Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

khái niệm tín dụng ngắn hạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (54.98 KB, 7 trang )

Khái niệm tín dụng ngắn hạn.
Tín dụng ngắn hạn là một hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại được phân theo thời
gian của khoản vay. Đó là những khoản vay có thời hạn ngắn- dưới 1 năm do đó khoản vay này
thường được dùng để đáp ứng nhu cầu thiếu vốn tạm thời như phục vụ cho thanh toán hàng
hoá, tài trợ, bổ xung vốn lưu động hay thanh toán ngoại thương và phục vụ nhu cầu sinh hoạt.
Đặc điểm.
• Do nguồn vốn tín dụng ngắn hạn dùng để cung cấp vốn cho chi tiêu, mua nguyên vật
liệu, trả lương, bổ xung vốn lưu động nên số vốn vay thường nhỏ, nguồn vốn được quay vòng
nhiều. Trong khi đó đối tượng sử dụng vốn từ nguồn trung và dài hạn thường là những tài sản
cố định có thời gian sử dung lâu dài vì vậy thời gian sử dụng vốn lâu, nguồn vốn không được
quay vòng nhiều.
• Thời hạn thu hồi vốn nhanh: do vốn tín dụng ngắn hạn thường được sử dụng để bù đắp
những thiếu hụt trong ngắn hạn, để đảm bảo cân bằng ngân quỹ, giúp doanh nghiệp đối phó với
những chênh lệch thu chi trong ngắn hạn Thông thường những thiếu hụt này chỉ mang tính
tạm thời hay mang tính mùa vụ, sau đó khoản thiếu hụt này sẽ được bù đắp hoặc sẽ sớm thu lại
dưới hình thái tiền tệ vì vậy thời gian thu hồi vốn sẽ nhanh.
• Rủi ro do tín dụng ngắn hạn mang lại thông thường không cao. Do khoản vay chỉ cung
cấp trong thời gian ngắn vì vậy ít chịu ảnh hưởng của sự biến động không thể lường trước của
nền kinh tế như các khoản tín dụng trung và dài hạn. Ngoài ra, các khoản vay được cung cấp
cho các đơn vị sản xuất kinh doanh theo hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá, dựa trên tài sản
bảo đảm, bảo lãnh đồng thời khoản vay thường đựơc tiến hành khi có nhu cầu cấp thiết về vốn
ngắn hạn và chắc chắn sẽ có khoản thu bù đắp trong tương lai vì vậy rủi ro mang đến thường
thấp.
• Lãi suất thấp: lãi suất cho vay được hiểu là khoản chi phí người đi vay trả cho nhu cầu sử
dụng tiền tạm thời của ngươì khác. Chính vì rủi ro mang lại của khoản vay thường không cao do
đó lãi suất người đi vay phải trả thông thường nhỏ hơn lãi suất khoản vay tín dụng trung và dài
hạn tương ứng.
- Hình thức tín dụng phong phú: Để đáp ứng nhu cầu hết sức đa dạng của khách hàng, để góp
phần phân tán rủi ro, đồng thời để tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường tín dụng, các ngân
hàng thương mại không ngừng phát triển các hình thức cho vay trong nghiệp vụ tín dụng ngắn
hạn của mình. Điều đó đã làm cho các hình thức tín dụng ngắn hạn rất phong phú như: nghiệp


vụ ứng trước, nghiệp vụ thấu chi, nghiệp vụ chiết khấu
- Là loại hình kinh doanh chủ yếu tại các ngân hàng thương mại. Xuất phát từ đặc trưng của
ngân hàng thương mại: là ngân hàng kinh doanh tiền gửi, mà trong đó chủ yếu là tiền gửi ngắn
hạn, nên để đảm bảo khả năng thanh khoản của mình, các ngân hàng thương mại đã cho vay
chủ yếu là ngắn hạn.
