàng thông thường có vị chua kèm
theo vị ngọt, mặc dù điều này cũng có sự giao động lớn. Cả hai màu thông
thường đều có các vệt đỏ trong lớp thịt của chúng. Loại đào cùi trắng, ít chua
là phổ biến nhất tại Trung Quốc, Nhật Bản và các quốc gia châu Á xung
quanh, trong khi người châu Âu và Bắc Mỹ ưa thích loại có cùi thịt màu vàng
và có vị chua hơn (Huxley và cs 1992) [30].
9
1.2.2. Phân loại
Cây đào prunus persica, thuộc họ thực vật Rosaceae. Họ thực vật thân
gỗ, thân thảo và thân bụi, cây có bộ lá thay thế và ra hoa thường xuyên. Đào
được xếp vào giống Prunus. Cây than gỗ hoặc thân bụi có hoa 5 cánh, 5 đài
với khoảng 20 nhị và một bầu nhụy đơn. Đối với cây ăn quả hạt cứng (đào,
đào nhẵn, mận), thì giống Prunurs được chia thành nhiều loại khác nhau (Võ
văn Chi, Dương Đức Tiến) [7].
Đối với mận, có hai loại được trồng sản xuất hàng hóa là Prunurs
domestica L. (Mận Châu Âu) và Prunurs sanicina Lindl. (Mận Nhật Bản).
Đối với đao và đào nhẵn, chỉ có một loại duy nhất, prunurs persica (L)
Batsch. Đào nhẵn là một loại đào không có lông trên vỏ quả. Mỗi loại được
chia thành nhiều dòng khác nhau như: Dòng đào TropicBeauty; Dòng đào
EarliGrande (Võ văn Chi, Dương Đức Tiến) [7].
Đào được xếp vào loại quả hạch. Quả được phát triển từ một noãn đơn,
và hầu hết từ những loại hoa có bầu nhụy hoàn hảo. Quả có lớp ngoài mềm
gọi là vỏ quả, thịt quả bao quanh hạch cứng có chứa hạt. Do đặc điểm trên
đào thuộc nhóm cây ăn quả hạt cứng (Võ văn Chi, Dương Đức Tiến) [7].
1.2.3. Giới thiệu một số giống đào của Việt Nam
* Đào Mèo
Là giống địa phương được trồng rất lâu đời tại các tỉnh miền núi phía
Bắc, giống đào này sinh trưởng rất khỏe, thời gian ra hoa xung quanh dịp Tết
nguyên đán, quả chín vào tháng 7, cỡ quả trung bình có mầu vàng hoặc vàng
nhạt, chất lượng quả kém, vị rất chua hơi đắng. Giống này nhân dân thường
trồng bằng hạt, giá trị sử dụng thấp, thích hợp cho việc sử dụng làm gốc ghép.
* Đào Tuyết
Đặc điểm sinh trưởng khỏe, được trồng ở Sa Pa, thời gian ra hoa vào
tháng 2, thu hoạch giữa tháng 6. Quả trung bình, vỏ và thịt quả đều mầu trắng,
giòn, chua.
10
* Đào Vàng
Là giống được trồng rải rác ở các vùng cao của các tỉnh Sơn La, Lào
Cai, Hà Giang. Quả chín vào tháng 6, quả chín có mầu vàng, vị chua nhưng
có mùi thơm rất đặc trưng. Do kỹ thuật chăm sóc không tốt nên ngày nay chất
lượng của giống đào này giảm rất nhiều.
* Đào Vân Nam
Đây là giống đào nhập nội từ Trung Quốc vào những năm 1963 và 1967.
Có 2 loại giống chín sớm và giống chín muộn, được trồng nhiều tại
huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai.
Giống chín sớm có quả trung bình, chất lượng khá. Mầu quả phớt hồng,
thịt quả hồng nhạt, giòn, hơi chua. Thời gian thu hoạch quả cuối tháng 5.
Giống chín muộn quả to, chất lượng quả ngon. Mầu quả hồng vàng, thịt
quả mầu trắng, giòn, róc hạt. Thời gian thu hoạch quả cuối tháng 6 đầu tháng 7.
* Giống đào Pháp Đ1, Đ2
Được tuyển chọn từ tập đoàn cây ăn quả ôn đới do FAO tài trợ từ năm
1991. Cả 2 giống đều chín sớm, quả nhỏ, thời gian thu hoạch cuối tháng 4.
Giống Đ1 quả nhỏ hơn có mầu đỏ hồng, giống Đ2 quả có mầu vàng hồng. Cả
hai giống thịt quả đều mềm.
1.3. Đặc điểm thực vật học của cây đào
1.3.1. Rễ
Rễ đào tập trung chủ yếu ở trên tầng đất mặt từ 10 – 50 cm tùy thuộc
từng giống và từng loại đất, một số rễ cái ăn sâu vào lòng đất giúp cho cây
đứng vững không bị đổ. Với đặc điểm phân cành sớm và nhiều cành nhỏ cộng
lại với một số rễ cái nằm sâu, lá nhỏ nhẹ, cây đào ít bị đổ khi gặp gió bão.
Ngoại trừ trồng trên đất mùn hoặc đát đá vôi cây thường bị đổ do nguyên
nhân là đất quá tơi xốp và dễ bị sụt lở. Tuy nhiên hoa và quả rất dễ bị rụng do
gió bão nên khi thiết kế vườn đào người ta thường thiết kế vườn đào người ta
11
thường thiết kế đai rừng chắn gió (Trần Thế Tục, 1994) [21] và (Yung Kyung
Choi, Jung Hokim) [27].
