Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VÀ VIỆC PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.04 KB, 40 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING
VIỆN ĐÀO TO SAU I HC
ÔÔÔ

TIU LUN TRIT HC
ti:

VN CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC
MÁC – LÊNIN VÀ VIỆC PHÁT HUY NHÂN TỐ
CON NGƯỜI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

GVHD: TS. LẠI VĂN NAM
HVTH: NGƠ NGỌC TRÌNH
MSHV: 5221906T067
LỚP: 5221906T03

TP. Hồ Chí Minh, tháng 05 năm 2023


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu...................................................................................................1
3. Nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................2
5. Kết cấu tiểu luận..........................................................................................................3
CHƯƠNG I:.......................................................................................................................4
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN....4
1.1. Vấn đề con người trong triết học..............................................................................4
1.2. Một số quan điểm triết học phi mácxít về con người................................................4


1.2.1. Quan điểm về con người trong triết học phương Đông......................................4
1.2.2. Quan điểm về con người trong triết học phương Tây.........................................8
1.3. Quan điểm Triết học Mác - Lênin về con người.....................................................16
1.3.1. Nguồn gốc con người.......................................................................................16
1.3.2. Về bản chất con người......................................................................................17
1.3.3. Về quyền con người.........................................................................................19
1.3.4. Về giải phóng con người..................................................................................21
CHƯƠNG 2:.....................................................................................................................24
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG MÁC – LÊNIN TRONG PHÁT HUY NHÂN TỐ CON
NGƯỜI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY...................................................................................24
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về con người và phát huy nhân
tố con người trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước..........24
2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về con người.....................24
2.1.2 Giải pháp phát huy vai trò nhân tố con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước.................................................................................................28
2.2. Quan điểm của Đảng ta về phát huy vai trò nhân tố con người trong lực lượng vũ
trang............................................................................................................................... 29
2.2.1. Quan điểm của Đảng ta về con người trong lực lượng vũ trang.......................29
2.2.2. Giải pháp phát huy vai trò nhân tố con người trong lực lượng vũ trang...........31
KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ.............................................................................................34


1. Kết luận.....................................................................................................................34
2. Kiến nghị................................................................................................................... 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................37


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Chúng ta đang sống trong một thời đại kinh tế tri thức đòi hỏi mỗi con người phải
được đào tạo về học vấn và năng lực; trau dồi phẩm chất đạo đức, ý thức làm việc tốt hơn
để có thể đáp ứng yêu cầu thay đổi nhanh chóng của khoa học và cơng nghệ hiện nay.
Trong công cuộc đổi mới đất nước với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”. Nguồn nhân lực hiện nay coi là nhân tố quan trọng hàng đầu
quyết định sự phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững duy trì nền kinh tế của chúng ta.
Đó là yếu tố rất cấp thiết và cần được cập nhật đáp ứng yêu cầu về nhân lực ở nước
ta nói riêng và quốc tế nói chung. Chúng tôi khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực phát triển kinh tế - xã hội đồng thời phải là những con người có tri thức và đạo
đức tốt. Từ đây, mỗi người dần trở về đúng vị trí là người tạo ra giá trị, bao gồm cả giá trị
tinh thần và vật chất, cho bản thân và cho xã hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người, đặc biệt là vấn đề con người
trong sự nghiệp cơng nghiệp. Vì sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ta hiện
nay, em đã chọn đề tài tiểu luận của mình là: “Vấn đề con người trong triết học Mác –
Lênin và phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay” để phần nào đó hiểu rõ hơn về
triết lý và định hướng phát triển của xã hội chủ nghĩa, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp
để phát triển nhân tố con người, nâng cao đời sống người dân và xây dựng một đất nước
giàu mạnh, công bằng và dân chủ.

2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài về “Vấn đề con người trong triết học Mác – Lênin và phát
huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay” nhằm đạt những mục đích sau:
- Củng cố những kiến thức triết học đã học và nâng cao sự hiểu biết của bản thân về
môn Triết sau đại học.
- Rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học dựa trên việc tìm kiếm và tham khảo
nhiều nguồn tài liệu khác nhau.


2


- Tìm hiểu khái quát những quan điểm về vấn đề con người được đề cập trong triết
học Mác - Lênin.
- Đề xuất các giải pháp cải thiện nhân tố con người ở Việt Nam, bao gồm đầu tư
vào giáo dục và đào tạo, cải cách chính sách y tế và phúc lợi xã hội, đẩy mạnh phát triển
văn hóa, thể dục thể thao, giảm nghèo và bảo vệ môi trường.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để có thể đạt được những mục đích nghiên cứu của đề tài này, cần thực hiện những
nhiệm vụ cơ bản sau:
- Tham khảo và chọn lọc tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau.
- Nghiên cứu lý luận về vấn đề con người trong các học thuyết triết học và tư tưởng
Mác – Lê Nin.
- Vận dụng lý luận về con người trong triết học Mác – Lênin để xây dựng mục đích
phát triển con người Việt Nam hiện nay.

