Tải bản đầy đủ (.docx) (190 trang)

Phương hướng và giải pháp xây dựng bộ đội biên phòng trong thời kỳ mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.12 KB, 190 trang )

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ quyền an ninh biên giới quốc gia và việc tổ chức lực lợng, phơng
tiện bảo vệ CQANBG là mối quan tâm hàng đầu của bất cứ quốc gia nào
trên thế giới. Tính chất, nhiệm vụ và việc xây dựng tổ chức lực lợng chuyên
trách bảo vệ CQANBGQG phải luôn luôn phù hợp với tình hình chính trị và
đờng lối đối nội, đối ngoại của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử cụ
thể.
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến mới phức
tạp và chứa đựng những yếu tố không ổn định. Đất nớc ta bớc vào thời kỳ
mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bên cạnh những
thuận lợi cơ bản, cũng còn không ít những thách thức và nguy cơ mới: các
mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp; các thế lực
thù địch vẫn luôn coi Việt Nam là một mục tiêu chống phá, hòng xóa bỏ
chủ nghĩa xà hội (CNXH) ở nớc ta.
Biên giới nớc ta có vị trí chiến lợc quan trọng cả về kinh tế, chính trị,
quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Trên các tuyến biên giới đất liền và vùng
biển hiện đang trong xu thế hòa hoÃn, hữu nghị, hợp tác nhng vẫn còn chịu
nhiều sự tác động, xâm nhập, phá hoại của các loại đối tợng, các lực lợng
thù địch trong và ngoài nớc. Lợi dụng đờng lối đổi mới và chính sách mở
cửa của Đảng của Nhà nớc ta, chủ nghĩa đế quốc cùng các thế lực thù địch
đẩy mạnh xâm nhập về kinh tế hòng làm chuyển hóa về chính trị; lợi dụng
các vấn đề dân tộc, tôn giáo để tấn công vào nội bộ ta phá hoại khối đại
đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định trên các tuyến biên giới.
Tình trạng tranh chấp chủ quyền biên giới đất liền, trên biển diễn
biến hết sức phức tạp. Do lịch sử để lại, việc giải quyết các mâu thuẫn tồn
tại trên biên giới đất liền, trên biển còn kéo dài, vừa hợp tác vừa đấu tranh

1



và cha thể loại trừ hành động mở rộng lấn chiếm bằng vũ lực từ bên kia
biên giới.
Tình hình nêu trên đang đặt ra yêu cầu mới cho sự nghiệp bảo vệ
CQANBG ,nói chung và cho việc xây dựng, phát triển lực lợng bộ đội Biên
phòng (BĐBP), nói riêng.
BĐBP là một thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam, một lực
lợng vũ trang của nhân dân ta đặt dới sự lÃnh đạo của Đảng, là lực lợng
nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ CQANBGQG; là lực lợng thành viên
của các khu vực phòng thủ tỉnh, huyện biên giới. Từ ngày thành lập đến
nay, BĐBP đà phấn đấu khắc phục nhiều khó khăn, chịu đựng nhiều hy sinh
gian khổ, hoàn thành tốt nhiệm vụ quản lý, bảo vệ CQANBGQG; tích cực
tham gia xây dựng cơ sở chính trị và thực hiện các chơng trình kinh tế-xÃ
hội, góp phần đoàn kết đồng bào các dân tộc xây dựng và bảo vệ biên giới
của Tổ quốc ngày càng vững mạnh.
Tuy nhiên, trong công cuộc đổi mới theo định hớng xà hội chđ nghÜa
(XHCN) ë níc ta hiƯn nay, nhiỊu vÊn ®Ị mới và phức tạp đang đặt ra cả về
nhận thức cũng nh hành động cần phải giải quyết trên lĩnh vực bảo vệ
CQANBGQG gắn với việc củng cố và xây dựng lực lợng BĐBP. Thực tiễn
40 năm xây dựng và trởng thành của BĐBP cho thấy, bên cạnh những u
điểm, BĐBP còn bộc lộ nhiều mặt hạn chế: trình độ và năng lực tổ chức, chỉ
huy, lÃnh đạo của một số đơn vị cha đáp ứng đợc yêu cầu nhiệm vụ; đời
sống cán bộ, chiến sĩ còn nhiều khó khăn; trang thiết bị, kỹ thuật thiếu
thốn, lạc hậu; các văn bản pháp luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của
BĐBP cha đầy đủ, thiếu đồng bộ, cha tạo đợc sự phối hợp chặt chẽ giữa
BĐBP với các lực lợng, các ngành, các địa phơng, đặc biệt là sự phối hợp
giữa BĐBP với nhân dân khu vực biên giới, vùng biển, đảo... Do đó, BĐBP
cha phát huy đợc cao nhất sức mạnh tổng hợp bảo vệ CQANBGQG. Hơn
nữa, một số khu vực biên giới trên đất liền, trên biển và đảo của nớc ta còn


