Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH EU và ASEAQUA CÁCH TIẾP cận đối CHIẾU KHU vực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.38 KB, 8 trang )

TẬP SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN SỐ 4/1997
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH EU VÀ ASEAQUA CÁCH TIẾP CẬN
ĐỐI CHIẾU KHU VỰC
NGUYỄN NGỌC DUNG
ừ thập niên 50 tới nay , người ta chứng kiến sự ra đời của nhiều tổ
chức khu vực trên thế giới như liên đoàn Ả Rập (1950) , Tổ chức các
nước Trung Mỹ (1959),tổ chức đàon kết Châu Phi (1963) v v … Tất nhiên,
các tổ chức này đề xuất hiện trong những bối cảnh lịch sử khác nhau và có
tôn chỉ, mục đích, nội dunghoạt động của riêng mình. Trong số rất nhiều các
tổ chức khu vực nêu trên thì ASEAN (1967 ) và EU (1993 ) là hai tổ chức
điển hình hơn cả ,được chúng tôi chọn làm đối tượng để thực hiện phép
nghiên cứu đối chiếu khu vực (regionl comparative recearch ) . Vì bản thân
đối tượng nghiên cứu rất rộng đối với khuôn khổ một bài báo , nên chúng tôi
chỉ thực hiện sự đối chiếu , so sánh quá trình hình thành của hai tổ chức trên.
T
1. 1. Trước tiên ASEAN và EU đều là những tổ chức nằm trong một “ khu vực
địa lý- lịch sử “( theo cách nói của một số nhà nghiên cứu Xô Viết ) “ có đặc
trưng bởi tính bền vững của biên giới , mức đủ dài của quá trình lịch sử “
[*;10]. Khái niệm “ khu vực “ (region) trong khoa học địa lý , ban đầu chỉ
bao hàm các yếu tố tự nhiên như địa hình ,sông ngòi ,khí hậu ,động thực
vật ;sau này khái niệm “khu vực” được bổ sung thêm các yếu tố xã hội –
nhân văn . Cho nên , ngày nay nói đến khu vực là nói đến một không gian
địa lý – lịch sử –xã hội xác định .
2.
Nằm trọn trong lãnh thổ của đế quốc Tây La Mã xưa kia , các quốc gia
Tây Aâu thực sự có một cội nguồn văn hoá chung . Các quốc gia Tây Âu đã
sớm bước vào giai đoạn phát triển TBCN và từ thế kỷ thứ XIX trở thành
trung tâm cua thế giới .(1914-1918; 1939-1945 ) Châu Aâu nói chung và
1
TẬP SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN SỐ 4/1997
Tây Aâu nói riêng đã phỉa chịu những thiệt thòi to lớn về vật chất và tinh


thần . Đặc biệt cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai đã làm đảo lộn nền địa –
chính trị toàn cầu . Tây Aâu bị suy yếu toàn diện và mất vị trí là “trung tâm
của các trung tâm” . Tây Aâu đành phải dựa vào Mỹ và chấp nhận sự lãnh
đạo của Mỹ trong hầu hết các lĩnh vực chính trị ,kimh tế, quân sự, thông qua
các tổ chức GATT, UECE, NATO. Tuy nhiên từ đầu thập niên 1950 Tây
Aâu đã khôi phục và sau đó phát triển được nền kinh tế của mình . Quan hệ
kinh tế Tây Aâu – Mỹ chuyển từ tình trạng phụ thuộc sang tình trạng cạnh
tranh . Trong những điều kiện ấy ,toàn châu Aâu , đặc biệt là Tây Aâu cần
có sự nhận thức lại về vai trò , vị trí của mình trong cục diện thế giớ mới .
Một Tây Aâu chia rẽ về chính trị sẽ không mang lại hoà bình và phát triển
cho các quốc gia trong khu vực . Một tay Aâu chia rẽ về kinh tế thì không
thể cạnh tranh nổi với Mỹ . Hơn nữa , nhu cầu mở rộng thị trường của tây âu
lúc này rất lớn , trong đó Tây  lại đang mất dần thuộc địa [1;15]. Điều kiện
lịch sử lúc đó đã đặt trước Tây Aâu một tình thế , làm ý thức về một cộng
đồng văn minh chung được đề cao .
Tháng 5/1950 Ngoại trưởng Pháp Robert Suman đã đưa ra đề nghị đặt
toàn bộ việc sản xuất than , thép của Đức và Pháp dưới một cơ quan quyền
lực tối cao chung , trong một tổ chức mở cho các nước Châu Aâu tham gia .
Đề nghị này được các quốc gia Đức,Ý,Bỉ, Hà Lan, Luych-Xăm-Bua hưởng
ứng . Ngày 18/4/1951 . Cộng đồng than ,thép châu Aâu ra đời , đánh dấu
giai đoạn đầu của tiến trình liên kết Châu Aâu . Các giai đoạn liên kết tiếp
theo của quá trình liên kết đó là : Cộng đồng năng lượng nguyên tử Châu
Aâu (1955) ; Cộng đồng kinh tế Châu Aâu (1957) ; Cộng đồng Châu Aâu
(1967) ; Cuối cùng là liên minh Châu Aâu (1993 )
Quá trình hình thành liên minh Châu Aâu (EU) xảy ra trong một không
gian tương đối tự chủ . Khi bước vào liên kết khu vực , các quốc gia Tây
2
TẬP SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN SỐ 4/1997
Aâu đã là các quốc gia công nghiệp . đến năm 1970 , Cộng đồng Châu Aâu
lúc ấy đã trở thành một trong ba trung tâm kinh tế TBCN .Tỷ trọng GNP của