Các hình thức tín dụng ngắn hạn
Chiết khấu thương phiếu
Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của ngân hàng thương mại, trong đó ngân hàng
trao cho người có trái phiếu một số tiền bằng giá trị đáo hạn của trái phiếu trừ đi một số tiền lãi,
hoa hồng và một số chi phí khác. Tiền lãi tính từ ngày chiết khấu tới ngày đáo hạn trái phiếu.
Chứng từ chiết khấu có một số đặc trưng là: chứng từ có giá ; được thanh toán số tiền đúng
bằng mệnh giá chứng từ chiết khấu; thời hạn thanh toán là thời hạn ngắn ( 90 đến 180 ngày).
Trong nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng đưa cho khách hàng của mình một số tiền để sử dụng
ngay và chỉ thu số tiền đó về khi trái phiếu đáo hạn. Về nguyên tắc, ngân hàng có thể nhận chiết
khấu tất cả các trái phiếu nhưng thông thường ngân hàng thích nhất là hối phiếu.
Khi khách hàng có nhu cầu chiết khấu, khách hàng phải nộp cho ngân hàng các loại giấy tờ sau:
• Đơn xin chiết khấu
• Bảng kê thương phiếu kèm theo các thương phiếu xin chiết khấu.
Sau khi nhận được các hồ sơ, ngân hàng tiến hành thẩm định các mặt sau:
• Tính hợp pháp, hợp lệ của các thương phiếu
• Xem xét mối quan hệ thương mại của các chủ thể liên quan đến thương phiếu.
• Nghiên cứu khả năng trả nợ của các chủ thể có liên quan, đặc biệt là người thụ lệnh
(người phải thanh toán thương phiếu) và người thụ hưởng (người xin chiết khấu).
Ngân hàng chỉ chấp nhận chiết khấu những thương phiếu đủ điều kiện sau:
• Còn thời hạn thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước
• Phải hợp lệ về mặt hình thức và nội dung
• Đối với hối phiếu thì phải có chữ ký chấp nhận của người thụ tạo
• Khách hàng phải chuyển nhượng quyền sở hữu cho ngân hàng dưới hình thức ký hậu.
Sau khi thẩm định, ngân hàng loại trừ những thương phiếu không đủ điều kiện chiết khấu hay
còn nghi ngờ khả năng thanh toán, rồi tính số tiền ngân hàng trả cho khách hàng theo các

thương phiếu nhận chiết khấu.
Đến thời hạn thanh toán thương phiếu, ngân hàng sẽ tiến hành thu nợ ở người chịu trách nhiệm
thanh toán thương phiếu. Nếu người này không thanh toán, ngân hàng có thể chọn một trong
hai cách xử lý sau:
• Ngân hàng có thể trích tài khoản tiền gửi thanh toán của người xin chiết khấu để thu hồi,
sau đó trả lại thương phiếu để họ tự đòi nợ.
• Ngân hàng tiến hành thủ tục để truy đòi số nợ: theo luật định, ngân hàng có quyền chỉ
định một trong số những người tham gia ký chuyển nhượng thương phiếu để trả nợ cho ngân
hàng. Trong trường hợp này, ngân hàng thường chỉ định người nào có đủ khả năng tài chính
nhất.
Ưu điểm và nhược điểm của nghiệp vụ chiết khấu:
Chiết khấu là một nghiệp vụ tín dụng có khá nhiều ưu điểm, đó là:
• Chiết khấu là nghiệp vụ ít rủi ro, khả năng thu hồi nợ của ngân hàng là khá chắc chắn.
• Đây là hình thức tín dụng khá đơn giản, ít phiền phức với ngân hàng.
• Chiết khấu không làm đóng băng vốn của ngân hàng vì thời hạn chiết khấu ngắn và
ngân hàng thương mại có thể khá dễ dàng xin tái chiết khấu thương phiếu ở Ngân hàng Nhà
nước.
• Tiền cấp cho khách hàng khi chiết khấu thường được chuyển vào tài khoản tiền gửi của
khách hàng, bởi vậy nó lại tạo nguồn vốn cho ngân hàng.