2


đang bị nớc ngoài xâm lấn, chiếm giữ. Thời gian qua còn có những nhận
thức cha đầy đủ, đúng đắn về vai trò của BĐBP trong sự nghiệp bảo vệ
CQANBGQG.
Trong giai đoạn hiện nay và những năm tới, với đờng lối đổi mới mở
rộng hợp tác và giao lu quốc tế, vai trò của BĐBP trong sự nghiệp bảo vệ
CQANBGQG càng đặc biệt quan trọng. Vấn đề này cần đợc tìm hiểu,
nghiên cứu sâu sắc, toàn diện về vai trò, chức năng, nhiệm vụ và tổ chức
xây dựng lực lợng BĐBP, sao cho phù hợp với những điều kiện mới của đất
nớc, khu vực, thế giới và thời đại. Trên cơ sở đó xác định rõ và đúng đắn vai
trò của BĐBP trong sự nghiệp bảo vệ CQANBGQG để có chủ trơng, phơng
hớng chiến lợc đúng xây dựng BĐBP vững mạnh đáp ứng đòi hỏi của nhiệm
vụ quản lý, bảo vệ CQANBGQG trong tình hình mới. Vì thế, đề tài luận án
này có ý nghĩa thiết thực cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sự nghiệp bảo vệ CQANBG là một nội dung quan trọng của công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nớc ta, vì thế, vấn đề này đà đợc nhiều
ngời nghiên cứu ở các góc độ khác nhau. Trong số đó, đáng chú ý là một số
công trình nghiên cứu: Nguyễn Văn Tấn: "Những luận cứ khoa học của
chiến lợc bảo vệ vùng biên giới trong giai đoạn mới", (Đề tài KX 09-06, Hà
Nội, 1994); Đặng Vũ Liêm: "Xây dựng mô hình an ninh cộng đồng ở biên
giới lấy đồn biên phòng làm nòng cốt", (Đề tài cấp bộ - Bộ Nội vụ, 1994);
Phạm Hữu Bồng: "ổn định lâu dài biên giới quốc gia", (Đề tài
KX-XH. 07. 05, 1999); ...
Ngoài ra, còn một số công trình, bài viết đề cập ở những khía cạnh
khác nhau của đề tài nh: Nguyễn Đức Châu - Nguyễn Tuấn Chung: "Ông cha
ta bảo vệ biên giới quốc gia ", (Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội,
1994); Bộ T lệnh BĐBP: "Lịch sử bộ đội Biên phòng tập I, II", (Nhà xuất

bản Công an nhân dân, Hà Nội, 1990; Đỗ Mời: "Trách nhiƯm cđa chóng ta

3


hôm nay và các thế hệ mai sau là bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền của
Tổ quốc", (Báo Quân đội nhân dân, ngày 21-3-1994, tr.4); Trần Đức Lơng:
"Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng trong khai thác thế mạnh vùng
biển và thềm lục địa", (Báo Quân đội nhân dân, ngày 20-3-1994, tr.1); Đinh
Văn Tuy: "Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo vệ chủ
quyền an ninh quốc gia", (Tạp chí Công an nhân dân, số 3-1985); "Mấy vấn
đề về biên giới Việt Nam", (Tạp chí Nghệ thuật quân sự, số 4-1997); Lò A
Ngân: "Đoàn kết một lòng đấu tranh bảo vệ CQANBG", (Tạp chí Công an
nhân dân, số 3-1995); Trịnh Trân: " Tăng cờng công tác quản lý bảo vệ
CQANBG Tổ quốc phục vụ sự nghiệp đổi mới đất nớc", (Tạp chí Quốc
phòng toàn dân, số 3-1995); Phạm Hữu Bồng: "T tởng Hồ Chí Minh về
công tác biên phòng", (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1999);
Đặng Vũ Liêm: "Bảo vệ biên giới quốc gia chống Diễn biến hòa bình",
(Tạp chí Nghiên cứu Lý luận số 5-1994), "Bộ đội Biên phòng với việc xây
dựng điểm sáng văn hóa trên biên giới, hải đảo", (Tạp chí Quốc phòng toàn
dân, số 7-1998); Tăng Huệ: "Bộ đội Biên phòng trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc", (Tạp chí Nghệ thuật quân sự, số 2-1996) v.v...
Ngoài các đề tài cấp Nhà nớc, cấp bộ; một số cuốn sách, các bài viết
đăng trên các tạp chí, báo đà công bố, một số tác giả đà chọn lĩnh vực bảo
vệ CQANBGQG làm đề tài cho các luận án tiến sĩ, phó tiến sĩ nh: Đặng Vũ
Liêm: "Vai trò nhân dân các dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an
ninh biên giới quốc gia phía Bắc nớc ta hiện nay", (Luận án PTS Triết học,
Hà Nội, 1997); Tăng Huệ: "Nghiên cứu phơng pháp đấu tranh của bộ đội
Biên phòng phòng chống lấn chiếm biên giới tuyến biên giới đất liền phía
Bắc", (Luận án PTS khoa học Quân sự, Hà Nội, 1996); Hoàng Minh Hiểu:

"Nâng cao chất lợng công tác kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng
ở các đảng bộ bộ đội Biên phòng hiện nay", (Luận án TS khoa học Quân sự,
Hà Nội, 1997); Bùi Xuân Hoàn: "Cơ sở tâm lý - x· héi cđa viƯc cđng cè

4


nâng cao uy tín cán bộ chính trị đơn vị cơ sở BĐBP", (Luận án TS khoa học
Quân sự, Hà Nội, 1998), v.v..
Nh vậy, vấn đề biên giới quốc gia và lực lợng BĐBP đà đợc một số
tác giả quan tâm nghiên cứu. Song, cho đến nay, trên những công trình đÃ
đợc công bố, ở nớc ta cha có công trình nào ở cấp độ luận án tiến sĩ, đi sâu
đề cập một cách tập trung, cơ bản, có hệ thống về vai trò, nhiệm vụ của
BĐBP trong việc quản lý, bảo vệ CQANBGQG. Chọn đề tài: "Bộ đội Biên
phòng ViƯt Nam trong sù nghiƯp b¶o vƯ chđ qun an ninh biên giới
quốc gia hiện nay", tác giả luận án hy vọng góp phần nhỏ vào việc giải
quyết vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách ở nớc ta hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Dới góc độ chính trị - xà hội, luận án có mục đích làm rõ những căn
cứ lịch sử, lý luận, thực tiễn của quá trình hình thành, phát triển và vai trò
của BĐBP do Đảng cộng sản Việt Nam lÃnh đạo trong sự nghiệp bảo vệ
CQANBGQG. Từ đó, đề xuất một số giải pháp cơ bản, khả thi để xây dựng
lực lợng BĐBP vững mạnh toàn diện, bảo vệ vững chắc CQANBG trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN thời kỳ mới.
Để đạt mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ
sau đây:
+ Trình bày một cách khái quát những vấn đề liên quan và tác động
trực tiếp đến việc xác định vai trò của BĐBP trong thời kỳ mới, nh: khái
niệm "bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới", những bài học lịch sử về bảo vệ
biên giới quốc gia, đặc điểm của BĐBP với tính cách là một bộ phận của

