Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tài liệu ôn tập môn lịch sử văn minh thế giới 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.73 KB, 8 trang )

Tài liệu ôn tập môn Lịch sử
văn minh thế giới

Câu 11:Sự ra đời và phát triển của đạo Ky tô thời cổ trung đại ở châu
Âu

1. Sự ra đời:

Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Kitô là Jesus Crit, con của
chúa Trời đầu thai vào người con gái đồng trinh Maria. Jesus Crit ra đời
vào khoảng thế kỉ IV TCN tại Béthleem (Palestin ngày nay). Đến năm
30 tuổi, Jesus Crit bắt đầu đi truyền đạo.
Đạo Kitô khuyên con người nhẫn nhục chịu đựng đau khổ nơi trần gian
để khi chết sẽ được hưởng hạnh phúc nơi thiên đàng. Chúa Trời sáng tạo
ra thế giới này. Chúa Trời, chúa Jesus, thành thần tuy ba mà là một ( tam
vị nhất thể ). Đạo Kitô cũng có quan niệm thiên đường, địa ngục, thiên
thần, ma quỉ... Giáo lí của đạo Kitô gồm có Kinh cựu ước (tiếp nhận của
đạo Do Thái) và Kinh tân ước (kể từ khi chúa Jesus ra đời). Luật lệ của
đạo Kitô thể hiện trong 10 điều răn.
Về tổ chức, lúc đầu các tín đồ đạo Kitô tổ chức thành những công xã vừa
mang tính chất tôn giáo, vừa giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Đến thế
kỉ II, các công xã Kitô dần phát triển thành Giáo hội.

2. Sự phát triển của Đạo Kitô

Khi mới ra đời, đạo Kitô bị các hoàng đế La Mã và bọn quí tộc địa
phương đàn áp rất tàn bạo. Vụ đàn áp đẫm máu nhất là vụ đàn áp vào
năm 64, dưới thời hoàng đế Nêrông, máu của biết bao nhiêu tín đồ đã
đổ. Nhưng số người theo đạo Kitô không những không giảm mà ngày
càng tăng lên. Về sau, Giáo hội đề ra nguyên tắc “vương quốc thì trả cho
vua, thiên quốc thì trả cho Chúa trời” tức là tôn giáo không dính dáng


đến chính trị. Thấy đàn áp mãi không có tác dụng, các hoàng đế La Mã
nghĩ tới biện pháp chung sống. Năm 311, một hoàng đế La Mã đã ra
lệnh ngưng đàn áp các tín đồ Kitô. Năm 313, đạo Kitô được hoàng đế La
Mã công nhận là hợp pháp. Năm 337, một hoàng đế La Mã lúc đó là
Cônxtantinut đã gia nhập đạo Kitô.
Hoàng đế theo đạo Kitô thì đương nhiên các quan lại đua nhau theo Đạo.
Ngân quĩ quốc gia cũng được chi ra để đóng góp cho Nhà thờ. Đạo Kitô
được truyền bá rộng khắp trong vùng đất quanh Địa Trung Hải. Sau này,
khi đế quốc La Mã tan vỡ thì đạo Kitô đã ăn sâu, lan rộng khắp châu Âu.

Câu 12:Những thành tựu nổi bật của nền văn minh Tây Âu thời phục
hưng

1. Văn học: Cả ba thể loại, thơ, kịch, tiểu thuyết trong nền văn học Phục
hưng đều có những thành tựu quan trọng.
- Về thơ, có hai đại biểu là Đantê ( 1265-1324 ) và Pêtracca ( 1304 -
1374 ). Đantê là người mở đầu phong trào Văn hoá Phục hưng ở Ý. Ông
xuất thân trong một gia đình kị sĩ suy tàn ở Plorencia. Ông đả kích các
thầy tu lúc đó và cổ vũ cho sự thống nhất của đất nước Ý. Tác phẩm tiêu
biểu của ông la Thần khúc và Cuộc đời mới.
- Pêtracca là một nhà thơ trữ tình Ý. Trong tác phẩm của mình, ông ca
ngợi tình yêu lí tưởng, ca ngợi sắc đẹp, ca ngợi sự tự do tư tưởng và
chống lại sự gò bó kinh điển.
- Về tiểu thuyết, có hai nhà văn nổi bật là Bôcaxiô ( Boccacio ), Rabơle (
F. Rabelais ) và Xecvantec (Cervantes). Boccacio là một nhà văn Ý, tác
phẩm nổi tiếng của ông là tập truyện Mười ngày. Qua tác phẩm Mười
ngày, ông chế diễu thói đạo đức giả, công kích cuộc sống khổ hạnh, cấm
dục vì cho đó là trái tự nhiên. Ông cổ vũ cho cuộc sống vui vẻ, biết tận
hưởng mọi lạc thú của cuộc sống.
- F. Rabơle là một nhà văn Pháp, ông có hiểu biết rộng rãi cả về khoa