4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài tiểu luận triết học này tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
• Phương pháp thu thập và tổng hợp tài liệu: Đây là phương pháp được sử dụng nhiều
nhất khi thực hiện đề tài này bằng cách tham khảo nhiều nguồn như sách, báo, bài viết có
liên quan trên tạp chí và trên internet.
• Phương pháp luận vấn đề: Đây là phương pháp cực kỳ quan trọng trong nghiên cứu triết
học và cả với các lĩnh vực khoa học khác. Với đề tài này, từ việc nghiên cứu những quan
điểm chung nhất của triết học Mác - Lênin về vấn đề con người. Cùng với việc xem xét
các quan điểm chỉ đạo của Đảng ta, có thể phân tích vai trị, vị trí của con người Việt Nam
hiện nay.
• Phương pháp tư duy biện chứng: Trên cơ sở hiểu rõ các quan điểm triết học Mác Lênin về vấn đề con người, vận dụng và nắm vững những nguyên tắc phương pháp luận
cơ bản của phép biện chứng duy vật để tìm hiểu vai trị của nhân tố con người đối với
nước ta hiện nay. nước, từ đó vận dụng các quan điểm triết học Mác - Lênin để đưa ra
nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam phù hợp với giai đoạn hiện nay.



3

5. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài tiểu luận “Vấn đề con người trong triết học Mác
– Lênin và phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay” được trình bày thành 02
chương, bao gồm:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về vấn đề con người trong triết học Mác - Lênin.
- Chương 2: Vận dụng tư tưởng Mác - Lênin trong phát huy nhân tố con người ở
nước ta hiện nay.


4

CHƯƠNG I:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT
HỌC MÁC - LÊNIN
1.1. Vấn đề con người trong triết học
Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác nhau như sinh vật học,
tâm lý học, đạo đức học, dân tộc học, y học, triết học... Nhưng giải đáp những vấn đề
chung nhất về con người là nhiệm vụ của triết học, bởi vì, đặc trưng của tư duy triết học là
sự phản tư duy của con người đối với chính bản thân mình. Do vậy, vấn đề con người và
giải phóng con người là một trong những nội dung cơ bản mà các trào lưu triết học đều
tập trung nghiên cứu. Tuy nhiên, do thế giới quan và nhân sinh quan của các nhà triết học
mà ở mỗi thời đại lịch sử, vấn đề đó được đặt ra và giải quyết trong những bối cảnh và nội
dung khác nhau. Nhưng chỉ đến triết học Mác - Lênin mới xem xét nó một cách nhất
quán, đầy đủ và sâu sắc, trên cơ sở của lập trường duy vật triệt để nhất.
1.2. Một số quan điểm triết học phi mácxít về con người
1.2.1. Quan điểm về con người trong triết học phương Đông
Quan điểm về con người ở phương Đơng được hình thành rất sớm và được thể hiện một

cách có hệ thống từ thế kỷ thứ VI Tr.CN trong các học thuyết triết học. Nội dung các
quan điểm này rất đa dạng và phong phú, nhưng những vấn đề mà người phương Đông
tập trung đề cập đến là những vấn đề thuộc về nguồn gốc, bản tính con người, đạo làm
người và mẫu hình con người lý tưởng… tiêu biểu ở phương Đông là triết học Ấn Độ và
triết học Trung Hoa cổ, trung đại.
1.2.1.1. Vấn đề con người trong triết học Ấn Độ cổ, trung đại
Các nhà triết học Ấn Độ thường tập trung lý giải những vấn đề then chốt nhất - đó là vấn
đề bản chất, ý nghĩa của cuộc sống, nguồn gốc nỗi khổ của con người và cách thức để con
người thốt khỏi bể khổ của cuộc đời. Mục đích, nhiệm vụ của các trường phái triết học
Ấn Độ cổ đại là giải thốt. Tư tưởng này ln biến đổi và phát triển cùng với đời sống xã


5

hội, từ thời kỳ Vêđa đến Brahman và phát triển trong triết lý Upanishad. Mỗi trường phái
có nội dung triết lý, khuynh hướng, giáo lý và quan điểm đạo đức nhân tính khác nhau.
Có thể nói tất cả như một hành trình của con người tìm kiếm, phát hiện và trở về với bản
chất và lương tâm của chính mình khi mà con người cịn vơ minh, tham dục vọng và lãng
qn nó.
Cách thức và con đường giải thốt của kinh Vêđa là luôn tôn thờ và cầu xin sự phù hộ của
các đấng thần linh, còn kinh Upanishad là đồng nhất giữa linh hồn con người với vũ trụ
(Atman và Brahman). Trong hệ thống khơng chính thống (tà đạo), Jaina chủ trương tu
luyện đạo đức bằng phương pháp tu luyện, khơng sát sinh, khơng ăn cắp, khơng nói dối,
khơng dâm dục, không tham lam.
Đỉnh cao của tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độ là ở Phật giáo. Phật giáo coi mọi
sự vật, hiện tượng trong thế giới, kể cả con người là do “nhân, duyên” tụ hợp mà biểu
hiện, biến đổi vơ thường. Vì vạn vật “vơ thường” nên vạn pháp “vô ngã”. Nhưng do “vô
minh” và dục vọng của con người mà gây nên những nỗi khổ triền miên. Để giải thoát
khỏi “bể khổ”, con người phải tu luyện trí tuệ, thiền định và tu luyện đạo đức theo giới
luật để phá bỏ vô minh, diệt trừ dục vọng, làm cho tâm thanh tịnh, hoà nhập vào cõi Niết

bàn (thoát khỏi kiếp luân hồi).
Tư tưởng giải thoát cho con người trong triết học Ấn Độ cổ đại thể hiện tính nhân văn sâu
sắc. Tuy nhiên, do giải thích chưa đúng về nguồn gốc nỗi khổ của con người, cho nên tư
tưởng giải thoát này mới chỉ dừng lại ở sự giải phóng con người về mặt tinh thần, tâm lý,
đạo đức (chỉ xoa dịu nỗi đau của con người), chưa phải là sự biến đổi mang tính cách
mạng. Thực chất nói khun con người sống cam chịu và được đền bù sau khi chết.
1.2.1.2. Vấn đề con người trong triết học Trung Hoa cổ, trung đại


