Tải bản đầy đủ (.pdf) (46 trang)

Cách đánh giá địa điểm thực hiện dự án bằng phương pháp lý thuyết trò chơi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 46 trang )

Cách đánh giá địa điểm thực hiện
dự án bằng phương pháp lý thuyết
trò chơi

Sustainable Assessment of
Construction Site by Applying
Game Theory

Sự lựa chọn một địa điểm xây dựng
phù hợp là một vấn đề tối quan trọng vì
đó là nơi diễn ra sự cộng tác trong một
môi trường làm việc phong phú tri thức
và đa chức năng. Sự thành công của
việc lựa chọn địa điểm xây dựng là một
khái niệm vắn tắt. Tuy nhiên điều này
hầu như quyết định sự thành công của
một dự án. Những thông tin cần thiết
cho một địa điểm sẽ khác nhau đáng kể
tùy thuộc vào quy mô và tầm quan trọng
của những yếu tố như bản thiết kế của
cơng trình, vị trí tọa lạc và những
phương tiện được cung cấp mới hoặc
tận dụng những phương tiện có sẵn.
Những phương pháp khác nhau đã được
đưa ra nghiên cứu. Theo đó, Lý thuyết
ra quyếtđịnh thường phân tích q trình
ra quyết định từ góc nhìn của người
chơi độc lập trong khi lý thuyếttrịchơi
lại nhấn mạnh phân tích về sự tương tác
giữa những người chơi. Đa số những
vấn đề được giải quyết bằng


lýthuyếttròchơi đều liên quan đến những
trò chơi về phần tử hữu hạn và rời rạc,
tức là những yếu tố như số lượng người
chơi, những nước đi, sự kiện xảy ra, kết
quả, v.v. đều là một số lượng cụ thể. Bài
nghiên cứu này trình bày về lý thuyết
của trị chơi giữa 2 người với tổng bằng

Selection of a proper construction
site is of major importance, as
practice is intrinsically collaborative,
within knowledge-rich and multifunctional working environments.
Success of a construction site
selection is an abstract concept. It
highly determines whether a project
is a success or a failure. The
information required for a given site
varies considerably according to the
size and importance of the designed
building, its location, and whether the
facilities to be provided are in an
unmapped area or just mere
extensions of existing facilities.
Different methods for the solution of
problems are known. Decision theory
usually analyses decision-making
processes from player’s point of view,
while game theory emphasizes its
analysis in the interaction among
many players. Much of the game

theory is concerned with finite,
discrete games, which have a finite
number of players, movements,
events, outcomes, etc. This research
presents the theory of the two- person
zero-sum games with a practical
example. This research shows that the
1


0 thơng qua những ví dụ thực tiễn.
Ngồi ra, bài nghiên cứu này còn cho
thấy rằng các phương pháp để chọn
địađiểmthựchiệndựán hồn tồn có thể
xây dựng được và lý thuyết trò chơi sẽ
được áp dụng để hỗ trợ việc ra quyết
định trong một môi trường cạnh tranh.

applications to construction site
selections can be provided and the
game theory can be applied for the
supporting decision in a competitive
environment.

Giới thiệu

Introduction

Phát biểu vấn đề nghiên cứu.Quá
trình lên kế hoạch và triển khai chuẩn

bị cho dự án dựa trên những nghiên
cứu lý thuyết và thực nghiệm; sự sáng
tạo của sản phẩm, dịch vụ và công
nghệ; đây đều là những hoạt động
quan trọng của nhân loại. Ngày nay
trên thực tiễn điều đó đã trở thành phổ
biến khi trên thực tiễn đã hỗ trợ các tổ
chức thực hiện nhiều dự án khơng
những phức tạp mà cịn độc lập với
nhau (Neverauskas, Stankevicius,
2008). Cùng với sự phát triển của nền
kinh tế thị trường, những yêu cầu về
chất lượng thông tin cần cung cấp
đang dần thay đổi và có những bước
tiến quan trọng trong việc cải tiến
những phương pháp trong những khâu
như chuẩn bị, xử lý và thông báo đến
khách hàng. Tất cả những ý tưởng và
sự hiệu quả của các quyết định khác
nhau được so sánh thông qua nhiều
nhân tố khác nhau (Domeika, 2008;
Plebankiewicz, 2009; Turskis và cộng
sự, 2009). Hầu hết những quyết định
đều dựa trên tri thức, trong đó có sự

The research problem. The
project preparation and realization
processes, based on theoretical and
empirical studies, creation of goods,
services and technologies, are the

most important human activities.
Today it has become a common
practice that many organizations
work with not only separate and
complex but very often with several
or
even
more
projects.
(Neverauskas, Stankevicius, 2008).
Under the development of market
economics the requirements for
information are changing and there
should be a significant step towards
the improvement of methodology of
its preparation, processing and issue
to users. All new ideas and
effectiveness of possible decision
variants
must
be
compared
according to many attributes
(Domeika, 2008; Plebankiewicz,
2009; Turskis et al.,2009). Most
decisions are made based on
knowledge-based techniques and
2



cân nhắc về tính bền vững kinh tế
(Krisciunas,
Greblikaite,
2007).
Việcraquyếtđịnh (Sivilevicius và cộng
sự , 2008; Buoziute-Rafanaviciene và
cộng sự, 2009; Zavadskas và cộng sự,
2009b) trong các dự án là một vấn đề
phức tạp và thường gây bối rối bởi sự
cân nhắc đánh đổi giữa sự ảnh hưởng
đến các phương diện về kinh tế, mơi
trường, và xã hội - chính trị
(Lakstutiene,
2008;
Ginevicius,
Podvezko, 2008a, b, 2009; Kaplinski,
2008; Boguslauskas, Kvedaraviciene,
2009; Smaiziene, Jucevicius, 2009;
Ulubeyli, Kazaz, 2009; Juan và cộng
sự, 2009). Trong những thập kỷ vừa
qua, việc đánh giá những phương án
thay thế và các chiến lược (Ciegis và
cộng sự, 2009) đã trở nên phức tạp
hơn. Những nghiên cứu trên lĩnh vực
điều hành và ra quyết định trong tình
huống có nhiều điều kiện (MCDM) đã
cung cấp nhiều cơng cụ hữu ích cho
những đánh giá mang tính phức tạp
(Selih và cộng sự, 2008; Kalibatas,
Turskis, 2008; Zavadskas và cộng sự,

2007, 2008a, b, c, d; 2009a). Những
công cụ này dự trên những điều kiện
về giá trị, trọng số và cho phép lồng
ghép ý kiến của những cổ đông để
đánh giá những phương án thay thế
khác nhau (Turskis, 2008).

taking into account economic
sustainability
(Krisciunas,
Greblikaite,
2007).
Decisionmaking (Sivileviciuset al, 2008;
Buoziute-Rafanaviciene
et
al.,
2009;Zavadskas et al., 2009b) in
projects is a confusing and complex
problem, characterized by trade-offs
between economic, environmental,
and
socio-political
impacts
(Lakstutiene, 2008; Ginevicius,
Podvezko,
2008a,
b,
2009;
Kaplinski, 2008; Boguslauskas,
Kvedaraviciene, 2009;Smaiziene,

Jucevicius, 2009; Ulubeyli, Kazaz,
2009; Juanet al., 2009). Over the
last several decades assessment of
possible alternatives and strategies
(Ciegis et al., 2009) have become
more sophisticated and complex.
Operation research and multicriteria decision making (MCDM)
provides useful tools for many
complicated assessment problems
(Selih et al., 2008; Kalibatas,
Turskis, 2008; Zavadskas et al.,
2007, 2008a, b, c, d; 2009a) as they
are based on criteria values, criteria
weights, and allows incorporation of
stakeholders' opinions in the
ranking of alternatives (Turskis,
2008).

