Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

chuyên đề 7 bài thơ về tiểu đội xe không kính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.77 KB, 7 trang )

Đề bài: Cảm nhận về vẻ đẹp hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong bài thơ “Bài thơ về
tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
Theo cô Hoàng Thị Vĩnh – GV trường THCS Đằng Hải – Hải Phòng.
I.M ở bài:
- Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
của dân tộc ta. Thơ ông đậm chất lính. Những trang thơ tác giả viết về người lính thường
có giọng điệu ngang tàn, tinh nghịch mà sâu sắc. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” thể
hiện rõ nét phong cách nghệ thuật ấy. Nhà thơ đã xây dựng hình tư ợng độc đáo: những
chiếc xe không kính vẫn băng băng ra trận để làm nổi bật vẻ đẹp ngư ời lính lái xe trên
tuyến đường Trường Sơn,một thời khói bom đạn lửa.
II,Thân bài:
1.Khái quát(Dẫn dắt vào bài):
- “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được nhà thơ sáng tác vào năm 1969 – đây là thời
điểm gay go, ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Từ khắp các giảng đư ờng đại
học, hàng ngàn sinh viên đã gác bút nghiên để lên đường đánh giặc, và điểm nóng lúc đó
là tuyến đường Trư ờng Sơn – con đường huyết mạch nối liền hậu phương với tiền tuyến.
Ở đó, không lực Hoa Kì ngày đêm trút bom, vãi đạn hòng ngăn chặn sự chi viện của miền
Bắc cho chiến trư ờng miền Nam.Vượt qua mưa bom bão đạn của kẻ thù, đoàn xe vận tải
vẫn ngày đêm bất chấp gian khổ và hi sinh để ra trận. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những
hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường S ơn. Có thể nói, hiện thực đã đi thẳng vào
trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến. Ra đời trong hoàn cảnh
ấy, bài thơ với âm điệu hào hùng, khỏe khoắn đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở
thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ. Cảm hứng từ những
chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung người
chiến sĩ lái xe: ung dung, tự tại, lạc quan, sôi nổi, bất chấp gian khổ hi sinh, tình đồng đội
gắn bó và tình yêu đất nước lớn lao.
2.Phân tích:
- Ngay từ những dòng thơ mở đầu, người lính lái xe đã giới thiệu về những chiếc xe đặc
biệt của mình:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”.


Cái hay của câu thơ không chỉ ở nhạc điệu mà còn ở cách nói rất dí dỏm với những lời lẽ
tự nhiên, mộc mạc. Ba chữ “không” đi liền nhau cùng động từ “giật”,”rung” khiến câu
thơ có cái ngang tàn như lời nói thường, nhưng chứa đựng trong đó là cái nhìn lạc quan
của người lính lái xe về sự ác liệt của chiến tranh. Nhà thơ – người lính như đang phân
bua, như đang giải thích một cách tinh nghịch cho sự không trọn vẹn của những chiếc xe:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe,thùng xe có xư ớc”.
Song, chính trong cái ác liệt của cuộc chiến, chính từ những cái “không” đó thì tư thế
ung dung của những ngư ời lính lại được thể hiện rõ nét:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời,nhìn thẳng”.
Tư thế của những người lính lái xe mới ung dung và đường hoàng làm sao! Đặt từ “ung
dung” lên đầu câu, dường như nhà thơ muốn nhấn mạnh vào tư thế chủ động trước hoàn
cảnh. Con mắt “nhìn đất”, “nhìn trời”,”nhìn thẳng” mang vẻ đẹp trang nghiêm, bất khuất
như một lời thề. Chữ “nhìn thẳng”khiến ta hình dung như họ đang đối mặt thẳng thắn với
gian khổ, hi sinh mà không hề né tránh, không hề run sợ. Không có kính chắn gió, ngư ời
lính lái xe đã bình tĩnh, tự tin để mà:
“ Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.
Nhịp thơ khoan thai, cùng cách điệp lại từ “nhìn” với các hình ảnh cụ thể như “gió” –
“con đường”,”sao trời”,”cánh chim”… đã diễn tả một cách chân thực và sinh động cảm
giác, ấn tượng của người lính lái xe không kính trên đường ra trận. Lúc này, mọi khó
khăn, nguy hiểm đã lùi lại, nhường chỗ để các anh đón nhận những âm thanh trong trẻo,
ùa vào khoảng lặng của cuộc chiến ác liệt. Cuộc sống đẹp biết bao! Tâm hồn lãng mạn đã
thăng hoa trong bội bề gian truân, mất mát. Sao trời vẫn sáng đường chiến dịch; cánh
chim bền bỉ, đột ngột mà không cô đơn. Từ “đột ngột” được dùng rất “đắt” trong câu đảo
thành phần này đã diễn tả động thái đẹp của thiên nhiên, của cánh chim trời. Cánh chim
được nghệ thuật hóa, để rồi đư ợc nhân hóa qua hai từ “sa”, “ùa” hết sức tự nhiên, không

