Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin trên báo cáo tài chính giữa niên độ của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (13.16 MB, 119 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

DƯƠNG NGỌC NHƯ QUỲNH

NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TÓ ẢNH HƯỚNG ĐÉN
MUC DO CONG BO THONG TIN TUY Y TREN
BÁO CÁO TÀI CHÍNH GIỮA NIÊN ĐỘ CỦA CÁC
CÔNG TY NIÊM YÉT TRÊN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KẾ TOÁN

Da Nẵng - Năm 2017


DAI HOC DA NANG

TRUONG ĐẠI HỌC KINH TE

GỌC NHƯ QUỲNH

NGHIEN CUU CAC NHAN TO ANH HUONG DEN
MUC DO CONG BO THONG TIN TUY Y TREN
BÁO CÁO TÀI CHÍNH GIỮA NIÊN ĐỘ CỦA CÁC
CƠNG TY NIÊM T TRÊN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHỐN VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KẾ TOÁN
Mã số: 60.34.03.01


Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYÊN HỮU CƯỜNG

Da Nẵng - Năm 2017


LOI CAM DOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng
được ai cơng bồ trong bắt kỳ cơng trình nào khác.

Tác giả

Dương Ngọc Như Quỳnh


MUC LUC

MO DAU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Mục tiêu nghiên cứu

2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.


2

4. Phương pháp nghiên cứu

2

5. Bố cục đề tài

3

6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu

3

CHUONG

1. CO SO LY LUAN VA TONG QUAN NGHIEN CUU VE

CONG BO THONG TIN TUY Y TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH GIỮA.
NIÊN ĐỘ
.7
1.1. CƠ C6 LY LUAN VE CONG BO THONG TIN TREN BAO CAO TAI
CHÍNH GIỮA NIÊN ĐỘ

7

1.1.1. Nội dung báo cáo tài chính giữa niên
1.1.2. Vai trị của báo cáo tài chính giữa niên độ


7
8

1.1.3. Đo lường mức độ công bồ thông tin trên báo cáo tài chính giữa
niên độ

9

1.2. LY THUYET KHUNG VE CONG BO THONG TIN TUY Y.

12

1.2.1. Ly thuyét théng tin hitu ich

13

1.2.2. Lý thuyết tín hiệu

13

1.2.3. Lý thuyết đại

14

diện

1.2.4. Lý thuyết thơng tin bất cân xứng
1.2.5. Lý thuyết tính kinh tế của thơng tin

1.3. TƠNG QUAN NGHIÊN CỨU


15
16

18

1.3.1. Các nghiên cứu về ảnh hưởng của nhân tố mức độ trì hỗn cơng

bố báo cáo tài chính.

18

1.3.2. Các nghiên cứu về ảnh hưởng của nhân tố chủ thể kiểm toán thực
hiện soát xét báo cáo tài chính.

19


1.3.3. Các nghiên cứu về ảnh hưởng của nhân tó tỉ lệ vốn nhà nước trên
vốn điều lệ

21

1.3.4. Các nghiên cứu về ảnh hưởng của nhân tố tỉ lệ vốn sở hữu của

nhà quản lý

22

1.3.5. Các nghiên cứu về ảnh hưởng của nhân tố mức độ độc lập của

Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc

1.3.6. Các nghiên cứu về ảnh hưởng của nhân tố quy mô công ty. . . .

23

24

1.3.7. Các nghiên cứu về ảnh hưởng của nhân tố tỉ suất sinh lời
25
143.8. Các nghiên cứu về ảnh hưởng của nhân tố tính tự chủ về tài

chính

26
1.3.9. Các nghiên cứu về ảnh hưởng của nhân tố khả năng thanh toán

nhanh
KÉT LUẬN CHUONG 1
CHƯƠNG 2. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
2.1. XÂY DỰNG CÁC GIÁ THUYÉT NGHIÊN CỨU

2.1.1. Giả thuyết về mức độ trì hỗn cơng bố báo cáo tài chính
2.12.

21
28
...20
29


29

Giả thuyết về chủ thể kiểm toán thực hiện soát xét báo cáo tài

chính

30
2.1.3. Giả thuyết về tỉ lệ vốn nhà nước trên vốn điều lệ

31

2.1.4. Giả thuyết về tỉ lệ vốn sở hữu của nhà quản lý

32

2.1.5. Giả thuyết về mức độ độc lập của hội đồng quản trị và ban giám

đốc

32
2.1.6. Giả thuyết về quy mô công ty.

34

2.1.7. Giả thuyết về tỉ suất sinh lời

34

2.1.8. Giả thuyết về tính tự chủ về tài chính.


35

2.1.9. Giả thuyết về khả năng thanh tốn nhanh.

35

2.2. MƠ HÌNH NGHIÊN CUU
2.2.1.

Thiết lập mơ hình

36
36


2.2.2. Đo lường biến phụ thuộc

37

2.2.3. Đo lường các biến độc lập

40

2.3. MẪU NGHIÊN CỨU

42

KÉT LUẬN CHƯƠNG 2

4


CHƯƠNG 3. KET QUẢ NGHIÊN CỨU

„44

3.1. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ CƠNG BĨ THƠNG TIN TÙY Ý TRÊN BÁO.
CÁO TÀI CHÍNH GIỮA NIÊN ĐỘ CỦA CÁC CÔNG

TY NIÊM YẾT

TREN THI TRUONG CHUNG KHOAN VIET NAM

44

3.1.1. Mức độ công bố thông tin tùy ý theo từng chỉ tiêu

44

3.1.2. Tổng hợp mức độ công bố thông tin tùy ý

49

3.2. PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TƠ ẢNH HƯỞNG ĐỀN MỨC ĐỘ CÔNG
BỒ THÔNG TIN TÙY Ý TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH GIỮA NIÊN ĐỘ Ở

VIỆT NAM
3.2.1. Đối với Báo cáo tài chính bán niên năm 2016.
3.2.2. Đối với trường hợp Báo cáo tai chính quý 2 năm 2016
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
CHƯƠNG 4. HAM Ý CHÍNH SÁCH VÀ KẾT LUẬN...