Khái niệm sự thành công của một dự
án vẫn còn được định nghĩa chưa được
rõ ràng trong ngành xây dựng. Ngành
xây dựng đóng một vai trò quan trọng

The concept of project success has
remained ambiguously defined in the
construction
industry.
The
construction sector plays a major role
3



trong sự phát triển của xã hội. Tuy
nhiên, nó cũng có ảnh hưởng quan trọng
đến mơi trường tự nhiên, và những ảnh
hưởng này hiển nhiên là đến toàn thế
giới. Một trong những vai trị chính yếu
của ngành xây dựng hiện nay là hỗ trợ
sự phát triển bền vững của các thành
phố. Việc tăng dân số, tăng mức sống và
tăng số lượng cơng trình đã làm cho
việc tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch và
ngun vật liệu thơ ngày càng tăng theo
(Aydin và cộng sự, 2010). Mức tiêu thụ
ngày càng tăng này đã ảnh hưởng quan
trọng đến môi trường. Trong khi nhu
cầu năng lượng của thế giới ngày càng
tăng thì mối quan ngại về khía cạnh mơi
trường, tài ngun thiên nhiên khai thác
sử dụng cũng ngày càng tăng (Grilo and
Jardim-Goncalves, 2009). Quá trình
phát triển của đất đai và những tài sản
kèm theo có thể được xem là một tình
huống xã hội mà trong đó sự tương tác
giữa những cá nhân hay giữa các tổ
chức là một trong những nhân tố cần
thiết để xem xét. Nhằm theo đuổi sự bền
vững trong ngành công nghiệp xây
dựng, những hoạt động hiện hữu nhằm
phát triển ngành đã được thay đổi thơng

qua q trình tiếp thu những chính sách
mới của chính phủ và sự phát triển
khơng ngừng của công nghệ mới nhằm
phục vụ cho ngành xây dựng (Tae and
Shin, 2009). Tuy nhiên, mối quan hệ
giữa sự phát triển kinh tế và bền vững
môi trường lại rất phức tạp. Việc ra
quyết định phê duyệt đánh giá sự bền
vững là một quá trình phức tạp và đa

in the development of society.
However, it also has a substantial
impact on the natural environment,
the effects of which are evident
across the world. One of the main
principal challenges for the modern
construction is supporting the
sustainable development of cities.
Increasing population, life standards
and construction causes fossil fuel
and raw materials consumption to
increase (Aydin et al., 2010).
Increasing consumption has major
negative impacts on the environment.
While the world energy demand is
steadily growing, the concern for the
environmental aspects and natural
resource use and exploitation has
increased
(Griloand

JardimGoncalves, 2009). Land and property
development processes obviously can
be seen as a social situation in which
the interaction of individuals or
groups of individuals is one of the
essential elements. In order to pursue
sustainability in the construction
industry,
existing
developmentfocused construction activities must
be transformed via a focusing on
sustainable development through the
adoption of sustainable policies by
the government and the development
and dissemination of sustainable
construction technologies (Tae and
Shin,2009). However, the relationship
between economic development and
environmental
sustainability
is
4


chiều bởi vì điều này khơng chỉ xem xét
trên phương diện khoa học mà còn phản
ánh những ý kiến chủ quan. Việc áp
dụng phương pháp quyết định – hỗ trợ
để cân bằng thực tiễn và các giá trị liên
quan có thể có lợi cho những người ra

quyết định (Liu và cộng sự, 2009).

complex. The decision-making on
approval of sustainable assessment is
an intrinsically complex multidimensional process because it does
not only consider scientific facts but
also reflect subjective values. The use
of decision- support methods to
balance facts and values can be
beneficial for decision makers (Liu et
al., 2009).

Những điểm mới trong nghiên cứu này
là sự áp dụng sáng tạo phương pháp lý
thuyếttròchơi cho việc lựa chọn địa
điểm thực hiện dự án. Tác giả khuyến
nghị sử dụng chiến lược chơi 2 người và
tổng ma trận bằng 0.

Newness of the research is a
creative application of game theory
methods for sustainable construction
site selection. There is proposed to
use two-person zero-sum matrix
games of strategy.

Mục tiêu của nghiên cứu là khái
The research object is the concept
niệm về những điều kiện đánh giá bền of the sustainable multiple criteria
vững của công trường xây dựng.

assessment of construction site.
Mục tiêu của đề tài là đưa ra khuyến
nghị và áp dụng chiến lược chơi 2 người
và tổng ma trận bằng 0 để đánh giá tính
bền vững giữa những phương án thay
thế khác nhau trong xây dựng.

The aim of this research is to
propose and apply two- person zerosum game theory methods for
sustainable assessment of alternatives
in construction.

Công tác thực hiện: Để có thể thực
The tasks. In order to fulfil
hiện được mục tiêu, những công tác sau objectives, the following research
đây cần phải được hoàn thành:
tasks had to be accomplished:
- Phân tích phương pháp lựa chọn
-to analyse the methods
địa điểm xây dựng;
construction site selection;

of

- Quyết định những điều kiện lựa
- to determinate success criteria of
chọn thành công của một công trình xây a construction site selection;
dựng;
assessment
of

feasible
- Đánh giá tính khả thi của những alternatives of construction site by
phương án thay thế của cơng trình xây applying game theory.
5


dựng
bằng
lýthuyếttròchơi.

cách

áp

dụng

The method of the research was
an analytic research method based on
Phương pháp nghiên cứu là phương the case study.
pháp nghiên cứu phân tích dựa trên tình
huống cụ thể.
Lựa chọn địa điểm thực hiện dự

Construction site selection

án

A project is a unique endeavour to
produce a set of deliverables within
clearly specified time, cost and

quality constraints. Selecting of a
proper construction site is of major
importance, as practice is intrinsically
collaborative, within knowledge-rich,
multi-functional
working
environments.
Success
of
a
construction site selection is an
abstract concept, and determining
whether a project is a success or a
failure is highly. The conventional
approaches to construction site
selection problem tend to be less
effective in dealing with the linguistic
assessment. Under many situations,
managers are commonly faced with
sophisticated decisions, such as
choosing the location of a new
facility subject to multiple conflicting
criteria.

Một dự án là một sự nỗ lực để đưa ra
những kết quả trong một khoảng thời
gian cụ thể với những ràng buộc về chi
phí và chất lượng. Việc lựa chọn địa
điểm thực hiện dự án là một việc tối
quan trọng vì trên thực tiễn đó là sự

cộng tác trong mơi trường làm việc
phong phú về tri thức và đa chức năng.
Sự thành công của việc lựa chọn địa
điểm là một khái niệm vắn tắt. Cách tiếp
cận thông thường của vấn đề lựa chọn
địa điểm có khuynh hướng kém hiệu
quả khi đem ra đánh giá. Trong nhiều
trường hợp, những người giám đốc
thường đối mặt với những quyết định
phức tạp như lựa chọn địa điểm cung
cấp vật tư mới với những điều kiện đặt
ra lại mâu thuẫn với nhau.