1.3.2. Thân cành
Bình thường khi để mọc tự nhiên, đào thuộc loại cây gỗ nhỡ, thông
thường cây gieo hạt có một thân chính và 2 đến 3 thân phụ tỏa về các phía
(cành cấp 1). Nếu đào được nhân bằng cành chiết hay ghép số thân phụ sẽ lớn
hơn. Cây trung bình cao 3-4m, tán xòe rộng có nhiều cành nhỏ (Trần Thế
Tục, 1994) [21] và (Yung Kyung Choi, Jung Hokim) [27].
Tán cây để bình thường tùy từng loại và điều kiện sinh thái mà hình
dáng khác nhau, vùng nhiệt đới tán cây có hình mâm xôi hay chóp nón, cây
sinh trưởng khỏe, cành rậm rạp. Cành của cây đào có thể ra nhiều quả nhiều
lần trên một cành,nhiều cành vừa là quả vừa là mẹ. Đặc điểm này có ở hầu hết
các loại trong họ đào, mơ, mận (Trần Thế Tục, 1994) [21] và (Yung Kyung
Choi, Jung Hokim) [27 ].
Ở cây đào, cành quả hoặc sẽ trở thành cành quả hoặc không là phụ
thuộc vào sức sinh trưởng của cành (đường kính, số lá, chiều dài). Cũng ít khi
phụ thuộc vào tuổi cành. Tuy nhiên những cành vào cuối thu năm trước có thể
rất nhỏ, 7 tháng đến nhiều năm tuổi, thậm chí ngay cả cành cấp I cấp II ở cây
đào cao tuổi đôi khi cũng ra hoa và đậu quả tốt.
Điều này cũng cho thấy để trở thành cành mẹ hoặc cành quả ở cây đào
phụ thuộc vào độ chín sinh lý cần thiết. Ở những nước có khả năng thâm canh
cao, hình dáng bộ tán cây đào không trở nên quan trọng do cành được uốn
nắn trên các giàn giống như giàn nho, giàn bầu bí ở Việt Nam hoặc được uốn
thành cố định theo bốn phía trên khung đai thép đính sẵn.
1.3.3. Lá
Lá có hình dáng tương đối đồng nhất giữa các loài, hình dáng bầu dục
của lá là một đặc trưng hình thái của cây đào. Độ lớn của lá rất khác nhau tùy
12
thuộc vào từng loài và giống, nhìn chung dao động từ 1cm đến 4cm (chiều
rộng); 5cm đến 10cm (chiều dài). Gân lá nổi rõ mép lá có hình răng cưa rõ rệt
tùy từng giống từng loài, đỉnh lá nhọn hoặc tù. Mầu sắc lá cũng rất khác nhau
tùy giống, nhìn chung lá dào có mầu đặc trưng đỏ, tím, xanh, xanh đậm, xanh
nhạt. Lá đào thường rụng vào mùa đông từ tháng 10 đến tháng 12 hoặc sớm
hơn một chút là tùy theo vùng sinh thái.
Những vườn đào giai đoạn còn non (kiến thiết cơ bản) trồng ở những
vùng nóng ẩm lá có thể rụng không triệt để, đôi khi còn lại một vài lá già ngả
mầu vàng, chỉ đến khi cây ra hoa số lá này mới rụng hết để cành bật lộc mới
lá đào rụng càng sớm càng triệt để chứng tỏ điều kiện ngoại cảnh và nội tại
giúp cây có quá trình ngủ sâu trong vụ đông, thì hoa nở càng nhiều và tỷ lệ
đậu quả rất cao, chất lượng quả tốt.
1.3.4. Hoa
Mầu sắc hoa đào tùy từng loài có mầu đỏ tươi, mầu hồng hoặc mầu
trắng. Hoa đào thuộc loại hoa nhỏ, tính theo hình chiếu không gian của hoa,
đường kính hoa giao động từ 5mm đến 25mm tùy từng loài. Hoa đào thường
là 5 cánh hoa nở đều về 4 phía, có những giống số cánh hoa có thể nhiều hơn
(như đào bích kép), phần đài hoa bao lấy bầu, có từ 20-30 chỉ nhị, chiều cao
của chỉ nhị thường tương đương với chiều cao của cánh hoa, bao phấn không
nở sớm mà nở vào thời điểm hoa đã nở. Đầu nhụy vươn lên ngay kề cạnh bao
phấn. Hoa đào nở vào khoảng tháng 12 đến tháng 2 hàng năm, đối với những
giống đào dại (đào thóc) thường nở sớm hơn một chút. Ở các nước Châu Á
nhất là Trung Quốc và Việt Nam, giống đào hoa có ý nghĩa về mặt kinh tế do
bán hoa giá cũng khá cao (Trần Thế Tục, 1994) [21] và (Yung Kyung Choi,
Jung Hokim) [27].
Phần lớn các giống đào không có khả năng tự thụ: Khi tự thụ quá trình
thụ tinh không xẩy ra và kết quả là tỷ lệ đậu quả thấp, thậm chí hoa rụng
13
100%. Bởi vậy, muốn có được năng suất cao, cần phải trồng xen trong vườn
đào ăn quả với các giống đào khác nhau để làm cho cây có nguồn hạt phấn
phong phú hơn.