• Tất cả những ai kí tên vào thương phiếu đều có trách nhiệm thanh toán và trong thực tế
không một doanh nghiệp nào từ chối thanh toán do đó đây là hình thức cho vay ít rủi ro nhất.
Tuy vậy, trong nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng thương mại vẫn có thể gặp phải rủi ro do ba
nguyên nhân cơ bản sau:
• Ngân hàng nhận chiết khấu những thương phiếu giả mạo.
• Giấy nhận nợ luân chuyển theo dây chuyền trong đó có một khâu hỏng dẫn đến khó
khăn trong thanh toán.
• Công ty mẹ phát hành cho Công ty ty con nhưng Công ty mẹ phá sản.
Nghiệp vụ tín dụng ngân quỹ
Tín dụng ngân quỹ là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn mà trong đó ngân hàng cho khách hàng
vay để đảm bảo sự cân đối ngân quỹ hàng ngày của khách hàng và được thực hiện dưới hai hình

thức chủ yếu là ứng trước trên tài khoản hoặc thấu chi.
Ứng trước trên tài khoản
ứng trước trên tài khoản là loại tín dụng mà ngân hàng cho khách hàng vay tiền bằng cách mở
và ứng cho họ một số tiền trên tài khoản của khách hàng tại ngân hàng. Từ tài khoản đó, khách
hàng có thể ký phiếu lĩnh tiền tới mức tín dụng mà ngân hàng cấp cho mình.
Nếu căn cứ vào tính chất đảm bảo thì tín dụng ứng trước bao gồm: ứng trước có đảm bảo và
ứng trước không đảm bảo.
• ứng trước có bảo đảm: khi nào khách hàng thực sự vay tiền thi phải thế chấp hay cầm
cố một tài sản hay một giá trị làm đảm bảo nhất định cho khoản tiền vay đồng thời khách hàng
phải ký một lệnh phiếu trao cho ngân hàng giữ cam kết hoàn trả số tiền đã vay vào thời điểm
nhất định.
• Trong trường hợp không có tài sản bảo đảm, hay tài sản bảo đảm kém giá trị khách
hàng có thể nhờ một người có tài sản bảo lãnh số nợ đó bằng một tờ cam kết. Người bảo lãnh
do khách hàng chọn nhưng phải được sự chấp nhận của ngân hàng.
Nếu căn cứ vào các thức sử dụng tiền vay thì tín dụng ứng trước có hai cách sử dụng tiền vay:
• Sau khi đã ký kết hợp đồng tín dụng, ngân hàng tiến hành cho vay theo mức cho vay đã
thoả thuận, ngân hàng chuyển toàn bộ số tiền cho vay vào tài khoản tiền gửi thanh toán của
doanh nghiệp để doanh nghiệp tuỳ ý sử dụng theo nhu cầu. Đây là cách cho vay mà các ngân
hàng thường áp dụng.
• Khách hàng được sử dụng dần số tiền vay trên tài khoản vay (tài khoản ứng trước). Việc
sử dụng bằng cách phát hành séc để chi trả mang số hiệu tài khoản ứng trước. Khi tờ séc do
khách hàng phát hành quay trở về ngân hàng thì ngân hàng trích tài khoản vay để chi trả.
Khách hàng có thể sử dụng tiền vay một hoặc nhiều lần. Nếu khách hàng phát hành séc để chi
trả (mang số hiệu tài khoản vay) vượt mức cho vay đã thoả thuận thì ngân hàng áp dụng các
biện pháp chế tài do phát hành séc không có tiền bảo chứng.
Đây là một trong hai hình thức tín dụng ứng trước mà các ngân hàng thương mại có thể áp dụng
song không phổ biến.