Ruiz and Fernandez (2009) đề xuất
một “hệ thống hỗ trợ quyết định dựa
trên không gian” căn cứ vào vị trí địa lý
GIS để đánh giá những thơng số môi
trường tại công trường. Phương pháp
đánh giá đa điều kiện đã được phát triển

Ruiz and Fernandez (2009)
proposed a Spatial Decision Support
System based on the GIS to evaluate
the environmental performance in
construction.
The
multicriteria
evaluation method developed in the
6



trong cuộc thi Green Building Challenge Green Building Challenge and
và được lập trình trong phần mềm implemented in the software SbTool
SbTool, đã được sử dụng như một công has been used as a reference.
cụ để tham khảo.
Fan (2009) đề xuất phương pháp
khai thác dữ liệu không gian để lựa chọn
địa điểm của trung tâm dịch vụ. Dựa
trên những tính năng nền tảng của GIS,
ông đã thiết kế chức năng phân tích để
lấy thơng tin về những nhân tố cản trở
trong không gian, nhân tố môi trường
không gian, nhân tố địa hình khơng
gian, nhân tố lưu lượng giao thơng và
nhân tố chi phí cũng được xem xét.

Fan (2009) proposed spatial data
mining method to solve site selection
of the service centre. On the basis of
GIS functions, he designed analytical
function to take spatial obstacle
factors, spatial environmental factors,
spatial terrain factors, spatial traffic
factors and cost factors into account.

Vahidnia và cộng sự (2009) đã phát
triển một quy trình phân tích đa điều
kiện để ra quyết định bằng cách kết hợp
GIS với thuật toán Fuzzy Analytical
Hierarchy Process, và sử dụng hệ thống

này để quyết định địa điểm tối ưu cho
một bệnh viện mới trong vùng ngoại ô
thành phố Tehran. Hệ thống GIS được
sử dụng để tính tốn và phân loại theo
những điều kiện được kiểm soát trong
khi thuật toán Fuzzy Analytical
Hierarchy Process được sử dụng để
đánh giá những nhân tố và những ảnh
hưởng giữa những lựa chọn địa điểm
khác nhau cho dự án.

Vahidnia et al. (2009) developed a
Multi-Criteria Decision Analysis
process that combines Geographical
Information System analysis with the
Fuzzy Analytical Hierarchy Process,
and used this process to determine the
optimum site for a new hospital in the
Tehran urban area. The GIS was used
to calculate and classify governing
criteria, while Fuzzy Analytical
Hierarchy Process was used to
evaluate the decision factors and their
impacts on alternative sites.

Ning và cộng sự (2010) đã chỉ ra
rằng việc quy hoạch địa điểm xây dựng
là một vấn đề tối ưu hóa đa mục tiêu khi
những cơ sở vật chất khác nhau được sử
dụng trong các giai đoạn thi công của

một dự án xây dựng. Họ mơ tả một
phương pháp tìm kiếm linh động và liên

Ning et al. (2010) pointed that
construction site layout planning is a
dynamic multi-objective optimization
problem as there are different
facilities employed in the different
construction phases of a construction
7


tục để hướng đến giá trị max và min
trong thuật toán ant system algorithm là
một trong những thuật toán tối ưu phân
chia lãnh thổ của loài kiến để giải quyết
vấn đề động trong quy hoạch địa điểm
xây dựng với 02 mục tiêu gần như
tương tự nhau là giảm thiểu mối quan
ngại về an tồn và chi phí trong xây
dựng.

project. They described a method
using continuous dynamic searching
scheme to guide the max-min ant
system algorithm, which is one of the
ant colony optimization algorithms,
to solve the dynamic construction site
layout planning problem under the
two congruent objective functions of

minimizing safety concerns and
reducing
construction
cost
is
proposed.

Phương pháp lựa chọn địa điểm xây
Methods of a construction site
dựng
selection
Việc ra quyết định là một quá trình
bao gồm những hoạt động liên quan bắt
nguồn từ việc nhận ra vấn đề cần ra
quyết định và kết thúc bằng khuyến nghị
để ra ra một quyết định. Chất lượng của
các quyết định phụ thuộc vào quy trình
và chất lượng của các hoạt động được
tiến hành. 02 cách tiếp cận cho cách tổ
chức công việc được phân biệt như sau:

Decision making is a process
involving activities that starts with
recognition of a decision problem and
ends with recommendation for a
decision. The quality of the decision
depends on the sequence and quality
of the activities that are carried out.
Two major approaches for the
organization of activities can be

distinguished:

a) Tập trung vào các lựa chọn thay
thế: Bắt đầu với sự phát triển những lựa
chọn thay thế, tiến triển với những giá
trị và điều kiện liên quan; và kết thúc
với sự đánh giá và đưa ra khuyến nghị
một lựa chọn cụ thể.

a)Alternative-focused.
The
alternative-focused approach starts
with the development of alternative
options,
proceeds
with
the
specification of values and criteria
and then ends with the evaluation and
recommendation of an option.

b) Value-focused. The valueb) Tập trung vào các giá trị liên
quan:Xem các giá trị liên quan như các focused approach considers the
yếu tố nền tảng để phân tích ra quyết values as the fundamental element in
định. Những quyết định thay thế được the decision analysis. Decision
8


tạo ra nhằm đạt được những giá trị đề ra alternatives are to be generated so
cho tình huống đó.

that the values specified for a
decision situation are best achieved.
Phương pháp tiếp cận tập trung vào
các giá trị liên quan thường được áp
dụng để quyết định các vấn đề, có thể là
cách hiệu quả hơn hẳn. Tuy nhiên, nếu
một quyết định bắt đầu với danh sách
các lựa chọn thì phương pháp tập trung
vào các lựa chọn thay thế sẽ phù hơn.

The
value-focused
approach
applied to decision problems, can be
much more effective. However, if the
decision problem starts with a choice
of options, the alternative-focused
approach seems more relevant.

Đối với việc tìm giải pháp cho cách
tiếp cận tập trung vào các lựa chọn thay
thế, có nhiều phương pháp được đưa ra.
Samsura và cộng sự (2009) đề xuất và
mô tả rằng mơ hình lýthuyếttrịchơi có
thể phục vụ cho việc phân tích và phỏng
đốn hành vi của người tham gia giúp
chúng ta nhận ra được chiến lược ra
quyết định mấu chốt về những dự án có
sử dụng đất bằng cách phân tích những
đánh đổi ứng với chiến lược được lựa

chọn cho các cổ đông thấy và chọn điểm
cân bằng nơi tất cả các cổ đơng hài lịng
nhất.

For the solution of alternativefocused problems different methods
are known. Samsura et al. (2009)
proposed and demonstrated that game
theoretical modelling could for
analysis and predicting the behaviour
of actors help us to identify the key
strategic decisions of land and
property development projects by
showing the different payoffs for
stakeholders of their chosen strategies
and selecting the equilibrium in
which all stakeholders involved are
best of.