1.3.5. Quả
Đào là loại quả hạch, độ lớn của quả này thay đổi rất nhiều tùy thuộc
từng loại, các giống đào Châu Á quả thường nhỏ hơn đào Châu Âu và Châu
Mỹ, loại to khoảng 8-10 quả/kg. Mầu sắc quả thay đổi rất nhiều tùy giống, từ
vàng đỏ, vàng trắng và một số quả khi chín còn phủ lớp lông trắng bên ngoài,
lớp lông này có tác dụng bảo vệ quả chống sự xâm nhiễm của vi khuẩn, nấm,
tránh cho quả hấp thụ quá lớn nhiệt độ vào khi trời quá nóng.
Một số giống đào sớm thường cho quả thường chín vào khoảng giữa
tháng 4 đến đầu tháng 5, các giống chín trung bình vào khoảng cuối tháng 6.
Nhìn chung thời gian chín của đào có thay đổi theo từng vùng sinh thái và
thay đổi theo từng lục địa khác nhau.
1.4. Đặc điểm sinh vật học của đào
1.4.1. Giai đoạn sinh trưởng
Đào là cây ăn quả có thân gỗ nhỏ, rụng lá ở vùng ôn đới, lá đào rụng về
mùa đông. Thời kỳ non cây sinh trưởng nhanh, trong một năm cành sinh
trưởng có thể đạt tới 2-3 lần. Tuổi thọ của cây đào còn phụ thuộc vào chủng loại
giống, kỹ thuật nhân giống, trồng trọt… mà có sự khác nhau rõ ràng (đào trồng
bằng hạt có tuổi thọ cao hơn trồng bằng cây ghép và chiết cành, giâm rễ).
Giống đào Trung Quốc có tuổi thọ cao hơn giống đào châu Âu, sự nảy
mầm của đào tương đối mạnh. Cây đào ra lộc mỗi năm 2-3 đợt lộc vào vụ
xuân, vụ hè, vụ thu, chồi lá phát sinh ở ngọn cành và từ lá mọc cả chồi hoa.
Sau khi thu hái quả thì chồi ngọn của cành quả năm trước vươn dài thành quả
mới và kéo dài liên tục trong 4-5 năm liền.
14
1.4.2. Giai đoạn phát triển
Cây đào ra hoa trong tháng 1-2 Dương lịch và phát triển quả tới tháng 5
tháng 6 thì chín quả chín kéo dài trong gần một tháng. Cây trồng bằng cây
ghép, chiết thì trồng 2-3 năm thì có quả và 5-6 năm thì bước vào thời kỳ sai
quả. Trồng bằng cây ghép sớm ra hoa hơn so với cây trồng bằng gieo hạt.
Cành quả có thể phân ra cành dài, trung bình, ngắn và cành quả ngắn có
nhiều hoa và cành quả ngắn. Loại cành quả dài và trung bình tuy phát dục tốt,
các đốt mầm hoa nhiều, lượng hoa nở không ít nhưng do ở đầu các cành thường
nảy các cành mới, dinh dưỡng tiêu hao nhiều nên dễ bị rụng hoa, rụng quả.
Hiện tượng cây đào tự thụ phấn không thành quả tương đối nghiêm trọng,
vấn đề này có liên quan đến bộ phận của hoa phát dục không hoàn toàn, thụ
phấn không tốt hoặc cung cấp dinh dưỡng không đủ. Do đó mỗi cành quả ngắn
có nhiều hoa, có thể nở từ 10-20 hoa nhưng số lượng quả đậu chỉ từ 2-4 quả.
Sự sinh trưởng phát dục của quả đào có thể phân chia làm 3 thời kỳ:
- Thời kỳ thứ nhất: Từ sau khi thụ phấn cho đến khi hạt bắt đầu cứng.
Trong thời kỳ này sự sinh trưởng của quả tương đối nhanh, có thể nhìn thấy
sự lớn của quả. Ở thời kỳ này cây rất cần nước và phân để cung cấp dinh
dưỡng cho việc phát triển cuả quả. Trong giai đoạn này nếu có mưa đá và
sương muối thì rất dễ bị rụng.
- Thời kỳ thứ hai: Thời kỳ hạt được cứng lên, hạt từ mầu trắng sữa dần
dần chuyển sang mầu nâu, chất vỏ hạt cứng lên, nhân của hạt ở trạng thái
nước có mầu trắng sữa. Ở thời kỳ này quả sinh trưởng chậm, chủ yếu là sinh
trưởng phát dục vào thời kỳ này.
Các nhà nghiên cứu cho rằng việc đậu hoa ở cây ăn quả tùy thuộc vào 2
yếu tố: Tinh bột (hydrat carbon) và kích thích sinh trưởng. Sự ra hoa là sự cân
bằng giữa các chất kích thích sinh trưởng tăng và chất kích thích sinh trưởng
giảm. Hoa đào ra vào cuối mùa đông, đầu mùa xuân. Khi hoa nở nếu trời ấm,
15
nắng khô, ít sương mù, không mưa phùn thì việc thụ phấn, thụ tinh thuận lợi,
tỷ lệ đậu sẽ cao.
1.5. Yêu cầu về sinh thái của cây đào
Theo các tác giả R.J.Nissen; A.P.George; S. Hetherington và S
Newman, [33] cho biết: Điều kiện nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa, đất đai và
đặc tính vật lý của đất là yêu cầu cần thiết để cây đào sinh trưởng, phát triển
tốt, đạt năng suất và hiệu quả kinh tế cao.
