Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

TÀI LIỆU ÔN THI MÔN LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754.93 KB, 56 trang )

Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
MỘT SỐ NỘI DUNG CẬP NHẬT MỚI KIẾN THỨC
MÔN LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
(Dành cho các câu hỏi liên hệ đến Việt Nam, phục vụ liên hệ, minh chứng, phân
tích các vấn đề thưc tế có trong bài học)
***
HỎI : Điều kiện hình thành và trình bày những thành tựu của, (hệ quả) nền
văn minh công nghiệp. Những thành tựu, (hệ quả) đó có tác động như thế nào đến
quá trình đến sự phát triển của nhân loại và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
của Việt Nam hiện nay? (Các thành tựu từ cuộc cách mạng công nghiệp trên thế giới
tác động đến tư duy, nhận thức và phương thức, cách thức xây dựng nền KTTT, kết
hợp quá trình CNH, HĐH đất nước; đúc kết kinh nghiệm, đi tắt đón đầu, tận dụng
thời cơ cũng như hạn chế, vượt qua thách thức nhìn nhận từ 02 khía cạnh: tích cực
lẫn tiêu cực.)
ĐÁP:
1.1. Thành tựu của Cách mạng công nghiệp
Năm 1733 John Kay đã phát minh ra "thoi bay". Phát minh này đã làm người
thợ dệt không phải lao thoi bằng tay và năng suất lao động lại tăng gấp đôi.
Năm 1765 James Hagreaves đã chế được chiếc xa kéo sợi kéo được 16 - 18 cọc
suốt một lúc. Ông lấy tên con mình là Jenny để đặt cho máy đó.
Năm 1769, Richard Arkwright đã cải tiến việc kéo sợi không phải bằng tay mà
bằng súc vật, sau này còn được kéo bằng sức nước.
Năm 1785, phát minh quan trọng trong ngành dệt là máy dệt vải của linh mục
Edmund Cartwright. Máy này đã tăng năng suất dệt lên tới 40 lần.
Phát minh trong ngành dệt cũng tác động sang các ngành khác. Lúc bấy giờ,
các nhà máy dệt đều phải đặt gần sông để lợi dụng sức nước chảy, điều đó bất tiện rất
nhiều mặt. Năm 1784, James Watt phụ tá thí nghiệm của trường Đại học Glasgow
(Scotland) đã phát minh ra máy hơi nước. Nhờ phát minh này, nhà máy dệt có thể đặt
bất cứ nơi nào. Không những thế phát minh này còn có thể coi là mốc mở đầu quá
trình cơ giới hóa.
Ngành luyện kim cũng có những bước tiến lớn. Năm 1784 Henry Cort đã tìm


ra cách luyện sắt "puddling". Mặc dù phương pháp của Henry Cort đã luyện được sắt
có chất lượng hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về độ bền của máy móc.
Năm 1885, Henry Bessemer đã phát minh ra lò cao có khả năng luyện gang lỏng
thành thép. Phát minh này đã đáp ứng được về yêu cầu cao về số lượng và chất lượng
thép hồi đó.
Cách mạng cũng diễn ra trong ngành giao thông vận tải. Năm 1814, chiếc đầu
máy xe lửa đầu tiên chạy bằng hơi nước đã ra đời. Đến năm 1829, vận tốc xe lửa đã
1
Nguyn Hu Hong KS12E biờn son, nm 2012
lờn ti 14 dm/gi. Thnh cụng ny ó lm bựng n h thng ng st chõu u v
chõu M.
Nm 1807, Robert Fulton ó ch ra tu thy chy bng hi nc thay th cho
nhng mỏi chốo hay nhng cỏnh bum.
1.2. Nhng h qu ca Cỏch mng cụng nghip (xem thờm giỏo trỡnh trang 317)
Nhiu khu cụng nghip xut hin, dõn tp trung ra cỏc thnh th ngy mt
nhiu dn ti quỏ trỡnh ụ th húa thi cn i. Nhiu ụ th vi dõn s trờn 1 triu
ngi dn hỡnh thnh.
Giai cp vụ sn cng ngy cng phỏt trin v s lng. Vi iu kin sng cc
kh lỳc ú, mi ngy li phi lm vic t 12 n 15 gi nờn nhng cuc u tranh ca
giai cp vụ sn ó sm n ra.
Nm 1811 - 1812, Anh ó n ra phong tro p phỏ mỏy múc. ú l mt biu
hin u tranh bc phỏt.
Bói cụng l mt v khớ u tranh ph bin ca giai cp vụ sn. Nhiu cuc bói
cụng cng ó n ra. Anh, 1836 - 1848 cũn n ra phong tro Hin chng.
Quyt lit hn, Phỏp, c cũn n ra nhng cuc khi ngha. Nm 1831 -
1834 ti Lyon (Phỏp) v Slờdin
[cn dn ngun]
(c) ó n ra nhng cuc khi ngha.
Nhng cuc u tranh ny chng t giai cp vụ sn ang tr thnh lc lng chớnh tr
c lp, ũi hi thay i s thng tr ca giai cp t sn.

1.3. Tỏc ng, s vn dng ca Vit Nam trong quỏ trỡnh cụng nghip húa, hin
i húa t nc hin nay.
- Các đột phá chiến lợc
(1) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập
môi trờng cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính.
(2) Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lợng cao, tập trung
vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát
triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ.
(3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại, tập
trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn
Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc. Đến năm 2020, có một số lĩnh vực khoa học và công
nghệ, giáo dục, y tế đạt trình độ tiên tiến, hiện đại. Số sinh viên đạt 450 trên một vạn dân
(Trớch: Chin lc phỏt trin kinh t - xó hi 2011 2020)
- Trỡnh khoa hc, cụng ngh trong sn xut nụng nghip, thy sn tng bc
c nõng cao theo hng s dng ging mi, cụng ngh sinh hc, phng thc canh
tỏc tiờn tin nõng cao nng sut cht lng nụng sn, thy sn. én nay, cú hn
90% din tớch lỳa, 80% din tớch ngụ, 60% din tớch mớa, 100% din tớch iu trng
mi c s dng ging mi. Cụng ngh s dng mụ hom c a nhanh vo sn
2
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
xuất giống cây rừng, nên năng suất chất lượng rừng được cải thiện. Ngành thủy sản đã
sản xuất và đưa vào sản xuất một số loài thủy sản có giá trị kinh tế cao. Nhiều khâu
trong sản xuất nông nghiệp được cơ giới hóa như: tưới nước, tuốt lúa, xay xát đạt hơn
80%, vận chuyển làm đất đạt hơn 60%. Trong ngành thủy sản, tổng công suất tàu
thuyền đánh bắt đạt hơn 4 triệu sức ngựa, một số cơ sở nuôi trồng thủy sản được trang
bị các máy móc, thiết bị bảo đảm cho công nghệ nuôi trồng tiên tiến từ đó làm tăng
năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
Cụ thể như: Tiếp tục bảo đảm tốt an ninh lương thực quốc gia, tuy diện tích
trồng lúa giảm (khoảng hơn 300 nghìn ha), để chuyển sang nuôi trồng thủy sản và các

cây trồng khác có giá trị cao hơn, nhưng sản lượng lương thực vẫn tăng từ 34,5 triệu
tấn (năm 2000) lên 39,12 triệu tấn (năm 2004), trong đó, sản lượng lúa tăng từ 32,5
lên 35,8 triệu tấn, bình quân mỗi năm lương thực tăng hơn một triệu tấn. Tháng
8/2012 vừa rồi Việt Nam trở thành nước xuất khảo gạo số 1 thế giới,vượt qua Thái
Lan.
Diện tích, sản lượng cây công nghiệp tăng nhanh so với năm 2000, cao-su diện
tích tăng 9,5%, sản lượng tăng 37,6%; hồ tiêu diện tích tăng 83,2%, sản lượng tăng
87,8%; hạt điều diện tích tăng 44,3%, sản lượng tăng 205,3%; chè diện tích tăng
35,3%, sản lượng tăng 54,9%; diện tích cây ăn quả tăng 1,4 lần; bông vải diện tích
tăng 42,5%, sản lượng tăng 57,4%; đậu tương diện tích tăng 47,1%, sản lượng tăng
62,2%. Các loại cây công nghiệp có lợi thế xuất khẩu hầu hết đều tăng về diện tích,
sản lượng và kim ngạch xuất khẩu.
Chăn nuôi tăng bình quân 10%/năm; tỷ trọng giá trị chăn nuôi trong nông
nghiệp tăng từ 19,3% lên 21,6%. Ðàn bò, nhất là bò sữa tăng nhanh, đạt 95 nghìn con,
sản lượng sữa tươi tăng gấp 3 lần. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng 2,0 lần, sản
lượng khai thác tăng 1,2 lần (Website: Bộ Ngoại giao Việt Nam)
- Mục tiêu phấn đấu chung của cơ sở giáo dục đại học và cao đẳng của Việt
Nam là thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 142 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nghị quyết này chỉ rõ những mục tiêu giáo dục như sau:
" Xây dựng cho được một độ ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và quản lý kinh
tế đông đảo vững mạnh, ngày càng hoàn chỉnh về trình độ và ngành nghề, vừa có
phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Đảng, với giai cấp công nhân, với
dân tộc, liên hệ chặt chẽ với công nông, vừa có trình độ khoa học kỹ thuật và nghiệp
vụ giỏi, nắm vững những quy luật của tự nhiên và quy luật xã hội, có năng lực tổ chức
và động viên quần chúng, đủ sức giải quyết những vấn đề khoa học, kỹ thuật và quản
lý kinh tế do thực tế nước ta đề ra và có khả năng tiến kịp trình độ khoa học, kỹ thuật
tiên tiến trên thế giới."
Việt Nam hoàn toàn có khả năng hoàn thành Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ
(MDG) về phổ cập giáo dục tiểu học trước năm 2015.
Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống giáo dục đầy đủ các cấp học ở mọi

vùng, miền với nhiều loại hình trường lớp với số lượng học sinh đến trường ở các cấp
3
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
ngày một tăng. Năm học 2004 - 2005, đã có hơn 22 triệu học sinh, sinh viên theo học
trong hơn 37.000 cơ sở giáo dục - đào tạo.
Ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo dục và đào tạo đã tăng từ 15% năm 2000
lên 18% năm 2005 với cơ cấu tăng chi cho những nhiệm vụ trọng tâm của ngành như
đổi mới chương trình, bồi dưỡng giáo viên, tăng cường giáo dục miền núi.
Các dự án ODA trong giáo dục đào tạo cũng đã dành phần lớn cho giáo dục cơ
bản và đang được triển khai với tổng vốn vay hàng trăm triệu USD. Việt Nam cũng
đang tiến hành một dự án đặc biệt "Dự án giáo dục tiểu học cho trẻ có hoàn cảnh khó
khăn" với khoản kinh phí lớn nhằm tạo mọi cơ hội, điều kiện cho những trẻ có hoàn
cảnh khó khăn được đi học. Dự án đã được triển khai tại 219 huyện khó khăn thuộc 40
tỉnh trong cả nước với gần 15.000 điểm trường.
- Từ năm 2006 đến nay, cả nước đã mở mới được 11.874 km đường giao thông
nông thôn và nâng cấp được 32.546 km; xây dựng 2.365 cầu/ 53.352md cầu các loại
và 14.125/353.140 m cống. Tổng số vốn huy động được là 13.942 tỷ đồng; Huy động
được hơn 48 triệu ngày công lao động. Ngành Giao thông vận tải đã và đang triển
khai dự án giao thông nông thôn 3 tại 33 tỉnh miền Bắc, miền Trung và Duyên hải
Nam Trung bộ với tổng mức vốn đầu tư 150 triệu USD để xây dựng khoảng 2.150 -
4.150 km đường giao thông nông thôn
Bên cạnh việc phát triển kết cấu hạ tầng, ngành Giao thông vận tải còn tạo ra
những bước phát triển vượt bậc trong lĩnh vực vận tải. Việc đi lại của người dân đã có
sự tham gia của rất nhiều loại hình, phương thức vận chuyển, đáp ứng những yêu cầu
hết sức đa dạng của thị trường. Ngành Giao thông vận tải còn có bước tiến nhanh
trong lĩnh vực công nghiệp cơ khí như: Đóng tàu, sản xuất ô tô…
Tính đến đầu năm 2010, đội tàu biển Việt Nam gồm 1.654 tàu biển, trong đó có
450 tàu biển hoạt động tuyến quốc tế, với tổng trọng tải đạt 6,2 triệu DWT. Trong 3
năm gần đây, đội tàu biển Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ về số tấn trọng tải,
với tốc độ tăng bình quân 20% / năm. Đội tàu Việt Nam hiện đứng vị trí 60/152 quốc