6

Triết học Trung Hoa ra đời từ cuối thiên niên kỷ II, đầu thiên niên kỷ I trước công
nguyên, trong điều kiện chiến tranh liên miên, khốc liệt, kéo dài giữa các nước chư hầu.
Trên nền tảng hiện thực ấy, đặc trưng chủ yếu của triết học Trung Hoa cổ, trung đại đều
có xu hướng đi sâu giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị, đạo đức xã hội đặt ra, với
nội dung bao trùm là vấn đề con người và xây dựng con người.
Về nguồn gốc con người, Khổng Tử và Mặc Tử đều cho rằng, trời sinh ra con người và
vạn vật. Lão Tử khác với Khổng Tử và Mặc Tử ở chỗ ông cho rằng trước khi có trời đã có
Đạo. Theo ơng, trời, đất, người, vạn vật đều do Đạo sinh ra. Trang Tử người kế thừa
thuyết Lão Tử cho rằng ở mỗi vật đều có cái đức tự sinh, tự hố ở bên trong v.v.. Như
vậy, khi đề cập đến nguồn gốc con người, mặc dù có những cách tiếp cận khác nhau,
nhưng nhìn chung các nhà triết học Trung Quốc cũng không vượt qua khỏi vòng luân lý
của đạo và trời.
Khi xác định vị trí, vai trị của con người trong mối quan hệ với trời, đất, con người và
vạn vật, Lão Tử cho rằng bốn yếu tố đó có quan hệ tương đồng lẫn nhau. Nhưng đối với
Nho giáo, con người được đặt lên vị trí cao nhất, con người do trời sinh ra nhưng sau đó
con ngồi cùng với trời, đất là ba ngôi tiêu biểu cho vạn vật trong thế giới “thiên, địa, nhân
là tam tài”. Khi bàn tới quan hệ giữa trời với người, các nhà duy tâm cho rằng có mệnh
trời và mệnh trời chi phối cuộc sống của con người. Các triết gia tiến bộ hơn thì cho rằng
trời là gốc của con người, họ coi trời với người là một, do đó đưa ra chủ trương “thiên,

nhân hợp nhất”.
Nhưng trong quan hệ với trời, con người phải theo đạo trời, con người phải lấy phép tắc
của trời làm mẫu mực, cõi thiên đạo là nhân đạo, người đời ăn ở phải hợp với đạo trời.
Khi bàn tới bản tính con người, Khổng Tử cho rằng “tính mỗi con người là gần nhau, do
tập tành và thói quen mới hoá ra xa nhau”. Từ quan điểm này người ta suy luận tranh cãi
đưa ra nhiều thuyết khác nhau. Mạnh Tử cho rằng bản tính con người là thiện, Tuân Tử
cho rằng bản tính con người là ác. Lão Tử cho rằng bản tính con người khơng thiện cũng


7

khơng ác. Cịn Vương Sung cho rằng bản tính con người có thiện có ác. Những nổi bật
trong các quan điểm trên là thuyết tính thiện của Mạnh Tử và thuyết tính ác của Tuân Tử.
Mạnh Tử khẳng định bản tính con người vốn là thiện, khơng một người nào sinh ra mà tự
nhiên bất thiện. Ơng cịn nói thêm, sự khác nhau giữa con người với con vật là ở chỗ
trong mỗi con người đều có phần quý trọng và phần bỉ tiện, có phần cao đại và phần thấp
hèn, bé nhỏ.
Chính phần quý trọng, cao đại mới là tính người, mới là cái khác giữa người và cầm thú.
Tính tích cực trong thuyết “tính thiện” của Mạnh Tử là biết phát huy, làm cho phần tốt
trong con người ngày càng phát triển, cịn phần xấu thì ngày càng thu hẹp lại. Cịn Tn
Tử cho rằng tính con người, sinh ra là hiếu lợi, thuận theo tính đó dẫn đến tranh đoạt lẫn
nhau nên khơng có từ nhượng; sinh ra là đố kỵ, thuận theo tính đó khơng có lịng trung
tín; sinh ra là ham muốn, thuận theo tính đó thành dâm loạn…Vì vậy, ơng chủ trương
phải có chính sách uốn nắn, sửa lại tính để khơng làm điều ác. Muốn vậy phải giáo hoá,
phải dùng lễ nghĩa, lễ nhạc để sửa tính ác thành tính thiện, để cái thiện ngày càng được
tích lũy tới khi hồn thiện. Hai quan điểm trên, tuy có sự khác nhau ở điểm xuất phát
nhanh thống nhất với nhau ở chỗ coi trọng giáo dục và hướng con người tới cái thiện. Vấn
đề xây dựng con người của các trường phái triết học Trung Quốc cổ, trung đại coi trọng
nỗ lực của cá nhân, sự quan tâm của gia đình và xã hội.
Đạo gia cho rằng bản tính của nhân loại có khuynh hướng trở về cuộc sống với tự nhiên,