Ưu, nhược điểm của loại tín dụng ứng trước
Ưu điểm:
• Đối với ngân hàng: vốn ngân hàng cho vay thường không phải rút ngay một lúc vì nhu

cầu vốn của khách hàng phát sinh dần dần và nếu khách hàng dùng tiền ứng trước đó vào việc
thanh toán cho khách hàng khác có tài khoản tại ngân hàng ấy thì nguồn vốn của ngân hàng
không bị hao hụt. Mặt khác, với cách cho vay này thì ngân hàng được hưởng một khoản lãi tính
trên toàn bộ số tiền ứng trước trong suốt thời gian cho vay dù khách hàng có sử dụng hết hay
không hết số tiền đó.
• Đối với khách hàng: được sử dụng vốn một cách chủ động. Có thể đáp ứng tính thời vụ
về vốn của họ.
Nhược điểm:
• Đối với ngân hàng: loại cho vay này có rất nhiều rủi ro do ngân hàng khó kiểm soát việc
sử dụng tiền vay của khách hàng.
• Đối với khách hàng thì phải chịu toàn bộ lãi tính trên số tiền cho vay trong thời gian đã
thoả thuận (dù thực tế họ không sử dụng hết).
Thấu chi.
Thấu chi là loại tín dụng mà qua đó ngân hàng cho phép khách hàng được sử dụng vượt quá số
tiền mà họ đã ký thác ở ngân hàng trên tài khoản vãng lai với một số lượng và thời hạn nhất
định. Xuất phát từ việc nếu doanh nghiệp có số dư trên tài khoản tiền gửi mới được quyền chi
tiêu, nhưng do một lý do nào đó mà số dư trên tài khoản tiền gửi không đủ đáp ứng nhu cầu chi
tiêu. Trường hợp đó ngân hàng có thể xem xét chấp nhận để khách hàng được quyền chi tiêu
một số tiền vượt quá số hiện có trên tài khoản. Mục đích của ngân hàng chỉ để giúp khách hàng
giải quyết khó khăn tạm thời về tài chính.
Tài khoản vãng lai là tài khoản có tính chất đặc biệt, trong đó khách hàng và ngân hàng cam kết
trả nợ lẫn nhau bằng phương pháp bù trừ. Với những tài khoản tiền gửi khác, khách hàng chỉ
được phép sử dụng trong giới hạn số dư có của tài khoản đó, nếu sử dụng quá số tiền trên là vi
phạm vì phát hành séc không có hay thiếu tiền bảo chứng. Song đối với tài khoản vãng lai, giữa
ngân hàng và khách hàng có thể thoả thuận cho phép tài khoản dư có hoặc dư nợ, số dư nợ
được hai bên thoả thuận đến một giới hạn tối đa nào đó (hạn mức dư nợ), quá hạn mức này thì
các tờ séc của khách hàng bị coi như thiếu hay không có bảo chứng.
Như vậy, nếu tài khoản dư có thì số dư đó thể hiện tiền gửi của khách hàng ở ngân hàng và
thông thường ngân hàng phải trả cho khách hàng lãi tiền gửi. Nếu tài khoản dư nợ thì số nợ đó
thể hiện tiền ngân hàng cho vay và khách hàng phải trả lãi tiền vay ciho ngân hàng.

Điều kiện đi vay của khách hàng:
• Đơn vị có tình hình tài chính tốt.
• Nhu cầu chi tiêu đó thực sự là bức bách và không quá lớn như nhu cầu trả lương cho cán
bộ công nhân viên.
• Khách hàng cần chứng minh được là sẽ có nguồn thu để trả
Qua phần trình bày trên, ta thấy tín dụng thấu chi có các đặc điểm sau:
• Giữa ngân hàng và khách hàng thoả thuận một hạn mức tín dụng để khách hàng được
sử dụng số dư nợ trên tài khoản vãng lai trong một thời hạn nhất định.
• Khách hàng sử dụng vốn bằng cách phát hành séc mang số hiệu tài khoản vãng lai hoặc
bằng các công cụ thanh toán khác.
• Doanh số cho vay có thể lớn hơn hạn mức nếu trong quá trình sử dụng tiền trên tài
khoản khách hàng có tiền nộp vào bên có.