lực lợng vũ trang cách mạng Việt Nam.
+ Nêu lên những nét cơ bản nhất về thực trạng của BĐBP nớc ta hiện
nay, xác định, phân tích làm sáng rõ vai trò to lớn của BĐBP trong sự
nghiệp bảo vệ CQANBG, nhất là trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc.

5


+ Xác định phơng hớng cơ bản và những giải pháp chủ yếu để xây
dựng BĐBP Việt Nam vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp bảo vệ
CQANBG trong thời kỳ mới.
4. Cơ sở lý luận và thực tiễn; phơng pháp và phạm vi nghiên cứu
của đề tài
- Luận án đợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
t tởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam; các
chỉ thị, nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ơng, Tổng cục Chính trị
Quân đội nhân dân Việt Nam; các tác phẩm của các đồng chí lÃnh đạo
Đảng, Nhà nớc, quân đội liên quan trực tiếp đến đề tài. Luận án có sử dụng
tài liệu của các nhà khoa học, các cơ quan nghiên cứu trong và ngoài nớc,
các tài liệu thống kê, báo cáo sơ kết, tổng kết có liên quan đến đề tài.
- Cơ sở thực tiễn của luận án là những thành tựu và hạn chế trong lịch
sử bảo vệ biên giới của ông cha ta; thực trạng biên giới, BĐBP trong những
năm qua và yêu cầu của sự nghiƯp b¶o vƯ CQANBGQG trong thêi kú míi ë
níc ta.
- Luận án đợc tiến hành trên cơ sở vận dụng phơng pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử, kết hợp với phơng pháp lịch sử - lôgíc và sử
dụng các phơng pháp của xà hội học (điều tra, khảo sát, nghiên cứu thực
tiễn, phân tích tổng hợp, tham khảo chuyên gia,...) trong đó phơng pháp lịch
sử - lôgíc đợc đặc biệt chú ý.

- Phạm vi nghiên cứu của luận án là các đơn vị BĐBP tuyến biên giới
đất liền, tuyến biên giới biển, đảo trong phạm vi cả nớc; quá trình hình
thành và phát triển của lực lợng BĐBP Việt Nam từ năm 1959 đến nay.
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Dới góc độ chính trị - xà hội, luận án đà hệ thống hóa những vấn đề
lý luận và thực tiễn cơ bản liên quan đến lực lợng BĐBP và sự nghiệp b¶o
vƯ CQANBGQG.

6


- Trên cơ sở đó, luận án phân tích rõ phơng hớng xây dựng BĐBP Việt
Nam trong tình hình mới và một hệ giải pháp cơ bản có tính khả thi tác
động để lực lợng này phát triển vững mạnh, toàn diện theo hớng cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ và từng bớc hiện đại đáp ứng đợc yêu cầu bảo vệ vững
chắc CQANBG nớc ta hiện nay.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án cũng góp phần cung cấp một số luận cứ làm cơ sở khoa
học cho việc lÃnh đạo và chỉ huy BĐBP trong thùc hiƯn nhiƯm vơ b¶o vƯ
CQANBG níc ta hiƯn nay.
- Luận án có thể đợc sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu
về BĐBP và giảng dạy nghiệp vụ công tác biên phòng ở các cấp học đại
học, trung học thuộc hệ thống đào tạo của lực lợng BĐBP.
7. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 3 ch¬ng 6 tiÕt.

7



Chơng 1
Bộ đội Biên phòng - lực lợng nòng cốt,
chuyên trách quản lý, bảo vệ
chủ quyền an ninh biên giới quốc gia

1.1. Chủ quyền an ninh biên giới và sự nghiệp bảo vệ chủ
quyền an ninh biên giới ở nớc ta

1.1.1. Khái niệm bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia
Khái niệm bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới quốc gia có nội dung
phong phú, toàn diện, liên quan đến nhiều vấn đề: lÃnh thổ quốc gia, chđ
qun l·nh thỉ qc gia, biªn giíi qc gia, an ninh biên giới quốc gia, v.v..
LÃnh thổ quốc gia là một phần của quả đất, bao gồm vùng đất, vùng
nớc, vùng trời và lòng đất giới hạn bởi biên giới qc gia vµ thc chđ
qun cđa mét qc gia, trong đó, nhà nớc có thể áp đặt một chế độ pháp lý
cho việc quản lý các hoạt động kinh tế, chÝnh trÞ-x· héi. L·nh thỉ qc gia
cã thĨ to, nhá khác nhau, tỉ lệ giữa vùng đất, vùng nớc, vùng trời có thể
khác nhau, nhng không thể thiếu ba thành phần cơ bản này. Theo luật pháp
và các điều ớc quốc tế, lÃnh thổ quốc gia còn bao gồm phần lÃnh thổ đặc
biệt nh trụ sở ngoại giao ở nớc ngoài, tàu biển, phơng tiện bay, tàu và trạm
vũ trụ, xe cộ mang quốc kỳ hoặc các dấu hiệu phân biệt của các quốc gia
đó, đờng dây cáp, ống dẫn... thc qc gia n»m ngoµi l·nh thỉ cđa qc
gia [72, 456].
L·nh thỉ qc gia xt hiƯn cïng víi sù ra đời của nhà nớc. Khi các
quốc gia đầu tiên xuất hiện, lÃnh thổ quốc gia chỉ là những vùng đất nhỏ
hẹp đợc giới hạn trên mặt đất, những vùng đó thờng có điều kiện địa lý
thuận tiện cho việc sản xuất nông nghiệp. Cùng với sự phát triển của các hệ
thống chính trị - xà hội và khoa học kỹ thuật, lÃnh thổ quốc gia dần dần đợc