4.1.

MỘT

SỐ KIÊN NGHỊ

NHẢM

NÂNG

CAO

MỨC

50
51
62
72

.„. 74
ĐỘ CONG

BO

THÔNG TIN TÙY Ý TRÊN BÁO CÁO TÀI CHÍNH GIỮA NIÊN ĐỘ Ở

VIỆT NAM

74


4.1.1.

Chú trọng hơn nữa đến tính độc lập của Ban giám đốc và Hội

đồng quản trị.

74

4.1.2. Hàm ý từ sự ảnh hưởng của tỉ lệ sở hữu vốn của Nhà nước......
4.1.3. Hàm ý từ sự ảnh hưởng của khả năng thanh toán nhanh.

75
76

4.1.4. Các kiến nghị khác.

T1

4.2. KÉT LUẬN

79

4.2.1. Kết quả đạt được

79

4.2.1. Hạn chế của nghiên cứu

81



KET LUAN CHUONG 4
PHU LUC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
QUYẾT ĐỊNH GIAO ĐỀ TÀI LUẬN VĂN (Bản sao)

82


DANH MUC CAC TU VIET TAT

BCTC

Báo cáo tải chính

BGĐ

Ban giám đốc

CBTT

Công bố thông tin

CTNY

Công ty niêm yết

HĐQT

Hội đồng quản trị


OLS
VIF

Hồi quy bình phương bé nhất
“Thừa số tăng phương sai


DANH MUC CAC BANG BIEU
Số hiệu

Bing

Tên bảng

2.1 | Thang đo các chỉ tiêu về mức độ CBTT tùy ý
2.2 —_ | Mô tả và đo lường các biển độc lập
gy | Chỉ tiết mức độ CBTT tùy ý trên BCTC bán niên năm
2016 theo từng chỉ tiêu
ga | Chỉ tết mức độ CBTT tày ý trên BCTC quý 2 năm|
2016 theo từng chỉ tiêu
Tổng hợp mức độ CBTT tùy ý trên BCTC giữa niên độ
33
Ígam20l6
ạa__ | Thống kê mơ tả các biến độc lập trên BCTC bán niên |
năm 2016
gg _ | HỆ số tương quan cặp của các biến độc lập (Mơ hình |
1a)
3.6 — | Kết quả hồi quy OLS Mơ hình la
3.7 | Kết quả kiếm định tự tương quan ở Mơ hình 1a

Kết quả kiêm định phương sai không đồng nhất ở Mô
38 | inh a
zo
[REE awa thong kê sự ảnh hưởng của các nhân tô đến
mức độ CBTT tùy ý trên BCTC bán niên năm 2016
30 | Thống kê mô tả các biên độc lập tên BCTC quý 2 nam |
2016
ayy | ĐỂ SỐ trong quan cặp của các biển độc lập (Mơ hình |

1b)

Trang
39
41
|,
„„

°
¡

54
55
*6
|.



Số hiệu
Tên bảng
Bảng

3.12
[Kết quả hồi quy OLS Mơ hình Ib
3.13
[Kết quả kiểm định tự tương quan ở Mơ hình Ib
aig. | Set qua Kigm định phương sai không đồng nhất ở Mơ
hình Ib
Kết quả thơng kê sự ảnh hưởng của các nhân tô đến
3.15
mức độ CBTT tùy ý trên BCTC quý 2 năm 2016

Trang
65
66

69


1

MO BAU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển kinh tế đất nước thì thị trường chứng khốn ở
'Việt Nam ngày càng phát triển. Tính đến nay, trên cả nước, ở cả hai Sở giao.

dịch chứng khoán Hà Nội và Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí
Minh có hơn 700 cơng ty niêm yết (CTNY). Thị trường chứng khoán ngày
càng trở thành một kênh đầu tư hấp dẫn thu hút nhiều cá nhân và tổ chức
tham gia. Trên thị trường đó, một trong những điều nhà đầu tư quan tâm nhất

khi tham gia trên thị trường chứng khốn chính là thơng tin, đặc biệt là thong

tin liên quan đến tài chính. BCTC giữa niên độ chính là một trong những kênh
thơng tin được nhiều nhà đầu tư quan tâm, vì loại BCTC này phản ánh khá
kịp thời những thơng tin liên quan đến tài chính của CTNY. Hiện nay, chuẩn
mực kế toán Việt Nam số 27 (BCTC giữa niên độ) đã quy định một số thông,

tin mà các doanh nghiệp cần phải công bố trên BCTC giữa niên độ. Tuy
nhiên, do chuẩn mực không quy định mức độ rõ mức độ chỉ tiết của từng chỉ

tiêu phải công bố, nên trên thực tế doanh nghiệp có thể tùy ý điều chỉnh về
mức độ cơng bố những thông tin bắt buộc này khi phát hành các BCTC giữa
niên độ. Những thông tin tùy ý công bố trên các BCTC này có thể tác động
khơng nhỏ đến quyết định của nhà đầu tư. Tuy nhiên, mức độ công bố thông,

tin (CBTT) tủy ý trong BCTC giữa niên độ của các CTNY trên thị trường
chứng khoán Việt Nam hiện nay như thế nào và những nhân tố nào có thể ảnh
hưởng đến mức độ CBTT này vẫn cịn là một khoảng trồng trong nghiên cứu
Xuất phát từ lý do đó, tơi đã chọn đề tài “Nghiên cứu các nhân tố ảnh.

hưởng đến mức độ CBTT tùy ý trên BCTC giữa niên độ của các CTNY trên thị
trường chứng khoán Việt Nam” nhằm đánh giá về thực trạng (mức độ) CBTT
tùy ý trong BCTC giữa niên độ ở Việt Nam và quan trọng hơn là xác định các
nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT này. Trên cơ sơ đó, đề xuất được các

giải pháp phù hợp nhằm cải thiện chất lượng thông tin mà BCTC giữa niên độ


2

cung cấp cho các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam.


2. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định mức độ CBTT tùy ý trong BCTC giữa niên độ của các CTNY
trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT tùy ý trong BCTC

giữa niên độ của các CTNY trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện mức độ CBTT tùy ý trên BCTC

giữa niên độ của các CTNY trên thị trường chứng khoán Việt Nam
3. Đối tượng và phạm vỉ nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là mức độ CBTT tùy ý trên BCTC
giữa niên độ bởi các CTNY trên thị trường chứng khoán Việt Nam và các
nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT này.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn trong phạm vi là các BCTC
quý 2 và BCTC bán niên đã soát xét năm 2016 của 100 CTNY (được lựa chọn
theo phương pháp chọn ngẫu nhiên hệ thống) trên Sở giao dịch chứng khoán
Hà Nội và Sở giao dịch chứng khốn Thành phơ Hồ Chí Minh.

4. Phương pháp nghiên cứu
~ Xác định mức độ CBTT tùy ý thông qua việc vận dụng phương pháp
phân tích nội dung. Cụ thể, trên cơ sở thang đo mức độ CBTT tùy ý đã được
xây dựng trên cơ sở các quy định về CBTT có liên quan, luận văn đã đo lường.
mức độ CBTT tùy ý trên BCTC bán niên và quý 2 năm 2016 của các CTNY
được khảo sát
~ Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT tủy ý trên BCTC
bán niên của các CTNY thông qua việc kiểm định mơ hình hổi quy. Cụ thẻ,

trên cơ sở mơ hình hồi quy đã được xây dựng, luận văn đã thực hiện phân tích

hồi quy bằng mơ hình hồi quy (kết hợp tất cả các quan sát — Pooled Ordinary
List Squares) để đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tó có liên quan đến
các giả thuyết đã được xây dựng,


5. Bố cục đề tài
Ngoài phần danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục, bố cục của luận

văn gồm 04 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu về công bố thông tin

tùy ý trên báo cáo tải chính giữa niên độ
Chương 2: Thiết kế nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu

Chương 4: Hàm ý chính sách và kết luận
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay có nhiều nghiên cứu về các nhân
tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT trên BCTC năm cả bắt buộc lẫn tự nguyện.

Tuy nhiên, các nghiên cứu được thực hiện trên BCTC bán niên lại không
đáng kể. Hơn nữa, đa phần các nghiên cứu đều chỉ mới tập trung vào mức độ

CBTT bắt buộc hoặc tự nguyện, trong khi đó nghiên cứu tập trung đánh giá,
kiểm chứng các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT tùy ý trên BCTC bán

niên còn khan hiểm.
Nguyễn Hữu Cường [27] đã tóm lược rằng nghiên cứu sớm nhất về

CBTT trên BCTC quý được thực hiện bởi MeEwen và Schwartz (1992) với

76 CTNY trên Sở Giao dịch chứng khốn New York và cho rằng các cơng ty
khơng công bố tắt cả các thông tin phù hợp với chuẩn mực kế toán số 28 về

BCTC giữa niên độ. Nghiên cứu của họ cũng lập luận rằng việc thực thi các
yêu cầu sẽ nâng cao tính hữu ích của BCTC giữa niên độ, nên đã đề xuất việc

soát xét thường xuyên cho BCTC giữa niên độ. Tuy nhiên, các đánh giá này
mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu việc CBTT bắt buộc ở các BCTC quý
bằng phương pháp thống kê mô tả chứ chưa thực hiện việc kiểm chứng sự ảnh
hưởng của các nhân tố đến mức độ CBTT bắt buộc cũng như tùy ý trên BCTC:

giữa niên độ.

Bên cạnh đó, Nguyễn Thị Thủy Hưởng [12] đã tóm lược các nghiên cứu


4
về các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT tự nguyện trên BCTC bán niên
ở New Zealand trong đó đưa ra kết luận rằng các nhân tố như vốn bên ngoài,

các khoản chỉ trả cổ tức giữa niên độ và các khoản thu nhập khơng mong đợi
có ảnh hưởng tích cực đến mức độ CBTT tự nguyện, trong khi đó sự biến

động của mùa vụ ảnh hưởng tiêu cực đến mức độ CBTT tự nguyện
(Bradbury, 1991)
Khác với nghiên cứu trên sử dụng hồi quy logistic để kiểm định sự ảnh
hưởng của các nhân tố đến mức độ CBTT tự nguyện giữa niên độ, nghiên cứu

của Schadewitz va Blevins [29] đã kiểm tra các yếu tố quyết định về việc


CBTT bắt buộc và tự nguyện trên BCTC giữa niên độ của các CTNY khơng
thuộc lĩnh vực tài chính ở Phần Lan trong giai đoạn từ năm 1985 đến năm

1993 bằng cách sử dụng phương pháp hồi quy bình phương bé nhất (OLS) và
mức độ CBTT được đo bằng hệ thống chỉ mục do chính các nhà nghiên cứu

tự xây dựng nên. Nghiên cứu của họ đã chỉ ra rằng rủi ro kinh doanh (đo
lường bằng độ lệch tiêu chuẩn về sự thay đổi tỷ lệ phần trăm trong doanh thu
thuần hoặc độ lệch chuẩn của thay đổi tỷ lệ có định đến tông tài sản) và quy.
mô doanh nghiệp (đo lường bằng số lượng nhân viên) có ảnh hưởng đáng kẻ,
cụ thể là có mối quan hệ thuận chiều với mức CBTT của các CTNY; ngược
lại, tiềm năng tăng trưởng lại có mối quan hệ ngược chiều với mức CBTT.