1.5.1. Nhiệt độ
Nhiệt độ có thể ảnh hưởng đến sức sống, sự phát triển, khả năng ra hoa,
đậu quả và chất lượng quả đào. Nhiệt độ thấp và nhiệt độ cao đều có thể làm
tổn thương nụ và làm giảm khả năng đậu quả. Hoa và quả non đặc biệt mẫn
cảm với sương giá vào cuối mùa đông và mùa xuân, nhiệt độ hạ xuống dưới
2
o
C. Nhiệt độ cao hơn 18
o
C cũng có thể làm giảm việc đậu quả.
Nếu độ lạnh không đầy đủ, việc ra hoa lá sau ngủ nghỉ của cây có thể
sẽ ít, việc đậu quả và năng suất sẽ bị giảm đáng kể.
Ở một số huyện miền núi phía Bắc nước ta như Mộc Châu (Sơn La);
Bắc Hà, Sa Pa (Lào Cai); Mẫu Sơn (Lạng Sơn)… có mùa đông lạnh phù hợp
với các giống đào có yêu cầu độ lạnh trung bình (từ 400-600CU).
1.5.2. Ánh sáng
Bức xạ mặt trời hoặc độ chiếu sáng thấp có thể ảnh hưởng đến việc đậu
quả, năng suất, chất lượng quả và các quá trình sinh lý của cây như quá trình
quang hợp và phát triển của cây.
Các nghiên cứu về cây đào đã chỉ ra rằng để quả có mầu sắc đẹp và độ
đường cao thì ngưỡng tối thiểu của độ chiếu sáng. Thêm vào đó, điểm bão
hòa ánh sáng cho quang hợp tối thiểu xuất hiện ở mức 1/3 điều kiện ánh sáng
đầy đủ (8MJ/m
2
/ngày).
16
1.5.3. Lượng mưa
Phân bố lượng mưa cũng rất quan trọng. Ở nhiều vùng nhiệt đới và á
nhiệt đới, có một mùa khô đặc trưng với mưa ít hay không có mưa và một
mùa ẩm ướt do vậy có thể gây hạn hán trong mùa khô và úng trong mùa mưa.
Lượng mưa lớn trong giai đoạn nở hoa có thể gây thiệt hại cho việc đậu quả.
Đậu quả ít trong mùa mưa là do hiệu quả bất lợi của mưa làm giảm sức sống
của phấn hoa và hoạt động của côn trùng thụ phấn.
Ở vùng nhiệt đới, sự kết hợp giữa lượng mưa lớn và nhiệt độ cao làm
tăng khả năng nhiễm sâu bệnh hại. Một trong những vấn đề chủ yếu là việc
rụng lá sớm sẽ làm giảm việc hình thành sự tích lũy tinh bột trong cây cho
những vụ tiếp theo, cây sẽ suy yếu nhanh chóng sau 2-3 năm cho quả.
1.5.4. Yêu cầu về đất
Đối với cây đào thì đặc tính vật lý của đất là quan trọng nhất và độ phì
nhiêu của đất thường được xem là yếu tố thứ hai, tuy nhiên đặc tính của đất
có thể dễ dàng cải tạo.
Cây đào thích hợp với loại đất có kết cấu nhẹ dao động từ cát nhẹ, phù
xa sét, đến sét nhẹ. Đất cát nhẹ đến đất mùn là phù hợp nhất và độ sâu nước
ngầm phải trên 1m.
Nhìn chung các loại đất ở miền núi phía Bắc nước ta, với độ cao so với
mặt nước biển từ 500-600m đến 1000-1200m, có độ sâu hơn 1m, có cấu
tượng tơi xốp, giữ ẩm tốt dễ thoát nước, có độ mùn khá như đất rừng núi mới
khai phá, đất dốc tụ, phù sa cổ, feralit đỏ vàng, có độ pH 5,5-6,5 đều có thể
trồng đào ăn quả.
1.6. Tình hình sản xuất trên thế giới và Việt Nam
1.6.1. Tình hình sản xuất đào trên thế giới
Các nước trong khu vực sản xuất đào ăn quả quan trọng trong lịch sử là
Trung Quốc, Nhật Bản, Iran và các quốc gia khu vực Địa Trung Hải, là khu
17
vực đã được trồng đào hàng ngàn năm qua. Gần đây Hoa Kỳ (các bang
California, Nam Carolina, Michigan, Texas, Alabama, Georgia, Viginia),
Canada (miền nam Ontario và British Columbia) và Australia (khu vực
Riverland) cũng trở thành các quốc gia quan trọng trong trồng đào. Các khu
vực có khí hậu đại dương như khu vực tây bắc Thái Bình Dương và British
Isles nói chung không thích hợp cho việc trồng đào do không đủ nhiệt về mùa
hè, mặc dù đào đôi khi cũng được trồng tại đây (Yung Kyung Choi, Jung
Hokim) [26].