8



mở rộng ra biển, lên không trung và sâu xuống tầng ngầm của trái đất.
LÃnh thổ quốc gia là một trong ba yếu tố cơ bản hợp thành quốc gia (lÃnh
thổ, dân c, nhà nớc). Trong đó, lÃnh thổ là điều kiện vật chất, là môi trờng
sống, sinh tồn và phát triển của mỗi quốc gia. Bàn về vấn đề này, nhà sử
học Phan Huy Chú đà nhận xét rằng: "Của báu của một nớc không gì quí
bằng đất đai, nhân dân, của cải từ đó mà ra" [14, 25]. Vì vậy, việc bảo vệ
toàn vẹn lÃnh thổ đà trở thành vấn đề sống còn của mỗi quốc gia, dân tộc.
LÃnh thổ quốc gia là những bộ phận nhạy cảm nhất của quyền lợi
giai cấp, dân tộc; là một trong những đối tợng có thể bị xâm hại và cần đợc
chú trọng bảo vệ đầu tiên. LÃnh thổ quốc gia có mối liên hệ hữu cơ với chủ
quyền lÃnh thổ quốc gia. Bởi vì, một khi đà xác định một khu vực nào đó là
lÃnh thổ của một quốc gia thì tất yếu sẽ dẫn tới sự cần thiết phải xác định
chủ quyền của quốc gia đó đối với lÃnh thổ của mình.
Chủ quyền quốc gia là quyền làm chủ một cách độc lập, toàn vẹn và
đầy đủ về mọi mặt lập pháp, hành pháp và t pháp của một quốc gia trong
phạm vi lÃnh thổ của quốc gia đó. Mỗi quốc gia đều thể hiện chủ quyền của
mình trên mọi phơng diện kinh tế, chính trị, ngoại giao... Tất cả các nớc,
không tính đến qui mô lÃnh thổ, dân sè, chÕ ®é x· héi, ®Ịu cã chđ qun
qc gia [72, 195]. Chủ quyền quốc gia là đặc trng chính trị và pháp lý thiết
yếu của một quốc gia độc lập, đợc thể hiện trong hoạt động của các cơ quan
nhà nớc và trong hệ thống pháp luật quốc gia. Tôn trọng chủ quyền quốc
gia là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Hiến chơng Liên hợp
quốc khẳng định nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia.
Không một quốc gia nào đợc can thiệp hoặc khống chế, xâm phạm chủ
quyền của một quốc gia ®éc lËp. Trong nh÷ng néi dung vỊ chđ qun qc
gia thì chủ quyền về lÃnh thổ là một nội dung có tầm quan trọng đặc biệt.
Chủ quyền lÃnh thổ quốc gia là quyền tối cao và tuyệt đối của nhà nớc
đối với lÃnh thổ quốc gia. Nhà nớc là chủ sở hữu, quản lý, sử dụng và bảo


9


vệ lÃnh thổ của mình. Đó là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Không
một tổ chức, một cá nhân nào từ bên ngoài đợc áp đặt với quyền này. Một
nhà nớc có bản lĩnh thực sự là giữ đợc tính độc lập cao của mình đối với chủ
quyền lÃnh thổ quốc gia, không chia sẻ quyền này cho bất kỳ một thế lực nào.
Trong chế độ phong kiến, lÃnh thổ quốc gia đợc coi là vật sở hữu của
Triều đình. Vua chúa có toàn quyền đối với lÃnh thổ, có thể đem nhợng
bán, làm của hồi môn, làm quà " phong thởng " cho các quan lại...
Trong thời đại ngày nay, chủ quyền tối cao và tuyệt đối của nhà nớc
đối với lÃnh thổ đợc thực hiện theo nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết về
lÃnh thổ. Quyền tối cao đối với việc định đoạt lÃnh thổ là thuộc về nhân dân
sống trên lÃnh thổ đó. Trong quan hệ quốc tế, nhà nớc là ngời đại diện tối
cao, hợp thức cho quyền lợi của dân tộc và cũng là ngời chủ sở hữu duy
nhất về lÃnh thổ quốc gia.
Chủ quyền lÃnh thổ quốc gia là một trong những cơ sở đảm bảo cho
việc thực hiện chủ quyền quốc gia, là yếu tố hàng đầu để ghi nhận chủ
quyền qc gia vµ lµ dÊu hiƯu tríc hÕt cđa chÝnh nhà nớc. Về vấn đề này,
Ph.Ăngghen đà viết: "So với tổ chức thị tộc trớc kia thì đặc trng thứ nhất
của nhà nớc là ở chỗ nó phân chia thần dân của nó theo địa vực". Về địa
vực- tức lÃnh thổ, Ngời còn giải thích thêm rằng: "Nh chúng ta đà biết,
những liên minh thị tộc cũ, do quan hệ dòng máu tạo thành và duy trì đều
đà trở nên không thích hợp nữa, phần lớn là vì chúng đòi hỏi các thành viên
của chúng phải gắn liền với một địa vực nhất định, và vì từ lâu những mối
quan hệ ấy không còn nữa. Địa vực vẫn còn đó, nhng ngời đà trở nên di
động. Cho nên, ngời ta lấy việc phân chia địa vực làm điểm xuất phát và ngời ta để cho những công dân thực hiện những quyền lợi và những nghĩa vụ
xà hội của họ tại nơi c trú, không kể họ thuộc thị tộc nào, bộ lạc nào, cách
tổ chức những công dân của nhà nớc theo địa vực họ c trú nh thế, là một đặc

điểm chung của tất cả các nhà nớc" [53, 253].