Ngồi ra, trong lĩnh vực CBTT cũng cịn có một số nghiên cứu khác
khảo sát sự ảnh hưởng của nhân tố đến mức độ CBTT bắt buộc và tự nguyện

trên BCTC năm của các CTNY ở Vương quốc Anh [23] cũng sử dụng hồi
quy OLS. Kết quả đã chỉ ra rằng quyền sở hữu cổ phần của ủy ban kiểm tốn

có quan hệ cùng chiều với mức độ CBTT của BCTC giữa niên độ; nhưng
chun mơn về kiểm tốn tài chính của nhóm kiểm tốn có quan hệ nghịch
chỉ
ịn quy mơ của ủy ban kiểm tốn lại khơng có sự liên quan đáng kể
nào. Ngồi ra, quy mơ doanh nghiệp (đo lường bằng tổng tài sản), sự tham gia
của kiểm toán viên có mối liên hệ tích cực đáng kể với mức độ CBTT trên


5

BCTC giữa niên độ. Như vậy, hạn chế là nghiên cứu trên là chỉ dừng lại ở

việc nghiên cứu sự ảnh hưởng của một số

rất ít các nhân tố (đặc biệt là chú

trọng đến các nhân tô thuộc về đặc trưng của ủy ban kiểm toán) đến mức độ.

CBTT trên BCTC giữa niên độ
Ở các nước dang phát triển như Malaysia, An Độ, đã có những nghiên
cứu để kiểm tra các mức độ CBTT trên BCTC giữa niên độ và các nhân tố

ảnh hưởng đến nó. Tuy nhiên, các nghiên cứu này hầu như chỉ sử dụng
phương pháp thống kê mơ tả, và chưa đưa ra kết luận gì về các nhân tố ảnh

hưởng đến mức độ CBTT trên BCTC giữa niên độ [28]
Mặt khác, điểm đáng chú ý là các nghiên cứu này đã đánh giá về mức

độ CBTT trên BCTC quý, đây là một điểm khác biệt so với các nghiên cứu ở
các nước phát triển hầu như chỉ tập trung vào BCTC bán niên.

Các nghiên cứu ở Việt Nam
Là một trong những cơng trình nghiên cứu đầu tiên về BCTC giữa niên
độ của nhiều quốc gia, Nguyễn Hữu Cường [27] đã nghiên cứu về mức độ

CBTT bắt buộc, tùy ý và tự nguyện trên 700 BCTC giữa niên độ của 7 nước
thuộc châu Á — Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam. Ơng đã thiết lập
thang đo các mức độ CBTT, khảo sát các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ

CBTT

dựa trên lý thuyết về tính kinh tế của thông tin (Information


Economics Theory) va đưa ra kết luận: mức độ CBTT trên BCTC giữa niên
độ ở các quốc gia là khác nhau, và mức độ CBTT là cao hơn ở những quốc
gia có hoặc áp dụng luật phù hợp với chudn mực kế toán/chuân mực báo cáo

tài chính quốc tế, và cao hơn ở các BCTC được sốt xét.
Mặt khác, ở bài báo có liên quan Nguyễn Hữu Cường [6] đã dựa vào các
nghiên cứu ở các chỉ tiêu về mức độ CBTT bắt buộc và tùy ý ở 7 nước đã chỉ
ra rằng mức độ CBTT ở các CTNY ở Việt Nam là kém nhất,

đặc biệt là đối

với BCTC q 2. Từ đó, ơng đưa ra một số kiến nghị và giải pháp đối với

doanh nghiệp cũng như cơ quan ban hành chính sách.


6

Ngoài ra, trong lĩnh vực nghiên cứu về CBTT cũng có một số nghiên
cứu có liên quan khác đã đánh giá được mức độ và các nhân tô ảnh hưởng đến

mức độ CBTT của các CTNY tại Việt Nam, nhưng là đối với các BCTC.
Phần lớn các nghiên cứu đó đều sử dụng phương pháp OLS và dựa trên các
khung lý thuyết như lý thuyết đại diện, hay lý thuyết tín hiệu, v.v. để kiểm
định sự tác động của các nhân tố đến mức độ CBTT bắt buộc trên BCTC năm.

Trong đó có các nhân tố như nhân tố khả năng thanh toán [12] hay kha ning
sinh lời và tài sản cố định [11]
'Về khía cạnh nghiên cứu về CBTT tự nguyện, có thể kể đến nghiên cứu


của Nguyễn Thị Thu Hào [10], đã nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến

mức độ CBTT tự nguyện của các CTNY ở Sở Giao dịch chứng khốn thành
phó Hồ Chí Minh. Bà đã sử dụng lý thuyết đại diện, lý thuyết tín hiệu để nhận

diện các nhân tố ảnh hưởng thơng qua phương pháp OLS, kết quả là lợi nhuận,

quy mô và loại hình sở hữu có ảnh hưởng tích cực đến mức độ CBTT tự
nguyện.
Nhìn chung, các nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT
ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào CBTT trên BCTC năm, hiếm có nghiên cứu
về CBTT trên BCTC giữa niên độ, và càng hiếm hơn đối loại nghiên cứu về

CBTT tùy ý. Hơn nữa, trong điều kiện áp dụng Thông tư 155/2015/TT-BTC
[5] về CBTT trên sàn giao dịch chứng khoán, thay thế Thơng tư 52/2012/TTBTC [2] trước đó, việc CBTT của các CTNY ít nhiều có thay đổi. Tuy nhiên,
đến nay chưa có nghiên cứu nào về CBTT tùy ý được tiến hành trong điều kiện

áp dụng Thông tư 155/2015/TT-BTC [5] này. Đây là một khoảng trống nghiên

cứu về mức độ CBTT của các CTNY ở Việt nam.