vướng bận. Tất cả cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người lính lái xe Trường Sơn. Đúng là
“Đường ra trận mùa này đẹp lắm! Trư ờng Sơn Đông nhớ Trường S ơn Tây”. Có thể nói,
người lính đã chiến thắng bom đạn của kẻ thù bằng cái nhìn bình thản. Con đường chạy
thẳng vào tim mà họ nhìn thấy không chỉ là con đường chiến lược Trư ờng Sơn xe đang đi
mà đó còn là con đường cách mạng,con đường giải phóng miền Nam, con đường mà thế
hệ trẻ Việt Nam đã mang cả tuổi thanh xuân, máu xương của mình để giữ gìn, bảo vệ;
đẹp mà hiên ngang, gian khổ mà lạc quan, chất lãng mạn hòa quyện trong yếu tố hiện
thực.
- Vẻ đẹp trong hình tượng người lính lái xe còn được nhà thơ khắc họa cụ thể khi đối mặt
với những khó khăn, gian khổ - không chỉ là gió, mà còn là mưa, bụi Trường S ơn:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấmcười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng,gió lùa khô mau thôi”.
Lặp cấu trúc câu, cùng với điệp ngữ “ừ thì”,”chưa cần”… nhà thơ đã đem đến cho đoạn
thơ giọng điệu ngang tàn, giàu thách thức. Những câu thơ tả thực, những cái “ừ ” bất chấp
nhưng không hề lộ ra là cẩu thả, luộm thuộm. Hẳn đó là nhờ chất lính, dẫu mưa có tuôn,
có xối, dẫu bụi có phun bạc trắng mái đầu thì ngư ời lính vẫn “chưa cần thay”,”chưa cần
rửa” để lái trăm cây số nữa. Thật là biết đùa cùng gian khó! Giọng thơ đã thể hiện trọn
vẹn thái độ bất chấp khó khăn, coi thường hiểm nguy của ngư ời lính lái xe. Với họ,
những gian khổ khi lái xe không kính ra trận chẳng hề hấn gì. Hai khổ thơ đầy ắp chi tiết
hiện thực qua cách dùng từ “xối”,”tuôn”,”phun”. Đó là những gian khổ rất thực như một
kiểu hút thuốc phì phèo, một tiếng cười ha ha sảng khoái, một mái đầu bụi phun tóc
trắng. Tất cả thể hiện sự bất chấp cuộc sống đầy gian khó bằng niềm vui sôi nổi, trẻ
trung và bằng tinh thần lạc quan của người lính lái xe những năm chống Mỹ.
- Một nét đẹp trong hình ảnh người lính lái xe trên đường ra trận là tình đồng chí, đồng