nó chiếm 30,5% trong kinh tế thế giới [1;25]. Quan hệ kinh tế Tây Aâu –Mỹ
ở thế canh tranh bình đẳng đã làm thay đổi tính chất phụ thuộc trong quan hệ
chính trị . Tây Aâu trở thành đồng minh chiến lược cảu Mỹ , có vai trò rất
lớn trong đời sống chính trị thế giới .
Đong Nam Á cũng là khu vực địa lý – nhân văn tương đối thống nhất .
Các quốc gia ở đây có mối quan hệ lịch sử ,văn hoá ,tộc người rất gần gũi
[5;36-39],[6;4]. Từ thế kỷ XIX , khi thực dân phưng7 tây sang xâm lược ,
các quốc gia Đong Nam Á đều rơi vào tình trạng thuộc địa và phụ thuộc .
Sau đai chiến thế giới thứ hai , các quốc gia này đã giành được độc lập và tự
lựa chọn con đường phát triển của minh . Tuy nhiên , di sản của chủ nghĩa
thực dân để lại cho những nước ĐNA rất nặng nề . Đó là sự nghèo nàn , lạc
hậu về kinh tế , chia rẽ về chính trị , một số vấn đề lãnh thổ ,lãnh hải ,sắc tộc
,tôn giáo v.v… đều là một trở ngại lớn cho tiến trình liên kết khu vực ở giai
đoạn sau.
Cùng với di snả của chủ nghĩa thực dân để lại , ĐNA phải chịu sự kềm
toả của hệ thống lưỡng cực thế giới ,đứng đầu là Liên Xô và Mỹ – kết quả là
ở ĐNA hình thành hai nhóm nước : Nhóm phát triển theo con đường xả hội
chủ nghĩa và nhóm phát triển theo con đường phi xã hội chủ nghĩa (lối nói
của các học giả Xô Viết ). Thân phận thuộc địa trước đây đã nhắc nhở các
quốc gia ĐNA phi xã hội chủ nghĩa cảnh giác với chủ nghĩa đế quốc .
Nhưng họ vẫn bị chủ nghĩa đế quốc , đứng đầu là Mỹ lợi dụng , lôi kéo họ
vào một số tổ chức quân sự như SEATO(1954) . Tất nhiên, quá trình tham
gia các tổ chức trên cũng có tác dụng tích cực :Các quốc gia Đông Nam Á
phi xã hội chủ nghĩa kinh nghiệm được trạng thái bị lôi kéo , bị chi phối bởi
chủ nghĩa đế quốc ; họ được phản tỉnh và ý thức về chủ nghĩa khu vực ở
3
TẬP SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN SỐ 4/1997
ĐNA được khích lệ . Đầu tháng 7/1961 hiệp hội ĐNA được thành lập với 3
thành viên là Thailand,Malaysia và Philippines ( ASA) , đánh dấu mốc đầu
tiên của quá trinh hình thànhtổ chức khu vực ở Đong Nam Á . Tuyên bố