Lýthuyếtraquyếtđịnh thường phân
tích q trình ra quyết định từ góc nhìn
của một người chơi độc lập, trong khi lý
thuyết trò chơi nhấn mạnh sự phân tích
sự tương tác giữa những người chơi với
nhau. Bời vì lý thuyết trị chơi tập trung
vào những tình huống có sự tương tác
và phụ thuộc lẫn nhau, đây có thể được
xem là sự mở rộng của lý thuyết ra
quyết định.

Decision theory usually analyses

decision-making processes from one
player’s point of view, while game
theory emphasizes its analysis in the
interaction among many players.
Because game theory focuses on
situations in which interactions and
interdependency play a role, it can be
seen as an extension of decision
theory.
9


Điều kiện thành công của việc lựa
Success
criteria
of
chọn địa điểm xây dựng
construction site selection
Sự thành công của việc lựa chọn địa
điểm xây dựng là một khái niệm vắn tắt.
Thực tế, chủ đầu tư, người thiết kế, kiến
trúc sư, các đơn vị tư vấn, cũng như
những nhà thầu và các thành viên trong
dự án hoặc những các nhân liên quan
đều có những định nghĩa khác nhau về
việc lựa chọn địa điểm thành cơng. Sự
thành cơng của việc lựa chọn địa điểm
có thể được xem xét từ nhiều góc độ
khác nhau. Tuy nhiên, khách hàng có có
thể có những góc nhìn khác về sự lựa

chọn của chính họ đối với mục tiêu và
điều kiện trong việc đo lường sự thành
cơng. Thêm vào đó, thậm chí đối với sự
cảm nhận của cùng một người về sự
thành công cũng thay đổi theo dự án.
Những định nghĩa của việc lựa chọn
thành công địa điểm xây dựng có thể
thay đổi tùy theo loại dự án, quy mơ,
tính phức tạp, những thành viên tham
gia và kinh nghiệm của chủ đầu tư v.v.
Tuy nhiên, khái niệm này có thể được
đánh giá thông qua những thang đo hiệu
quả. Sự lựa chọn của những điều kiện
liên quan đến tính khả thi có thể cải
thiện sự phù hợp của quyết định. Sự lựa
chọn thành cơng một địa điểm xây dựng
có thể được xem như là kết quả của một
mục tiêu cụ thể, là tập hợp của hàng loạt
những hoạt động và các cơng tác thực
hiện có sử dụng tài ngun. Trong khi
một vài tác giả xem xét yếu tố thời gian,
chi phí, chất lượng và đặc điểm của

a

Success of a construction site
selection is an abstract concept, and
determining whether a project is a
success or a failure is highly.
Actually,

owners,
designers,
architects, consultants, as well as
contractors and each project team or
individual has a definition of
selection
success. Success of
construction site selection should be
viewed from different perspectives.
However, the client may have
different views on own selection of a
construction site objectives and
criteria for measuring success.
Moreover, even the same person’s
perception of success changes from
project to project. Definitions on the
selection of a construction site
success may change according to a
project type, size and sophistication,
project participants and experience of
owners, etc. However, the concept of
selection of a construction site
success can be evaluated through
performance measures. Selection of
relevant feasible criteria may
subsequently
improve
the
acceptability of the decision. A
selection of a construction site can be

considered as the achievement of a
specified objective, which involves a
series of activities and tasks that
consume resources. While some

10


nhân cơng như là u cầu hàng đầu thì
những người khác đề nghị rằng sự thành
cơng là một điều gì đó phức tạp hơn và
phải xem xét đến tính sẵn sàng của lực
lượng lao động, chất lượng và độ tin cậy
của các biện pháp chuyên chở, cơ sở hạ
tầng, thị trường và tiệm cận nhất so với
yêu cầu của khách hàng. Sự lựa chọn địa
điểm xây dựng là một quá trình ra quyết
định trong dài hạn và bị ảnh hưởng bởi
nhiều điều kiện định tính và định lượng.
Sự lựa chọn này cũng bao gồm những
điều kiện phụ khác bởi vì tính thứ bậc
hệ thống của một vấn đề. Loại dữ liệu
được thu thập cho việc lựa chọn này là
tối cần thiết tương tự như các dữ liệu
dùng để thiết kế, nhưng lại cần những
thông tin chi tiết hơn vậy nữa.

authors consider time, costs, quality
and labour characteristics, as the
predominant targets, others suggest

that success is something more
complex and consider availability of
labour force, quality and reliability of
modes
of
transportation,
infrastructure, markets, and proximity
to customers. Construction site
selection is a long-term decision and
is influenced by many quantitative
and qualitative criteria. The selection
also includes some sub-criteria
because of the hierarchical structure
of the problem. The type of data to be
collected for the selection of a
construction site is essentially the
same as that used for engineering
design, but more detailed information
is essential.

Sự thành công của lựa chọn địa điểm
xây dựng phụ thuộc vào công nghệ xây
dựng được áp dụng để triển khai dự án.
Điều kiện tổng thể cần thiết được đặt ra
để hỗ trợ phương pháp lựa chọn địa
điểm từ những giai đoạn đầu của dự án
(Chen và cộng sự, 2009).

Success of selection of a
construction site depends on applied

construction technology for project
implementation. Holistic criteria are
needed to assist with the selection of
an appropriate construction method in
buildings during early project stages
(Chen et al., 2009).

Trong những thập kỷ gần đây, nhiều
nhà tiên phong đã đề xuất những tòa nhà
thân thiện với mơi trường được đặt ở vị
trí trung tâm khu dân cư và văn phòng.
San-Jose Lombera và Aprea (2009) đã
trình bày một mơ hình Integrated Value
Model for Sustainable Assessment trong

Over recent decades, initiatives
have
proposed
environmentally
friendly buildings and sustainable
construction
has
centred
on
residential and office buildings. SanJose Lombera and Aprea (2009)
presented an Integrated Value Model

11



đó ứng dựng một bộ gồm 6 phạm vi
nghiên cứu để định nghĩa những điều
kiện về tính bền vững của những tịa nhà
cơng nghiệp. Hệ thống này bao gồm
những u cầu được trình bày theo cấu
trúc cây để định lượng tính bền vững ở
nhiều cấp độ khác nhau nhằm đánh giá
phản ứng của những toà nhà và những
tuân thủ theo điều kiện đặt ra trước đó.
Sự đánh giá về mặt hiệu quả và phù hợp
đối với sự lựa chọn địa điểm có thể thúc
đẩy q trình triển khai thi cơng xây
dựng.

for Sustainable Assessment that
applies a set of six study scopes to
define the sustainability criteria of
industrial buildings. The system uses
a requirements tree to quantify
sustainability at various hierarchical
levels, in order to assess the
behaviour of industrial buildings and
compliance
with
the
criteria.
Effective and proper evaluation for
selection
may
accelerate

the
implementation
of
sustainable
construction.