đội gắn bó:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Tình cảm của những người lính trẻ được nhà thơ diễn tả rất đúng, rất phù hợp với phong
cách của họ. Sau những chặng đư ờng đầy gian khổ,đầy mất mát hy sinh, họ đã cùng nhau
họp thành tiểu đội xe không kính. Cái bắt tay của họ rất độc đáo – “Bắt tay qua cửa kính
vỡ rồi” – một cái bắt tay mang đầy ý nghĩa. Nó là biểu tư ợng của niềm tin thắng trận, là
lời chúc, lời chào,niềm vui và niềm tự hào. Ở đây, nhà thơ đưa ra một khái niệm hết sức
mới mẻ về gia đình: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Đó là gia đình của những con
người cùng chung chí hư ớng, cùng chung nhiệm vụ. Rõ ràng, những người lính thương
yêu nhau như tình ruột thịt. Từ nơi chiến trường ác liệt, họ đã làm thành một gia đình,
tạm nghỉ bên nhau, và quây quần trong bữa cơm hội ngộ, để rồi:
“Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm”.
Câu thơ ngắt nhịp 2/2/3, như nhịp hành quân, như niềm lạc quan tin tưởng của người lính
lái xe trên đường ra trận. Từ “chông chênh” gợi lên tư thế của người lính, họ vừa đi vừa
có người ngủ trên xe, vừa có người chạy xe để xe được chạy liên tục. Từ “chông chênh”
giàu sức gợi như tạo hình cho giấc ngủ của người lính. Điệp từ “lại đi” và hình ảnh “trời
xanh thêm” khẳng định những người lính như không ngừng tiến tới, không ngừng ra đi vì
bầu trời xanh bình yên phía trước, vì viễn cảnh rộng lớn hơn.
- Vẻ đẹp của người chiến sĩ lái xe đư ợc nhà thơ hoàn thiện trong sự hài hòa với hiện thực
cuộc sống chiến đấu, hài hòa giữa chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe,thùng xe có xư ớc
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe cómột trái tim”.

Ba chữ “không” lại một lần nữa khẳng định mức độ ác liệt của cuộc chiến in dấu trên
những chiếc xe ra trận: “không kính”,”không đèn”,”không mui” và lại có thêm cái xư ớc.
Phép liệt kê cho thấy bom đạn của giặc Mỹ đã làm biến dạng, làm méo mó, làm trơ trụi
những chiếc xe ra trận. Song đối lập với những cái “không” ấy là một cái “có” – “Có một
trái tim” ở trong xe. “Trái tim”là hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng, đó chính là
người chiến sĩ lái xe, là sức mạnh và tinh thần quả cảm, là nhiệt huyết của tuổi trẻ, là ý
chí chiến đầu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, là tình yêu Tổ quốc t hiết
tha. Hình ảnh này đã khẳng định: khi trái tim cầm lái thì mọi gian khổ, hiểm nguy đều
được người lính chấp nhận và vượt qua với tư thế ung dung và niềm vui sôi nổi, lạc quan
phơi phới. Hình ảnh này cũng khẳng định bom đạn của kẻ thù chỉ có thể phá hủy được
những chiếc xe chứ không thể ngăn cản được nhiệt huyết cứu nước của những con người:
“Xẻ dọc Trường S ơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu).
3. Ý kiến đánh giá, bình luận:
- Chân dung người lính lái xe Trường Sơn đư ợc nhà thơ khắc họa chân thực trong “Bài
thơ về tiểu đội xe không kính” với bao phẩm chất cao đẹp. Đó là vẻ đẹp của tuổi trẻ, của
chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời chốngMỹ. Họ là những chiến binh, sống,
chiến đấu và chiến thắng trong tư thế hiên ngang, trong niềm lạc quan yêu đời.
III.Kết bài:
-Viết theo thể thơ tự do, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” vừa có chất tự sự,vừa thấm
đẫm chất trữ tình. Với ngôn ngữ chân thực, đời thường và giọng điệu thơ ngang tàn, hóm
hỉnh, bài thơ đã đem đến cho người đọc ấn tượng không thể nào quên về vẻ đẹp của
người lính cách mạng. Vẻ đẹp ấy làm sống lại trong mỗi chúng ta một thời gian khổ và
hào hùng của dân tộc những năm chống Mỹ.
Đề bài:
Cảm nhận ba khổ thơ cuối "Bài thơ về tiểu đội xe không kính"của Phạm Tiến Duật.
Theo cô Nguyễn Thị Kim Lan – Chuyên viên Sở GD&ĐT Hải Phòng.
Đoàn giải phóng quân một lần ra đi.
Nào có sá chi đâu ngày trở về.
Ra đi ra đi bảo tồn sông núi.
Ra đi ra đi thà chết chớ lui.