gia có tàu mang cờ có quốc tịch và xếp thứ 4 trong 10 nước ASEAN, sau Singapore,
Indonesia, Malaysia. Về tuổi tàu, đội tàu Việt Nam “trẻ” thứ 2 sau ASEAN, trung bình
1,29 tuổi….
Vậ̣n tải hàng không ngày càng khẳng định về vị thế, đóng góp quan trọng vào
sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn 2005-2009, thị trường hàng không tăng
trưởng bình quân 14,2% về hành khách và 10,7 % về hàng hóa. Năm 2009, sản lượng
hàng hóa, khách thông qua các cảng hàng không, sân bay Việt Nam là 26,16 triệu lượt,
gấp 1,8 lần so với năm 2005 (năm 2010 dự kiến đạt 30 triệu lượt khách) và gần nửa
triệu tấn hàng hóa gấp 1,5 lần năm 2005. Hãng hàng không Quốc gia Việt Nam đã
khai thác 40 đường bay quốc tế đến 26 thành phố của 15 quốc gia và vùng lãnh thổ…
Ngày 10/6/2010, Hãng hàng không Quốc gia Việt Nam Vietnam Airlines chính thức
gia nhập Liên minh Hàng không toàn cầu Sky Team. Đây là sự ghi nhận hội nhập sâu
của Hàng không Việt Nam với quốc tế…
4
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
Về công nghiệp sản xuất ô tô, sản phẩm đạt được trong 3 năm gần đây là 8.780
xe chở khách và xe buýt các loại; 38.470 ô tô tải các loại; Sản xuất và lắp ráp xe gắn
máy đạt tỷ lệ hóa trên 70% với 209.000 xe gắn máy…
Lĩnh vực bảo đảm an toàn giao thông, đã có những chuyển biến tích cực, đặc
biệt trong những năm gần đây. Nhiều chính sách, biện pháp đã được ngành tham mưu
cho Đảng, Chính phủ được ban hành và thực thi một cách mạnh mẽ, quyết liệt nên
bước đầu đã kiềm chế sự gia tăng tai nạn giao thông, bảo đảm sự bền vững của phát
triển.
Hiện nay, nhiều dự án, công trình giao thông vận tải đang được triển khai trên
khắp đất nước như: Đường Hồ Chí Minh (giai đoạn 2), đường cao tốc Nội Bài – Lào
Cai, đường cao tốc Hà Nội – Hải Phòng (Quốc lộ 5B), các dự án đường bộ cao tốc
Bắc – Nam, cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong, dự án cải tạo luồng cho tàu biển
có trọng tải lớn vào sông Hậu, nhà ga sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, Cần Thơ.
Trên khắp đất nước Việt Nam, nhiều công trình giao thông vận tải lớn, có ý
nghĩa đã hoàn thành như: Những cây cầu lớn (Bãi Cháy, Thanh Trì, Vĩnh Tuy, Rạch

Miễu, Hàm Luông, Cần Thơ), mạng lưới quốc lộ Bắc –Nam, 38 cầu giao thông nông
thôn đồng bằng sông Cửu Long, cầu Thuận An, cầu Tư Hiền, cầu Suối Long, Quốc lộ
37, vận tải thủy từ Hải Phòng đến Thủy điện Sơn La, cảng cái lân, Đài thông tin
Duyên hải, hệ thống Đèn biển Việt Nam, Đội tàu SAR tìm kiếm cứu nạn trên biển,
đường cất hạ cánh, đường lăn sân đỗ cảng hàng không Liên Khương, Cảng hàng
không Chu Lai…
Các dự án công trình giao thông vận tải này đã và đang phục vụ cho mục tiêu
đưa nước ta trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 và các mục tiêu phát triển của
những năm tiếp theo (Nguồn: giaithuong.vn)
- Kết quả đợt tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 cho thấy: Dân số Việt
Nam đạt 85,8 triệu người, đứng thứ 3 ở khu vực ĐÔng Nam Á và thứ 14 trong số
những nước đông dân nhất thế giới. Kết quả này cho thấy: Sau 10 năm (từ 1999 đến
2009), dân số nước ta tăng thêm 9,47 triệu người. Như vậy, trung bình mỗi năm, dân
số nước ta tăng gần 1 triệu người.
Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm giữa 2 cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở
(1999 và 2009) là 1,2%/năm. Trong khi đó, tỷ lệ tăng dân số bình quân năm giữa 2
cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở (1989 và 1999) là 1,7&/năm.
Theo kết quả thống kê lần này, dân số thành thị là 25.374.262 người (chiếm
29,6%), dân số nông thôn là 60.415.311 người (chiếm 70,4%).
Vào năm 1999, tỷ lệ dân số thành thị chiếm 23,5%. Trong số 9,4 triệu người
tăng thêm từ năm 1999 đến 2009, có đến 7,3 triệu người (chiếm 77%) tăng lên ở khu
vực thành thị.
Tỷ lệ tăng dân số thành thị - nông thôn ngày một chênh lệch. Năm 1999-2009,
dân số thành thị đã tăng lên với tỷ lệ bình quân là 3,4%. Trong khi đó, ở khu vực nông
thôn, tỷ lệ tăng dân số chỉ có 0,4%. (Wesite: VietNamnet)
5
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
HỎI: Thế nào là CMCN. Những thành tựu về KH-CN nửa sau thế kỷ XX –
XXI có tác động như thế nào đến quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở Việt
Nam hiện nay?

ĐÁP:
1.1. Cách mạng công nghiệp là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất; là sự thay
đổi cơ bản các điều kiện kinh tế-xã hội, văn hóa và kỹ thuật, xuất phát từ nước Anh
sau đó lan tỏa ra toàn thế giới.
Trong thời kỳ này, nền kinh tế giản đơn, quy mô nhỏ, dựa trên lao động chân tay được
thay thế bằng công nghiệp và chế tạo máy móc quy mô lớn. Tên gọi "Cách mạng công
nghiệp" thường dùng để chỉ giai đoạn thứ nhất của nó diễn ra ở cuối thế kỷ 18 và đầu
thế kỷ 19. Giai đoạn hai hay còn gọi là Cách mạng công nghiệp lần thứ hai tiếp tục
ngay sau đó từ nửa sau thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20.
1.2. Thành tựu về khoa học - kỹ thuật (xem giáo trình trang 350)
1.3. Tác động của KH-KT đối với quá trình CNH, HĐH đất nước hiện nay.
(Đánh giá từng thành tựu, các mặt đó Việt Nam đã vận dụng, chuyển giao hay ứng
dụng như thế nào vá có tác động ra sao trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, nhìn nhận từ 02 khía cạnh: tích cực lẫn tiêu cực)
1.3.1. Xã hội càng phát triển càng chứng minh một điều rằng: Khoa học và
công nghệ (KH&CN) có vai trò ngày càng sâu sắc, tác động lớn đến nhịp độ tăng
trưởng kinh tế ở nhiều quốc gia. Những năm gần đây, thành quả của KH&CN, đặc
biệt là sự đổi mới công nghệ đã đem đến cho kinh tế, xã hội (KTXH) Việt Nam một
diện mạo mới.
Tăng khoảng 5 lần thu nhập bình quân đầu người
Theo phân tích gần đây của Ngân hàng thế giới ở 38 quốc gia và khu vực, tiến
bộ công nghệ đóng góp 50% vào tăng trưởng kinh tế ở các nước phát triển, hơn 30% ở
các nước đang phát triển. Tại Hàn Quốc, đột phá trong KH&CN giúp KTXH nước này
tăng trưởng mạnh, mức thu nhập bình quân đầu người tăng cao từ 1.040 USD (1977)
lên 3.360 USD sau 10 năm. Đầu tư cho KH&CN của nước này tăng nhanh từ 378
triệu USD lên 5 tỷ USD, tăng 13 lần. Với Trung Quốc, đầu tư cho KH&CN tăng mạnh
từ 0,6% GDP (2001) lên 1,43% GDP (2007) đã tạo đòn bẩy đưa GDP bình quân đầu
người tăng từ 1.047 USD lên 2.604 USD.
Theo tài liệu của TS Cù Chí Lợi, Viện Kinh tế Việt Nam (Viện Khoa học - Xã
hội Việt Nam): Ở nước ta, trong thời kỳ 1998-2002, tỷ trọng đóng góp của yếu tố

KH&CN vào tăng trưởng GDP chiếm gần 23%, kéo mức thu nhập bình quân đầu
người từ vài trăm USD đạt ngưỡng 1.000 USD. Trong khi dân số không ngừng tăng
(từ hơn 50 triệu người năm 1979 lên hơn 85 triệu người năm 2009), diện tích đất canh
tác bị thu hẹp nhưng nhờ áp dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, ngành nông
nghiệp vẫn đóng góp hơn 65% vào tăng trưởng kinh tế nước nhà.
6
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
Đưa kim ngạch xuất khẩu tăng hàng chục lần
Nhiều năm gần đây, những mặt hàng như: lúa gạo, thủy sản, hạt tiêu, cà phê,
cao su luôn đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn cho Việt Nam. Có kết quả này là nhờ
những đóng góp quan trọng của hoạt động KH&CN. Hàng nghìn giống, quy trình sản
xuất mới từ phòng thí nghiệm đã đến với người dân, được ứng dụng rộng rãi, đã và
đang trở thành đòn bẩy thúc đẩy phát triển KTXH.
Trong nông nghiệp, KH&CN đóng vai trò lớn trong lai tạo, nhân giống cây
trồng mới, tăng năng suất thay thế giống nhập ngoại. Nhiều công nghệ mới được ứng
dụng làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, tăng giá trị sản xuất, đưa
nước ta vào nhóm các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo, cà phê, hạt tiêu, điều,
cao su. Đến nay, hơn 170 giống lúa được công nhận, trong đó có nhiều giống lúa lai
tốt như VL20, TH3-3, TH304, HY83, HYT92, HYT100. 90% diện tích đất được trồng
bằng các giống lúa cải tiến. Năng suất lúa bình quân năm 2007 đạt 49,5 tạ/ha, gấp 2,4
lần năm 1980 và Việt Nam từ chỗ thiếu lương thực triền miên đã trở thành nước xuất
khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới.
Trong thủy sản, các kết quả nghiên cứu về sản xuất giống, nuôi trồng và chế
biến thủy sản đã đạt trình độ tương đương của thế giới và khu vực; nâng kim ngạch
xuất khẩu lên 4,4 tỷ USD (2008), gấp 22 lần năm 1990. Các mặt hàng thủy sản chế
biến xuất khẩu của Việt Nam bảo đảm yêu cầu về chất lượng thị trường Nhật Bản, EU
và Mỹ.
Với y tế, KH&CN đã nâng trình độ y học của nước ta lên ngang tầm với các
nước trong khu vực và thế giới. Đến nay, Việt Nam đã chủ động sản xuất được 9/10
loại vắc-xin phục vụ tiêm chủng mở rộng, giảm tỷ lệ mắc và tử vong của nhiều bệnh