7
CHUONG

1

CO SO LY LUAN VA TONG QUAN NGHIEN CUU VE


CONG BO THONG TIN TUY Y TREN BAO CAO TAI
CHÍNH GIỮA NIÊN ĐỘ
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÈ CONG BO THONG TIN TREN BAO CA
TÀI CHÍNH GIỮA NIÊN ĐỘ

1.1.1. Nội dung báo cáo tài chính giữa niên độ
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam s6 27 [1] thi BCTC giữa niên độ là

BCTC gồm các báo cáo đầy đủ theo quy định trong chuẩn mực kế tốn Việt

Nam 21 “Trình bày báo cáo tài chính (BCTC)” hoặc các BCTC tóm lược quy
định trong chuẩn mực này cho một kỳ kế toán giữa niên độ. Như vậy, hệ

thống BCTC giữa niên độ bao gồm:
+ Bảng cân đối kế toán (đầy đủ hoặc tóm lược),

+ Bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (đầy đủ hoặc tóm lược),
+ Báo cáo lưu chuyên tiền tệ (đầy đủ hoặc tóm lược), và
+ Bản Thuyết minh BCTC chọn lọc.

Trong đó, kỳ kế tốn giữa niên độ là kỳ lập BCTC tháng hoặc quý theo
quy định của pháp luật. Hiện nay, kỳ báo cáo giữa niên độ ngắn nhất được
được quy định bắt buộc đối với các CTNY ở Việt Nam là quý [1]
CBTT trên BCTC giữa niên độ ở các nước đã áp dụng chuẩn mực kế
toán quốc tế chủ yếu chịu sự điều chỉnh của IAS 34, cịn ở Việt Nam thì việc
này chịu sự điều tiết của chuẩn mực kế toán Việt Nam 27 và đối với các

CTNY thì trực tiếp là Thơng tư 155/2015/TT-BTC [5] về hướng dẫn CBTT
trên thị trường chứng khốn.
Cũng theo Thơng tư này thì các CTNY phải lập và CBTT về BCTC bán

niên (06 tháng đầu năm tài chính) và BCTC q, trong đó BCTC bán niên
phải được soát xét bởi tổ chức kiểm toán được chấp thuận.


1.1.2. Vai trị của báo cáo tài chính giữa niên độ
Thông tin trên BCTC là hệ thống các dữ kiện liên quan đến hoạt động

của các CTNY tham gia trên thị trường chứng khốn. Nguyễn Hữu Cường
[27] đã tóm lược rằng trong những nghiên cứu thời kì đầu trước khi BCTC
giữa niên độ được quy định bắt buộc phải công bố, các nhà nghiên cứu đã chỉ
ra rằng những nhà đầu tư mong muốn biết được nhiều thông tin hơn trên thị
trường chứng khoán (Sanders, 1934). Do vậy họ cần nhiều BCTC thường

xuyên hơn, nên BCTC giữa niên độ đóng vai trị rất quan trọng.
Nguyễn Hữu Cường [27] cũng tóm lược rằng theo thời gian, BCTC giữa
niên độ trở nên phô biến hơn, và trong những nghiên cứu ở châu Âu (Opong,

1995) đã chứng minh rằng CBTT trên BCTC giữa niên độ đã cải thiện tình
trạng thơng tin bất cân xứng, tác động tích cực đến giá cỗ phiếu và các giao.

dịch trên thị trường chứng khốn. Nhờ vậy, tính thanh khoản của chứng
khoán trên thị trường được cải thiện, đồng thời sự giao dịch mua — bán chứng.
khoán cũng được tăng lên.
Đầy đủ hơn, trong một nghiên cứu gan day, Claudia & Lucia [17] da chi
ra rằng BCTC giữa niên độ cung cấp thơng tin kế tốn kịp thời cho người sử
dụng dé xây dựng các kế hoạch hoạt động và ra các quyết định đầu tư. Đồng.
thời, loại BCTC này cũng cung cấp những thông tin ý nghĩa về định hướng,
phát triển của doanh nghiệp và những thông tin mang tính mùa vụ của một số
hoạt động có thể ảnh hưởng đến năm tài chính của doanh nghiệp. Những


thơng tin này cịn hữu ích trong việc giúp người đọc đánh giá những thay đổi
về quy mô và cấu trúc của doanh nghiệp trong ngắn hạn.

Bên cạnh đó, nghiên cứu của Claudia & Lucia [17] cũng cho rằng BCTC
giữa niên độ có thê cung cấp tình hình cân bằng tài chính của doanh nghiệp,
dựa vào đó người đọc có thể dự đốn được nhu cầu tài chính của doanh

nghiệp trong tương lai và có thể nắm bắt nhu cầu vay mượn của doanh nghiệp.
để lấy các lợi ích về tài chính.


9

Nghiên cứu của họ cũng cho rằng, nhìn từ góc độ khác, thơng tin kế tốn

~ tai chính kịp thời và chất lượng trên BCTC giữa niên độ còn giúp đóng
vào sự quản lý hiệu quả của doanh nghiệp và tăng giá trị thị trường của nó.
Ngồi ra, nghiên cứu của họ cũng chỉ ra rằng BCTC giữa niên độ
giúp tăng hiệu quả hoạt động của thị trường chứng khoán thơng qua việc
kiệm chỉ phí và tăng cường tính minh bạch thơng tin va giao tiếp với bên

góp
cịn
tiết
thứ

ba. Như vậy, nó giúp cho nhà đầu tư, cơ quan quan lý nhà nước có thẩm
quyền, các chun gia tài chính có thể nhận biết được xu hướng phát triển của
thị trường từ đó chống lại được những ảnh hưởng tiêu cực (nếu có) từ hoạt


động của doanh nghiệp, hạn chế những tổn thất khơng đáng có và đưa ra
những định hướng phát triển.