nên Lão Tử khuyên mọi người phải loại bỏ những thái quá, nâng đỡ cái bất cập, hướng
con người vào cuộc sống thanh cao, trong sạch, gần gũi với thiên nhiên, tránh cuộc sống
chạy theo nhu cầu vật chất. Nho gia đặt vấn đề xây dựng con người một cách thiết thực
hơn. Họ hướng con người vào tu thân và thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản
nhất. Tất cả mọi vấn đề đều lấy đạo đức làm chuẩn. Mục tiêu xây dựng con người của
Nho gia là giúp con người xác định đúng và làm tròn trách nhiệm trong năm mối quan hệ
cơ bản (ngũ luân), đó là: vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè. Nho gia còn chỉ ra
con đường phấn đấu trước hết là phải tu dưỡng bản thân để xây dựng cuộc sống gia đình,


8

góp phần vào việc quản lý đất nước, sau đó đem lại yên vui cho thiên hạ (Tu thân, tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ).
Trong mỗi học thuyết nêu trên của triết học Trung Quốc đều có mặt tích cực và hạn chế
của nó. Trong đó, tư tưởng triết học Nho gia về con người và việc xây dựng, tu dưỡng con
người là có tính hợp lý hơn cả. Nó thực sự góp phần to lớn vào việc củng cố trật tự xã hội
Trung Quốc lúc bấy giờ, nhưng đồng thời cũng là một trong những nguyên nhân làm trì
trệ xã hội đó. Từ thời cổ đại, triết học phương Đông đã rất quan tâm nghiên cứu vấn đề
con người, nhưng cơ bản đều mang nặng tính chất duy tâm, thần bí. Ở đây, con người mới
chỉ hiện diện chủ yếu dưới góc độ: con người đạo đức, con người chính trị, cịn những yếu
tố khác hầu như chưa đề cập đến.
1.2.2. Quan điểm về con người trong triết học phương Tây
Quan điểm về con người trong triết học phương Tây thể hiện rõ nét qua từng thời kỳ, với
hai khuynh hướng đối lập nhau là duy vật và duy tâm tôn giáo.
1.2.2.1. Thời cổ đại
Các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại mặc dù cịn ở trình độ trực quan, chủ nghĩa duy
vật cịn thơ sơ, mộc mạc và phép biện chứng mang tính tự phát, nhưng là những phỏng
đoán thiên tài về thế giới quan duy vật sau này, trong đó, tư tưởng về con người có mặt
tiến bộ. Với học thuyết ngun tử, Đêmơcrit cho rằng con người và linh hồn của con

người được cấu tạo từ nguyên tử và khoảng không. Theo ông, con người là động vật có
khả năng học tập, có cảm giác, năng động, linh hồn con người là các nguyên tử và là cơ
sở của mọi hoạt động cũng như sức sống của con người. Ơng có quan điểm duy vật về
cảm giác và cho rằng: cảm giác dễ chịu là tiêu chuẩn của điều tốt, ngược lại, cảm giác khó
chịu gây nên sự đau khổ, là tiêu chuẩn của điều xấu.
Vì thế, con người tìm những cảm giác dễ chịu và tránh những cảm giác khó chịu, cũng có
nghĩa là con người vượt tới điều thiện và tránh điều ác. Đêmơcrit cho rằng: hồn thiện đạo


9

đức là có thể, nhưng phải dưới sự chỉ đạo của lý trí, vì nó hướng con người vào mục tiêu
đúng đắn. Do vậy phải thường xuyên trau dồi lý trí và tiếp thu những quy luật của tự
nhiên, quy luật hành động của con người. Ông cho rằng: con người hành động không
đúng là do không hiểu được cái đúng.
Cho nên, theo ông, xét cho cùng vấn đề trau dồi đạo đức là vấn đề làm sao cho con người
đạt được những tri thức cần thiết. Tuy nhiên, hạn chế của ông là không chỉ ra được tiêu
chuẩn của cái đúng và cái không đúng (tốt và xấu)… Đây là hạn chế để chủ nghĩa duy
tâm tấn công.
Arixtốt không trực tiếp bàn đến vấn đề con người, mà chỉ tập trung đề cập về đạo đức con
người. Ông cho rằng không phải hy vọng vào Thượng đế để trở thành người cơng dân
hồn thiện về đạo đức, mà việc phát hiện ra nhu cầu trên trái đất, phát triển những quyền
lợi chính trị, khoa học mới tạo nên được con người hồn thiện trong quan hệ đạo đức.
Ơng coi đạo đức có liên quan mật thiết với chính trị. Arixtốt xác định cái gì phục vụ được
cho nhà nước và củng cố trật tự đang tồn tại, cái đó là phẩm hạnh.
Để có được phẩm hạnh, con người phải thông qua hoạt động thực tiễn. Trong đạo đức của
Arixtốt, phạm trù chính nghĩa đứng ở vị trí trung tâm. Ơng cho rằng con người chỉ có thể
đạt được chính nghĩa trong quan hệ với người khác, cho nên trong thực hành chính nghĩa,
con người tự thể hiện mình trước hết như một thực thể chính trị - xã hội. Hạnh phúc của
con người là điều thiện, luôn gắn với nhận thức, ước vọng và sự tiến bộ.