1
0


Chủ quyền lÃnh thổ không đợc bảo đảm thì các mặt chủ quyền khác
không thể, hoặc khó có thể thực hiện đầy đủ. Chủ quyền về lÃnh thổ nếu
không đợc giữ vững và khai thác hiệu quả thì trực tiếp làm giảm vai trò của
bản thân nhà nớc cũng nh hạn chế đối với sự phát triển quốc gia và lợi ích
dân tộc.
Tôn trọng quyền tối cao và tuyệt đối của nhà nớc về lÃnh thổ là
nguyên tắc quan trọng của luật pháp quốc tế. Theo đó, một mặt, các quốc
gia có quyền định đoạt sử dụng, giữ gìn lÃnh thổ của mình, quản lý c dân
trong lÃnh thổ; mặt khác, nghiêm cấm các quốc gia tiến hành bất cứ hành
động xâm phạm đến lÃnh thổ của các quốc gia kh¸c. Chđ qun l·nh thỉ
cđa mét qc gia bao giê cũng tồn tại trong một giới hạn nhất định, giới
hạn đó là biên giới quốc gia.
Biên giới quốc gia là ranh giới (đờng và mặt thẳng đứng) xác định
phạm vi chđ qun cđa mét qc gia ®èi víi vïng ®Êt và lòng đất phía dới;
vùng biển, đáy biển, lòng đất dới đáy biển và khoảng không tiếp liền vùng
đất và vùng biển đó [72, 42]. Theo định nghĩa này thì biên giới quốc gia là
đờng phân chia lÃnh thổ quốc gia của một quốc gia này với một quốc gia
khác hoặc với vùng biển thuộc chủ quyền tài phán của quốc gia đó. Trên cơ sở
các bộ phận cấu thành l·nh thỉ, biªn giíi qc gia bao gåm: biªn giíi trên đất
liền, biên giới trên biển và biên giới trên không.
Biên giới quốc gia trên đất liền đợc thành lập trên cơ sở thỏa thuận
giữa các quốc gia có liên quan trên cơ sở lịch sử hình thành và có thể có
những ghi nhận của quốc tế. Thông thờng, các tháa thn vỊ biªn giíi qc
gia gåm hai néi dung chính: một là, hoạch định đờng biên giới (xác định vị

trí đờng biên giới và thể hiện đờng biên giới đó trên bản đồ kèm theo điều ớc hoạt động biên giới); hai là, phân giới cắm mốc (xác định đờng biên giới
trên thực địa bằng các dấu hiệu biên giíi - hƯ thèng mèc giíi). Trong thùc
tiƠn, biªn giíi quốc gia trên đất liền tùy theo hoàn cảnh cụ thĨ cđa c¸c qc

1
1


gia liên quan có thể thỏa thuận dựa vào các yếu tố địa
hình (sông, hồ, núi, thung lũng...), thiên văn (kinh tuyến, vĩ tuyến) hoặc
hình học (bằng những đờng thẳng nối liền các điểm qui ớc) để thiết lập đờng biên giới.
Biên giới quốc gia trên biển là ranh giới phía ngoài của lÃnh hải do
quốc gia ven biển thiết lập phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế. Đối
với đảo của một quốc gia nằm ngoài phạm vi lÃnh hải của quốc gia này,
biên giới quốc gia là đờng ranh giới phía ngoài của lÃnh hải bao quanh đảo.
Biên giới quốc gia trên biển giữa các quốc gia kế cận hoặc đối diện nhau có
lÃnh hải chồng lấn nhau đợc thiết lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các quốc
gia có liên quan, và đợc thể hiện bằng điều ớc và hoạch định trên biển.
Biên giới trên không là mặt thẳng đứng đi theo đờng biên giới quốc
gia trên đất liền, trên biển.
Biên giới có ý nghĩa hÕt søc quan träng trong quan hƯ qc tÕ cđa
c¸c quốc gia. Vấn đề tranh chấp lÃnh thổ giữa các quốc gia xảy ra hầu hết
xoay quanh việc xác định vị trí đờng biên giới. Vì vậy, sau khi hoạch định
đờng biên giới quốc gia, nghĩa là sau khi đợc mô tả cụ thể hớng đi trên bản
đồ địa hình, phải tiếp tục đợc xác định rõ và cố định chắc chắn trên thực địa
bằng quá trình phân giới, cắm mốc.
Biên giới quốc gia là bất khả xâm phạm. Đó là một nguyên tắc cơ
bản của pháp luật quốc gia và luật pháp quốc tế [72, 43]. Trong thực tế,
biên giới quốc gia bao giờ cũng là đối tợng dễ bị xâm hại bằng bạo lực. Do
đó, bất cứ quốc gia độc lập có chủ quyền nào cũng phải tổ chức lực lợng vũ

trang chuyên trách quản lý và bảo vệ biên giới của mình.
Trong lịch sử thế giới, sự ra đời và phát triển của biên giới quốc gia
gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của lÃnh thổ quốc gia, là một bộ
phận hợp thành gắn bó với sự ra đời và phát triển của nhà nớc. Khi các quốc
gia cổ đại đầu tiên ra đời, giữa các quốc gia còn có phần lÃnh thổ vô chñ,