BCTC giữa niên độ đóng vai trị rất quan trọng trên thị trường chứng
khoán như vậy, nhưng chất lượng của nó đến nay vẫn cịn là vấn đề [25]. Các
nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng chất lượng của BCTC giữa niên độ có thể được
cải thiện nhờ vào các quy định về chuẩn mực kế toán, sự bắt buộc phải soát

xét và đo lường các chỉ tiêu được cơng bó.

1.1.3. Đo lường mức độ cơng bố thơng tin trên báo cáo tài chính giữa
niên độ
CBTT được hiểu là phương thức đẻ thực hiện quy trình minh bạch của

doanh nghiệp nhằm đảm bảo các cổ đông và công chúng đầu tư có thể tiếp
cận thơng tin một cách cơng bằng và đồng thời [14]

Nội dung và hình thức thơng tin được công bố tùy thuộc vào những luật
pháp, quy định về kế toán của từng quốc gia. Đa số các nghiên cứu trên thế

giới khi xem xét đến mức độ CBTT trên BCTC đều phân loại CBTT thành tự
nguyện và bắt buộc (chẳng hạn như: [19], [21], [27]). Theo đó, sự khác nhau
giữa hai loại CBTT này có thê được tóm tắt như sau.

Về CBTT tự nguyện: Thơng tin được công bố tự nguyện là các thông tin

mà CTNY khơng bắt buộc phải cơng bố. Hay nói cách khách, các CTNY tự


10


nguyện cơng bó thêm những thơng tin này để nhà đầu tư có thể

hiểu rõ hơn về

tình hình hoạt động của đơn vị mình. Việc CBTT tự nguyện nhằm đáp ứng tốt

hơn và đầy đủ hơn nhu cầu của người sử dụng. Thông tin tự nguyện công bố
bé sung những thiếu hụt của thông tin bắt buộc nhằm thỏa mãn nhu cầu người

sử dụng. Mức độ công bố những thông tin này tùy thuộc vào sự lựa chọn của
doanh nghiệp.
Để đánh giá mức độ CBTT tự nguyện, trong số các nghiên cứu hiện có

về lĩnh vực này, Nguyễn Trọng Nguyên [13] đã tóm lược rằng các nghiên cứu.

đã do lường mức độ công bố những thông tin thuộc loại này thông qua danh
mục thông tin tự nguyện công bố từ những nghiên cứu trước đó hoặc của các
hội nghề nghiệp, dựa trên việc cho điểm từng khoản mục. Khi khảo sát BCTC:
của các đơn vị, điểm 1 sẽ được gán cho những khoản mục có cơng bố và điểm

0 sẽ được gán cho những khoản mục không công bố. Trong đó, danh mục
thơng tin tự nguyện cơng bố có sự khác nhau ở các nghiên cứu khác nhau.
Chẳng hạn như, danh mục này gồm 71 yếu tố ở nghiên cứu của Jouini Fathi

(2013), hay gồm 72 tiêu chí ở nghiên cứu của Eugene và Stephen (2006) (theo
[27]) Ở Việt Nam, Nguyễn Thị Thu Hào [10] khi nghiên cứu về mức độ
CBTT tự nguyện trên các BCTC năm ở Sở giao dịch chứng khốn thành phố
Hồ Chí Minh đã thiết lập danh mục thông tin công bố tự nguyện dựa trên các
nghiên cứu trên thế giới và Thông tư 52 [2] hướng dẫn về CBTT trên thị

trường chứng khoán ở Việt Nam. Tiếp đến, bà tiến hành khảo sát lấy ý kiến
của những người làm trong lĩnh vực kế toán — kiểm tốn, tài chính, ngân hàng,
về tầm quan trọng của các mục CBTT tự nguyện. Sau khi loại trừ các mục có

điểm thấp hơn điểm trung bình, nghiên cứu này đã đưa ra được danh mục
thông tin tự nguyện công bố bao gồm 34 chỉ mục.
Vẻ CBTT bắt buộc: Thông tin phải công bồ bắt buộc là các thông tin mà

các văn bản pháp luật có liên quan quy định các CTNY phải công bố theo
quy. Thông tin bắt buộc phải công bố trên các BCTC được quy định tùy thuộc


11

vào từng quốc gia và vùng lãnh thổ thông qua các hội nghề nghiệp (vi du
Hiệp hội kế toán ở các nước) hoặc các cơ quan nhà nước có thâm quyền (ví

dụ như Bộ Tài chính ở nước ta). Thơng thường, các văn bản pháp luật có quy
định và điều tiết việc CBTT bắt buộc gồm: Luật kinh doanh, Luật kế tốn,
Quy định Ủy ban chứng khốn, v.v...

Thơng tin bắt buộc có thể được cơng bố

định kỳ và thường xun.
Để đo lường mức độ CBTT bắt buộc, các nhà nghiên cứu thường tiếp
cận theo một trong hai cách phổ biến, đó là đo lường có đánh giá trọng số của
từng mục thông tin và không trọng số (tức là tất cả các mục thơng tin được

đánh giá có mức độ quan trọng hay tính hữu ích là như nhau). Đối với phương.
pháp tiếp cận trọng số, tầm quan trọng của các khoản mục thường được đánh


giá bởi người sử dụng hoặc nhà nghiên cứu. Các khoản mục có thể được cho.
điểm tùy theo mức độ quan trọng của nó, thang điểm này đa dạng trong nhiều
nghiên cứu khác nhau. Nguyễn Hữu Cường [27] đã tóm lược rằng đó có thể là
thang điểm I; 2 (Botosan, 1997) hoặc hệ thống chín điểm, bắt đầu từ 0