như bại liệt, viêm não… Các nhà khoa học cũng làm chủ nhiều quy trình chẩn đoán,
điều trị hiệu quả nhiều bệnh mới phát sinh, nguy hiểm như SARS, cúm A/H5N1.
Nhiều công nghệ kỹ thuật cao (xử lý tế bào gốc, tạo da để chữa bỏng…), phác đồ điều
trị tiên tiến đã được áp dụng trong chuyên khoa tim mạch, sản, ngoại khoa.
Trong công nghiệp, KH&CN giúp cải tiến, đổi mới công nghệ của các ngành,
lĩnh vực và đang chứng tỏ hiệu quả trong thời gian qua. Việt Nam đã sản xuất được
nhiều thiết bị cơ khí chính xác, siêu trường, siêu trọng; làm chủ công nghệ đóng tàu
trọng tải lớn… Từ kết quả nghiên cứu của một số chương trình KH&CN trọng điểm,
Việt Nam đã thiết kế, chế tạo thành công máy biến áp 220 kV - 250 MVA với giá
thành thấp hơn giá nhập khẩu (khoảng 2 triệu USD so với giá nhập khẩu 2,4 triệu
USD).
Dù còn nhiều khó khăn nhưng không thể phủ nhận một thực tế rằng, KH&CN
đã và đang đóng góp thiết thực cho sự phát triển KTXH, xứng đáng là nền tảng cho
CNH, HĐH. Đóng góp của KH&CN đã kéo thu nhập bình quân đầu người của Việt
Nam từ vài trăm USD đến ngưỡng 1.000 USD.
7
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
13.2. Tương tự như tác động của khoa học và công nghệ trong thế kỷ thứ XVII,
khoa học và công nghệ trong những năm cuối của thiên niên kỷ thứ hai đã góp phần
tạo nên một diện mạo mới cho nền kinh tế toàn cầu.
Trước hết, khoa học công nghệ làm thay đổi phương thức quản lý sản xuất, bao
gồm từ việc tổ chức sản xuất đến huy động nguồn lực. Việc tổ chức sản xuất đã được
hỗ trợ một cách đắc lực bởi công nghệ truyền thông và thông tin như hệ thống quản lý
dữ liệu trên mạng nội bộ, thư điện tử… Với các công cụ này, một Chính phủ điện tử
có thể thực hiện hoạt động quản lý điều hành quốc gia hiệu quả hơn; hoặc các nhà
quản lý doanh nghiệp có thể giám sát được hoạt động sản xuất và kinh doanh không
chỉ của một văn phòng, xưởng máy, nhà máy mà còn của cả các chi nhánh của công ty
trên quy mô một quốc gia hoặc toàn cầu, gần như tức thì, để có thể có những quyết
sách kịp thời. Khả năng này cho phép các công ty đa quốc gia ngày càng mở rộng hoạt
động của mình trên thế giới. Quan trọng hơn cả, nhà quản lý có thể bỏ được nhiều

khâu trung gian trong điều hành sản xuất, mà vẫn mở rộng được quy mô sản xuất.
Theo thống kê của Hal Varian, Robert E.Litan, Anderw Elder và Jay Shuter tại một
nghiên cứu khảo sát năm 2002 mang tên “Nghiên cứu về tác động của mạng” đối với
lợi ích kinh tế của các ngành công nghiệp tại Mỹ, Anh, Pháp và Đức thì tính từ năm
1998 đến thời điểm kết thúc cuộc điều tra, các tổ chức, công ty của 4 nước trên đã tiết
kiệm được 163,5 tỷ USD thông qua ứng dụng mạng Internet vào hoạt động. Như vậy,
đầu ra của hàm sản xuất đã tăng thực tế thông qua khoản tiết kiệm này.
Việc quản lý các vấn đề toàn cầu khác cũng có những bước chuyển mạnh mẽ với
các ứng dụng của công nghệ truyền thông và thông tin. Một mặt, chức năng và vai trò
của Nhà nước có những thay đổi so với vai trò truyền thống. Một mặt, “Chính phủ
điện tử” trong một “nền kinh tế điện tử”, theo cách gọi của một số học giả, sẽ chuyển
từ vai trò lãnh đạo và điều phối. Mặt khác, thông tin được phổ biến nhanh chóng và
rộng rãi hơn đã làm quá trình hoạch định và quyết sách có sự tham gia tích cực hơn
của các nhóm lợi ích khác nhau như các nhóm lợi ích về kinh tế, về môi trường, xã
hội… Hệ quả là, thông qua các phương tiện truyền thống, thông tin, các nhóm lợi ích
của từng quốc gia liên kết với nhau và kết nối một cách hiệu quả với các nhóm tương
đồng ở các quốc gia khác và tạo nên một mạng lưới toàn cầu trong việc tham gia vào
quá trình quản lý, hoạch định và quyết sách toàn cầu. Tác động của các nhóm lợi ích,
của các tổ chức phi Chính phủ đến tiến trình đàm phán các hiệp định của Tổ chức
Thương mại thế giới là một ví dụ điển hình về vai trò của các nhóm lợi ích trong quản
lý các vấn đề toàn. Nói một cách tổng quát hơn, vai trò của các Chính phủ quốc gia sẽ
bị tác động nhiều hơn dưới tác động của công nghệ truyền thông và thông tin trong
giai đoạn toàn cầu hóa.
Thứ hai, khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, là công cụ đắc lực
để huy động các nguồn lực sản xuất một cách có hiệu quả nhất. Công nghệ thông tin,
với hệ thống internet, thư điện tử, fax… là những công cụ lý tưởng để truyền đạt ý
tưởng, tri thức, và kinh nghiệm… nhanh và rộng khắp… Thực tế, “Cách mạng công
nghệ trong lĩnh vực giao thông và truyền thông đã xáo dần đi những rào cản về không
8
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012

gian và thời gian”. Với công nghệ thông tin, việc quản lý các luồng vốn cũng trở nên
hiệu quả hơn. Các khoản vốn lớn được lưu động và chu chuyển từ quốc gia này sang
quốc gia khác với sự trợ giúp của thị trường chứng khoán toàn cầu và các ngân hàng
điện tử là yếu tố mạnh mẽ thúc đẩy đầu tư. Hơn thế, công nghệ thông tin còn giúp huy
động và di chuyển lực lượng lao động trên quy mô toàn cầu. Trên thực tế, một lao
động đang sống ở quốc gia này có thể vẫn được huy động để được sử dụng sức lao
động của mình dưới hình thức chất xám, thông qua mạng internet.
Như trên đã trình bày, việc ứng dụng công nghệ thông tin như một đầu vào của
sản xuất và công cụ huy động nguồn lực đã làm tăng vượt bậc năng suất lao động.
Hàm lượng tri thức trong sản phẩm ngày càng tăng so với hàm lượng vốn, lao động và
nguyên vật liệu. Năng suất lao động ở Mỹ chẳng hạn, đã tăng trung bình 0,17%/năm
từ năm 1996 đến năm 2000, với số tiền tiết kiệm trong thời gian này là 72,8 tỷ USD.
Dự kiến năng suất lao động sẽ tăng trung bình 0,43%/năm từ năm 2001 đến 2010 với
tổng giá trị tiết kiệm là 452,5 tỷ USD. Với tác động trên, khoa học và công nghệ đã
chứng minh vai trò quyết định của mình trong tiến trình toàn cầu hóa kinh tế thế giới.
Thứ ba, khoa học và công nghệ còn là công cụ đắc lực trong thương mại quốc tế
và đã mở ra một phương thức giao dịch và thanh toán chưa từng có trong lịch sử kinh
tế thế giới. Thương mại điện tử bùng nổ với 2 tỷ USD năm 1996, 100 tỷ USD năm
1999, và ước tính khoảng 3.000 tỷ USD năm 2003. Với châu Âu, dự kiến thương mại
điện tử sẽ tăng khoảng 100%/năm và đạt mức 1.500 tỷ USD vào năm 2004. Song song
với thương mại điện tử, những tiến bộ trong ngành giao thông vận tải cũng góp phần
làm giảm chi phí vận chuyển và là yếu tố đáng kể trong đẩy mạnh thông thương toàn
cầu.
Thứ tư, khoa học và công nghệ cũng đã làm thay đổi cơ cấu của nền kinh tế toàn
cầu. Với cuộc cách mạng công nghiệp, cơ cấu của nền kinh tế thế giới đã dần chuyển
từ lĩnh vực nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng của ngành
dịch vụ trong GDP thế giới càng tăng mạnh trong những năm cuối của thiên nhiên kỷ
thứ hai với sự xuất hiện của ngành công nghiệp điện toán. Hàng loạt các sản phẩm
liên quan tới công nghệ thông tin ra đời như các phần cứng, phần mềm của máy tính,
phụ kiện… đã tạo cơ hội cho nhiều nước đang phát triển tận dụng nguồn lực của

mình. Báo cáo mang tên “Đối tác và kết nối trong phát triển khoa học và công nghệ”
của Liên hợp quốc (UNCTAD) năm 2002 cho thấy: “Một số lượng đáng kể các hãng ở
các nước đang phát triển đã có thể tham gia vào các công đoạn khác nhau của thị
trường công nghệ thông tin quốc tế nhờ vào những cơ hội toàn cầu về sản xuất sản
phẩm công nghệ thông tin (cả phần cứng và phần mềm) đang được tạo ra bởi những
tiến bộ công nghệ”. Như vậy, tự thân khoa học và công nghệ đã tạo nhu cầu cho tăng
trưởng các nền kinh tế ở những mức độ khác nhau trên thế giới. Mức đầu tư cho
nghiên cứu và triển khai (R&D) của các nước phát triển chiếm 2-3% GDP; trong khi
đó, chỉ một số ít nước đang phát triển dành được 0,5% GDP cho lĩnh vực này. Tương
ứng với mức đầu tư trên, Mỹ đứng đầu danh sách xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao
với 41.859 triệu USD năm 1985. Con số này đạt 170.513 triệu USD năm 1998.
9
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
Như trên đã trình bày, những tiến bộ về khoa học và công nghệ đã góp phần làm
thay đổi diện mạo nền kinh tế thế giới, tạo ra một cơ sở hạ tầng kinh tế toàn cầu mới;
qua đó, từng bước phát triển một quan hệ kinh tế mới giữa các nước trên quy mô toàn
cầu; làm cho các nền kinh tế trên thế giới trở nên gắn kết với nhau hơn, phụ thuộc và
bổ trợ lẫn nhau nhiều hơn. Nền kinh tế của bất cứ một quốc gia nào sẽ không thể
không chịu tác động và phụ thuộc vào những thay đổi của nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là khoa học công nghệ có mang lại cơ hội cho tất
cả các tổ chức kinh tế, các quốc gia một cách công bằng trên quy mô toàn cầu. Xét
theo quan điểm của nhà tư bản, sở hữu các thành tựu của khoa học và công nghệ cũng
chính là sở hữu vốn. Đó là vốn tri thức – một yếu tố đầu vào quan trọng trong mạng
lưới sản xuất và phân phối sản phẩm toàn cầu. Với cách đánh giá như vậy, quốc gia
nào có khả năng đầu tư nhiều vào khoa học và công nghệ, quốc gia đó sẽ có nhiều cơ
hội để gặt hái thành quả của khoa học công nghệ và cũng đồng thời có lợi thế nhiều
hơn trong việc tác động tới xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới theo hướng
thuận lợi nhất cho mình. Sự khác biệt là rõ ràng khi so sánh một số tiêu chí sau: Hàm
lượng giá trị tri thức trong sản phẩm của các nước phát triển và đang phát triển; lượng
vốn tri thức đầu vào trong quá trình sản xuất; và giá trị sản phẩm được phân phối trên