học tự nhiên, văn học, triết học và luật pháp. Tác phẩm trào phúng nổi
tiếng của ông là cuộc đời không giá trị của Gargantua và Pantagruen.
- Migel de Cervantes là một nhà văn lớn của Tây Ban Nha. Tác phẩm
nổi tiếng của ông là Don Quyjote. Thông qua hình ảnh chàng hiệp sĩ lỗi
thời Don Quyjote, Cervantes ám chỉ tấng lớp quí tộc Tây Ban Nha với
những quan niệm danh dự cổ hủ và vẽ nên bức tranh một nước Tây Ban
Nha quân chủ đang bị chìm đắm trong vũng lầy phong kiến lạc hậu.
2. Kịch: Nhà viết kịch vĩ đại thời phục hưng là một người Anh có tên là
W. Sếchpia. (William Shakespeare ). Ông đã viết tới 36 vở bi, hài kịch.
Những vở kịch nổi tiếng ảnh hưởng tới nhiều nước trên thế giới như
Rômêô và Giuyliet, Hamlet, Vua Lia, Ôtenlô...
3. Hội họa, điêu khắc: Nhà danh hoạ khổng lồ thời Phục hưng là Lêôna
đơ Vanhxi ( Leonardo da Vinci), ông là một người Ý. Ông không những
là một hoạ sĩ thiên tài mà còn là một con người thông thái trên nhiều lĩnh
vực. Ông đã để lại những bức hoạ nổi tiếng như Bữa tiệc cuối cùng ,
Nàng Giôcôngđơ ( La Joconde ), Đức mẹ đồng trinh trong hang đá. Từ
thế kỉ XV, ông đã đưa ra ý tưởng sử dụng cánh quạt đẩy nước cho
thuyền thay mái chèo; vẽ ra nguyên tắc hoạt động của máy bay trực
thăng, dù thoát hiểm...nhưng những kĩ thuật hồi đó không cho phép ông
thực hiện những ý tưởng của mình.
- Mikenlăngiơ (Michelangelo) ra đời ở Ý(1475-1564). Ông là một danh
hoạ, một nhà điêu khắc nổi tiếng, đồng thời còn là một kiến trúc sư, một
thi sĩ. Tác phẩm tiêu biểu của ông là bức hoạ Sáng tạo thế giới vẽ trên
trần nhà thờ Xixtin gồm có 343 nhân vật. Còn bức Cuộc phán xét cuối
cùng thì được vẽ trên tường nhà thờ Xixtin. Về điêu khắc, ông để lại
nhiều bức tượng tiêu biểu như pho tượng Môidơ, Ngưòi nô lệ bị trói, đặc
biệt là pho tượng Đavid. Pho tượng Đavid của Mikenlăngiơ được tạc
trên đá cẩm thạch cao tới 5,3 mét. Đavid ở đây không phải là một chú bé
chăn cừu mà là một chàng thanh niên đang độ tuổi mười tám đôi mươi,
đang độ tuổi sung sức, với cơ bắp khoẻ mạnh, vầng trán thông minh, ánh

mắt tự tin, sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn thử thách. Mượn hình
tượng Đavid, Mikenlăngiơ thể hiện sức sống đang lên của một lớp người
đại diện cho một thời đại mới, thời đại cần những con người khổng lồ và
đã sản sinh ra những con người khổng lồ .
- Nghệ thuật thời Phục hưng còn có sự đóng góp của những nghệ sĩ nổi
tiếng khác như Raphaen ( Raffaello ), Giôtô (Giotto ), Bôtixeli (
Botticelli )...
4. Khoa học tự nhiên: Thời Phục hưng còn có sự đóng góp của nhiều
nhà khoa học dũng cảm, dám chống lại những suy nghĩ sai lầm nghìn
đời đã được giới quyền lực đảm bảo, thừa nhận. N. Côpecnic ( Nikolai
Kopernik - 1473 - 1543 ) là một giáo sĩ người Ba Lan. Qua nhiều năm
nghiên cứu, ông đã đi tới một kết luận đáng sợ hồi đó là: Trái đất quay
xung quanh Mặt trời chứ không phải là Mặt trời quay xung quanh Trái
đất. Thuyết Mặt trời là trung tâm đó của ông vậy là trái hẳn với thuyết
Trái đất là trung tâm đã được nhà thờ công nhận hàng nghìn năm.
- Gioocđanô Brunô ( Giordano Bruno - 1548-1600 ), là một giáo sĩ trẻ
người Ý. Ông tích cực hưởng ứng học thuyết của Côpecnic khi giáo hội
cấm lưu hành. Không những thế, ông còn phát triển thêm tư tưởng của
Côpecnic. Ông cho rằng Mặt trời không phải là trung tâm của vũ trụ mà
chỉ là trung tâm của Thái dương hệ.
- Một nhà thiên văn học người Ý khác là Galilê ( Gallileo Gallilei -

×