• Hạn mức tín dụng mà ngân hàng và khách hàng đã thoả thuận với nhau chưa phải là
tiền ngân hàng cho vay mà chỉ khi nào khách hàng sử dụng (có xuất hiện dư nợ của tài khoản
vãng lai) mới được coi là ngân hàng cho vay và được tính tiền lãi trên số dư nợ đó.
• Vượt chi tài khoản là kỹ thuật cho vay mà số dư nợ thường xuyên biến động vì thế khó
thực hiện được đảm bảo tín dụng bằng hình thức bảo đảm đối vật.
Ưu nhược điểm của loại tín dụng vượt chi tài khoản
Đối với khách hàng loại tín dụng vượt chi là khoản tạo cho khách hàng những thuận lợi đáng kể
nhờ vào sự chủ động, linh hoạt khi sử dụng. Việc cho phép vượt chi trên tài khoản vãng lai giúp
cho việc cân đối ngân quỹ mà tránh phải đi xin vay nhiều lần với thủ tục phức tạp trong một kỳ,
khi mà ngay sau đó lại có những khoản thu được chuyển vào tài khoản để giảm bớt việc phải trả
lãi cho ngân hàng.
Do tính chủ động và linh hoạt như vậy mà tín dụng vượt chi tài khoản đáp ứng được yêu cầu của
những doanh nghiệp mong muốn quản lý vốn có hiệu quả, do đó hầu hết các doanh nghiệp có
yêu cầu sử dụng hình thức tín dụng này nhằm điều hoà thường xuyên ngân quỹ của họ.
Với hình thức tín dụng này, ngân hàng luôn luôn phải dự trữ vốn để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu
của khách hàng khi họ còn hạn mức tín dụng, nhưng trên thực tế họ có thể không sử dụng hoặc
không sử dụng hết hạn mức tín dụng đó. Trong khi ấy, ngân hàng không được tính lãi trên toàn
bộ số tiền và thời hạn cho vay đã thoả thuận (để giải quyết mâu thuẫn này các ngân hàng

thường yêu cầu khách hàng phải trả một khoản phí cam kết theo một tỷ lệ nhất định tính trên
hạn mức tín dụng, không kể đến việc hạn mức tín dụng đó được sử dụng như thế nào).
Mặt khác, tiền ngân hàng cho vay không nhằm mục đích cụ thể nào theo chỉ định của ngân hàng
mà thường do khách hàng tuỳ ý sử dụng. Các đảm bảo nếu có chỉ là yếu tố phụ, ngân hàng khó
có thể kiểm soát được việc sử dụng tiền vay. Vì vậy, sự rủi ro của ngân hàng có thể nhiều hơn
các nghiệp vụ tín dụng khác. Từ những nhược điểm trên mà ngân hàng thường áp dụng hình
thức tín dụng này đối với những khách hàng quen thuộc, có tín nhiệm và ngân hàng có ý muốn
giúp đỡ mà thôi.
Nhu cầu tín dụng ngắn hạn.
Trong giai đoạn quá độ hiện nay, hơn 90% số doanh nghiệp kinh doanh trên nước ta là những
doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, lượng vốn tự có của doanh nghiệp không cao do đó doanh
nghiệp rất dễ mắc phải những khó khăn dưới đây dẫn đến nhu cầu vay các khoản ngắn hạn.
• Trong chu kỳ tiền mặt của doanh nghiệp, ban đầu tiền mặt được sử dụng để mua
nguyên liệu dự trữ, bán thành phẩm hoặc thành phẩm; hàng hoá được sản xuất hoặc dự trữ để
bán sau đó được bán ra (thường là bán chịu) ; cuối cùng là thu tiền mặt về. Tuy nhiên, doanh
nghiệp không thể tránh khỏi có sự lệch pha giữa thời hạn thanh toán tiền hàng của khách hàng
và thời gian mua nguyên vật liệu để tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất. Chính vì vậy, doanh
nghiệp thường phải vay vốn ngân hàng để đáp ứng sự thiếu hụt tiền mặt tạm thời này. Do đó
khoản vay cũng thường đựơc đảm bảo bằng khoản sẽ thu hay hàng tồn kho.