Êpiquya đem triết học giải phóng tinh thần con người và đối lập với tơn giáo. Ơng cho
rằng những u cầu, quyền lợi và khát vọng của con người phản ánh bản chất con người.
Do vậy, nhiệm vụ của đạo đức là dạy cho con người biết lựa chọn những thích thú một
cách khôn ngoan, thỏa mãn những mong ước tất yếu, tránh xa những mong ước vô nghĩa
và phản tự nhiên. Học thuyết của ông chống lại tôn giáo, chống lại nỗi sợ hãi về cái chết.


10

Theo ơng, sự anh minh giúp con người thốt khỏi sự sợ hãi, thoát khỏi những dư luận giả
dối, đem lại cho con người chân lý, gợi cho con ngợi lòng dũng cảm. Sự anh minh còn
làm cho con người ôn hoà, đem lại cho con người công lý. Do vậy, sự ơn hồ là cái gốc,
là nền tảng của cuộc sống hạnh phúc.
Hêraclít là người giải quyết một cách duy vật về vấn đề “linh hồn” con người. Ông cho
rằng linh hồn của con người là do lửa tạo nên. Theo ơng ngồi lửa ra, linh hồn cịn có ẩm
ướt, cho nên mới sinh ra người tốt, người xấu. Ở người nào càng nhiều yếu tố lửa bao
nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu vì tâm hồn khơ ráo. Và ông còn nhấn mạnh, hạnh phúc con
người không phải là sự hưởng lạc đơn thuần về thể xác mà là ở việc biết suy nghĩ, nói và
hành động tuân theo giới tự nhiên.
Prôtago là nhân vật tiêu biểu của phái ngụy biện, nhưng ơng có quan điểm về con người
khá nổi tiếng “Con người là thước đo tất thảy mọi vật”. Luận điểm này đề cao vai trị, vị
trí của con người trong thế giới hiện thực. Theo ơng, chính cái lợi cho con người là chuẩn
mực để đánh giá và phán xét mọi vấn đề, kể cả tri thức và các chuẩn mực đạo đức. Những
hạn chế của ông ở chỗ chưa nhận thấy nền tảng khách quan của chân lý và các chuẩn mực
đạo đức. Có cái lợi đối với người này nhưng lại có hại đối với người khác. Bản thân ông
cũng chả hiểu được cái lợi của con người theo nghĩa rộng, chưa hiểu được nó ở quy mơ
xã hội, nhưng quan niệm của Prơtago có ý nghĩa tích cực, là đỉnh cao của tư tưởng đề
cao con người, coi con người là trung tâm của mọi vấn đề trong triết học Hy Lạp cổ đại.
Đối lập với quan điểm của các nhà triết học duy vật, những người theo chủ nghĩa duy tâm
lại đi tìm nguồn gốc và bản chất của con người từ những lực lượng siêu tự nhiên, tiêu biểu

là Xôcrát và Platôn.
Theo Xôcrát, thế giới do thần linh tạo ra và đã an bài cho thế giới. Con người khơng nên
tìm hiểu thế giới vì như thế là xúc phạm thần linh, con người hãy tìm hiểu chính bản thân
mình.


11

Platơn cho rằng “ý niệm” có trước tất cả, nó là nguồn gốc của thế giới. “ý niệm” tồn tại
vĩnh viễn và bất biến. Ông cho rằng con người gồm có hai phần là: linh hồn và thể xác tồn
tại độc lập với nhau. Thể xác được tạo thành từ đất, nước, lửa, khơng khí, nên có thể mất
đi. Cịn linh hồn bao gồm: lý trí và tình cảm nên bất tử.
Nhìn chung quan niệm về con người trong thời kỳ cổ đại còn đơn sơ, mộc mạc, chứa
đựng nhiều yếu tố duy tâm, tôn giáo. Con người vẫn sống trong thế giới tối tăm, hà khắc,
chưa có điều kiện phát triển cá nhân.
1.2.2.2. Thời trung cổ
Trung cổ là thời kỳ hình thành và phát triển phương thức sản xuất phong kiến. Trong xã
hội phong kiến, trình độ sản xuất còn thấp kém, chủ yếu là nền kinh tế tự cung, tự cấp.
Giai cấp địa chủ nắm quyền sở hữu ruộng đất, tổ chức, quản lý sản xuất và phân phối sản
phẩm. Đạo cơ đốc giáo đóng vai trị là hệ tư tưởng của xã hội. Giáo lý của nó được coi
như nguyên lý chính trị của xã hội phong kiến, kinh thánh của nó được xem là luật lệ, hệ
thống nhà trường đặt dưới sự kiểm soát của thầy tu, giáo hội độc quyền chi phối văn hoá.
Thời kỳ này, triết học là một bộ phận của thần học và chủ yếu là phục vụ tôn giáo và chịu
sự kìm kẹp của thần học. Từ đó triết học kinh viện ra đời và trở thành “đầy tớ của thần
học”. Do vậy, tư tưởng về con người có nhiều điểm hạn chế, chủ yếu là nằm dưới vỏ bọc
của thần thánh. Họ coi con người như một sinh vật thụ động, chỉ biết thờ phụng chúa,
khát khao hạnh phúc mơ hồ, viển vơng trong tuyệt vọng.
Ơgxtanh cho rằng, trên trần thế, nơi loài người đang sống, vương quốc của điều ác là
nhà nước, vương quốc của Thượng đế là nhà thờ. Ơng là người ln bảo vệ sự bất bình
đẳng xã hội và cho rằng Thượng đế có quyền ban thưởng cho người này được sống và bắt

người kia phải khổ. Do vậy, ông khuyên người nghèo nên yêu Thượng đế, khơng nên u
của cải, chỉ vì cuộc sống ở trần gian là tạm bợ, là quỷ sứ, còn “thiên đàng” mới là hạnh
phúc.