Tuy nhiên, nhiều mối quan ngại giữa
những người liên quan với chức vụ khác
nhau đã làm vấn đề trở nên khó khăn
hơn (Wang and Zeng, 2010). Điều kiện
đặt ra liên quan đến việc lựa chọn có thể
được nhận định thơng qua phương pháp
ra quyết định mờ và được sử dụng để
xây dựng và phân tích những mơ hình
có cấu trúc mạng.

However, varied concerns among
related people of different positions
make selection problems become a
difficult task (Wang and Zeng, 2010).
The criteria, which are relevant to the
selection can be identified through
fuzzy decision making method and
used to construct an analytic network
process model.

Qui trình hình thành và phát triển
của dự án có chất lượng đều phải có đầy
đủ các bước của chu kỳ vịng đời dự án
(Hình 1). Phổ biến trong thực tế, dự án

tích hợp ba điểm mấu chốt: chỉ tiêu kinh
tế, sinh thái và xã hội, các yếu tố liên
quan đến vị trí địa lý rõ ràng là tương
đối hiếm khi xem xét (Lamellas et al.,
2009). Nếu dự án sử dụng đất được quy
hoạch liên quan đến sự tương tác với
các địa quyển, các khía cạnh khoa học
địa lý nên được đánh giá một vai trò
quan trọng hơn trong quá trình thực hiện

Each
project’s
high-quality
development has its own full life
cycle (Figure 1). While it is common
practice to integrate economic,
ecological and social (triple bottom
line) criteria, explicit geoscientific
factors
are
relatively
rarely
considered (Lamellas et al., 2009). If
a planned land use involves an
interaction with the geosphere,
geoscientific aspects should be
playing a more important role in the
process.

12



dự án.

Tiêu chí lựa chọn vị trí, địa điểm đầu
tư xây dựng cơng trình đúng đắn có thể
được dự trên một tập hợp các nguyên
tắc, tiêu chuẩn theo mục tiêu tạo điều
kiện thuận lợi để dự án đạt được thành
quả dự kiến. Hai quan điểm vĩ mô và vi
mô liên quan đến sự lựa chọn địa điểm
xây dựng đúng đắn có thể được nhận
thấy. Hình 2 cho thấy quan điểm vi mô
và vĩ mô của sự lựa chọn địa điểm xây
dựng đúng đắn.

Selection criteria of a construction
site success can be defined as the set
of principles or standards by which
favourable
outcomes
can
be
completed within a set specification.
Two categories: the macro and micro
viewpoints of construction site
selection success can be noticed.
Figure 2 shows the micro and macro
viewpoints of construction site
selection success.


Trong vòng đời của dự án, chúng ta
phải đáp ứng các yêu cầu khác nhau
trong tất cả các giai đoạn của chu kỳ
sống của dự án (Hình 3). Đánh giá vịng
đời dự án trong ngành cơng nghiệp xây
dựng (hình 3) là một phương pháp quan
trọng để định giá các cơng trình một
cách chuẩn xác. Có hẳn một hệ thống
tiêu chí khá phức tạp để đánh giá vịng
đời của dự án. (Hình 4).

The project life cycle must satisfy
different requirements in all stages of
project’s life cycle (Figure 3). Life
cycle
assessment
within
the
construction industry (Figure 3) is an
important methodology for evaluating
buildings from the extraction. There
is complicated criteria system for life
cycle evaluation (Figure 4).

Zucca et al. (2008) đã thảo luận một
quá trình lựa chọn địa điểm. Quá trình
lựa chọn địa điểm được hỗ trợ bởi một
cách tiếp cận giá trị tập trung và nhiều
chuẩn kỹ thuật đánh giá không gian để

xử lý một số lượng lớn các yếu tố môi
trường và hạn chế kinh tế-xã hội. Chen
et al. (2009) phân loại tổng số 66 tiêu
chí hiệu suất bền vững theo các khía
cạnh kinh tế, xã hội và môi trường. Họ
đã tạo ra một nền tảng có giá trị cho sự

Zucca et al. (2008) discussed a
site selection process. It was
supported by a value-focused
approach and spatial multi-criteria
evaluation techniques dealt with a
large number of environmental
factors
and
socio-economic
constraints. Chen et al. (2009)
classified the total number of 66
sustainable performance criteria
according to economic, social, and

13


phát triển của các tiêu chí: sự chịu đựng
của nguyên liệu thơ, cơng nghệ xây
dựng, vận hành và bảo trì cho đến giai
đoạn thanh lý hoặc phá hủy, và ước định
vòng đời dự án. Điều này đã nhận được
sự chú ý trong thập kỷ qua có ý nghĩa

như một phương tiện đánh giá vật liệu
xây dựng một cách rõ ràng dành cho nhà
ở dân cư (Ortiz et al., 2009a). Quản lý
vịng đời dự án có thể được áp dụng vào
tồn bộ q trình xây dựng nhằm mục
đích thể cải thiện các tiêu chí phát triển
bền vững và cũng giảm thiểu tác động
từ mơi trường trong vịng đời của cơng
trình (Ortiz et al. 2009b).

Ortiz et al. (2009b) theo mơ hình nhà
Tây Ban Nha điển hình nằm ở
Barcelona và cho rằng, trong điều kiện
của tải trọng môi trường của nhà ở này,
giai đoạn vận hành là quan trọng nhất.

environmental aspects. They created
a valuable base for the development
of sustainable performance criteria of
raw materials, construction, operation
and maintenance through to final
disposal or demolition, and also life
cycle assessment has been gaining
attention in the last decade as a means
of evaluating building materials
explicitly dedicate to residential
dwellings (Ortiz et al., 2009a). Life
cycle management can be applied to
the whole construction process, thus
making it possible to improve

sustainability criteria and also
minimize the environmental loads of
the full building life cycle (Ortiz et al.
2009b).
Ortiz et al. (2009b) modelled
typical Spanish house located in
Barcelona and stated that in terms of
this dwelling's environmental loads,
the operation phase is the most
critical.

Hình 1. Các khía cạnh chính của sự phát triển của chất lượng cao, dự án đầy
đủ chu kỳ cuộc sống

14


Hình 2. u cầu của cấp độ vi mơ và vĩ mô để thành công của một lựa chọn
địa điểm xây dựng

Hình 3. Các giai đoạn của chu kỳ sống của dự án phải được thực hiện một
cách nhất quán

15


Phương pháp giải pháp

Solution methods


Có rất nhiều mơ tả của các lý
thuyết toán học. Trong những thập
kỷ cuối cùng một loạt các ứng
dụng đa tiêu chí đánh giá và phân
tích không gian để lựa chọn địa
điểm đã được thực hiện. Nhiều
người trong số họ quan tâm tìm
kiếm các vị trí phù hợp nhất.

There are numerous descriptions
of the mathematical theory. In the
last decades a variety of applications
of multi-criteria evaluation and
spatial analysis to site selection have
been made. Many of them concerned
the search of the most suitable
location.