1
2


thờng là những chớng ngại vật tự nhiên nh núi rừng, sa mạc, sông ngòi, v.v..
Phần lớn những phần đợc xem nh vô chủ đó đợc gọi là miền biên thùy hay
miền biên giới. Hình thức sơ khai của biên giới quốc gia là biên giới vùng.
Khi nghiên cứu về vấn đề này, V.I.Lênin đà viết: "Hồi đó, núi, sông, biển là
những trở ngại lớn hơn bây giờ nhiều, và nhà nớc cũng hình thành trong
những biên giới địa lý nhỏ hẹp hơn nhiều. Bộ máy nhà nớc, rất kém về mặt
kỹ thuật, lúc đó phục vụ cho một quốc gia có biên giới tơng đối nhỏ hẹp và
có phạm vi hoạt động hạn chế" [38, 85].
Cùng với việc hình thành nhà nớc phong kiến, các quốc gia không
ngừng củng cố và mở rộng lÃnh thổ của mình, lÃnh thổ vô chủ bị hẹp lại,
lÃnh thổ các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau, biên giới vùng chuyển
sang hình thức biên giới đờng.
Các đờng biên giới đầu tiên thờng nằm trùng với ranh giới các công
xÃ, làng mạc, thành phố, con suối, vách đá,... Đó là mốc chủ yếu để phân
chia lÃnh thổ trên mặt đất, cùng với sự phát triển của lÃnh thổ quốc gia ra
biển, lên không trung và xuống sâu lòng đất, biên giới đờng đà dần dần
chuyển sang hình thức biên giới mặt.
Trong xà hội có giai cấp đối kháng, đấu tranh giai cấp không chỉ diễn
ra trong nội bộ quốc gia mà đôi khi còn diễn ra ở ngoài quốc gia. Mỗi nhà
nớc có chính sách đối nội, đối ngoại để thu hút những nguồn lợi chính của

giai cấp thống trị. Do đó, từ xa đến nay, vấn đề lÃnh thổ, biên giới quốc gia
thờng là ngòi nổ gây ra các cuộc xung đột vũ trang, chiến tranh xâm lợc
nhằm tranh giành, chiếm đoạt lÃnh thổ của nhau. Khi cần thiết, mọi quốc
gia phải thực hiện các cuộc đấu tranh để bảo vệ sự toàn vẹn lÃnh thổ biên
giới của mình. Hiến chơng của Liên hợp quốc đà ghi rõ: "Trong quan hệ
quốc tế, các quốc gia Liên hợp quốc không đợc có hành ®éng ®e däa b»ng
vị lùc hay dïng vị lùc ®Ĩ chống lại quyền bất khả xâm phạm về lÃnh thổ
hay nền độc lập chính trị của bất cứ nớc nào, bằng cách này hay cách khác

1
3


làm trái với mục đích của Liên hợp quốc" [12, 10]. Luật pháp quốc tế cũng
đà xác định những nguyên tắc cơ bản về biên giới: "Đó là tính bất khả xâm
phạm của biên giới quốc gia" [72, 43]. ổn định biên giới quốc gia, tôn trọng
biên giới quốc gia của nớc khác chính là điều kiện tiên quyết cho sự ổn
định trong quan hệ quốc tế.
Lịch sử phát triển biên giới của các nớc trên thế giới cho thấy, ở
nhiều nơi, giai cấp bóc lột nắm quyền thống trị, vì lợi ích ích kỷ của mình
đà đa ra một số lý thuyết không xác đáng và vô lý về biên giới. Các lý
thuyết đó đà trở thành cơ sở để biện minh cho hành động xâm lợc lÃnh thổ
các quốc gia khác:
Lý thuyết thứ nhất, thờng khoác áo tôn giáo, lấy lý do thần thánh
khác nhau, mang tính cực ®oan cng tÝn: "Do ý mn cđa Thỵng ®Õ", "nghÜa
vơ thiêng liêng đi tìm mộ Chúa", "vì ý Chúa", "diệt trừ tà giáo", v.v. để
phân chia biên giới quốc gia. Ngày nay, ở một số nớc, giai cấp thống trị vẫn
tuyên truyền cho việc lấy biên giới tôn giáo làm biên giới quốc gia, nếu nh
điều đó có lợi cho quyền thống trị của chúng.
Lý thuyết thứ hai, thờng giơng cao chiêu bài "tự do - văn minh",

"truyền bá ánh sáng văn hóa, văn minh phơng Tây", "khai hóa các dân tộc lạc
hậu" của chủ nghĩa thực dân cũ, hoặc "giúp đỡ các quốc gia chậm phát triển",
"cộng đồng trách nhiƯm b¶o vƯ thÕ giíi Tù do", v.v. cđa chđ nghĩa thực dân
mới nhằm xâm chiếm, thôn tính lÃnh thổ của các quốc gia độc lập khác.
Lý thuyết thứ ba, thờng kích động tinh thần chủng tộc, sắc tộc, lợi
dụng các mối quan hệ "cùng tiếng nói, dòng máu, màu da" để xác định lại
biên giới quốc gia hiện có, đòi lập nên các biên giới quốc gia theo chủng
tộc, nhằm thôn tính lÃnh thổ các quốc gia khác.
Lý thuyết thứ t, thờng nêu cao lý do "vì lợi ích lâu dài của quốc
phòng". Thực chất, đó là loại lý thuyết của chủ nghĩa đế quốc, bành trớng,
dựa trên sức mạnh quân sự để quyết định biên giới quốc gia, nh»m t×m cho