cơ sở công nghệ thông tin.
Mặt khác, xét từ góc độ kinh tế vi mô, công nghệ thông tin làm thị trường trở
nên năng động hơn; song cũng chính nó làm thị trường trở nên không hoàn hảo.
Thương mại điện tử, với những lợi thế rõ rệt về giá (không thuế, hoặc thuế thấp,
không mất chi phí lưu kho, cửa hàng hoặc trung gian…) đã vô hình chung tạo một lợi
thế cạnh tranh gần như tuyệt đối với các sản phẩm cùng loại trên thị trường truyền
thống. Việc huy động vốn qua thị trường chứng khoán, qua các ngân hàng hoặc các
khoản đầu tư đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu tư tiền tệ. Cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ châu á năm 1997 là một điển hình cho xu hướng này.
Khoa học và công nghệ là nhân tố cơ bản, khởi đầu tiến trình toàn cầu hóa
mạnh mẽ trong những năm cuối của thiên niên kỷ thứ hai. Tuy nhiên, bên cạnh yếu tố
khoa học và công nghệ, còn nhiều yếu tố kinh tế và chính trị khác không kém phần
quan trọng cũng đã góp phần đẩy nhanh tiến trình này. Để khắc hoạ lại bức tranh
toàn cảnh về tiến trình toàn cầu hóa kinh tế trong thời gian qua, các học giả, các nhà
nghiên cứu và quyết sách không thể không tiếp tục đầu tư nghiên cứu sâu hơn về các
vấn đề này.
HỎI: Hãy cho biết những nét chính trong tư tưởng của các nhà Khai sáng về
vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền từ XVI – XVIII. Việt Nam đã vận dụng các tư
tưởng đó như thế nào trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện
nay?
ĐÁP:
10
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
Thời kì cận đại, tư tưởng về NNPQ thực sự có bước phát triển mới. Nó đã trở
thành một học thuyết và đã trở thành hiện thực, được vận dụng ở một số quốc gia
phương Tây, mà ta gọi là NNPQ TBCN hay NNPQ Tư sản để phân biệt với NNPQ
XHCN sau này. Sự phát triển lí luận học thuyết NNPQ Tư sản chịu ảnh hưởng của hai
luồng tư tưởng: Một là, sự khẳng định ngày càng cao những quan điểm mới về tự do
của con người, thông qua việc tôn trọng tính tối cao của pháp luật - pháp luật tự nhiên.
Hai là, xác lập mói tương quan giữa quyền lực chính trị mới giữa giai cấp tư sản đang

lên và chế độ phong kiến đã lỗi thời. Hơn nữa, cần loại trừ tình trạng (khả năng ) độc
quyền, bán quyềnlực trong cơ quan hay cá nhan cụ thể. Học thuyết NNPQ vì lẽ đó gắn
liền với chủ nghĩa lập hiến tư sản.[3]
Thời kì này, học thuyết NNPQ được bổ sung, hoàn thiện, phát triển qua các giai
đoan lịch sử khác nhau. Đó là lí thuyết về pháp quyền tự nhiên của các nhà triết học
Hà Lan thế kỷ XVI-XVII với các đại diện: B. Spinoza (1632-1677), H. Grotius (1583-
1645);lí thuyết về tự do của các nhà duy vật Anh thế kỷ XVII với các đại diện như : J.
Locke (1632-1704)-"người thể hiện rõ rệt nhất các quan điểm pháp quyền của xã hội
TBCN" (Nguyễn Văn Niên), T. Hobbs (1588-1679), J.S.Mill (1806-1873); lí thuyết về
phân quyền, chủ quyền nhân dân và khế ước xã hộ của các nhà khai sáng Pháp thé kỷ
XVIII với các đại diện: Montesquieu - người đưa ra học thuyết phân quyền được các
nước Tư sản sau này áp dụng dưới các hình thức khác nhau, Rousseau (1712-1788) -
người đưa ra lí thuyết về chủ quyền nhân dân và "khế ước xã hội"; lí thuyết về pháp
quyền của các nhà triết học cổ diển Đức với các dại diện như : I. Kant (1724-1804),
Hegel (1770-1831) Bước sang thế kỷ XIX-XX, lí thuyết về NNPQ tiếp tục được các
nhà triết học Đức quan tâm như: Mohn và Valker, Stein [4]
"Mặc dù với những góc nhìn và quan niệm hết sức đa dạng nhưng các học thuyết này
đều mang những nội dung cơ bản và chung nhất sau: Sự hiện diện của chủ nghĩa lập
hiến và coi đó là bằng chứng hữu hình về sự đồng thuận của người dân; Nhà nước
phải tự đặt dưới pháp luật không hành động độc đóan; Nhà nước phải tôn trọng và
bảo vệ các quyền tự do của con người và quyền công dân; quyền lực Nhà nước được
chia thành ba quyền: quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp giao cho ba cơ quan Nhà
nước tương ứng theo nguyên tắc quyền lực giám sát kiềm chế quyền lực"[5]
Học thuyết NNPQ không chỉ có những tư tưởng của các triết gia tư sản mà còn
có cả sự đóng góp của những nhà kinh điển CNXH. Marx, Engels và Lenin dù không
chính thức nói đến NNPQ như là một trong những nội dung chính yếu trong học
thuyết của mình nhưng các ông luôn quan tâm đến Nhà nước và cách mạng, Nhà nước
và pháp luật. Trong các bài viết,bài nói ít nhiều họ đã thể hiện tư tưởng về pháp
quyền. Đó là những tư tưởng đầu tiên về NNPQ XHCN.
Quan điểm của Marx và Engels được thể hiện trong các tác phẩm như: "Sự

khốn cùng của triết học", "Phê phán triết học pháp quyền Hegel" Marx chỉ ra cơ sở xã
hội như nền tảng vật chất của pháp luật:"( ) xã hội không lấy pháp luật làm cơ sở. Đó
chỉ là những ảo của những nhà Luật học. Ngược lại, pháp luật phải lấy xã hội làm cơ
11
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
sở, pháp luật phải là sự biểu hiện của lợi ích và nhu cầu chung của xã hội do một
phương thức sản xuất vật chất nhất định sản sinh ra, mà không phải do ý muốn tùy
tiện của một cá nhân". Marx cho rằng "chế độ dân chủ không phải con người tồn tại vì
luật pháp mà luật pháp tồn tại vì con nguời" ”
Thực tế, với việc trình bày luật pháp, quyền lực của luật pháp trong tương quan
với sở hữu, sự phát triển, sự phát triển công, thương nghiệp với mỗi giai cấp, quan
điểm của các ông là về tính giai cấp của pháp luật , pháp quyền nói riêng và Nhà nước
noí chung"[6]. Marx và Engels đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới, trong đó "tự do
của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người", là "sự phát triển
tòan diện của con người". Có thể nói,"vì con người" và "giải phóng con người" là mục
tiêu của một NNPQ kiểu mới.
Về mặt Nhà nước, Marx và Engels chủ trương xác lập một chế độ dân chủ triệt
để, "do nhân dân tự quy định". Trong xã hội mới sẽ tạo ra nhiều điều kiện để giải
phóng cá nhân, rằng "xã hội sẽ không giải phóng cho mình được nếu không giải
phóng mỗi một cá nhân riêng biệt" (Engels) và xã hội đó phải được xây dựng trên cơ
sờ pháp luật, Engels viết: "đối với chúng ta điều bất di bất dịch là quan hệ giữa người
cầm quyền và người bị lãnh đạo phải được thiết lập trên cở sở pháp luật"[7]
Lenin tiếp thu và phát triển tư tưởng của Marx và Engels và đã đưa học thuyết
của các ông đến mức độ hoàn bị hơn. Về NNPQ, trong tư tưởng về Nhà nước và cách
mạng, về xây dựng xã hội mới của Lenin cũng có chứa yếu tố pháp quyền.Lenin
hướng đến một xã hội dân chủ rộng rãi, giải phóng con người và phát triển tòan diện
con người. Lenin nói: "Nếu không rơi vào không tưởng thì không thể nghĩ rằng sau
khi lật đổ chủ nghĩa Tư bản, người ta tức khắc có thể làm việc cho CNXH mà không
cần phải có một tiêu chuẩn pháp quyền nào cả".
Trong việc xây dựng Nhà nước Xôviết, Lenin đã nhiều lần đòi hỏi bộ máy

chính quyền phải thật sự là của nhân dân lao động, phải thật sự bảo đảm dân chủ, phải
dùng pháp luật (pháp luật Xô viết) để đấu tranh chống sự lề mề, quan liêu, hối lộ (tức
là phải sử dụng pháp luật, đưa pháp luật lên trên hết) [8] Như vậy, các nhà kinh điển
của CNXH dù không xem NNPQ là bộ phận trong học thuyết của mình nhưng đâu đó
trong toàn bộ học thuyết vĩ đại ấy vẫn có những yếu tố pháp quyền trong tư tưởng của
các ông, góp phần làm phong phú các tư tưởng về NNPQ và đặt ra những ý tưởng
mầm mống về xây dựng NNPQ XHCN.
Như vậy, NNPQ là một Nhà nước thượng tôn pháp luật và phải bảo đảm dân chủ. Lịch
sử NNPQ đã có từ xa xưa và ngày càng hoàn thiện qua các giai đọan lịch sử khác
nhau và trở thành học thuyết vào thế kỷ XVII- XVIII, gắn liền với Nhà nước Tư sản,
nền dân chủ Tư sản.Bên cạnh đó, các nhà kinh điển của CNXH cũng đã có sự đóng
góp nhất định vào học thuyết NNPQ nói chung, và định hướng cho việc xây dựng Nhà
nước kiểu mới ở các nước XHCN - NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân sau này.
12
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
Nghiên cứu lịch sử tư tưởng về NNPQ chúng ta có thể rút ra những dấu hiệu cơ bản
chung nhất của một NNPQ nói chung gồm các yếu tố sau đây:
- Sự thống trị của pháp luật trong đời sống xã hội
- Sự ràng buộc của Nhà nước và cơ quan Nhà nước bởi pháp luật
- NNPQ định rõ trách nhiệm hai chiều giữa Nhà nước và công dân trên cở sở pháp
luật
- NNPQ có những hình thức kiểm tra, giám sát có hiệu quả việc tuân theo pháp luật.
MỘT SỐ NHÀ “KHAI SÁNG”
a) VÔNTE:
(Voltaire; tên thật: François Marie Arouet; 1694 - 1778), nhà văn, nhà triết học
Pháp, sinh ở Pari trong một gia đình tư sản phong lưu. Sau khi tốt nghiệp trung học,
từ chối không học luật theo ý muốn của gia đình. Làm việc một thời gian ngắn trong
ngành ngoại giao và toà án. Bắt đầu sự nghiệp văn chương bằng những bài thơ trào
phúng, châm biếm các nhân vật tai to mặt lớn. Hai lần bị bắt giam vào ngục Baxti
(Bastille). Sau khi được tha, sang Anh. Năm 1729, trở về nước, mang theo những ấn