Kỹ thuật MCDM cung cấp
phong phú hơn đáng kể đến tính
hợp lý kém cỏi của các vấn đề tối
ưu hóa mục tiêu duy nhất (Pomerol
và Barba-Romero, 2000;. Rogers et
al, 2000; Vincke, 1992; Zionts,
1990). phương pháp MCDM sẵn
cho đến nay khác nhau về chất
lượng và số lượng thông tin bổ
sung mà họ yêu cầu, phương pháp
họ sử dụng, người dùng thân thiện


MCDM techniques provide a
considerable enrichment to the poor
rationality of the single objective
optimisation problems (Pomerol and
Barba-Romero, 2000; Rogers et al.,
2000; Vincke, 1992; Zionts, 1990).
Available MCDM methods so far
differ from each other in the quality
and
quantity
of
additional
information they request, the
16


của họ, các công cụ nhạy cảm mà methodology they use, their userhọ cung cấp, và các tính chất tốn friendliness, the sensitivity tools they
học họ xác minh.
offer,
and
the
mathematical
properties they verify.
Trong trường hợp rời rạc của
MCDM, vấn đề được xác định bởi
một số hữu hạn các lựa chọn thay
thế và một nhóm của các biện pháp
thực hiện (phát sinh từ những quan
điểm khác nhau của DM) trên đó
có các lựa chọn thay thế được đánh

giá. Vấn đề cũng có thể có một
chiều thứ ba nếu nó liên quan đến
nhiều TVLK và / hoặc không chắc
chắn trong việc đánh giá đo lường
hiệu suất (Mareschal, 1986). Các
phương pháp outranking thuộc thể
loại MCDM rời rạc đã thấy một sự
phát triển nhanh chóng trong thập
kỷ qua vì khả năng thích ứng của
họ với cơ cấu kém của hầu hết các
tình huống quyết định thực sự, và
đang trở nên phổ biến hơn trong số
các TVLK do tiềm năng lớn hơn
cho tương tác và đàm phán.

In discrete case of MCDM, the
problem is defined by a finite
number of alternatives and a family
of performance measures (arising
from different perspectives of the
DM) on which the alternatives are
evaluated. The problem could also
have a third dimension if it involves
multiple DMs and/or uncertainties in
the performance measure evaluations
(Mareschal, 1986). The outranking
methods belonging to the discrete
MCDM category have seen a rapid
development during the last decade
because of their adaptability to the

poor structure of most real decision
situations, and are becoming more
popular among the DMs due to the
greater potential for interaction and
negotiation.

Tuy nhiên, sự viên mãn của
những nỗ lực giải pháp toán học và
ý tưởng đặt ra một số vấn đề đối
với những ứng dụng thiết thực, để
vào thời điểm này là một sự lựa
chọn nên được đáp ứng từ các điểm
của việc sử dụng cho các công
nghệ xây dựng. Nếu lựa chọn này
cũng là chủ quan và có định hướng
riêng của mình bởi tình trạng hiện

However, the fullness of the
mathematical solution attempts and
ideas poses certain problems for the
practical uses, so that at this point a
choice should be met from the point
of the use to the construction
technology. If this choice is also
subjective and orientates itself by the
present state of the application
possibilities, it should grant in the
17



tại của các khả năng ứng dụng, nó
sẽ cấp trong lĩnh vực công nghệ
xây dựng các kỹ sư hoạt động một
cái nhìn sâu sắc vào các nhu cầu
tốn học và phục vụ cho sự hiểu
biết tốt hơn về các thỏa thuận với
nhau sử dụng các ví dụ.

area of the construction technology
to active engineers an insight into
the mathematical demands and serve
for the better understanding of the
put together use examples.

Hajkowicz (2005) đã đưa ra
một khuôn khổ cho việc xây dựng
các chỉ số để đo lường phúc lợi bắt
nguồn bởi công dân của một vùng
từ tài ngun mơi trường. Q
trình xây dựng chỉ số dựa trên tham
khảo ý kiến các bên liên quan kết
hợp với lý thuyết tiện ích đa thuộc
tính (sử dụng phương pháp SAW).

Hajkowicz (2005) presented a
framework for constructing multiattributed indices to measure welfare
derived by a region's citizenry from
environmental
resources.
The

process of index construction is
based on stakeholder consultation
combined with multi-attribute utility
theory (used SAW method).

Lý thuyết trị chơi và ứng
dụng

Game theory and application

Q trình phát triển đất đai và
bất động sản, quy hoạch không
gian, và xây dựng là đặc trưng rất
nhiều bối cảnh điều khiển. Những
vấn đề phức tạp và phụ thuộc lẫn
nhau đã trở nên quan trọng hơn
trong xã hội đô thị (Needham,
2007). Lý thuyết trị chơi có thể
được sử dụng để phân tích các
tương tác chiến lược thực tế để
tốn học hành vi chụp trong các
tình huống chiến lược, trong đó
thành cơng của một cá nhân trong
việc lựa chọn phụ thuộc vào sự lựa
chọn của người khác. Lãi trong lý
thuyết trò chơi đã phát triển, ngoài

Land and property development,
spatial planning, and construction
processes are characteristically very

much context-driven. The issues of
complexity and interdependency
have become much more important
in urban societies (Needham, 2007).
Game theory can be used to analyze
actual strategic interactions in order
to mathematically capture behaviour
in strategic situations, in which an
individual's success in making
choices depends on the choices of
others. Interest in game theory has
grown, beyond economics to the
other social sciences. Theoretical
modelling of a game indeed implies,
18


kinh tế cho các ngành khoa học xã
hội khác. mô hình lý thuyết của
một trị chơi thực sự ngụ ý, giống
như bất kỳ tập mơ hình, đơn giản
hóa và trừu tượng từ thế giới thực.
Tuy nhiên, trong kinh tế, bản dịch
của thế giới thực vào một mơ hình
chính thức được rất nhiều chấp
nhận và đánh giá cao. Bởi vì nó tập
trung vào sở thích trái ngược nhau,
lý thuyết trị chơi thường được định
nghĩa như là một lý thuyết về xung
đột (Luce và Raiffa, 1957) hoặc là

một khoa học của quá trình ra
quyết định chiến lược. Nó liên
quan đến việc ra quyết định trong
tổ chức nơi kết quả phụ thuộc vào
quyết định của hai hoặc nhiều
người chơi tự trị, một trong số đó
có thể là bản chất của chính nó, và
khi khơng có quyết định duy nhất
có tồn quyền kiểm sốt các kết
quả. Khi thiên nhiên được xem là
một trong những người chơi, người
ta cho rằng nó di chuyển mà khơng
cần ủng hộ và theo pháp luật của
cơ hội. Trong thuật ngữ của lý
thuyết trị chơi, bản chất là khơng
'tính' là một trong những người
chơi. Inclusively ai có thể làm cho
một sự khác biệt đối với các giải
pháp số trong một chiều và một
vấn đề hai mặt. Bên cạnh đó, việc
tính tốn của một điểm cân bằng
với một giải pháp trị chơi lý thuyết
đếm cho vấn đề hai bên.

like any modelling exercise, a
simplification and abstraction from
the real world. However, in
economics, the translation of the real
world into a formal model is very
much accepted and appreciated.

Because of its focus on conflicting
preferences, game theory is often
defined as a theory of conflict (Luce
and Raiffa, 1957) or as a science of
strategic decision making. It is
concerned with decision making in
organisations where the outcome
depends on the decisions of two or
more autonomous players, one of
which may be nature itself, and
where no single decision maker has
full control over the outcomes.
When nature is designated as one of
the players, it is assumed that it
moves without favour and according
to the laws of chance. In the
terminology of game theory, nature
is not ‘counted’ as one of the
players. Inclusively one can make a
distinction for the numerical solution
in a one-sided and a two-sided
problem. Besides, the calculation of
an equilibrium point with a gametheoretical solution counts to the
two-side problem.