• Doanh nghiệp có khó khăn tạm thời về tài chính: doanh nghiệp cần tiền để thanh toán
nhưng lại không có chứng từ để phản ánh mối quan hệ mua bán chịu đó trong khi đó số dư trên
tài khoản của họ không đủ chi tiêu khi đó doanh nghiệp rất cần các khoản vay ngắn hạn để giải
quýêt những khó khăn này. Trường hợp này xảy ra khi đến kỳ trả lương cho nhân viên, phải trả
nợ thiếu của khách hàng, thông thường các khoản này không quá lớn và ngân hàng có thể xem
xét cho khách hàng chi vượt.
• Doanh nghiệp có một lượng tài sản dự tính sẽ chuyển thành tiền mặt trong tương lai
gần, lượng tài sản này gây trở ngại làm ứ đọng vốn kinh doanh của doanh nghiệp, trường hợp
này doanh nghiệp muốn sử dụng lượng tài sản này để xin vay giải quyết khó khăn về vốn do
lượng tài sản này gây ra.
• Vào mùa kinh doanh sản phẩm của mình doanh nghiệp cần mở rộng quy mô, gia tăng

hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng thiếu vốn đầu tư mở rộng. Khi nhu cầu về sản phẩm của
doanh nghiệp trên thị trường được dự đoán tăng cao nhưng doanh nghiệp hiện thời thiếu vốn để
mở rộng…
Vai trò của tín dụng ngắn hạn.
Tín dụng ngắn hạn đảm bảo phát triển kinh tế theo chiều rộng, thúc đẩy mở rộng hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Đây là một trong những vai trò quan trọng nhất của tín dụng ngắn hạn. Thông
qua việc cung cấp vốn tín dụng để mua nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, mở rộng sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp, tín dụng ngắn hạn góp phần giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất.
Nước ta đang trên đà CNH- HĐH, tuy nhiên do đặc điểm nước ta nền kinh tế vẫn đang trong giai
đoạn quá độ vì vậy sản xuất nhỏ vẫn là chủ yếu- các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm trên 90%
tổng số các doanh nghiệp. Đặc điểm chủ yếu của loại hình doanh nghiệp này lại là sản xuất nhỏ,
nguồn vốn chủ sở hữu nhỏ, hoạt động kinh doanh lại gắn với địa phương và theo mùa vụ. Chính
vì vậy, nhu cầu vay vốn ngắn hạn của các doanh nghiệp này là khá lớn và thường xuyên. Đảm
bảo cung cấp vốn tín dụng ngắn hạn cho các doanh nghiệp chính là giúp các doanh nghiệp này
mở rộng sản xuất từ đó có thêm nguồn vốn đầu tư vào kinh doanh dần dần trở thành các doanh
nghiệp với quy mô lớn, góp phần đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước.
Kích thích tính năng động, linh hoạt, tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp:
Tín dụng
ngắn hạn là nguồn cung cấp vốn kịp thời cho các nhà kinh doanh trong trường hợp họ gặp khó
khăn về vốn tạm thời như: muốn mở rộng sản xuất vào mùa vụ, cần trả tiền cho khách để giữ uy
tín, trả lương cho công nhân từ đó giúp doanh nghiệp có thể đối phó với những khó khăn về
vốn, giữ cân bằng thu chi, điều hoà vốn. Ngoài ra vốn tín dụng ngắn hạn chỉ cung cấp trong một
thời gian ngắn do đó đòi hỏi doanh nghiệp cần đẩy nhanh tiến độ sản xuất kinh doanh – kích
thích tính năng động của các doanh nghiệp.
Giúp tăng nhanh vòng quay của vốn:
do tín dụng ngắn hạn là khoản tín dụng cung cấp trong
thời gian ngắn vì vậy doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp nhanh chóng thu hồi vốn để trả
nợ ngân hàng qua đó thúc đẩy gia tăng vòng quay vốn.

×