tượng tốt đẹp về nước Anh. Sau vở bi kịch "Ơđip" (1718), viết anh hùng ca "La
Hăngriat" (1728), tập "Luận về sử thi" (1728), một số vở bi kịch bắt nguồn cảm hứng
từ Sêchxpia (W. Shakespear), vv. Xuất bản bí mật một số công trình triết học và sử
học, bắt tay viết "Thế kỉ của Lu-i XIV" (1751). Bị đàn áp phải bỏ trốn, đến sống tại
nhà bà Đuy Satơlê (du Châtelet) ở Xirây (Cirey). Từ 1734 đến 1744, viết một số tác
phẩm triết học và hàng loạt bi kịch, hài kịch. Những năm 1744 - 47, về triều đình làm
quan ngự sử, gia nhập Viện Hàn lâm. Tháng 7.1750, nhận lời mời của vua Phổ
Frêđêrich II (Frédéric II) sang Pôtxđam (Potsdam). Năm 1753, mâu thuẫn với vua
Phổ, trở về Pháp. Thời gian này, ông có hai truyện nổi tiếng "Zađich hay số mệnh"
(1747), "Canđiđơ hay chủ nghĩa lạc quan" (1759). Từ 1760, sống tại Fecnây (Ferney)
ở biên giới Pháp - Thuỵ Sĩ, tiếp tục viết truyện và sáng tác kịch. Năm 1778, về Pari và
mất tại đó. Vônte là một trong những ngọn cờ của phong trào Ánh sáng Pháp thế kỉ
18.
b) RUXÔ J. J. :
(Jean - Jacques Rousseau; 1712 - 78), nhà triết học, nhà văn, nhà sân
khấu; một trong những ngọn cờ tư tưởng của thế kỉ Ánh sáng Pháp.
Vì theo đạo Tin Lành nên tổ tiên của Ruxô phải rời quê, một vùng
gần Pari, sang cư trú ở Giơnevơ từ 1549. Mẹ mất sớm, sống với
cha là thợ đồng hồ. Thuở nhỏ, không được học hành chu đáo. Năm
1728, bỏ Giơnevơ ra đi tìm cuộc sống tự do, lang thang nhiều nơi,
kiếm sống bằng nhiều nghề.
Là một người theo thuyết tự nhiên thần và nhị nguyên luận, ông đề cao tình yêu đối
với thiên nhiên và có một quan niệm bi đát về xã hội, cho rằng xã hội văn minh làm
13
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
hư hỏng con người. Trong các tác phẩm “Luận về nguồn gốc và cơ sở của sự không
bình đẳng giữa người và người” (1755), “Thư gửi cho Đalambe về sân khấu”(1758),
Ruxô đã tố cáo sự bất bình đẳng giữa người với người, cho rằng ở “trạng thái tự
nhiên” thì không tồn tại hiện tượng đó. Tác phẩm “Khế ước xã hội” (1762) đã làm cho
Ruxô có vai trò quan trọng trong triết học chính trị. Ruxô đã đi xa hơn Môngtexkiơ S.

L. (Ch. L. Montesquieu) và Vônte (Voltaire) trong việc bảo vệ tự do và bình đẳng trên
cơ sở hoà giải quyền tự do cá nhân với những yêu cầu của đời sống xã hội. Theo ông,
cần thiết lập một trật tự xã hội “tự nhiên”. Đây là một học thuyết về nhà nước mà nền
tảng là sự hiệp thương giữa mọi người, nhân dân có quyền nắm chính quyền, lật đổ
chúa phong kiến. “Khế ước xã hội” của Ruxô đã gợi ý cho việc soạn thảo “Tuyên
ngôn về nhân quyền” - tác phẩm thể hiện quan điểm chính trị của cuộc cách mạng tư
sản, có ảnh hưởng đến các nhà triết học lớn của Đức như Kantơ I. (I. Kant) và Fichtơ
I. G. (J. G. Fichte). Năm 1742, Ruxô đệ trình lên Viện Hàn lâm Khoa học Pháp “Dự
án cải cách phương pháp kí âm” nhưng không được chấp nhận. Năm 1750, cho in
“Luận về khoa học và nghệ thuật”, trong đó phủ nhận vai trò của khoa học và nghệ
thuật. Tiểu thuyết “Juyli hay là nàng Êlôidơ mới” (1761), “Êmin, hay nền về giáo
dục” (1762); tự truyện “Thú tội” (1782 - 89), “Những mơ mộng của một người dạo
chơi cô độc” (1772 - 78) bộc lộ rõ tư tưởng của Ruxô về quan hệ con người trong xã
hội, tạo cơ sở cho sự hình thành tính tâm lí trong văn học Châu Âu. Ruxô là đại biểu
xuất sắc của chủ nghĩa linh cảm trong lí luận văn học và sân khấu, là người có ảnh
hưởng lớn đến toàn bộ nền văn học Châu Âu.
Ruxô còn là tác giả của nhiều vở hài kịch, nhạc kịch, kịch một màn như “Thầy bói
nông thôn” (1752). Ruxô phủ nhận tác dụng tích cực của sân khấu đối với khán giả.
c) MÔNGTEXKIƠ S. L.
(Charles Louis Montesquieu; 1689 - 1755), nhà văn, nhà triết học, xã hội học và sử
học Pháp, người đại diện cho khuynh hướng chính trị của giai cấp tư sản Pháp thế kỉ
18 và có ảnh hưởng lớn đến Cách mạng tư sản Pháp 1789. Ông phê phán nhà thờ và
thần học, nhưng lại cho rằng tôn giáo có một vai trò nhất định trong việc duy trì đạo
đức xã hội. Trong khi phê phán chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp, Môngtexkiơ lại
đồng thời bảo vệ tư tưởng thoả hiệp về việc duy trì một chế độ quân chủ lập hiến ôn
hoà và nêu lên nguyên tắc phân chia quyền lực (thuyết phân quyền: quyền lập hiến,
quyền tư pháp và quyền hành chính); cố gắng tìm cách vạch ra nguyên nhân xuất hiện
các chế độ nhà nước, phân tích các hình thức nhà nước khác nhau, khẳng định luật
pháp phụ thuộc vào hình thức cầm quyền ở mỗi nước. Theo ông, luật pháp không phải
do thượng đế quyết định hay chỉ xuất phát từ một nguyên tắc trừu tượng, như công lí.

Môngtexkiơ là một trong những người sáng lập ra trường phái địa lí trong xã hội học;
ông cho rằng bộ mặt tinh thần của một dân tộc, tính chất của luật pháp của một xã hội
phụ thuộc vào khí hậu, đất đai, bề mặt lãnh thổ mà dân tộc đó sinh sống, nghĩa là phụ
thuộc vào những điều kiện địa lí. Môngtexkiơ cũng nhấn mạnh đến vai trò của môi
trường xã hội mà theo ông, nó được đồng nhất với khái niệm chế độ chính trị và luật
14
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
pháp. Những tác phẩm chính: "Những bức thư Ba Tư" (1721), "Suy nghĩ về nguyên
nhân thịnh suy của người La Mã" (1734), "Về tinh thần của luật pháp" (1748).
d) ĐIĐƠRÔ Đ.
(Denis Diderot; 1713 - 84), nhà triết học duy vật Pháp, nhà văn, nhà tư tưởng của
Cách mạng tư sản Pháp thế kỉ 18, viện sĩ danh dự nước ngoài Viện Hàn lâm Khoa học
Pêtecbua (Nga; 1773). Người tổ chức và biên soạn "Bách khoa thư (hoặc Từ điển
tường giải) các khoa học, nghệ thuật và thủ công nghiệp". Trong các tác phẩm triết
học (cơ sở) "Lá thư về những người mù cho những người sáng đọc" (1749), "Những
suy nghĩ giải thích giới tự nhiên" (1754), " Giấc mơ của Đalambe" (1769), "Những
nguyên tắc triết học của vật chất và vận động" (1770), Điđơrô đã chống lại chủ nghĩa
duy tâm chủ quan. Trong trước tác "Người cháu họ của Ramô" viết khoảng năm 1762,
Điđơrô nêu ra những luận điểm của phép biện chứng. Trong văn học, Điđơrô đấu
tranh cho chủ nghĩa hiện thực [tiểu thuyết "Giăc - kẻ theo thuyết định mệnh và ông
chủ của anh ta" (1773) và truyện ngắn "Nữ tu sĩ" (1760)] mà Điđơrô đã tiến hành
đồng thời trong các tác phẩm phê bình nghệ thuật tạo hình ("Các phòng triển lãm";
1759 - 81) và sân khấu ("Nghịch lí về diễn viên"; 1773 - 78).

Học thuyết Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Trong bài diễn văn tại phiên khai mạc kỳ họp đầu tiên của QH khóa XII vào
ngày 19/7/2007, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã lần đầu tiên chính thức công bố nội
dung của Học thuyết Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa. Học thuyết này khác
với học thuyết tam quyền phân lập vốn là nền tảng của mọi thể chế pháp trị trên thế
giới, là không có sự phân lập giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, mà chỉ

có sự phân nhiệm trong nội bộ các cơ quan nhà nước để đảm nhiệm chức năng lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
Học thuyết này là sự sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc vận
dụng thuyết tam quyền phân lập vào bối cảnh chính trị một đảng cầm quyền đặc biệt ở
Việt Nam. Có thể tóm lược những điểm chính của học thuyết như sau:
1. Quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công giữa các cơ quan
nhà nước để thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp.
2. Nhà nước quản lý đất nước và xã hội theo pháp luật do Quốc hội ban hành,
trong đó hiến pháp và luật pháp là kết quả của sự thể chế hóa đường lối, quan điểm,
chủ trương và chính sách của Đảng.
3. Thẩm quyền của Chính phủ được xác định trên cơ sở phân định những loại
việc Chính phủ chủ động quyết định với những loại việc Ban Chấp hành Trung ương,
Bộ Chính trị và Ban Bí thư trực tiếp quyết định hoặc cho ý kiến định hướng. Cũng
tương tự như vậy, thẩm quyền của chính quyền địa phương được xác định trên cơ sở
15
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
phân định những loại việc do hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân chủ động quyết
định với những loại việc ban chấp hành và ban thường vụ đảng bộ quyết định hoặc
cho ý kiến để hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân thực hiện.
4. Hoạt động tư pháp, kể cả việc đào tạo, quản lý và sử dụng đội ngũ cán bộ tư
pháp, do Đảng lãnh đạo thông qua vai trò của cấp ủy và ban cán sự đảng ở các cơ
quan tư pháp căn cứ quy định của Đảng.
Vì quyền lực nhà nước tập trung và không phân lập nên Quốc hội và Tòa án chỉ
là hai bộ phận của hệ thống cơ quan nhà nước thống nhất, chứ không độc lập tuyệt đối
như cách tổ chức chính thể ở các nước khác. Học thuyết Nhà nước pháp quyền Xã
hội chủ nghĩa khẳng định toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân trên cơ sở
xác lập vai trò đại diện mặc nhiên của Đảng đối với nhân dân nhằm thực thi và bảo vệ
quyền lực đó. Toàn bộ hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp tập trung vào việc
bảo đảm và củng cố vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
Đối với hoạt động quản lý hành chính từ trung ương đến địa phương, Học thuyết Nhà

nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa đề xuất một sự phân định thẩm quyền cụ thể và
tương ứng giữa chính quyền và các tổ chức Đảng cấp trung ương và địa phương. Như
vậy, có hai hệ thống cùng tồn tại để điều hành và cai trị quốc gia, đó là chính quyền và
Đảng, trong đó Đảng vừa lãnh đạo, vừa trực tiếp quyết định.
Hoạt động của các cơ quan tư pháp, tức là tòa án, được đặt dưới sự lãnh đạo
trực tiếp của Đảng trên cơ sở quy định của Ðảng. Cấp ủy Đảng ở địa phương đảm
nhiệm việc lựa chọn để giới thiệu bổ nhiệm thẩm phán cho tòa án các cấp. Thẩm phán
do vậy vừa là đảng viên vừa là công chức trong bộ máy nhà nước. Vì lẽ đó, việc xét
xử của thẩm phán không chỉ dựa vào luật và các bản văn lập pháp khác, mà còn dựa
vào các bản văn lập quy của Chính phủ, Bộ và Ủy ban nhân dân địa phương.
Với sự công bố minh bạch và dứt khoát nội dung của Học thuyết Nhà nước
pháp quyền Xã hội chủ nghĩa như đã nêu trên, vị trí và vai trò của Đảng và Nhà nước
trong chính thể hiện tại được xác lập rõ ràng, giúp tránh tình trạng can thiệp hoặc
chồng lấn công việc giữa hai thiết chế như từ trước đến nay. Tuy nhiên, sự áp dụng
học thuyết này cũng đặt ra những vấn đề mới đối với bản Hiến pháp hiện hành.
Thứ nhất, nếu luật pháp là sự thể chế hóa đường lối và chủ trương của Đảng,
thì vai trò của các đại biểu quốc hội ngoài Đảng trong việc xây dựng luật cần phải xác
định cụ thể. Về mặt pháp lý, những đại biểu ngoài Đảng không có nghĩa vụ tuân thủ
đường lối và chủ trương của Đảng. Vậy để những đại biểu này hành xử quyền hạn của
mình, cần phải có cơ chế giúp họ hiểu và thấm nhuần quan điểm của Đảng đến mức
có thể thể chế hóa thành luật, tất nhiên không chỉ đơn thuần qua vận động, mà phải
bằng con đường hiến định.
Mặt khác, do vai trò chính của các đại biểu quốc hội là đại diện nguyện vọng
của nhân dân, nên vào một thời điểm nào đó và liên quan đến một vấn đề nhất định,
chính sách của Đảng có thể không phản ánh được thực tiễn phát triển của xã hội, thì
các đại biểu quốc hội sẽ thể chế hóa nguyện vọng của nhân dân hay chính sách của
Đảng? Đây là tình huống cần tiên liệu cho hoạt động lập pháp tương lai.
16
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
Thứ hai, tuy vai trò lãnh đạo của Đảng được ghi nhận tại Điều 4 của Hiến pháp 1992,

nhưng cần phải xác định phạm vi vấn đề nào các tổ chức Đảng trực tiếp quyết định và
vấn đề nào chỉ cho ý kiến định hướng. Điều này sẽ giúp tăng cường hơn nữa nguyên
tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối và chủ trương đối với các vấn đề lớn, có
ý nghĩa chính trị quan trọng, và tránh ý kiến dị nghị về mối quan hệ của Đảng và Nhà
nước trong điều hành và quản lý quốc gia.
Thứ ba, nguyên tắc thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo luật có thể gặp
nhiều trở ngại khi trên thực tế sự bổ nhiệm và miễn nhiệm thẩm phán do cấp ủy và
ban cán sự đảng ở các cơ quan tư pháp quyết định căn cứ quy định của Đảng, thay vì
chỉ dựa vào Hiến pháp và luật pháp. Điều này sẽ ảnh hưởng đến nỗ lực cải cách tư
pháp của Chính phủ vì mục tiêu hàng đầu của chương trình cải cách là bảo đảm sự
độc lập của hệ thống tài phán.
Cần phải xác định phạm vi lãnh đạo của Đảng và hiến định các quy định nội bộ
của Đảng để bảo đảm tôn trọng nguyên tắc thẩm phán xét xử độc lập. Điều này cũng
sẽ giúp các thẩm phán có thể chuyên tâm trao dồi nghiệp vụ lâu dài sau khi được bổ
nhiệm, thay vì chỉ tìm cách làm hài lòng một cách ngắn hạn cấp ủy và ban cán sự đảng
để chuẩn bị cho lần xem xét tái bổ nhiệm kế tiếp.
Một điều quan trọng khác là nên tập trung quyết liệt vào việc loại trừ sự buôn
bán và ngả giá công lý giữa các bên tranh tụng. Đừng để người dân nghèo ngay tình
chỉ biết mơ những giấc mơ công lý xa xăm mỗi khi bước chân đến cổng tòa của chính
nhân dân. Điều chúng ta hiện nay thiếu là một công cụ hiến định giúp thanh lọc một
số thẩm phán vừa bất tài vừa tham nhũng.
Cuối cùng, cần nghĩ đến khả năng tu chính Hiến pháp hiện hành để hiến định
mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản và Nhà nước mà Học thuyết Nhà nước pháp quyền
Xã hội chủ nghĩa đã xác lập, nếu không mối quan hệ đó trở nên vi hiến.
HỎI: Phân tích sự tác động của Nho gia đến xã hội Việt Nam hiện nay
(tích cực lẫn hạn chế)?
*Ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo ở nước ta hiện nay
Nho giáo được du nhập vào nước ta và đã tồn tại trong suốt thời kỳ phong kiến.
Trong khoảng thời gian không ngắn đó, lịch sử tư tưởng Việt Nam đã tiếp thu nhiều tư
tưởng khác như Phật giáo, Đạo giáo…. Đã có thời kỳ Phật giáo giữ vai trò chính yếu,

nhưng nhìn chung càng về sau Nho giáo càng chiếm ưu thế và trở thành công cụ tư
tưởng cho các triều đại phong kiến Việt Nam. Do có thời gian tồn tại lâu dài, do được
các triều đại phong kiến tiếp thu và sử dụng có mục đích, cho nên Nho giáo có ảnh
hưởng sâu rộng ở nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, tư tưởng đạo đức Nho giáo đã trở thành cơ
sở cho đạo đức thời phong kiến Việt Nam và ngày nay ảnh hưởng của nó vẫn còn.
Đức Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người có sự đối xử nhân ái,
khoan dung, độ lượng với nhau.
17
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
Đức lễ, với hệ thống các qui định chặt chẽ đã giúp con người có thái độ và
hành vi ứng xử với nhau theo thứ bậc, theo khuôn phép. Xét theo phương diện pháp
luật thì lễ của Nho giáo có tác dụng tích cực trong việc duy trì trật tự, kỷ cương của xã
hội, ngày nay chúng ta có thể kế thừa. Nho giáo quan niệm trong nước cần phải có
pháp lễ (luật pháp) thì nước mới nghiêm; trong gia đình phải có gia pháp thì mới có
trên có dưới. Điều này đã tạo cho con người nếp sống trên kính dưới nhường. Tư
tưởng chính danh giúp cho con người xác định được nghĩa vụ và trách nhiệm của
mình để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các quan hệ xã hội.
Nét đặc sắc của Nho giáo là chú trọng đến vấn đề tu dưỡng đạo đức cá nhân,
đặc biệt là chú ý đến đạo đức người cầm quyền (những người có chức, quyền).
G.S. Vũ Khiêu đã nhận xét: Ở đây Nho giáo đã nhận thức được một thực tế là
những người trong bộ máy nhà nước mà mất đạo đức thì không thể cai trị được nhân
dân. Cho nên đạo đức là một phương tiện để tranh thủ được lòng dân. Theo Nho giáo,
đạo đức người cầm quyền có ảnh hưởng lớn đến sự hưng vong của một triều đại. Vì
vậy, Khổng Tử khuyên người cầm quyền phải “tu thân” để làm tấm gương cho người
dưới. Với việc đề cao tu thân, coi đây là cái gốc trong rèn luyện nhân cách, Nho giáo
đã tạo nên một lớp người sống có đạo đức.
Trong lịch sử dân tộc Việt nam đã có nhiều tấm gương sáng ngời về đạo đức
của các vị vua, của các anh hùng hào kiệt. Theo các nhà kinh điển của Nho giáo,
người làm quan phải có đức, phải lấy nhân nghĩa, lấy chữ tín làm mục tiêu để cảm hóa
lòng người, để cai trị. Muốn vậy, phải đặt lợi ích của thiên hạ lên trên lợi ích của vua

quan. Thiết nghĩ, ngày nay tư tưởng nêu trên vẫn còn nguyên giá trị. Người cán bộ
trong bộ máy nhà nước phải có đức, đó là điều kiện đầu tiên để dân tin yêu, kính phục.
Nho giáo coi những người làm quan mà hà hiếp dân là độc ác, để dân đói rét là nhà
vua có tội. Nho giáo đã đề cao việc cai trị dân bằng đạo đức, bằng nhân nghĩa, bằng lễ
giáo. Muốn thực hiện được đường lối đức trị, người cầm quyền phải luôn “tu, tề, trị,
bình”.
Bên cạnh ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng có một số tác động tiêu cực, cụ
thể là:
Một số người do quá “trọng đức”, “duy tình” trong khi xử lý các công việc
và các mối quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép nước và vi phạm pháp
luật. Coi trọng đạo đức là cần thiết nhưng vì tuyệt đối hóa vai trò của đạo đức mà
quên pháp luật là sai lầm. Tiếp thu truyền thống trọng đức của phương Đông, nhấn
mạnh quan hệ đạo đức “thân thân”, “thân hiền” của Nho giáo, nhiều người khi có
chức quyền đã kéo bè kéo cánh, đưa người thân, anh em họ hàng vào cơ quan mình
đang quản lý. Sắp xếp và bố trí cán bộ không theo năng lực, trình độ và đòi hỏi của
công việc mà dựa vào sự thân thuộc, gần gũi trong quan hệ tông tộc, dòng họ. Trong
công tác tổ chức cán bộ, vì đề cao quan hệ thân thích dẫn đến tư tưởng cục bộ địa
phương. Nhiều người vì quan hệ thân thuộc mà không dám đấu tranh với những sai
lầm của người khác.
18
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
Do quan niệm sai lệch về đức Nhân Nghĩa với nội dung đền ơn trả nghĩa mà
trong thực tế một số cán bộ có thái độ ban ơn, cố tình lợi dụng kẽ hở của chính sách
và luật pháp để trục lợi, móc ngoặc, hối lộ, cửa quyền….Thậm chí, một số người dùng
tư tưởng gia trưởng để giải quyết các công việc chung. Một trong những phẩm chất
của người lãnh đạo là tính quyết đoán. Nhưng quyết đoán theo kiểu độc đoán, chuyên
quyền là biểu hiện của thói gia trưởng.
Việc coi trọng lễ và cách giáo dục con người theo lễ một cách cứng nhắc, bảo
thủ là cơ sở cho tư tưởng tôn ti, tư tưởng bè phái, cục bộ, đề cao địa vị, coi thường lớp
trẻ, trọng nam khinh nữ… hiện nay vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ và hành động của