12

Tơmát Đacanh ca ngợi chế độ bất bình đẳng và trật tự đẳng cấp trong xã hội và cho rằng
chính quyền của vua chúa là do Thượng đế sáng tạo ra, người dân phải phục tùng vua,
vua phải phục tùng Giáo hoàng La Mã. Như vậy, quyền lực của Thượng đế là tuyệt đối,
đòi hỏi mọi người phải tuân theo vô điều kiện.
Bêcơn là người dũng cảm lên án những tội lỗi của bọn giáo sĩ và bọn phong kiến áp bức,
chống lại Giáo hoàng, bênh vực quyền lợi của nhân dân lao động. Vì những tư tưởng tiến
bộ ấy, ông ta đã bị nhà nước phong kiến và Giáo hội truy nã, bị cầm tù trong nhà tù của tu
viện.
Xem xét con người một cách duy tâm thần bí, nên các nhà triết học lúc bấy giờ coi đạo
đức là phương tiện để thực hiện những mệnh lệnh của tôn giáo, đạo đức học gắn với thần
học, tuy nhiên cũng có những nhân tố hợp lý của nó: đó là có xu hướng bàn về lý tính,
tiến lên phía trước trong thái độ thừa nhận những tiêu chuẩn ở bên ngoài cá nhân, phân
biệt cái thiện và cái ác. Mặt khác, nhân tố hợp lý còn được thể hiện ở chỗ có xu hướng
nghiên cứu đạo đức như là một hệ thống nguyên tắc khách quan, nhưng do đạo đức gắn
với thần học nên nó sa vào chủ nghĩa duy tâm khách quan, đồng nhất tính khách quan của
đạo đức với thần thánh. Thượng đế là nguyên tắc tối cao của đạo đức, ý chí của Thượng
đế là hiện thân của sự tốt lành, của cái thiện và là cội nguồn của hạnh phúc. Có thể nói,
thời trung cổ hình ảnh con người trở nên nhỏ bé, yếu đuối, vật vờ, tạm bợ trong thế giới
hữu hình với quyền lực vô biên của Thượng đế. Hệ tư tưởng thời trung cổ đã bóp chết ý
chí vươn lên tự khẳng định mình, tự giải phóng mình mà nhiều nhà tư tưởng thời cổ đại
đã đề cập.
1.2.2.3. Thời phục hưng và cận đại
Thời kỳ phục hưng và cận đại, là thời kì phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được

xác lập và trở thành phương thức sản xuất thống trị. Sự phát triển của phương thức sản


13

xuất tư bản chủ nghĩa thúc đẩy khoa học, kỹ thuật phát triển, phá vỡ toàn bộ nền kinh tế
phong kiến có tính chất tự nhiên, tự cung, tự cấp. Chủ nghĩa kinh viện và thần học bị đánh
đổ; các giá trị về con người và nền văn hoá Hy Lạp cổ đại được khôi phục và phát triển;
con người được giải phóng khỏi sự mê muội của tơn giáo, có điều kiện phát triển tồn
diện. Đặc biệt bước sang thời kỳ cận đại, khuynh hướng lý tính được coi là cơ sở để cải
tạo cuộc sống hiện đại, các nhà triết học khai sáng lấy việc truyền bá tri thức tốt đẹp một
cách rộng rãi cho mọi người. Họ cho rằng: vũ trụ là vật chất, vũ trụ là vô tận, vĩnh hằng,
luôn vận động. Con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là một động vật biết suy nghĩ
nhờ các giác quan. Tư tưởng con người chịu sự quy định của cấu trúc cơ thể trong sự tác
động qua lại với môi trường và điều kiện sống. Con người là một thực thể thống nhất hữu
cơ của hai mặt thể xác và linh hồn. Cơ thể của con người có khả năng cảm giác và ghi
nhớ. Linh hồn của con người là tổng thể các hiện tượng tâm lý, có đặc tính vật chất,
khơng có cơ thể thì khơng có linh hồn. Con người là sản phẩm của hoàn cảnh, của xã hội,
nên muốn phát triển con người, cần phải thay đổi hoàn cảnh xã hội (Henvêtiúyt). Bên
cạnh đó,các nhà triết học khai sáng cịn cho rằng: bản tính của con người vốn khơng ác,
sở dĩ xã hội có cái ác là do sự khiếm khuyết của các quan hệ xã hội và nền giáo dục không
đúng đắn. Con người được giáo dục đúng đắn, tức là sự khai sáng thì cái ác khơng cịn
chỗ nương thân, như vậy con người có điều kiện phát triển toàn diện. Những tư tưởng duy
vật và tiến bộ của các nhà triết học khai sáng đã phủ định hoàn tồn quan điểm duy tâm,
tơn giáo, siêu hình về con người. Họ coi “ánh sáng tự nhiên của trí tuệ” là phương pháp
cơ bản và độc lập với cuồng tín tơn giáo để nhận thức thế giới, để hồn thiện xã hội và đời
sống xã hội, đồng thời coi đấu tranh vì những quyền lợi mà thiên nhiên ban tặng cho mình
là “con người tự nhiên”. Việc tuyên truyền cho con người tự nhiên đã dẫn đến khẩu hiệu
“tự do, bình đẳng, bác ái”. Đây là tư tưởng đột phá, cởi trói con người khỏi xiềng xích,
gơng cùm của tầng lớp địa chủ phong kiến và sức mạnh của thần quyền tơn giáo; đó là

một nấc thang trong tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại, có ý nghĩa khá sâu sắc đối
với lịch sử và hiện nay.