19


Các cuộc thảo luận đầu tiên
được biết đến của lý thuyết trò chơi

diễn ra trong một lá thư được viết
bởi James Waldegrave trong 1713.
Mộtấn Trong thư này, Waldegrave
cung cấp một giải pháp chiến lược
hỗn hợp min-max đến một phiên
bản hai người của trị chơi thẻ le
của cơ. Lý thuyết trị chơi trong
thời kỳ hiện đại đã được mở ra với
việc xuất bản vào năm 1913, bởi
nhà toán học người Đức Ernst
Zermelo,
của
"Uber
eine
Anwendung der Mengenlehre auf
chết Theorie des Schachspiels".
Ông đã chứng minh rằng mỗi cạnh
tranh hai người chơi sở hữu một
chiến lược tốt nhất cho cả hai
người chơi, cung cấp cả hai người
chơi có đầy đủ thơng tin về những
dự định và sở thích của nhau.
Trong một trị chơi của thơng tin
đầy đủ, người chơi biết chiến lược
của riêng họ và chức năng trả-off
và những người chơi khác. Ngoài
ra, mỗi người chơi biết rằng người
chơi khác có thơng tin đầy đủ. Sở
thích cho lý thuyết trò chơi hiện đại
bắt đầu phát triển với công việc của

Borel (1921) và Von Neumann
(1928). Sau khi cơng việc của Von
Neumann và Morgenstern (1944)
lý thuyết trị chơi đã trở nên rất phổ
biến và bắt đầu như là một lĩnh vực
nghiên cứu. Các khái niệm về
thơng tin hồn hảo và khơng hồn

The first known discussion of
game theory occurred in a letter
written by James Waldegrave in
1713. In this letter, Waldegrave
provides a min-max mixed strategy
solution to a two-person version of
the card game le Her. Game theory
in the modern era was ushered in
with the publication in 1913, by the
German
mathematician
Ernst
Zermelo, of “Uber eine Anwendung
der Mengenlehre auf die Theorie des
Schachspiels”. He proved that every
competitive two- person game
possesses a best strategy for both
players, provided both players have
complete information about each
other’s intentions and preferences. In
a game of complete information,
players know their own strategies

and pay-off functions and those of
other players. In addition, each
player knows that other players have
complete information. Interests to
modern game theory began growing
with the work of Borel (1921) and
Von Neumann (1928). After the
work of Von Neumann and
Morgenstern (1944) game theory
became very popular and started as a
field of study. The concepts of
perfect and imperfect information
refer to the information each player
has concerning the actions of the
other player. A game is one of
perfect information if all players
20


hảo tham khảo các thông tin mỗi
người chơi đã liên quan đến hành
động của các người chơi khác. Một
trò chơi là một trong những thơng
tin hồn hảo nếu tất cả các người
chơi biết di chuyển trước đây được
thực hiện bởi tất cả các người chơi
khác. Như vậy, chỉ có trị chơi tuần
tự có thể được trị chơi thơng tin
hồn hảo, vì trong trị chơi đồng
thời khơng phải tất cả người chơi

biết những hành động của người
khác. Phần lớn lý thuyết trị chơi là
có liên quan với hữu hạn, trị chơi
rời rạc, trong đó có một số hữu hạn
các người chơi, chuyển động, sự
kiện, kết quả, vv Đây là chỉ có hai
hoặc nhiều người chơi có một vấn
đề trở nên trị chơi lý thuyết.

know the moves previously made by
all other players. Thus, only
sequential games can be games of
perfect information, since in
simultaneous games not every player
knows the actions of the others.
Much of game theory is concerned
with finite, discrete games, which
have a finite number of players,
moves, events, outcomes, etc. It is
only with two or more players that a
problem becomes game theoretical.

Trò chơi với vơ số người chơi
thường được gọi là trị chơi Nngười (Luce và Raiffa, 1957).
Trong khi ban đầu được phát triển
để phân tích các cuộc thi trong đó
một cá nhân thực hiện tốt hơn với
chi phí của người khác (trị chơi có
tổng bằng khơng), nó đã được mở
rộng để điều trị một lớp rộng các

tương tác, được phân loại theo một
số tiêu chí. Trong lý thuyết trị chơi
và lý thuyết kinh tế, tổng bằng
khơng mơ tả một tình huống trong
đó lãi lỗ của người tham gia được
cân chính xác của các khoản lỗ
hoặc lãi của người tham gia khác
(s). Nếu tổng thu nhập của những

Games with an infinite number of
players are often called N-person
games (Luce and Raiffa, 1957).
While initially developed to analyze
competitions
in
which
one
individual does better at another's
expense (zero sum games), it has
been expanded to treat a wide class
of interactions, which are classified
according to several criteria. In
game theory and economic theory,
zero-sum describes a situation in
which a participant's gain or loss is
exactly balanced by the losses or
gains of the other participant(s). If
the total gains of the participants are
added up, and the total losses are
21



người tham gia được thêm lên, và
tổng số lỗ được trừ, họ sẽ có tổng
bằng khơng. Nghiên cứu này
thường tập trung vào bộ cụ thể của
chiến lược được gọi là trạng thái
cân bằng trong trò chơi. Từ quan
điểm của việc sử dụng rất nhiều
cho đến nay điều tra các vấn đề của
công nghệ xây dựng đã trở thành
giới hạn bởi hai người trị chơi tổng
bằng khơng trong chiến lược mơ
hình, do đó hạn chế trong trường
hợp đặc biệt này có vẻ hợp lý sẵn
sàng.

subtracted, they will sum to zero.
This research usually focuses on
particular sets of strategies known as
equilibrium in games. From the
point of the use a lot of up to now
investigated problems of the
construction technology became
limited by Two-person zero-sum
games of strategy modelled, so that
the restriction in this special case
seems fair-ready.

Trò chơi tổng bằng không là

một trường hợp đặc biệt của trị
chơi khơng đổi tiền, trong đó sự
lựa chọn của người chơi có thể
khơng tăng cũng khơng giảm
nguồn lực sẵn có. Trong trị chơi có
tổng bằng tổng lợi ích cho tất cả
người chơi trong game, với mỗi sự
kết hợp của chiến lược, ln ln
làm tăng thêm số khơng (khơng
chính thức hơn, một người chơi lợi
ích chỉ có tại các chi phí bằng nhau
của những người khác). Các trò
chơi tuân theo một định luật bảo
tồn giá trị tiện ích, trong đó giá trị
tiện ích là khơng bao giờ tạo ra
hoặc phá hủy, chỉ chuyển từ một
người chơi khác. Các lợi ích của
hai người chơi ln nghiêm chống
đối và cạnh tranh, khơng có khả
năng, hoặc được hưởng lợi trong
hợp tác. Một người chơi phải thắng