không ít người. Những tư tưởng trên phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội phong kiến
phụ quyền gia trưởng: Đứng đầu gia đình là người cha, người chồng gọi là gia trưởng,
đứng đầu dòng họ là trưởng họ, đại diện cho cả làng là ông lý, cả tổng là ông chánh,
hệ thống quan lại là cha mẹ dân và cao nhất là vua (thiên tử - gia trưởng của gia đình
lớn – quốc gia, nước). Vì vậy, mọi người có nghĩa vụ theo và lệ thuộc vào “gia
trưởng”.
Thực chất đạo cương – thường của Nho giáo là bắt bề dưới phải phục tùng bề
trên đã tạo nên thói gia trưởng. Thói gia trưởng biểu hiện ở quan hệ xã hội, ở tổ chức
nhà nước. Trong gia đình là quyền quyết định của người cha, người chồng :”cha mẹ
đặt đâu con ngồi đấy”; “phu xướng phụ tòng” (chồng đề xướng, vợ phải theo). Ở cơ
quan là quyền duy nhất là của lãnh đạo. Ở đâu vẫn còn có cán bộ mang tư tưởng gia
trưởng, bè phái thì ở đó quần chúng nhân dân sẽ không phát huy được khả năng sáng
tạo, chủ động được. Ngày nay, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước đang rất cần những con người năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và
dám chịu trách nhiệm.
Cũng từ việc coi trọng lễ giáo, coi trọng quan hệ gia đình thân thuộc nên nhiều
người đã đưa quan hệ gia đình vào cơ quan hình thành nên quan hệ “chú cháu”, “anh
em” khiến cho người cấp dưới không dám góp ý và đấu tranh với khuyết điểm của họ
vì vị nể bậc cha chú. Từ việc xem xét và giải quyết các vấn đề của xã hội thông qua
lăng kính gia đình nhiều khi dẫn đến những quyết định thiếu khách quan, không công
bằng. Tư tưởng trọng nam khinh nữ đã dẫn đến một số người lãnh đạo không tin vào
khả năng của phụ nữ, ngại tiếp nhận nữ giới vào cơ quan hoặc cho rằng họ chỉ là
người thừa hành mà không được tham gia góp ý kiến…là những trở ngại cho việc đấu
tranh vì quyền bình đẳng giới. Vì quan hệ thứ bậc đã tạo nên quan niệm chạy theo
chức quyền. Trong xã hội phong kiến, địa vị luôn gắn với danh vọng và quyền lợi. Địa
vị càng cao thì quyền và lợi càng lớn. Hơn nữa, khi có chức, không những bản thân
được vinh hoa phú quý mà “một người làm quan cả họ được nhờ”. Hám danh, tìm mọi
cách để có danh, để thăng quan, tiến chức đã trở thành lẽ sống của một số người.
Thạm chí việc học tập theo họ cũng là “học để làm quan”.
Sự giáo dục và tu dưỡng đạo đức của Nho giáo còn mang tính cứng nhắc đã tạo

nên những con người sống theo khuôn mẫu, hành động một cách thụ động. Những tàn
19
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
dư tư tưởng trên đang làm cản trở và gây khó khăn cho việc xây đựng đạo đức mới và
xã hội mới ở nước ta hiện nay.
Qua những điều phân tích ở trên có thể thấy rằng, tư tưởng đạo đức Nho giáo
đã có ảnh hưởng đáng kể ở nước ta. Sự tác động, ảnh hưởng này ở hai mặt vừa có tính
tích cực, vừa có những hạn chế nhất định.
Để xây dựng đạo đức mới cho cơn người Việt Nam hiện nay chúng ta cần kế
thừa mặt tích cực, đồng thời khắc phục và xóa bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của
tư tưởng đạo đức Nho giáo. Công việc này phải được tiến hành thường xuyên, kiên trì
và lâu dài.
HỎI: Phân tích sự tác động tích cực của Phật giáo đến xã hội Việt Nam
hiện nay
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu Công nguyên với
truyện cổ tích Chử Đồng Tử (ở Hưng Yên ngày nay) học đạo của một nhà sư Ấn Độ.
Luy Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh) là trị sở của quận Giao Chỉ sớm trở thành trung tâm
Phật giáo quan trọng. Các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man Nương Phật
Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm
168-189
[3]
.
Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được phiên âm
trực tiếp thành "Bụt"
[3]
, từ "Bụt" được dùng nhiều trong các truyện dân gian. Phật giáo
Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Tiểu thừa
[3]
, Bụt được coi như một vị thần chuyên
cứu giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ 4-5, do ảnh hưởng của

Đại thừa đến từ Trung Quốc mà từ "Bụt" bị mất đi và được thay thế bởi từ "Phật".
Trong tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành "Phật đà", "Phật đồ" rồi được rút
gọn thành "Phật". ( Cần thông tin rõ ràng về khác biệt của Tiểu thừa và Đại thừa. Hiện
nay sự phân bố của hai dòng này như thế nào ? )
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần, Phật
giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề
trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo
đi vào giai đoạn suy thoái. Đến cuối thế kỷ XVIII, vua Quang Trung cố gắng chấn
hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều
kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo Việt
Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng góp quan
trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu
[4]
.
Tóm lại, lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:
• từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát
triển rộng khắp;
• thời Nhà Lý - Nhà Trần là giai đoạn cực thịnh;
• từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái;
20
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
• từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng.
*Ảnh hưởng tích cực của Phật giáo đối với xã hội ngày nay nói chung
Nét đặc trưng của thế giới hiện đại ngày nay là sự tăng tốc và độ lớn của tiến trình
thay đổi. Ngày nay chúng ta chứng kiến những thay đổi kinh ngạc trong cuộc cách
mạng hoàn toàn của tất cả những thể chế nhân sự thuộc mọi lãnh vực hoạt động của
con người. Sự toàn cầu hóa đang phát triển nhanh đến chóng mặt.
Những thuận lợi này đã mang đến sự giải phóng cho con người trong nhiều phương
diện. Chúng ta đã tạo ra một lượng của cải vật chất to lớn chưa từng thấy trong lịch
sử. Các xã hội liên kết chặt chẽ với nhau hơn trước và tạo mối tương quan nhiều hơn

cho nhu cầu đòi hỏi của con người.
Nhưng cùng với lượng của cải vật chất càng dồi dào, con người dường như luôn cảm
thấy chưa được thoả mãn về tinh thần, tâm linh. Ngày càng có nhiều người tìm đến
tôn giáo như một chỗ dựa tinh thần cho mình. Phật giáo là một tôn giáo có rất đông tín
đồ, và có ảnh hưởng rất nhiều đến tâm thức của đa số người Việt dù cho họ không
phải là một tăng sĩ Phật giáo. Phật giáo là một tôn giáo hoà bình, bác ái vì thế nên ảnh
hưởng của Phật giáo chủ yếu là tích cực.
1. Phật giáo góp phần kiến tạo hoà bình thế giới
Hòa bình là một đặc tính mà thế giới hiện tại đang bàn bạc và đây là điều quan tâm
nhất của các nhà lãnh đạo và các tổ chức trên thế giới. Tuy nhiên, vẫn có một số đông
quần chúng không có tin hẳn vào bức thông điệp do Đức Phật tuyên bố, vì hai lý do:
Một là thông điệp hoà bình, tình thương và hạnh phúc của Đức Phật cho tất cả chúng
sanh đã được tuyên thuyết ở một giai đoạn khi mà các châu lục bị phân chia bởi vật lý,
địa lý, ngôn ngữ, và chủng tộc. Sự cô lập của địa lý, sự giới hạn của thông tin và bị
hạn chế theo từng vùng đã khiến cho mê tín tràn lan và Phật pháp không được san sẻ.
Trong một tình hình như vậy cái không biết (tri thức) lấn át cái biết thì dù các nước
hiện tại đã phát triển nhiều về khoa học kỹ thuật trong thế giới hiện đại thì cũng sẽ trở
nên không phát triển hoặc đang phát triển, vì dân chúng sống trong các lục địa rộng
lớn này sẽ không có cơ hội để nghe, biết và hiểu những tinh hoa của giáo lý Đức Phật.
Đức Phật dạy rằng hạnh phúc tối thượng là an lạc, và không thể có hạnh phúc chân
thật nếu không có an lạc. Thế gian đang điên cuồng với sợ hãi và đe dọa của chiến
tranh. Nhiều quốc gia bị lôi cuốn vào chiến tranh đã trở thành những kho vũ khí kinh
khủng, để duy trì sự thương mại và lợi nhuận từ việc mua bán sự chết chóc và diệt
chủng. Do ý thức hệ đối lập, không chỉ binh sĩ mà còn hàng ngàn đàn ông, đàn bà, trẻ
con vô tội đã bị thảm sát và thiệt hại về nhân mạng, vật chất và tinh thần không thể
tính được. Không có điều gì có thể tránh khỏi sự điên cuồng kinh khiếp của chiến
tranh và rồi cuối cùng sẽ là gì? Đức Phật dạy rằng: "Sân hận không bao giờ được dập
tắt bởi sân hận, mà chỉ bởi lòng từ bi mà thôi." Hơn nữa, "Chiến thắng phát sanh hận
thù, vì xâm lăng mang đến đau khổ." Trong nhiều quốc gia khác trên thế giới hiện nay,
mây đen chiến tranh bao phủ gần kề. Không gian tràn đầy bạo lực của thân khẩu ý.

21
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
Thực tế là những tín đồ chân chính của đạo Phật luôn là những người yêu chuộng hoà
bình, luôn cổ vũ cho nền hoà bình. Chưa bao giờ đạo phật lại cần đến những chiến
binh để bảo vệ đạo lý của mình hay để mở rộng ảnh hưởng của đạo Phật.
2. Phật giáo khuyến khích mọi người sống chan hoà, cảm thông và thân ái
dù khác nhau sắc tộc, tôn giáo, màu da
Có tôn giáo đã truyền bá bằng gươm đao và chiếm đoạt. So với điều này, Đạo
Phật là một tôn giáo không có lực lượng vũ trang, cũng không có thánh chiến trong
việc truyền bá giáo lý. Đạo Phật đã lan rộng một cách từ từ nhưng vững vàng chắc
chắn đến tất cả các trục lộ giao thông của các nước mà Ấn Độ có quan hệ ngoại giao
như: Tây Tạng, Trung Quốc, Đại Hàn, Nhật Bản và Trung tâm Thổ Nhĩ Kỳ. Hoàng đế
A-dục cũng đã gởi những đoàn truyền giáo Phật giáo gồm tu sĩ và cư sĩ tới các kinh
đô ở phía Đông và Tây. Vua A-dục cũng phái hai người con của mình là Hoàng tử
Mahinda và công chúa Sanghamitta tới Tích Lan để truyền bá Phật giáo. Chính công
chúa Sanghamitta dã mang một cây Bồ-đề con (Ficus religiosa) của cây Bồ-đề nơi
Đức Phật thành đạo tới Tích Lan. Cây này cho tới nay vẫn còn sum suê xanh tốt và
được xem là một cây Bồ-đề có lịch sử cổ xưa nhất trên thế giới. Cây Bồ-đề này là
biểu tượng của sự giác ngộ. Từ Tích Lan và Ấn Độ, Phật giáo lại được truyền đến
Miến Điện, Thái Lan, Lào, Việt Nam, Cam-pu-chia và Nam Dương.
Ngày nay thế giới đang được thu hẹp trong kích thước. Các quốc gia đang phát
triển và chưa phát triển đã có tiến bộ về khoa học kỹ thuật, trong khi các nước đã phát
triển rồi lại trở nên đang phát triển. Trong kỷ nguyên này, việc đi lại trở nên dễ dàng,
nhanh chóng và thuận lợi. Thông tin thì nhanh tức thời. Vì vậy sự phong phú về kiến
thức là di sản chung của tất cả mọi người và do đó thông điệp của Đức Phật đã được
lan truyền đến các nơi trên thế giới:
Không làm các điều ác,
Vâng giữ các điều lành,
Làm thanh tịnh tâm ý
Đó lời chư Phật dạy"