1
4


quốc gia mình một biên giới vợt ra ngoài biên giới hiện có.
Lý thuyết thứ năm, thờng lấy sức mạnh kinh tế, văn hóa, ngoại giao,
sinh thái để xác định biên giới quốc gia. Đây là một hình thức bành tríng
biªn giíi cđa mét sè qc gia nh»m më réng không gian sinh tồn, là"biên
giới mềm", tức biến đối phơng thành thuộc địa kinh tế, thuộc địa thông tin,
thuộc địa sinh thái, thuộc địa văn hóa của mình.
Những lý thuyết nêu trên, dù màu sắc khác nhau, đà đợc nảy sinh
trong từng thời kỳ lịch sử nhất định, nhng đều phục vụ đắc lực cho lợi ích
ích kỷ của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, dân tộc sô-vanh nhằm mê hoặc quần
chúng nhân dân để xâm chiếm lÃnh thổ của các quốc gia khác. Trong hoàn
cảnh không thể lợi dụng đợc các chiêu bài trên, thì giai cấp thống trị ở một
số nớc ngang nhiên phát động chiến tranh xâm lợc, xâm chiếm lÃnh thổ các
nớc khác. Thực tế đó đà đặt ra yêu cầu đối với mọi quốc gia có chủ quyền
là cùng với việc phê phán, đấu tranh với các loại lý thuyết phản động, phản

khoa học về biên giới, đồng thời phải tổ chức tiến hành cuộc chiến tranh
chống xâm lợc, chống xâm chiếm lÃnh thổ và thờng xuyên hoạt động bảo
vệ chủ quyền lÃnh thổ và an ninh biên giới của mình.
An ninh biên giới quốc gia là trạng thái ổn định của tình hình chính
trị - x· héi ë khu vùc biªn giíi.

ë

mäi qc gia, an ninh biên giới là một

trong những nội dung quan trọng của an ninh quốc gia, là một nhân tố
mang tính chất quyết định đến việc giữ vững và củng cố hòa bình đất nớc.
Nội dung của an ninh biên giíi, bao gåm: an ninh chÝnh trÞ, an ninh x· hội,
an ninh văn hóa - t tởng, an ninh kinh tế, trong đó, điều quan trọng là giữ
vững ổn định về chính trị - tinh thần của nhân dân, xây dựng ý thức, tình
cảm thiêng liêng của công dân với nền độc lập của dân tộc và sự toàn vẹn
lÃnh thổ của biên giới quốc gia, thái độ tôn trọng pháp luật về biên giới, tích
cực tham gia vào sự nghiƯp b¶o vƯ CQANBGQG.

1
5


CQANBGQG lµ mét bé phËn quan träng cđa chđ qun quốc gia. Bất
cứ quốc gia nào trong lịch sử muốn phát triển, trớc hết phải giữ đợc trạng
thái ổn định trên các mặt. Đây là yếu tố khách quan. Trong sự ổn định
chung đó, sự ổn định về chủ quyền lÃnh thổ biên giới quốc gia là một trong
những yếu tố rất quan trọng. Sự vững vàng về khả năng quốc phòng và an
ninh biên giới quốc gia là điều kiện đảm bảo thờng xuyên cho sự phát triển
chung của đất nớc.

Từ việc tìm hiểu những vấn đề liên quan trên, có thể nhận thức đợc
rằng, bảo vệ CQANBG ở nớc ta là bảo vệ quyền tối cao của Nhà nớc đối
với mọi vấn đề trong phạm vi lÃnh thổ khu vực biên giới quốc gia, duy trì,
giữ gìn đờng biên giới quốc gia trên đất liền, trên biển, giữ vững an ninh
chính trị và trật tự xà hội ở khu vực biên giới; là bảo vệ quyền làm chủ của
Nhà nớc đối với mọi lĩnh vực ở khu vực biên giới quốc gia. Quyền làm chủ
ở đây không chỉ là sự quản lý, bảo vệ biên giới mà còn bao gồm một loạt
chủ trơng xây dựng toàn diện các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xà hội ở
khu vực biên giới, từng bớc ổn định và phát triển. Đồng thời, đó cũng là quá
trình chống lại tất cả các trào lu, những quan điểm t tởng, những hành động
làm mất ổn định, trái với đờng lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nớc ở khu vực này. Bảo vệ CQANBGQG là một công tác vừa có tính chất
đối nội, vừa có tính chất đối ngoại. Đó là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn
dân, trong đó, BĐBP là lực lợng chuyên trách và nòng cốt. Việc bảo vệ
CQANBGQG phải tuân thủ các điều ớc quốc tế, pháp luật của Nhà nớc, qui
chế khu vực biên giới của Chính phủ và hệ thống điều lệnh, điều lệ qui
định.
Sự nghiệp bảo vệ CQANBG trở thành một nội dung quan trọng trong
tiến trình bảo vệ Tổ quốc, nhiều khi đợc coi là đồng nghĩa với công cuộc
bảo vệ Tổ quốc XHCN [43, 16].