Bangkok nêu rõ ;” ASA không liên quan với bất kỳ cường quốc bên ngoài
nào hoặc bất kỳ một khối quyền lực nào và nó không nhằm chống lại một
nước khác ,mà chủ yếu là hiệp hội tự do của các quốc gia Đong Nam Á ,với
mục tiêu thúc đẩy thịnh vưọng và tiến bộ về kinh tế ,xã hội,văn hoá ở khu
vực này , thông qua những lỗ lực chung . “ nhưng sự tranh chấp lãnh thổ
,mâu thuẫn sắc tộc , tôn giáo đã trở thành vấn nạn đối với ASA : tranh cvhấp
vùng Sabah (Bắc Borneo) giữa Malaysia voi81 Philippines , nguy cơ xung
đột vũ trang giữa Malaysia với Indonesia ( năm 1963) , vấn đề người Islam ở
vùng biên giới Mãlai- Thailand v.v… Trên thực tế ASA bị tê liệt đến năm
1966 . Năm 1963 MAPHILINDO ra đờivới quyết tâm duy trì quan hệ hữu
nghị giữa các quốc gia thành viên , góp phần vào cuộc đấu tranh chung
chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc .
Sự hình thành của ASA và MAPHILDO phản ánh việc xây dựng một
thiết chế khu vực và quốc tế . Giống như các nước tây Âu , các quốc gia này
cũnh phải đối diện với một tỉmh thế ; giữa một bên là áp lực của các cường
quốc vào Đông Nam Á ; bên kia là nhu cầu phát triển kinh tế , ổn định chính
trị, nhu cầu khẳng định vị trí ĐNA trên trường quốc tế. Cho đến khi ASEAN
ra đời( tháng 8/ 1967), tình thế trên vẫn” nghuyên trạng”. Nhóm quốc gia
này vẫn chưa thoát khỏi những vấn đề nội bộ. Chỉ đến khi chiến tranh lạnh
chấm dứt, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thì ASEAN
mới có sự chuyển hoá trong quan hệ đối ngoại. Điều mà các quốc gia Tây
Âu thực hiện từ hơn hai thập niên trở về trước.
2. Sở dĩ thành tựu hợp tác của hai tổ chức ASEAN và EU khác nhau là
do chúng có hai con đường phát triển khác nhau : đường lối ASEAN
4
TẬP SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN SỐ 4/1997
(ASEAN Way) và đường lối của EU. Dễ thấy quá trình liên kết Tây Aâu bắt
đầu từ lĩnh vực kinh tế. Cộng đồng than, thép châu Aâu được thành lập
tháng 5/1951 đã tạo ra “một kiểu quan hệ hoàn toàn mới” đối với các nước
Châu Aâu trong một lĩnh vực kinh tế cụ thể; nó đòi hỏi các nước phải trao

phần chủ quyền của mình cho một cơ quan mang tính siêu quốc gia; cơ quan
sẽ đưa ra những quyết định có tính chất bắt buộc đối với các nhà nước. Kiểu
quan hệ này không tồn tại trong tổ chức ASEAN.
Việc thành lập Cộng đồng than, thép Châu Aâu không đơn thuần mang
ý nghĩa kinh tế mà còn mang ý nghĩa chính trị sâu sắc. Chính sự ràng buộc
kinh tế đã góp phần cải thiện mối quan hệ chính trị giữa các quốc gia Tây
Aâu, đặc biệt giữa Pháp và Đức trong việc giải quyết “vấn đề Sarre” (vùng
biên giới tranh chấp giữa hai quốc gia). Từ lĩnh vực than, thép, người Tây
Aâu phát triển mối quan hệ kinh tế sang lĩnh vực năng lượng nguyên tử, cuối
cùng đi đên việc hình thành một cộng đồng kinh tế thống nhất. Hiệp ước
thành lậo hội đồng kinh tế Châu Aâu 25/03/57tại Rome đã mở ra triển vọn
hợp tác kinh tế toàn diện giữa các thành viên. Bên cạnh mục tiêu kinh tế,
việc thành lập Cộng đồng kinh tế Châu Aâu (EEC) còn khẳng định mục tiêu
chính trị cuối cùng là “xây dựng nền móng của một liên minh ngày càng
chật chẽ giữa các dân tộc Châu Aâu “[1;22]. Việc liên kết kinh tế toàn diện
của EEC tất yếu dẫn đến sự hoàn thiện và nâng cao các thể chế pháp lý
tương ứng. Tháng 8/1965 sáu quốc gia trong cộng đồng đã ký hệip ước
thống nhất các thể chế hành pháp và thành lập một uỷ ban duy nhất là Uûy
Ban Châu Aâu. Càng về sau này các quốc gia thành viên càng chuyển mạnh
tiến trình liên kết kinh tế sang liên kết chính trị Hiệp ước Maastricht
7/02/1991 không chỉ chú trọng xây dựng một liên minh chính trị, bao gồm
cả lĩnh vực đối ngọai và an ninh khu vực nói chung.
5
TẬP SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN SỐ 4/1997
Còn ở Đông Nam Á, tiến trình liên kết khu vực không bắt đầu từ liên
kết kinh tế với một số ngành cụ thể như Tây Aâu, mà bắt đầu từ liên kết
chính trị. Đó chỉ là sự thống nhất trên nguyên tắc những tư tưởng về khu vực
hoà bình, tự do, thịnh vượng, như Tuyên bố BangKok 1961 đã đề cập. ASA
đã vạch ra 07 mục tiêu hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội.
Đối với một chương trình hợp tác rộng lớn như thế, rất khó có hợp tác hiệu