(Gallery và cộng sự, 2008). Tuy nhiên, phương pháp này bị đánh giá là khơng.
chính xác vì việc đánh giá tầm quan trọng của khoản mục phụ thuộc vào nhận
xét chủ quan của người nghiên cứu.
Ông cũng tóm lược rằng phương pháp tiếp cận khơng trọng số khơng
phát sinh hạn chế của phương pháp có trọng số nêu trên. Theo đó, đối với mỗi
khoản mục bắt buộc phải CBTT trên BCTC, các nhà nghiên cứu sẽ gán điểm
1 đối với các khoản mục có cơng bồ trên BCTC được khảo sát, và gán điểm 0
đối với các khoản mục không được công bố (Cooke, 1985, Meek và cộng sự,

1995)
Ngoài hai loại CBTT thường được để cập và nghiên cứu, trong lĩnh việc
nghiên cứu vừ CBTT, còn có loại CBTT tùy ý. CBTT tùy ý là một trường hợp
đặc biệt của CBTT bắt buộc. CBTT tùy ý phát sinh khi những thông tin bắt

buộc phải công bố theo quy định của pháp luật nhưng chưa được các văn bản


12

pháp luật quy định chỉ tiết về chừng mực (chiều sâu) của thơng tin được cơng,
bố nên doanh nghiệp có thể tùy ý điều chỉnh mức độ CBTT nhiều hay ít. Để
đo lường mức độ CBTT tùy ý, phương pháp tiếp cận không trọng số thường,
được áp dụng trên nhiều nghiên cứu để đánh giá độ sâu của thông tin trên


BCTC. Theo đó, trước hết từng mục thơng tin được đánh giá là có được cơng.
bố hay khơng và sau đó bản thân từng mục thơng tin được đánh giá ở bước
tiếp theo là đã được đơn vị công bố chỉ tiết đến mức độ nào; tương ứng với

từng mức độ chỉ tiết là các trọng số khác nhau. Như vậy, phương pháp đo
lường này khác với phương pháp đo lường có trọng số đã nêu trên ở điểm là

trọng số được so sánh bởi bản thân trong từng mục tin chứ không phải giữa
các mục tin với nhau. Chẳng hạn, trong nghiên cứu của Botosan (1997) hay
nghiên cứu của Inchausti (1997) (theo [27]), các điểm số từ 0 đến 3 được gán

cho các mức độ CBTT của từng mục thơng tin. Ngồi ra, các nhà nghiên cứu
cịn có thể thêm vào việc gán cho một mục thông tin gid trị “khơng thích hợp”
để loại trừ những mục thơng tin này khi xác định chỉ số CBTT mục thông tin

này hiển nhiên không phát sinh doanh nghiệp được khảo sát và do vậy không.
phải công bố trên BCTC tương ứng [27]
1.2. LY THUYET KHUNG VE CONG BO THONG TIN TUY Ý

Trên thực tế, mức độ CBTT tùy ý của các doanh nghiệp là khác nhau do
nhiều yếu tố. Đó có thể là do mục đích của nhà quản lý, yêu cầu cung cấp
thông tin của người sử dụng hoặc do sự cân đối về mat chi phi — lợi ích khi
CBTT, v.v. Sự ảnh hưởng của các nhân tố đến mức độ CBTT nói chung và

thơng tin tùy ý nói riêng có thể được lý giải theo nhiều lý thuyết khác nhau
trong các nghiên cứu trước đây thuộc lĩnh vực CBTT, gồm lý thuyết thơng tin
hữu ích, lý thuyết tín hiệu, lý thuyết đại diện, lý thuyết thông tin bất cân xứng,
và lý thuyết tính kinh tế của thơng tin.



13

1.2.1. Lý thuyết thông tin hữu ich
Lý thuyết thông tin hữu ích ra đời vào năm 1960; đây là lý thuyết kế toán
chuẩn tắc được sử dụng như một lý thuyết nền tảng để xây dựng khuôn mẫu.
lý thuyết kế toán hiện nay của chuẩn mực BCTC quốc tế và chuẩn mực kế
toán nhiều quốc gia [13]. Lý thuyết này nhấn mạnh nhiệm vụ cơ bản của
BCTC là cung cấp thơng tin hữu ích và thích hợp cho các đối tượng sử dụng.
trong việc ra quyết định kinh tế. Giả thiết cho việc chấp nhận cách tiếp cận ra

quyết định trên cơ sở thơng tin hữu ích của kế tốn là về mặt lý thuyết, các
BCTC được lập để phục vụ tốt hơn cho nhu cầu của người dùng. Lý thuyết
thơng tin hữu ích cũng đề cập đến khái niệm cân bằng lợi ích — chỉ phí, là một

khía cạnh quan trọng cần quan tâm khi thiết lập các chuẩn mực [13]
Theo lý thuyết thơng tin hữu ích, việc cung cấp thông tin qua các BCTC
được xem như là quá trình cung cấp thơng tin thích hợp cho các đối tượng sử

dụng. Vì vậy, tính hữu ích của thơng tin được đánh giá qua khả năng đáp ứng
cho các đối tượng sử dụng trong quá trình ra quyết định. Áp dụng lý thuyết

thơng tin hữu ích có vai trị quan trọng trong việc đánh giá chất lượng thông,
tin BCTC mà các CTNY cơng bó. Đối với các CTNY, nhà quản lý là người
cung cấp thơng tin, cịn người sử dụng thông tin trên các BCTC phần lớn là
các nhà đầu tư. Vì vậy, nhà quản lý của CTNY cần phải cung cấp thơng tin
hữu ích cho các nhà đầu tư. Do đó, ngồi những thơng tin bắt buộc, nhà quản
lý cịn cân nhắc cung cấp cả những thơng tin tùy ý ở những mức độ khác nhau.
để thông tin thật sự hữu ích đối với người sử dụng,

Khi vận dụng lý thuyết này, các nhà nghiên cứu đã kiểm chứng sự ảnh

hưởng của các nhân tố như chủ thể kiểm toán, tỉ lệ thành viên độc lập của

HĐQT (chẳng hạn nhự, [13], [11], v.v)
1.2.2. Lý thuyết tín hiệu
Tiếp tục phát triển lý thuyết của Akerlof [16], Spence [32] đã nghiên cứu

trên thị trường lao động. Spence [32] xem việc thuê lao động là một quyết


14
định đầu tư khơng chắc chắn. Tính khơng chắc chắn ở đây là việc thuê lao.