Bảng 1.1. Diện tích, năng suất, sản lượng đào một số nước trên thế giới
năm 2010
Địa điểm
Diện tích
(ha)
Năng Suất
(kg/ha)
Sản lượng
(tấn)
Toàn thế giới 1.537.459 13.186,9 20.274.287
Châu Á 966.587 13.358,2 12.911.905
Trung Quốc 731.259 14.656,9 10.718.048
Iran 45.000 11.111,1 500.000
Hàn Quốc 13.908 9.964,0 138.580
Nhật Bản 10.000 13.670,0 136.700
Châu Âu 217.567 14.792,3 4.017.093
Italy 90.259 17.623,2 1.590.660
Tây Ban Nha 73.000 15.544,5 1.134.750
Hy Lạp 37.000 17.281,0 639.400
Pháp 13.747 23.597,9 324.401
Châu Mỹ 188.338 12.676,9 2.387.543
Hoa Kỳ 59.461 17.565,1 1.044.440
Mexico 41.648 5.460,5 227.421
Châu Phi 90.137 9.277,5 83.624
Tunisia 16.900 7.165,6 121.100
Ai Cập 33.017 8.276,2 273.256
Châu Đại Dương 20.830 5.832,9 121.500
Úc 20.000 5.685,0 113.700
(Nguồn: Fao statistics, 2012)
Theo Giáo sư Vũ Công Hậu [10]: Cây đào được trồng chủ yếu ở các
vùng ôn đới nóng và các nước á nhiệt đới. Trên phạm vi toàn thế giới, cùng
18
với cây táo tây, lê, cam quýt, chuối, dứa, đào là một trong 5, 6 loại quả quan
trọng nhất thế giới.
Theo tài liệu của Fao statistics (2012) năm 2010 diện tích thu hoạch
đào toàn thế giới là 1.537.459 ha, năng suất trung bình đạt 13.186,9 kg/ha
tổng sản lượng 20.274.287. Trung Quốc là nước có diện tích đào lớn nhất thế
giới 731.259 ha. Pháp là nước có năng suất đào cao nhất thế giới 23.597,9
kg/ha, tiếp đó là Italy 17.623, Hoa Kỳ 17.565 kg/ha.
1.6.2. Tình hình sản xuất đào ở Việt Nam
Vùng phân bố tự nhiên của đào ở Việt Nam chủ yếu trên những vùng
núi cao. Đào trồng chủ yếu ở miền núi phía Bắc như: Lào Cai; Sơn La; Hòa
Bình, Lai Châu, Hà Giang, Lạng Sơn, Bắc Kạn… với các giống đào nổi tiếng
như đào Vân Nam trồng ở Lao Cai, đào Mẫu Sơn trồng ở Lạng Sơn (Bộ nông
nghiệp và phát triển nông thôn) [2], (Vũ Công Hậu)[10].
Ngày nay, các tỉnh Sơn La, Lao Cai đã di thực thành công khá nhiều
giống đào có nguồn gốc từ Trung Quốc (các giống đào Vân Nam, đào trắng
chín muộn…), từ Pháp (các giống Đ1, Đ2, Melina…) từ Australia (các giống
Tropic Beauty, Earligrand, Sunwright…) và các giống đào vỏ quả nhẵn từ
nhiều nước trên thế giới như: Rose diamond, Sunwright, Sunsnow (Viện Bảo
vệ thực vật, 2001) [23].
1.7. Những nghiên cứu về cây đào trên thế giới và Việt Nam
1.7.1. Những nghiên cứu về cây đào trên thế giới.
1.7.1.1. Những nghiên cứu về chọn giống
Theo tác giả R. J. Nissen; A. P. George; S. Hetherington và S.
Newman (2004) [33].Những nghiên cứu về cây đào tập trung vào các vấn
đề chủ yếu sau:
Yêu cầu về độ lạnh: Chương trình chọn tạo giống ở Florida, Brazil,
Taxas, California, Israel và Úc đã tạo được ra nhiều giống đào mới. Các giống
19
đào cần một giai đoạn lạnh, được tính toán như đơn vị lạnh (CU), đủ để phá
vỡ quá trình ngủ nghỉ một cách hiệu quả. Các giống được chia như sau:
Giống yêu cầu độ lạnh ít (50-200CU)
Giống yêu cầu độ lạnh thấp (200-400CU)
Giống yêu cầu độ lạnh trung bình (400-600CU)
Giống yêu cầu độ lạnh cao (> 600CU)
Ou ShyiKuan (2004) [34] khi nghiên cứu về yêu cầu độ lạnh của giống
đào campanulata P. địa phượng với 4 giống đào khác cho thấy: Số đơn vị lạnh
được tính theo số giờ có nhiệt độ 12
0
C trong suốt thời kỳ bắt đầu lạnh đến khi
kết thúc mùa lạnh. Kết quả cho thấy các vùng của Đài Loan có số giờ lạnh
khoảng 190 giờ lạnh, số giờ lạnh không đủ cho sinh trưởng của một số giống
đào có yêu cầu độ lạnh cao.
Sự chấp nhận của thị trường: Khách hàng thường hướng tới quả có mầu
đẹp, kích thước thích hợp, thời gian bầy bán lâu, không có khuyết tật và có
hương vị ngon. Một giống càng có nhiều yếu tố nêu trên thì càng được thị
trường chấp nhận. Một số đặc tính quan trọng dưới đây:
Loại thịt quả. Có 3 loại thịt quả: Mềm, không mềm, cứng giòn. Quả có
thịt quả không mềm có thể tồn tại trên cây khi thành thục dài hơn so với quả
có thịt quả mềm, vì quả có thịt mềm thường bị mềm và hỏng rất nhanh, khó
bảo quản.
Sự cân đối giữa đường và acid. Có hai loại chính của tỷ lệ đường và
acid: Rất ngọt/chua; ngot/rất chua. Hầu hết người Châu Á thích loại thứ 2.