14

Tuy nhiên, tư tưởng này khơng triệt để, khơng thốt khỏi những mâu thuẫn cơ bản vốn có
trong lịng xã hội tư bản (lợi ích giai cấp), càng về sau tư tưởng này càng bộc lộ bản chất
phản động của nó. Do vậy, mặc dù thừa nhận tự nhiên, nhưng họ lại diễn đạt bằng “tự
nhiên thần luận”, tư tưởng của họ thoả hiệp với thần quyền tôn giáo. Những nét nổi bật
trong triết học thời phục hưng và cận đại là phủ nhận quyền lực của thần linh, Thượng đế,
đề cao sức mạnh của con người, đề cao vai trị của lý trí, đề cao các giá trị nhân văn và đề
cao tư tưởng vì con người.
1.2.2.4. Quan điểm của triết học cổ điển Đức về con người
Triết học cổ điển Đức thừa nhận con người là một chủ thể, đồng thời lại là kết quả của
quá trình hoạt động của mình. Mặt khác, Cantơ và sau này là Hêghen đều khẳng định con
người là sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất định, do vậy con người mang bản chất xã
hội. Cantơ cho rằng: Với tư cách là chủ thể của thế giới, con người ln tích cực hoạt
động nhận thức và cải tạo thế giới. Tuy nhiên, hoạt động thực tiễn ở đây được ông hiểu
trong giới hạn chính trị – xã hội nhất định, chứ không phải là hoạt động sản xuất vật chất.
Hêghen với “ý niệm tuyệt đối”, ông coi con người là con gái vơ cơ, con người ở giai đoạn
chia hình thành. Còn con người bằng xương, bằng thịt theo Hêghen là con người đã phát
triển đầy đủ, là con người trở về chính bản thân nó với tất cả những đặc tính vốn có của
nó. Từ điểm xuất phát của triết học đã xác định, Hêghen quy các quá trình của hiện thực
về quá trình tư duy, quy lịch sử hiện thực về lịch sử tư duy, quy hoạt động thực tiễn của
con người về quá trình tự ý thức, tự nhận thức.
Mặt khác, trong hiện tượng tinh thần, Hêghen không những coi con người là chủ thể như
Cantơ, mà ông cho rằng con người là kết quả của chính quá trình hoạt động của mình; tư
duy và trí tuệ của con người hình thành và phát triển trong chừng mực con người nhận
thức thế giới; ý thức con người là sản phẩm của xã hội, lịch sử. Hoạt động của con người

càng phát triển thì ý thức càng mang đậm bản chất xã hội. Đây là những tư tưởng khá tiến
bộ nhưng tiếc rằng Cantơ và Hêghen đã thần thánh hoá năng lực của con người dẫn đến


15

duy tâm. Phoiơbắc coi con người là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên, chứ không phải
là nô lệ của Thượng đế hay nô lệ của tinh thần tuyệt đối. Với quan điểm duy vật này ông
đã chống lại quan điểm duy tâm về con người và chống sự tách rời có tính chất nhị
ngun luận về linh hồn và thể xác. Ông khẳng định: con người sáng tạo ra thượng đế,
chứ không phải thượng đế sáng tạo ra con người như quan niệm của tôn giáo và thần học.
Bản chất thần thánh khơng là cái gì khác mà chính là bản chất con người được tinh chế,
khách quan hố, vì tơn giáo là sự tha hố của con người về mặt tinh thần tư tưởng. Theo
ông, bản chất tự nhiên của con người luôn hướng tới chân, thiện, mỹ, nhưng trên thực tế
những cái đó con người khơng đạt được nên họ đã gửi gắm tất cả những ước muốn cao
đẹp của mình vào Thượng đế.
Tuy nhiên, do thế giới quan không triệt để, nên con người trong quan niệm của Phoiơbắc
là con người chung chung, trừu tượng, phi lịch sử, phi giai cấp, mang thuộc tính sinh học,
bẩm sinh. Ông chỉ thấy con người tự nhiên, chứ không thấy con người xã hội, và càng
không thấy vai trò của con người trong hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới. Ông hiểu
con người theo nghĩa trần tục, bằng xương, bằng thịt, nên dẫn đến tư duy máy móc, siêu
hình.
Như vậy, trước những thành tựu của phương thức sản xuất tư bản, triết học cổ điển Đức
đã đề cao sức mạnh trí tuệ của con người, giá trị ở chỗ nó khẳng định tư duy, ý thức chỉ
phát triển trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế giới; con người vừa là chủ
thể, đồng thời là kết quả hoạt động của một thời đại lịch sử nhất định.
Trong lịch sử có nhiều trào lưu triết học khác nhau, với thế giới quan khác nhau, phương
pháp tiếp cận nghiên cứu vấn đề con người khác nhau, nhưng chưa có nhà triết học nào
hay trường phái triết học nào luận giải về vấn đề con người một cách đầy đủ và khoa học.
Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX triết học Mác – Lênin ra đời vấn đề con người mới

được nghiên cứu, luận giải một cách khoa học, trên cơ sở thế giới quan duy vật triệt để.