quả. Đối với tổ chức MAPHILINDO, tính chất liên kết chính trị càng đậm.
Tuyên bố Manila 5/8/1963 nhấn mạnh đến” cuộc đấu tranh chung chống chủ
nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc dưới tất cả các hình thức và biểu hiện
của nó trong khu vực này nói riêng và trên toàn thế giới nói chung ? Trên
thực tế hai tổ chức nói trên đều thất bại … Tiến trình liên kết khu vực bắt
đầu bằng hợp tác chính trị ràng không bền vững. Song, các quốc gia ĐNA
phi xã hội chủ nghĩa không thể làm khác . Và theo truyền thống cũ, sự xuất
hiện ASEAN cũng chỉ là kết quả ban đầu của những thoả hiệp về chính trị
của các quốc gia thành viên trước thay đổi những về cán cân lực lượng quân
sự của các cường quốc ở ĐNA ; ASEAN phản ánh ý chí chính trị đang phát
triển của các nước trong khu vực muốn đảm nhiệm tương lai của mình…[ 7;
49]. Quá trình tồn tại , phát triển của ASEAN luôn phải đối mặt với những
thách thức về chính trị (như việc tuyên bố hình thành ZOPFAN, vấn đề
Campuchia) . Mặc dầu được một số thành tựu tronghợp tác kinh tế nhưng
ASEAN chỉ thực sự chuyển mạnh từ liên kết chính trị sang trọng tâm liên
kết kinh tế từ khi chiến tranh lạnh chấm dứt và chấm dứt luôn cả đối đầu
giữa hai nhóm nước ASEAN và Đông Dương.
Tóm lại:
-Quá trình hình thành các tổ chức ASEAN và EU gắn liền với mục tiêu
hoà bình ,ổn định và phát triển từng khu vực ,ý thức về vai trò của từng khu
vực trên trường quốc tế .
6
TẬP SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN SỐ 4/1997
-ASEAN và EU đại diện cho hai đường lối liên kết khu vực . EU bắt
đầu liên kết khu vực từ một lĩnh vực kinh tế cụ thể ( sản xuất than,thép ),
vốn rất nh5y cảm với chính trị . Đó là kiểu liên kết sieu quốc gia . Nhờ
những định chế ràng buộc về kinh tế mà quan hệ chính trị giữa các thành
viên được cải thệin . Chiều hướng liên kết xuyên quốc gia này được khẳng
định khi các quốc gia Tây Aâu xúc tiến thành lập “ Cộng đồng kinh tế Châu
Aâu “ nhằm xây dựng một thị trường chung để thực hiện tự do luân chuyển

hàng hoá dịch vụ , lao động v.v … Mặc dù quá trình liên kết Tây Aâu khởi
đầu và chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế nhưng không thuần tuý về kinh tế mà
cả trong chính trị . Các quốc gia hầu hết tham gia NATO từ 1949 ( riêng Tây
Đức gai nhập năm 1955 ) Càng về sau liên kết chính trị càng rõ . Đến khi
hiệp ước Maastricht được ký kết (1/1991 ) , đánh dấu sự xuất hiện EU thì
EU chính là một tổng thể liên kết chính trị,kinh tế, đối ngoại , an ninh quốc
phòng.
Các quốc gia ASEAN khởi đầu liên kết khu vực từ lĩnh vực chính trị.
Nhưng hợp tác chính trị ở đây không theo hướng siêu quốc gia . Đó là thứ
quan hệ lỏng lẻo. ASEAN có chú ý đến liên kết kinh tế nhưng chỉ là một vài
dự án song phương . Các dự án đa phương nhì chung kém hiệu quả . Điều
quan trong bậc nhất là liên kết kinh tế của ASEAN giống như một cơ thể ốm
yếu được phủ tấm áo rộng thùng thình bên ngoài là liên kết chính trị . Qua
việc thành lập AFTA ( 1992 ) Người Đông Nam Á đang dồn sức cho cho
các liên kết kinh tế , vốn là thứ liên kết gốc , tạo sự hoà bình ,ổn định, phát
triển cho khu vực.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
7
TẬP SAN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN SỐ 4/1997
1.ĐÀO DUY NGỌC ( chủ biên): Liên minh Châu Aâu – NXB. CTQG
H;1995.
2.VŨ DƯƠNG NINH (chủ biên ) : Các nước ASEAN –NXB –
TTLL ,Ban KHXH Thành Uỷ TP. Hồ Chí Minh ,1991.
3. VŨ DƯƠNG NINH ( CHỦ BIÊN ) : Một số vấn đề về sự phát triển
của các nước ASEAN . NXB. CTQG .H,1993.
4. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á – Bộ ngoại giao .H., 1995.
5. Đông Nam Á , giao lưu và phát triển ( kỷ yếu hội thảo khoa học)
TTNCCA.TBD, ĐHSP TP.Hồ Chí Minh 7/1995.
6. ASEAN ,an overview, ASEAN secretariat, Jakarta,Dec.1991.

8

×