Mầu thịt quả: Đối với đào và đào nhẵn có 2 loại mầu thịt quả: Mầu thịt
quả trắng và mầu thịt quả vàng, có một số ít giống có thịt quả mầu hồng hoặc
đỏ. Mầu thịt quả cũng là tiêu chí cho người tiêu dùng lựa chọn khi mua đào.
Mầu hồng thường được ưa chuộng hơn cả.
1.7.1.2. Nghiên cứu về kỹ thuật quản lý vườn cây
Nghiên cứu thiết kế vườn trồng, bố trí mật độ, khoảng cách theo từng
20
địa hình, kiểu tán cây, kỹ thuật cắt tỉa và chế độ chăm sóc. Xu hướng chung là
sử dụng gốc ghép lùn, trồng mật độ cao, khai thác chu kỳ ngắn.
T.M. DeJong (2007) [36] khi nghiên cứu cây để chọn làm gốc ghép
cho giống đào Flavorcrest and Loadel trên gốc ghép của 5 giống đào khác
nhau, kết quả nghiên cứu cho thấy gốc ghép có ảnh hưởng đến sinh trưởng
cũng như năng suất của cây ghép.
Bonhomme và cs (1999) [28] khi nghiên cứu về giống đào quả nhẵn trồng
tại Pháp cho thấy các chỉ tiêu sinh trưởng của cành mẹ như chiều dài, vị trí, số mắt
lá trên cành mẹ có tương quan chặt chẽ đến sinh trưởng của cành quả.
Nghiên cứu kỹ thuật đốn tỉa, tạo hình, tỉa cành để tạo cho tán có khả
năng hấp thụ tốt nhất ánh sáng mặt trời, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chăm
bón, phòng trừ sâu bệnh, điều tiết sinh trưởng, kích thích ra hoa, tăng đậu quả
để đạt được năng suất cao như mong muốn.
Rieger M. và cs (1993) [35] khi nghiên cứu mật độ trồng cho giống đào
Garnet Beauty với khoảng cách 1; 1,5; 2; 2,5; 3 m qua 4 năm cho thấy: Sự
phát triển của tán cây có tương quan chặt chẽ đến phát triển của rễ. Với mật
độ trồng từ 2 m trở lên tán cây có khả năng phát triển tốt. Năng suất đào ổn
định với các cây có mật độ trồng là 2m trở lên. Mật độ trồng dẫn tới sự cạnh
tranh về ánh sáng xẩy ra ngay từ năm đầu tiên sau trồng, trong khi ảnh hưởng
của mật độ trồng với bộ rễ chỉ xẩy ra từ năm thứ 3 sau trồng.
Furukawa Y. (2003) [29] khi nghiên cứu về mật độ trồng cho đào với
các mật độ trồng từ 1250 cây/ha đến 2500 cây/ha trong 6 năm từ 1995 đến
2001 cho thấy mật độ trồng có ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của cây.
Qua phân tích tương quan cho thấy, mật độ trồng có tương quan chặt chẽ đến
năng suất của quả, số lượng quả có kích thước trung bình. Tuy nhiên số lượng
quả có kích thước nhỏ và lớn không có tương quan đến mật độ trồng.
Nghiên cứu về kỹ thuật bón phân: Bón phân dựa vào tính chất nông
hóa-thổ nhưỡng, nhu cầu dinh dưỡng của cây… dựa trên phân tích lá, phân
21
tích đất, kết hợp giữa bón phân quanh gốc, phun phân trên lá, bổ sung phân vi
lượng, chất điều tiết sinh trưởng [6].
Nghiên cứu kỹ thuật tưới và quản lý ẩm độ đất: Bao gồm những kỹ
thuật tủ gốc, trồng xen, trồng cây che phủ đất, các biện pháp công trình làm
đường đồng mức, các túi chứa nước trên đất dốc… đến các kỹ thuật tưới
phun, tưới nhỏ giọt, tưới nước kết hợp bón phân.
Ben Mechlia và cs (2006) [32] khi nghiên cứu về tưới nước cho đào trong
năm cho thấy, sự giảm hàm lượng nước trong các thời kỳ quả phát triển làm ảnh
hưởng đến năng suất quả, kết quả nghiên cứu cho thấy sự hạn chế nước vào giai
đoạn cuối của sự phát triển quả có thể làm giảm năng suất tới 33%.
Nghiên cứu kỹ thuật phòng trừ sâu, bệnh: biện pháp phòng trừ tổng hợp
IPM được coi là biện pháp chủ đạo khuyến cáo áp dụng ở nhiều nước hiện nay.
E.Cottell, J. Fuest, D. L. Horton (2008) [37] khi nghiên cứu khả năng
chiống sâu đục quả của 3 giống đào nhập nội và giống đào địa phương tại Mỹ
cho thấy: Giống đào địa phương có khả năng chống sâu đục quả cao hơn so
với giống nhập nội.
Montana (2005) [31] khi nghiên cứu về khả năng bảo quản cho hai
giống đào trồng tại Colombia cho thấy: Khi thu hoạch, những quả đào sạch
bệnh được gói bằng bao giấy chuyên dùng và bảo quản trong phòng có nhiệt
độ 4
0
C và phòng có nhiệt độ thường 19
0
C. Kết quả cho thấy trong nhiệt độ
lạnh đào có thể bảo quản tốt từ 37-41 ngày. Trong nhiệt độ thường có thể bảo
quản được từ 5-7 ngày.