Khúc hát quen thuộc từ xa chợt vọng lại gợi trong lòng chúngta biết bao suy tưởng.
Chúng ta như được sống lại một thời hào hùng của dân tộc theo tiếng hát sôi nổi trẻ trung
và cũng bình dị như cuộc đời người lính. Không biết đã có bao nhiêu bài thơ nói về họ -
những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi. Tiêu biểu cho thời kì chống Mĩ cứu nước
là Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Qua hình ảnh những chiếc xe
không kính,bài thơ ca ngợi chủ nghĩa anh hùng và vẻ đẹp tâm hồn của thế hệ trẻ Việt
Nam. Ba khổ thơ cuối là đỉnh điểm của mạch cảm xúc và tứ thơ được nảy nở sáng rõ,để
lại ấn tượng trong lòng độc giả về cuộc chiến trang ác liệt trên tuyến đường Trường Sơn
và phẩm chất cao đẹp của người lính lái xe.
Bài thơ có bảy khổ thơ ,khổ nào cũng có hình ảnh chiếc xe ,hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ và
cái ác liệt cùng sự anh hùng. Từ những chiếc xe tải không kính trên tuyến đư ờng Trường
Sơn,xe qua bom giật ,bom rung ,bom rơi ,bom nổ ta vẫn thấy được tinh thần ung dung,
bình tĩnh, hiên ngang, dũng cảm của người lính lái xe. Mỗi khổ thơ hiện lên một vẻ đẹp
của người chiến sĩ,càng đọc ta càng thấy trân trọng, cảm phục phẩm chất của người chiến
sĩ lái xe .Bức chân dung đẹp ấy lại được khắc họa rõ nét qua tình cảm đồng chí đồng đội
nồng ấm, và tình yêu Tổ Quốc thiêng liêng cao cả, ý chí chiến đấu giải phòng miề n Nam.
Ở 3 khổ thơ cuối ,chân dung tâm hồn của người lính lái xe được gợi ra cũng chính từ hình
ảnh những chiếc xe không có kính:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vở rồ i
Anh lính lái xe thật nhiều bè bạn. Từ nơi cảm tử, họ tìm về nhau. Câu thơ “Những chiếc
xe từ trong bom rơi” gợi về cuộc chiến thật ác liệt. Người chiến sĩ lái xe phải đối diện với
mưa bom, lửa đạn, với cả thần chết ở bất cứ lúc nào. Trong hoàn cảnh ác liệt ấy,điều gì
khiến các anh trở về được bình an? Thơ Phạm Tiến Duật đã chỉ ra điều kì diệu ấy: “Đã về
đây họp thành tiểu đổi”. Chữ “họp” gợi sự đoàn tụ, sự bảo toàn. Thì ra, vì không thể thiếu
nhau, không thể vắng nhau, những người đồng đội ấy đã băng qua mưa bom bão đạn để
“về” trong vòng tay nhau, vòng tay của sự sống và chiến thắng. Ta thấy ở họ sáng ngời
lên một tình cảm đẹp, tình đồng đội! Tình cảm ấy tạo ra sức mạnh để chiến đấu, chiến