16

1.3. Quan điểm Triết học Mác - Lênin về con người
1.3.1. Nguồn gốc con người
Kế thừa các quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học, đồng thời dựa trên thành tựu của
khoa học tự nhiên, các nhà triết học mác xít khẳng định: con người vừa là sản phẩm của
quá trình phát triển lâu dài trong giới tự nhiên, vừa là sản phẩm của chính bản thân con
người trong hoạt động thực tiễn. Con người là thực thể thống nhất giữa hai yếu tố là sinh
vật và xã hội, là thực thể sinh vật - xã hội, là sản phẩm cao nhất trong q trình tiến hố
của tự nhiên và lịch sử - xã hội. Trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C. Mác nói: “Như vậy,
là sự sản xuất ra đời sống - ra đời sống của bản thân mình bằng lao động, cũng như ra đời
sống người khác bằng việc sinh con, đẻ cái - biểu hiện ngay ra là một quan hệ song trùng:
một mặt là quan hệ tự nhiên, mặt khác là quan hệ xã hội”.
Như vậy, theo Mác con người trước hết là một động vật, là sản phẩm của sự tiến hoá lâu
dài của giới tự nhiên như thuyết tiến hoá của Đacuyn đã khẳng định. Trên cơ sở đó,
Ph.ăngghen nhấn mạnh thêm: “Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra,
cũng đã quyết định việc con người khơng bao giờ hồn tồn thốt ly khỏi những đặc tính
vốn có của con vật”. Cũng giống như những động vật khác, con người là một bộ phận của
giới tự nhiên “Giới tự nhiên … là thân thể vô cơ của con người… đời sống thể xác và đời
sống tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên”. Con người là một loài động vật,
nhưng con người khác con vật vì con người cịn là một thực thể xã hội. “Người là giống
vật duy nhất có thể bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần tuý là lồi vật”. Như vậy,
con người khơng phải là một động vật thuần tuý mà là một “động vật xã hội” - một thực
thể sinh vật - xã hội; con người “bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội”.
Con người theo quan điểm triết học Mác - Lênin là sự thống nhất hữu cơ giữa mặt sinh
học và mặt xã hội. Mặt sinh học đó là mặt tự nhiên,vật chất, nhục thể sinh vật (xương,
thịt, máu, mủ, khí quan của con người). Con người là sản phẩm của quá trình tiến hố lâu

dài của tự nhiên và cũng chịu sự chi phối của các quy luật sinh học, như: biến dị, di


17

truyền, sống, chết của cơ thể… Mặt sinh học của con người có những nét chung với động
vật cao cấp nhưng đã được cải tạo, tiến hóa và phát triển khác với con vật là nhờ mặt xã
hội. Mặt xã hội là thế giới tinh thần, ý thức, các hoạt động, lao động, sáng tạo… mà ở con
vật không thể có. Con người chỉ tồn tại với tư cách là con người khi sống và giao tiếp
trong xã hội, có hoạt động xã hội cho mình và đồng loại, chịu sự tác động của quy luật xã
hội. Mỗi con người sinh ra đều sống và được nuôi dưỡng trong một môi trường xã hội
nhất định, nên con người bị quy định bởi thời đại, xã hội mà mình đang sống.
Vì vậy, “bản thân xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì
nó cũng sản xuất ra xã hội như thế” và “chỉ có trong cộng đồng, cá nhân mới có được
những phương tiện để có thể phát triển tồn diện những năng khiếu của mình”. Xã hội là
xã hội của con người, do con người và vì con người. Điều đó có nghĩa là thông qua các
quan hệ xã hội, như: quan hệ sản xuất, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc, quan hệ gia
đình…, con người mới tồn tại, phát triển, hồn thiện và thể hiện được chính mình.
Khơng có con người thì khơng có bất kỳ một sự phát triển nào và xã hội phát triển đến
đâu thì con người cũng phát triển đến đó. Sự phát triển của con người là thước đo sự phát
triển của xã hội. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Do
đó, để phát triển con người cần phải phát triển xã hội và ngược lại, để phát triển xã hội
cần phải phát triển con người, đó là mối quan hệ biện chứng của quá trình phát triển lịch
sử - xã hội.
1.3.2. Về bản chất con người
Xã hội là bộ phận đặc biệt của thế giới vật chất, còn con người là những tế bào cấu thành
“bộ phận đặc biệt ấy”. Nói cách khác, nói đến con người là con người xã hội, cịn nói đến
xã hội là xã hội của chính con người. Theo Ph. Ăngghen, con người sở dĩ trở thành người
trước hết là nhờ vào lao động và đồng thời với lao động là ngơn ngữ, đó là hai sức kích
thích chủ yếu để biến loài vượn người thành con người thực sự. Chính trong q trình lao

động sản xuất, con người bộc lộ hai loại quan hệ cơ bản mang tính khách quan, đó là:



×