1.7.2. Những kết quả nghiên cứu về cây đào ở Việt Nam
Việc nghiên cứu về cây đào nói chung ở nước ta cũng như ở các tỉnh
miền núi Bắc chưa được đầu tư một cách đúng mức, số lượng các công trình
nghiên cứu ít, mang tính đơn lẻ, không liên tục và hệ thống. Có thể tổng hợp
các công trình nghiên cứu theo các chuyên đề chủ yếu sau:
22
1.7.2.1. Điều tra tuyển chọn giống đào
Theo Trần Thế Tục [20], [21]: Công tác điều tra tuyển chọn giống gồm
các bước sau:
(1) Điều tra tuyển chọn cá thể ưu tú.
(2) Theo dõi tính ổn định về năng suất, chất lượng quả của các cá thể
tuyển chọn qua ba năm liên tục. Các cá thể tuyển chọn được đánh dấu theo dõi
trong ba năm liên tục về các chỉ tiêu: Năng suất, chất lượng, tính chống chịu với
sâu bệnh và các thời kỳ vật hậu: ra hoa, đậu quả, quả chín và thu hoạch.
(3) Xác định giống bằng ISOZYME hoặc PCR. Ngoài mô tả hình thái,
các cá thể tuyển chọn được kiểm tra gen di truyền bằng kỹ thuật phân tích
ISOZYME hoặc PCR để xác định sự khác biệt giữa các giống.
(4) Xây dựng vườn thực liệu giống tuyển chọn. Tất cả các cá thể được
tuyển chọn năm đầu tiên sẽ được nhân bằng phương pháp ghép và trồng trong
vườn gọi là vườn thực liệu giống tuyển chọn. Mục đích là để có được những
cây giống làm cây mẹ ngay sau khi kết thúc 3 năm tuyển chọn tại hộ gia đình.
(5) Xây dựng vườn cây mẹ. Gồm các cá thể của các giống đã được
tuyển chọn đánh giá sau 3 năm, được coi là dòng/giống gốc làm thực liệu
nhân giống cung cấp cho sản xuất.
(6) Xây dựng mô hình giống đã được tuyển chọn. Mô hình giống tuyển
chọn là để chứng minh cho kết quả tuyển chọn, đồng thời là điạ bàn áp dụng
các tiến bộ kỹ thuật ngay từ đầu, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận dần với
những tiến bộ trong sản xuất.
1.7.2.2. Nhập nội và khảo nghiệm giống đào
Nhập nội giống đào cũng được tiến hành khá sớm, từ những năm 1986
đến nay. Nhìn chung công tác nhập nội và khảo nghiệm các giống đào đã
được thực hiện ở nhiều quy mô và điều kiện sinh thái khác nhau ở các tỉnh
miền núi phía Bắc nhưng kết quả còn rất hạn chế, song vẫn là một hướng cần
23
được tiếp tục với quy mô và cường độ lớn hơn để rút ngắn thời gian chọn tạo
giống trong nước.
1.7.2.3. Nghiên cứu về kỹ thuật canh tác cây đào
Theo các tác giả Vũ Công Hậu [11], R. J. Nissen; A. P. George; S.
Hetherington và S. Newman [33] và Viện Bảo vệ thực vật [24]: Đào cần trồng
ở nơi có nhiều ánh nắng, với sự thông thoáng gió tốt. Điều này cho phép
không khí lạnh được thổi đi vào những đêm sương giá và giữ cho khu vực
được mát mẻ vào mùa hè. Tại các khu vực trồng đào lấy quả thì việc trồng
đào tốt nhất diễn ra vào đầu mùa đông, do nó có đủ thời gian để rễ mọc ra và
đủ khỏe để giúp cho sự phát triển về mùa xuân. Tại các khu vực này người ta
trồng đào thành hàng theo hướng Bắc - Nam. Dưới đây là các yêu cầu cho
việc trồng đào lấy quả.
- Tưới nước: Đào cần có sự cung cấp nước ổn định và cần tăng lên
trong khoảng thời gian ngắn trước khi thu hoạch quả. Mùi vị thơm ngon nhất
chỉ có được khi cây đào được tưới nước đầy đủ trong cả vụ.
- Bón phân: Cây đào có thể yêu cầu cao về chất dinh dưỡng, nó cần
nhiều nitơ hơn các loại cây ăn quả khác. Phân bón NPK cần phải được sử
dụng thường xuyên, và một lớp phân gia cầm bón vào đầu mùa thu ngay sau
khi thu hoạch quả sẽ có ích cho cây. Nếu lá đào nhỏ hay ngả mầu vàng thì cây
cần nhiều đạm hơn. Các loại phân làm từ máu và xương gia súc khoảng 3-5
kg trên một cây trưởng thành hay phân bón hóa học như nitrat amoni canxi ở
mức 0,5-1 kg là loại phân bón thích hợp nhất. Cũng nên sử dụng phân bón khi
cây chậm phát triển.
- Đốn tỉa: Đào là cây cần đốn tỉa rất nhiều. Đào sinh trưởng mạnh ở
phía đầu cành, phía chân cành thường thiếu nhựa, mắt yếu do đó cần hãm
ngọn những cành cấp I, II quá mạnh, giữ nhựa cho cành quả phía dưới. Đốn
tạo quả nên đốn muộn vào thánh 12, 1 khi dễ phân biệt nụ hoa và nụ lá sau vụ
24
nghỉ đông. Đào trong điều kiện khí hậu á nhiệt đới thường chỉ ra hoa trên
cành ra vụ trước vì vậy chú ý làm cho cây ra nhiều cành năm trước, năm sau
mới có nhiều hoa.