3. Giáo lý Phật khuyến khích xây dựng một nhà nước thực sự vì hạnh
phúc nhân dân
Vào thời Đức Phật, cũng như ngày nay có những vị cai trị quốc gia của mình
không hợp lý. Dân chúng bị áp bức và bị bóc lột, hành hạ và ngược đãi, những
khoảng thuế tăng quá đáng được đặc ra và những hình phạt tàn bạo được gián cho .
Đức Phật rất là xúc động trước những cách đối xử vô nhân đạo ấy . Do vậy, trong
Dhammapadatthakathà có ghi rằng ngài đã chú ý đến việc cai trị một quốc gia hợp lý.
Quan điểm của ngài nên được đánh giá trong bối cảnh xã hội, kinh tế chính trị thuộc
thời của ngài . Ngài chỉ ra cách mà toàn bộ đất nước có thể trở nên lạm pháp, thoái
hóa và bất hạnh khi mà những vị đứng đầu của một quốc gia, chính phủ, là vua chúa,
thủ tướng và nhân viên quản lý v.v trở nên lạm phát, và không công bằng . Để cho
22
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
một quốc gia được an lạc, hạnh phúc, điều này cần thiết là phải có một chính phủ hợp
lý công bằng . Cách để nhận diện ra một hình thức nhà nước công bằng như thế được
Đức Phật giải thích trong lời dạy của ngài về “Mười bổn phận của một vị vua”, được
trình bày trong Kinh Bổn Sanh – Jàkata).
Tất nhiên từ vua (Ràja) trong các chế độ nhà nước xưa, ngày nay nên được thay
thế bằng từ “chính phủ”. Do đó ”Mười trách nhiệm của một vị vua” ngày nay được
ứng dụng tất cả cho những ai hình thành nên chính phủ như : Chủ tịch nước, các Thủ
Tướng, Giới chính khách, nhân viên lập pháp và quản lý … Mười điều mà nhà vua và
triều thần cần thực hiện để đem lại hạnh phúc cho nhân dân :
3.1- Vua độ lượng, bác ái, bố thí, không khát ái, không tham lam tiền của, tài sản,
nhưng ngược lại nên phục vụ vì lợi ích của nhân dân .
3.2- Giữ nước, không sát sanh, không bóc lột, không trộm cắp, không tà dâm,
không nói dối, không say sưa. Có nghĩa là vị vua ấy phải giữ ít nhất ngũ giới của một
người cư sĩ tại gia .
3.3- Hy sinh tất cả cho lợi ích của dân chúng . Vị vua ấy sẵn sàng từ bỏ mọi tiện
nghi cá nhân, danh tiếng và ngay cả vì lợi ích nhân dân.
3.4- Thành thật và liêm khiết . Vị ấy phải tự do không sợ hãi và ưu đãi khi thực

hành những bổn phận của mình; phải thành thật trong ý định và không được đánh lừa
công chúng .
3.5- Nhã nhặn và hòa ái. Vị đó phải có tính khí vui vẻ chan hòa .
3.6 -Khắc khổ trong lối sống . Vị ấy phải sống một cuộc sống giản đơn và không
nên tham đắm một cuộc sống xa hoa phú quý . Vị ấy phải tự chủ bản thân.
3.7 -Không được sân hận , không được tư thù . Vị ấy không được thù oán với bất
cứ ai .
3.8 -Không bạo lực , nghĩa là không những không hại người khác mà còn cố gắng
đẩy mạnh sự hòa bình an lạc bằng cách tránh né và ngăn chặn chiến tranh , và bất cứ
điều gì liên quan đến bạo lực và hủy hoại sự sống .
3.9- Nhẫn nhục, độ lượng khoan dung , hiểu biết. Vị ấy phải có khả năng kham
chịu mọi khó khăn, chỉ trích mà không để mất bình tĩnh.
3.10 -Không chống đối , không trù dập,có nghĩa là vị ấy không nên chống lại ý
muốn của nhân dân , thuận theo ý dân , không được cản trở bằng các biện pháp mà có
thể đưa đến phúc lợi cho dân chúng . Nói cách khác vị ấy phải cai trị trong sự hài hòa
với dân chúng .
Nếu một quốc gia được cai trị bởi những con người có đầy đủ những phẩm chất
như thế, thì không cần phải nói nhiều rằng quốc gia ấy được hạnh phúc biết bao.
4. Phât giáo khuyến khích cá nhân sống lương thiện, tu tâm dưỡng tánh
23
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
Đức Phật dạy các điều thiết yếu không chỉ cho việc tu tập nội tâm của từng cá
nhân vì hạnh phúc của nhân loại mà còn cho sự cải thiện đời sống xã hội. Vì vậy, Ngài
thuyết giảng về đặc tánh chung nhất của nhân loại, bất kể màu da chủng tộc hoặc các
đặc tính sinh lý khác (ngay cả trong trường hợp của loài vật) và tạo ra một cuộc cách
mạng loại bỏ các hệ thống giai cấp mà đang rất thịnh hành tại Ấn Độ thời bấy giờ. Để
biểu lộ khái niệm đồng nhất của nhân loại, Đức Phật đã khơi dậy mối đồng cảm không
những của giai cấp vua chúa, quý tộc, thương gia, mà còn với giai cấp cùng đinh,
người xin ăn, kẻ cướp và gái mãi dâm.
Lối sống mà Đức Phật đã dạy rất đơn giản, đối với người tại gia, chỉ áp dụng

năm nguyên tắc sống: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối
và không uống rượu, đây là một bảng nguyên tắc thật sự rất đơn giản. Nhưng lối sống
của Phật giáo, con đường mà Đức Phật đã mô tả không ngừng lại ở luật tắc này. Lời
dạy đó được đơn giản hóa theo một cách mà ai cũng có thể hiểu được và làm được là
bố thí (dàna), trì giới (sila) và thiền định (bhàvana).
5. Phật giáo có ảnh hưởng tích cực đến các mối quan hệ gia đình, xã hội
Một chàng thanh niên trẻ tuổi tên là Thiện Sanh (Sigala) thường thi lễ sáu
phương hướng : Đông, Nam, Tây, Bắc, Trên Và Dưới theo di chúc của người cha anh
ta trước khi ông qua đời. Đức Phật dạy chàng trai thanh niên trẻ tuổi rằng “giới luật
thánh thiện” của lời dạy của Ngài thì sáu phương đó là : phương Đông chỉ cho cha
mẹ ; phương Nam chỉ cho sư trưởng ; phương Tây chỉ cho vợ con ;phương Bắc chỉ
cho bằng hữu, họ hàng và láng giềng ; phương Trên chỉ cho Sa môn Bà la môn và Bậc
Thánh ; phương Dưới chỉ cho đầy tớ, người giúp việc.
Những nhóm quan hệ đối với gia đình và xã hội được đề cập ở trên, trong Phật
giáo, được xem là thiêng liêng đáng được tôn kính và lễ lạy, tôn thờ. Nhưng người ta
phải lễ lạy, tôn thờ những mối quan hệ ấynhư thế nào? Đức Phật dạy rằng người ta có
thể lễ lạy và tôn thờ những điều ấy chỉ thông qua việc thực thi trách nhiệm và bổn
phận của anh ta đối với những điều ấy. Những trách nhiệm và bổn phận này được giải
thích trong bài pháp của ngài cho chàng thanh niên Thiện Sinh.
Trước tiên, cha mẹ là thiêng liêng đối với con cái, Đức Phật dạy : cha mẹ được
gọi là phạm thiên (Brahma) từ phạm thiên (Brahma) ám chỉ một quan niệm cao nhất
và linh thiêng nhất đối với tư duy Aán Độ thời bấy giờ và Đức Phật liệt bố mẹ vào
trong đó. Do đó, trong một gia đình Phật tử thuần tín, đối với thời đại ngày nay, đúng
là con cái tôn thờ bố mẹ của chúng mỗi ngày, sáng lẫn tối. Họ phải làm một số nhiệm
vụ và bổn phận đối với bố mẹ của họ theo giới luật thánh thiện : họ phải quan tâm
chăm sóc bố mẹ của họ ở độ tuổi xế chiều, phải làm bất cứ những gì họ phải làm vì
nhu cầu của bố mẹ, phải duy trì danh dự của gia đình và tiếp tục phát huy truyền thống
của gia đình, phải bảo vệ tài sản, của cải do bố mẹ của họ kiếm được, và lo tổ chức
tang đám khi bố mẹ qua đời. Bố mẹ, ngược lại, phải có một số trách nhiệm đối với
con cái của ho. Họ phải giáo dục con cái tránh xa những việc làm xấu xa, tội lỗi;

hướng chúng vào những nghề nghiệp lành mạnh và có lợi lạc; cho con cái ăn học đến
24
Nguyễn Hữu Hoàng – KS12E biên soạn, năm 2012
nơi, đến chốn. Dựng vợ, gả chồng cho chúng ở những nơi gia đình tốt, và giao của cải
tài sản cho chúng đúng lúc.
Thứ hai :mối quan hệ giữa thầy và trò : học trò phải cung kính và vâng lời
thầy, phải hỗ trơc thầy lúc cần thiết, phải siêng năng học tập. Và ngược lại thầy đối
với trò : phải rèn luyện và dạy dỗ học trò nên người tốt; giới thiệu học trò cho bạn bè
của chúng, và cố gắng tạo việc làm đảm bảo sau khi học trò học xong.
Thứ ba : mối tương quan giữa vợ và chồng : tình yêu giữa vợ và chồng được
xem như rất là tôn giáo và thiêng liêng. Nó được gọi là “Sadara – Brahmacariya” ( đời
sống gia đình thiêng liêng). Ở đây cũng vậy, ý nghĩa đặc trưng của từ “Brahma” nên
được hiểu là : sự tôn trọng cao nhất đối với mối quan hệ này. Vợ và chồng phải chân
thành tin tưởng lẫn nhau, tôn trọng và hết mình vì nhau, và họ có một số trách nhiệm
đối với nhau : người chồng phải tôn trọng vợ và không bao giờ thiếu sự tôn trọng đối
với vơ; anh ta phải yêu thương vợ và chung thủy, chân thành với cô ta; đảm bảo vị trí
và tiện nghi của vợ, và làm cho vợ vui lòng bằng cách thường mua áo quần và nữ
trang cho cô ta. (Sự kiện Đức Phật đề cập những món quà như thế do người chồng
tặng cho vợ, chứng tỏ Ngài hiểu và thông cảm những cảm xúc và tình cảm thế gian
của Ngài đối với tình cảm bình thường của con gnười). Ngược lại, người vợ nên giám
sát và chăm lo công việc nội trợ nhà cửa; đón tiếp khách khứa, bạn bè, bà con, họ
hàng, và người làm thuê; thương yêu và trung thành với chồng mình; bảo vệ của cải
do chồng kiếm được, và phải sáng suốt và nhiệt tâm trong tất cả các công việc.
Thứ tư : mối quan hệ giữa bạn bè, họ hàng quyến thuộc và hàng xóm : họ phải
hiếu khách và nhân từ đối với nhau, nói lời vui vẻ và dễ chịu, làm việc lợi lạc cho
nhau, đối xử bình đẳng với nhau, giúp đỡ nhau trong những lúc cần thiết, và cưu mang
lẫn nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn.
* Ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo
Bên cạnh những mặt tích cực thì Phật giáo cũng có những ảnh hưởng tiêu cực
đến xã hội ngày nay. Nhưng cần phải nhận thức một điều là những ảnh hưởng tiêu cực

này không phải xuất phát từ bản chất, lý luận của đạo Phật mà do những người thừa
hành. Có thể kinh phật qua nhiều nước, nhiều xã hội với nhiều nền văn hoá khác nhau
khiến có nhiều cách giải thích và cách hiểu khác nhau về đạo Phật. Hơn nữa từng cá
nhân tiếp thu đạo Phật cũng theo nhiều cách khác nhau, có thể làm thay đổi ý nghĩa tốt
đẹp của đao Phật.
Nhiều người quá lạm dụng yếu tố mê tín gây tốn tiền của cúng bái, lễ lạt. Thậm
chí nhiều người còn quá cả tin dẫn đến bị lợi dụng mât tiền mất của. Nhiều người thì
thụ động cho rằng con người đã có số mạng định trước thì còn phấn đấu làm gì cho
mệt. Như thế thì chẳng khác nào Phật giáo đã làm con người ta mất đi động lực sinh
tồn, xã hội không thể tiến lên được với những người như thế.
Có người lại cho rằng chăm cúng bái có thể giải được những tội lỗi họ đã gây
ra cho xã hội. Có thể thấy rõ tâm lý này qua vụ án PMU tai tiếng đang khiến dư luận
rất bức xúc hiện nay. Hai chủ mưu chủ yếu của vụ này là Bùi Tiến Dũng và nguyên
25

×