Zero-sum games are a special
case of constant-sum games, in
which choices by players can neither
increase nor decrease the available
resources. In zero-sum games the
total benefit to all players in the
game, for every combination of
strategies, always adds to zero (more

informally, a player benefits only at
the equal expense of others). The
game obeys a law of conservation of
utility value, where utility value is
never created or destroyed, only
transferred from one player to
another. The interests of the two
players are always strictly opposed
and competitive, with no possibility
of, or benefit in, cooperation. One
player must win and at the expense
of the other; a feature known as
Pareto-efficiency. More precisely, a
Pareto-efficiency is a situation in
which the lot of one player cannot be
22


và tại các chi phí của người khác;
một tính năng được gọi là Paretohiệu quả. Chính xác hơn, một
Pareto-hiệu quả là một tình huống
mà trong đó rất nhiều của một
người chơi khơng có thể được cải
thiện mà khơng làm xấu đi rất
nhiều của ít nhất một người chơi
khác. Một kết quả có hiệu quả có
thể khơng được Pareto chi phối bởi
bất kỳ kết quả khác. Trong một trò
chơi tổng bằng không, tất cả các
kết quả đạt được Pareto hiệu quả, ít

nhất là từ một người chơi là tồi tệ
hơn khi những người khác được
thực hiện tốt hơn trong việc lựa
chọn kết quả khác.
Các ứng dụng của lý thuyết trò
chơi đã được phân tích bởi nhiều
tác giả: Muschik (1975); Muschik,
Muller
(1986);
Peldschus,
Zavadskas
(1997);
Aumann
(1989); Hollert (2006); Meszek
(2007, 2008); Ginevicius và Krivka
(2008); Stain (2010). Giới thiệu về
ứng dụng của lý thuyết trị chơi cho
nhiều phân tích tiêu chí quyết định
trong xây dựng có thể được tìm
thấy trong Peldschus et al (1983,
2008b). Peldschus (1986, 2007a, b,
2009) đã phân tích hiệu quả của
đánh giá trong quyết định đa tiêu
chuẩn. Đa tiêu chuẩn hệ thống tối
ưu hóa cho việc ra quyết định trong
thiết kế xây dựng và quản lý phân
tích Turskis et al. (2009).

improved without worsening the lot
of at least one other player. An

efficient outcome cannot be Pareto
dominated by any other outcome. In
a zero-sum game, all outcomes are
Pareto efficient, since at least one
player is worse off when others are
made better off in choosing another
outcome.

The application of game theory
was analysed by many authors:
Muschik (1975); Muschik, Muller
(1986);
Peldschus,
Zavadskas
(1997); Aumann (1989); Hollert
(2006);
Meszek(2007,
2008);
Ginevicius and Krivka (2008); Stain
(2010). An introduction to the
application of game theory for
multiple criteria decision analysis in
construction can be found in
Peldschus et al (1983, 2008b).
Peldschus (1986, 2007a, b, 2009)
analysed the effectiveness of
assessments in multicriteria decision.
Multi-criteria optimization system
for decision making in construction
design and management analysed

Turskis et al. (2009).

23


Đối với xây dựng, phát triển bất
động sản và quản lý với các ứng
dụng của lý thuyết trò chơi cho đến
nay số lượng hạn chế (Mu và Ma
2007):

With respect to construction,
property
development
and
management the applications of
game theory so far are limited in
number (Mu and Ma 2007):

-Zavadskas
et
al.
(2003)
- Zavadskas et al. (2003) đã developed the software for multiple
phát triển phần mềm để đánh giá criteria evaluation;
nhiều tiêu chí;
- Zavadskas et al. (2004) solved
- Zavadskas et al. (2004) giải problems of construction technology
quyết các vấn đề của công nghệ and management;
xây dựng và quản lý;


- Peldschus and Zavadskas
- Peldschus và Zavadskas (2005) investigated fuzzy matrix
(2005) đã nghiên mờ trò chơi ma game in construction;
trận trong xây dựng;
- Lo et al. (2006) proposed exit
- Lo et al. (2006) đề xuất thoát selection model for evacuation based
lựa chọn mơ hình để sơ tán dựa a game theory;
trên một lý thuyết trò chơi;

- Su et al. (2007) proposed model
- Su et al. (2007) đề xuất mô of urban public traffic networks;
hình mạng lưới giao thơng cơng
- Sun and Gao (2007) applied an
cộng đô thị;
equilibrium model for urban transit
- Sun và Gao (2007) áp dụng assignment;
một mơ hình cân bằng chuyển
- Homburg and Scherpereel
nhượng quá cảnh đô thị;
(2008) analysed the cost of joint risk
- Homburg và Scherpereel capital be allocated for performance
(2008) đã phân tích chi phí vốn rủi measurement;
ro doanh được phân bổ cho đo
lường hiệu suất;
- Motchenkova (2008) áp dụng
một trị chơi khác biệt mơ tả sự
tương tác giữa một cơng ty có thể
vi phạm luật cạnh tranh và cơ quan
chống độc quyền. Mục tiêu của

chính quyền là để giảm thiểu chi

- Motchenkova (2008) applied a
differential game describing the
interactions between a firm that
might be violating competition law
and the antitrust authority. The
objective of the authority was to
minimize social costs (loss in
24


phí xã hội (mất mát trong thặng dư consumer surplus) induced by an
tiêu dùng) gây ra bởi sự gia tăng increase in prices above marginal
trong giá trên chi phí biên;
costs;
- Podvezko (2008a) presented the
- Podvezko (2008a) trình bày review of the game theory
experience
in
những đánh giá về những kinh application
nghiệm lý thuyết trò chơi ứng dụng construction management;
trong quản lý xây dựng;
-Peldschus (2008) applied game
theory for the problem solution in
- Peldschus (2008) áp dụng lý
technology and management of
thuyết trò chơi cho các giải pháp
construction;
vấn đề trong công nghệ và quản lý

xây dựng;
- Schotanus et al. (2008) analysed
- Schotanus et al. (2008) đã unfair allocation of gains under the
phân tích phân bổ công bằng của equal price allocation method in
tăng theo phương pháp phân bổ giá purchasing groups;
bằng việc mua các nhóm;

- Tamosaitiene et al. (2008) - Tamosaitiene et al. (2008) - modelling of contractor selection
mơ hình lựa chọn nhà thầu có tính taking into account different risk
level;
đến mức độ rủi ro khác nhau;
- Zavadskas et al. (2008c)
- Zavadskas et al. (2008c) đã
phát triển phần mềm đa tiêu chí tối developed multi-criteriaoptimization
ưu hóa LEVI-4.0 dựa trên lý thuyết software LEVI-4.0 based on the
game theory;
trò chơi;
- Zavadskas and Turskis (2008)
- Zavadskas và Turskis (2008)
đã phát triển một phương pháp developed a new logarithmic
bình thường logarit mới trong lý normalization method in games
theory;
thuyết trò chơi;
- Westergaard (2008) cung cấp
một định nghĩa của visualisations,
thành lập lý thuyết trò chơi, mà coi
visualisations như các hệ thống
chuyển đồng bộ với các mơ hình
chính thức.


- Westergaard (2008) provided a
definition of visualisations, founded
in game-theory, which regards
visualisations as transition systems
synchronised with formal models.
- Gu et al. (2009) analysed
25


×