- Trừ sâu bệnh: Đào nhiều sâu bệnh, nhất là trong điều kiện khí hậu ấm và
độ ẩm cao. Về sâu có rệp hút nhựa làm lá xoăn lại, rầy hút dịch ở lá, nhện đỏ, sâu
đục ngọn, rệp sáp, xén tóc… bệnh có bệnh phồng lá, bệnh thối nâu, chảy gồm…
cách phòng trị thường là kết hợp nhiều loại thuốc, trừ nhiều loại sâu bệnh.
- Thu hoạch: Dấu hiệu chín của đào rất dễ nhận biết: Mầu sắc chuyển
hồng, có trỗ đỏ, quả mềm, mùi thơm rõ… nhưng vì đào nhiều nước, vỏ mỏng,
quả lại nặng, đợi đến lúc quả chín tới thì không thể mang đi xa được, quả lại
chóng thối, vì vậy từ cách hái không làm dập quả đến cách xếp vào thúng, rổ,
két gỗ, vận chuyển… đều phải làm hết sức cẩn thận và thường bao giờ cũng
phải hái sớm một chút lúc quả còn cứng, dễ vận chuyển hơn, quả ít hỏng hơn.
1.7.2.4. Nghiên cứu về công dụng và giá trị kinh tế của cây đào
- Quả đào được coi là một trong những loại quả quý vì có mã quả đẹp,
vị ngọt, chua, rất hợp với khẩu vị của nhiều người, quả đào được dùng chính
để ăn tươi ngoài ra còn có thể chế biến thành các sản phẩm như: Đào ướp
đường, ô mai đào, rượu đào… đăc biệt đào phơi khô là một sản phẩm quý có
tác dụng nhuận tràng, dễ tiêu, kích thích thần kinh…
- Đào là một cây trồng có giá trị kinh tế cao, thể hiện ở chỗ: Có thể
thâm canh với mật độ cao, cây sinh trưởng nhanh, sớm cho thu hoạch quả,
khả năng đậu quả tốt, ít ra hoa cách năm…
1.8. Nghiên cứu về dinh dưỡng và kỹ thuật trồng trọt
1.8.1. Nhu cầu dinh dưỡng và kỹ thuật bón phân cho đào
Theo Phạm Văn Côn (2004) [4] cho biết: Cây ăn quả cũng như cây
trồng nói chung cần hút chất dinh dưỡng từ đất và phân bón để tạo ra sản
phẩm thông qua các quá trình quang hợp. Nếu thiếu dinh dưỡng hoặc các chất
dinh dưõng không cân đối làm cho cây sinh trưởng kém dẫn tới giảm năng
25
suất và phẩm chất sản phẩm. Nếu thừa dinh dưỡng làm cho cây sinh trưởng
quá mạnh cũng làm giảm năng suất và phẩm chất các sản phẩm đồng thời còn
gây ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí.
Sự biểu hiện khi thiếu các chất dinh dưỡng ở cây đào như sau:
- Thiếu đạm: Lá vàng, có nhiều chấm đỏ, cành ngắn, quả bị chín ép
(chín sớm)
- Thiếu kali: Các lá cuộn lại, nhăn nheo, mép khô, dễ bị rụng quả.
- Thiếu phốt pho: Lá mầu xanh tối, cuốn lại, hàm lượng đường trong
quả giảm.
- Thiếu Mg: Lá có đám mầu nâu nhạt, rìa lá bị khô.
- Thiếu Ca: Dễ bị rụng quả, cần phun Booc đô kết hợp với trừ bệnh nấm.
- Thiếu kẽm: Lá có mầu nâu nhạt, gợn sóng và nhăn nheo, đầu các gân
nhỏ có hình hoa hồng, lá bé.
- Thiếu Bo: Có những điểm xốp trên quả
Theo Trần Thế Tục [20], [21], cho biết: Cây đào hàng năm có rụng quả
sinh lý nên lượng phân bón phải đầy đủ để đảm bảo yêu cầu sinh lý của cây.
Bón phân cho đào phải cân đối N, P, K, bón đúng lúc, đúng cách theo nhu cầu
của cây.
Theo kinh nghiệm của tác giả Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội:
Hàng năm nên bón phân lót cho đào vào tháng 1 trước khi nẩy lộc. Đối với
những cây ra quả ổn định từ năm thứ 8 trở đi cần bón cho mỗi cây là 30-50 kg
phân chuồng hoai mục trộn với 0,3-0,5N + 0,3 P
2
O
5
+ 0.5kg K
2
O.
Cách bón: Chiếu theo mép tán cây, đào 3 hố đều nhau với kích thước
sâu và rộng 40cm, sau đó bón phân lấp đất hơi cao hơn mặt đất. Năm sau đào
hố bón phân xen kẽ với hố phân năm trước. Làm như vậy vừa có tác dụng
cung cấp dinh dưỡng cho cây, vừa có tác dụng cải tạo đất trong vườn cây.
1.8.2. Kỹ thuật đốn tỉa, tạo hình và tạo quả
Sinh trưởng tự nhiên của cây ăn quả thường không đáp ứng yêu cầu về