động mà người chủ không biết được khả năng đóng góp, khả năng tạo ra năng.
suất của người lao động là bao nhiêu. Vì thế, việc thuê lao động có thể thuê

được lao động có chất lượng hoặc không. Một trong những phương cách giúp
người chủ thuê được lao động có năng lực đó là ông chủ có thể xem qua chất
lượng bằng cấp, kinh nghiệm làm việc, v.v. của người lao động hoặc có thời

gian thử việc. Đó được gọi là những tín hiệu được phát ra của người lao động.
Như vậy, việc phát tín hiệu này đã làm giảm thơng tin bất cân xứng giữa
những người lao động và ông chủ.
Đối với các CTNY, các nhà quản lý CBTT ra thị trường một cách tự
nguyện và đưa các tín hiệu đến nhà đầu tư. Do vậy, CBTT là một trong những.
công cụ mà các công ty dùng để tạo ra sự khác biệt về chất lượng hoạt động,

của đơn vị mình so với đơn vị khác. CBTT được xem là tín hiệu của riêng
công ty phát ra cho nhà đầu tư; chẳng hạn như tín hiệu (thơng qua CBTT)
nhằm thu hút đầu tư như sự tăng trưởng về quy mô, lợi nhuận và khả năng.
thanh tốn nhanh, hoặc là tín hiệu về nhu cầu vay vốn như tính tự chủ về tài


chính, v.v.
Vì vậy, khi vận dụng lý thuyết này, các nhà nghiên cứu đã kiểm chứng
sự ảnh hưởng của các nhân tố như quy mô, lợi nhuận hay sự tăng trưởng đến

mức độ CBTT trên BCTC (chẳng hạn nhự, [13], v.v)
1.2.3. Lý thuyết đại diện

Nghiên cứu của Jensen và Meckling [20] đã xác định mối quan hệ đại
diện như là một hợp đồng mà theo đó giữa một hay nhiều cá nhân (bên ủy
nhiệm) cam kết với cá nhân khác (bên đại diện) đề thay mặt họ thực hiện một

số công việc nào đó bao gồm cả việc ủy quyền ra quyết định kinh tế cho bên

đại diện. Đối với các CTNY thì bên ủy nhiệm hay người chủ sở hữu là các cỗ
đơng cịn bên đại diện chính là các nhà quản lý — họ được “thuê” để thực hiện
việc kiểm soát và ra các quyết định nhằm mang lại lợi ích cao nhất cho cỗ


15

đông.
Khi người chủ sở hữu thuê bên đại diện quản lý cơng ty, có thể xuất hiện
xung đột lợi ích giữa cổ đông và nhà quản lý. Cổ đông mong muốn tối đa hóa
lợi ích, muốn kiểm sốt nhưng lại khơng trực tiếp điều hành kinh doanh.

Trong khi đó, nhà quản lý có thể đưa ra các quyết định nhằm mang lại lợi ích

cho chính bản thân họ và có xu hướng quên đi lợi ich của cổ đông khi họ có
thể đạt được mức lợi nhuận nào đó. Khi lợi ích của cỗ đơng và nhà quản lý


bắt đồng, lúc đó xuất hiện khả năng về mối bất hịa những ngudi quan ly [18].

Xung đột lợi ích này bộc lộ rõ nhất ở các công ty lớn [24]
Điều này đã được chứng minh trong nghiên cứu của Tuggle và các cộng
sự [33], nhà quản lý thường có kiến thức chun mơn hơn những người chủ vì
họ thực hiện những hoạt động kinh doanh hằng ngày. Khi có kiến thức cao họ.

càng nhanh chóng có hành vi lợi dụng chủ sở hữu một khi hoạt động giám sát
không hiệu quả [24]. Vì vậy, cần phải phải thiết lập hệ thống giám sát thích
hợp để bảo vệ chủ sở hữu trong vấn đề xung đột lợi ích với nhà quản lý và
đảm bảo rằng nhà quản lý cung cấp BCTC có chất lượng cao, mức độ CBTT

trên BCTC sâu rộng hơn
Van dụng lý thuyết đại diện, các nhà nghiên cứu thường kiểm chứng ảnh
hưởng của các nhân tố đến mức độ CBTT gồm mức độ độc lập của hội đồng

quản trị HĐQT với ban giám đốc (BGĐ), tỉ lệ sở hữu cỗ phiếu của nhà quản
lý, tỉ lệ vốn nhà nước trên vốn điều lệ (chẳng hạn như, [13], [10], v.v).
1.2.4. Lý thuyết thơng tin bất cân xứng
Có nhiều nghiên cứu liên quan đến lý thuyết thông tin bất cân xứng.
Akerlof [16] là người đầu tiên giới thiệu về lý thuyết thông tin bất cân xứng.

vào những năm 1970. Thông tin bắt cân xứng xảy ra khi một bên giao dịch có
ít thơng tin hơn bên đối tác hoặc có thơng tin nhưng thơng tin khơng chính
xác. Điều này khiến cho bên có ít thơng tin hơn có những quyết định khơng.
chính xác khi thực hiện giao dịch đồng thời bên có nhiều thơng tin hơn cũng.



×