thắng. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, nhà thơ Chính Hữu c ũng đã phát hiện
sức mạnh của tình cảm đó trong bài thơ “Đồng chí”. Hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy
bàn tay” của những người nông dân mặc áo lính xưa chính là sự thầm lặng sẻ chia cảnh
ngộ và cùng chung lí tưởng sống. Hình ảnh “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” có gì đó
mới hơn, trẻ hơn. Vẫn là cái bắt tay thân thiện, giản dị, mộc mạc mà gần gũi qua ô cửa
kính đã vỡ. Cái bắt tay ấy như lời hẹn chiến thắng, như truyền sức mạnh, như truyền sự
tự tin và hào khí tuổi trẻ. Vẫn cái ô cửa kính đó, mà cả một khoả ng trời bè bạn, cả tráng
khí anh hùng gặp gỡ, hội ngộ.
Thơ Phạm Tiến Duật không chỉ phát hiện tình đồng đội ở những vẻ đẹp hào hùng, mà
còn nhìn nhận dưới góc độ những tình cảm thân thương, đầm ấm. Họ - những con người
từ nhiều phương trời, nhiều miền quê, nhưng trong thử thách, họ gắn với nhau thành ruột
thịt:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm.
Chữ “bếp”, hình ảnh “bát đũa”,”chiếc võng”…đều là những gì thân thiết trong ngôi nhà
của ông bà, cha mẹ ở hậu phương, làm cho hai chữ “gia đình” ẩm cả khổ thơ tiền tuyến.
Bằng cách nói giản dị ấy, Phạm Tiến Duật đã phát hiện được độ sâu sắc trong tình đồng
đội. Đó là tình bạn, là đồng chí, là chiến hữu, là ruột thịt. Trong quân ngũ, tình đồng đội
là tình cảm gia đình, ruột thịt, là tình cảm thật đặc biệt, là sự hòa quyện của tình đồng chí,
tình người và tình thương yêu giai cấp. Ta lại nhớ đến truyện ngắn “Những ngôi sao xa
xôi” của Lê Minh Khuê cũng kể về tình đồng đội mà thắm thiết hơn cả tình chị em của ba
cô thanh niên xung phong và những cảm xúc rất riêng của họ. Ta lại nhớ đến các cô gái ở
Ngã ba Đồng Lộc. Họ như thể chị em sinh ra từ một người mẹ. Sống cùng và chết cũng
không lìa xa. Có thể nói trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã có
sự phát hiện thật mới mẻ về tình cảm của người lính, của một thế hệ người Việt Nam, với
đời sống tình cảm biết bao mới lạ và sâu sắc.
Bài thơ vẫn tiếp tục tô đậm vẻ đẹp của tâm hồn biết yêu thương, mộng mơ, tâm hồn qua
thử thách vẫn tư ơi xanh non mư ớt qua hai câu thơ:

Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm.
Những người chiến sĩ kiên cường ấy cùng chiến đấu và cùng chia sẻ với nhau phút dừng
chân thật vui thú, thoải mái. Chữ “chông chênh” vừa nói cái không chắc của thế mắc
võng, vừa toát lên cái thi vị, tinh nghịch pha chút mạo hiểm rất quen thuộc của kẻ đưa
võng. Như ta đã gặp “Ung dung buồng lái ta ngồi”, “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”…
Câu thơ “Lại đi lại đi trời xanh thêm” nối tiếp phát hiện khác. Điệp ngữ “lại đi” tựa như
nhịp bư ớc hành quân của người chiến sĩ, khó khăn không nản, hi sinh không sờn, những
chiếc xe vẫn cứ chạy bon bon ra tiền tuyến. Câu thơ gợi ra sự liên tư ởng trong lòng người
đọc, ta có cảm giác rằng mỗi đoạn đường xe đi qua như mở thêm một khoảng trời hạnh
phúc, bình yên. Và mơ ước nữa chứ! Rất nhiều lần trời xanh hiện ra trong mưa bom ở bài
thơ này. Tâm hồn ngư ời lính sao mà tươi xanh đến thế!
Tới khổ kết, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã khẳng định ý chí, nghị lực, bản lĩnh phi thường
sẵn sàng chiến đấu vì miền Nam ruột thịt đang ở phía trước:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xư ớc
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Điệp ngữ “không có” lặp lại ba lần như nhân lên để tổng kết cái khó khăn, khốc liệt của
chiến tranh, khó khăn nối tiếp khó khăn, càng đi vào sâu tới những chiến trường nguy
hiểm hơn. Và minh chứng cho sự khốc liệt đó là những chiếc xe tải mang trên mình đầy
thư ơng tích, với đèn không có, mui không có, cửa kính vỡ, thùng bị xước, bị biến dạng.
Trận đánh đến gần ngày toàn thắng thì thử thách đối với người lính càng lớn, hi sinh mất
mát chắc chắn sẽ càng nhiều. Nhưng đối lập với những mất mát ấy, là một thứ như thép
như đồng tồn tại: ý chí của ngư ời lính lái xe. Người lính lái xe vẫn cứ vững chắc tay lái
đối diện với con đường vững vàng trên vị trí chiến đấu. Chữ “Vẫn chạy” sao mà gan góc,
mà ý chí, mà bướng bỉnh và ngoan cường! Trước mắt chúng ta, những đoàn xe vẫn cứ
tiếp tục chạy trên con đường Trường S ơn mua bom bão đạn, những chiến sĩ lái xe vẫn cứ
“Ung dung buồng lái ta ngồi” và đoàn xe “Lại đi lại đi trời xanh thêm” vư ợt lên bom đạn
khốc liệt hướng ra tiền tuyến, cùng sát cánh với miền Nam ruột thịt. Và đây là mục đích,

là lí tưởng sống của những người lính lái xe trong thời kì ấy và cũng chính là mục đích lí
tưởng của những thế hệ thanh niên lớp lớp lên đường chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng
miền Nam thống nhất đất nước.
Bài thơ dựng lên cuộc chiến đấu với biết bao điều không có: không kính, khôn g mui xe,
không đèn. Đến đây nhà thơ hạ bút viết một dòng chữ: “Chỉ cần trong xe có một trái
tim”. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật tương phản giữa hoàn cảnh ác liệt của cuộc kháng
chiến và phẩm chất của anh lính lái xe,ý chí kiên cường của người chiến sĩ lái xe quyết
tâm chiến thắng kẻ thù xâm lư ợc. Hình ảnh hoán dụ “một trái tim” xuất hiện trong câu
thơ thật gợi cảm, ta cảm nhận được cuộc sống vui tư ơi, tình yêu nước nồng nàn cháy
bỏng. Nhưng điều gì mãnh liệt nhất, quan trọng nhất? Anh lính đã nói thật tự t in, giản dị,
son sắt: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Trái tim như ngọn đèn, như mặt trời ở cuối
bài thơ như làm ấm, làm sáng rực lên chiến trường nhiều gian khổ.
Ba khổ thơ của bài đã khép lại con đường tới miền Nam yêu dấu đã tới đích từ mấy chục
năm trong sự thống nhất trọn vẹn thương yêu. Nhưng đâu đây bên tai ta vẫn tiếng xe
chạy, vẫn hiển hiện những tiếng cười “ha ha” của những người lính lái xe can trường.
Đơn sơ thế thôi nhưng là những trang hào hùng, là hình ảnh lí tưởng có sức vẫy gọi. Thế
hệ nào cũng có những trách nhiệm, những xứ mệnh, những vinh quang và thách thức của
mình. Bước chân sang thế kỉ XXI, trận đánh của mỗi người trẻ tuổi chúng ta hoàn toàn
khác. Nhưng những gì hào hùng, thật hấp dẫn ở ngư ời lính lái xe, ở thế hệ cha ông vẫn
luô n là sự khích lệ, là sự nêu gương để chúng ta gắng sức.

×