1
6


1.1.2. Những bài học kinh nghiệm về sự nghiệp bảo vƯ chđ qun
an ninh biªn giíi ë níc ta trong lịch sử
Việt Nam là một trong những nớc nằm trên bán đảo Đông Dơng,
thuộc Đông - Nam châu á, có vị trí chiến lợc quan trọng cả về địa lý, kinh
tế, chính trị, quân sự, văn hóa. Từ xa đến nay, Việt Nam luôn là một mục

tiêu, là đối tợng nhòm ngó của các thế lực xâm lợc, bành trớng. Do vậy,
một đặc điểm nổi bật có tính qui luật trong lịch sử phát triển của dân tộc
Việt Nam là, dựng nớc đi đôi với giữ nớc. Trong quá trình dựng nớc và giữ
nớc đó, ông cha ta luôn coi biên giới là "phên dậu" trọng yếu của đất nớc,
nên đà không tiếc tiền của và sức lực, mồ hôi và xơng máu để bảo vệ chủ
quyền lÃnh thổ quốc gia. Qua đó, ông cha ta cũng đà để lại nhiều bài học
quí báu cho chúng ta kế thừa, vận dụng vào sự nghiệp bảo vệ CQANBGQG
ngày nay. Có thể rút ra những bài học cơ bản sau đây:
Một là, bảo vệ CQANBG luôn gắn liền với việc giữ vững độc lập dân
tộc, thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lÃnh thổ quốc gia.
ý chí bảo toàn nền độc lập chủ quyền đối với đất đai, sông, núi, biển,
trời của Tổ qc lµ nỊn mãng t tëng quan träng, lµ céi nguồn tinh thần để
các thế hệ ông cha ta liên tục đánh bại mọi mu đồ và hành động xâm lợc, nô
dịch của ngoại bang, bảo vệ trọn vẹn chủ qun l·nh thỉ, c¬ng vùc cđa Tỉ qc.
Ngay tõ thêi dựng nớc, tuy cha tìm thấy tài liệu nào nói về cách thức
tổ chức biên phòng của thời Văn Lang- Âu Lạc, nhng các cuộc kháng chiến
chống quân xâm lợc Tần và Triệu Đà ở vùng biên cơng phía Bắc, cho thấy,
việc phòng giữ, bảo vệ các miền biên giới thời kỳ này đà đợc đặc biệt chú
trọng. Các cuộc kháng chiến chống quân xâm lợc đầu tiên trong lịch sử của
dân tộc ta cũng còn là sự khẳng định ý chí độc lập dân tộc, hình thành ý
thức quốc gia, quốc giới của dân c Âu - Lạc ở các miền biên giới tiếp giáp
với lÃnh thổ Trung Quốc [13, 17].

1
7


Trong thời kỳ Bắc thuộc, các triều đại phong kiến Trung Hoa tăng cờng sự quản lý chặt chẽ đất đai, dân c, tìm mọi cách đồng hóa dân tộc ta,
nhng chúng đà vấp phải sự phản kháng mạnh mẽ của các thế hệ ngời Việt
Nam, trong đó có những cuộc đấu tranh rất điển hình về tinh thần độc lập

dân tộc với việc giữ gìn, khẳng định một biên giới, lÃnh thổ rõ ràng.
Năm 40, cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trng (Trng Trắc, Trng Nhị) nổ
ra và giành thắng lợi. Một vùng lÃnh thổ rộng lớn từ Trung Bộ đến Hợp Phố đợc giải phóng khỏi ách thống trị của nhà Hán. Trng Trắc xng Vơng để khẳng
định nền độc lập và tự chủ. Nguy cơ ngoại xâm cha hết, nền độc lập non trẻ
còn đang bị đe dọa, công việc phòng thủ các miền biên giới trọng yếu đợc Trng Vơng coi trọng và cử nhiều tớng tài ra đảm nhiệm [13, 21].
Năm 248, cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu (Triệu Thị Trinh) đà tiến
hành bền bỉ trong gần ba năm. Nghĩa quân đà đánh đuổi quân giặc và làm
chủ nhiều vùng rộng lớn. Nữ tớng Triệu Thị Trinh khẳng định ý chí độc lập
dân tộc với việc giành lại toàn vẹn đất nớc: "Tôi muốn cỡi cơn gió mạnh,
đạp luồng sóng dữ, chém cá Kình ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô, giành
lại giang sơn, cởi ách nô lệ" [46, 84].
Thời nhà Lý (thế kỷ XI), ý chí bảo vệ độc lập của dân tộc đợc khẳng
định rõ tính chất tối cao, tuyệt đối bất khả xâm phạm về chủ quyền lÃnh thổ
biên giới quốc gia. Trong khí thế vơn lên của cả dân tộc để chiến đấu và
chiến thắng kẻ xâm lợc, Lý Thờng Kiệt đà viết lên bài thơ "thần" bất hủ "Nam quốc sơn hà":
"Nam quốc sơn hà Nam đế c.
Tiệt nhiên định phận tại thiên th.
Nh hà nghịch lỗ lai xâm phạm.
Nhữ đẳng hành khan thủ bại h" [46, 181].
Bài thơ ngắn gọn, nhng đà nói lên khí phách, t thế và quyết tâm của
dân tộc ta, tuyên bố khẳng định chủ quyền độc lập thiêng liêng và quyền

1
8


bình đẳng của dân tộc, cảnh cáo nghiêm khắc kẻ ngoại xâm. Bài thơ đà đợc
ghi vào lịch sử nh bản "tuyên ngôn độc lập" đầu tiên của dân tộc ta sau hơn
một nghìn năm bị phong kiến phơng Bắc đô hộ.
Thời Lê (thế kỷ XV), ngay sau khi đất nớc giải phóng khỏi ách đô hộ

của nhà Minh, chế ®é phong kiÕn ë níc ta ph¸t triĨn ®Õn giai đoạn cực
thịnh, đất nớc hùng cờng, công cuộc biên phòng vẫn chiếm một vị trí quan
trọng trong quốc sách xây dựng và bảo vệ đất nớc. Nguyễn TrÃi viết "Bình
Ngô đại cáo", một lần nữa khẳng định lại những giá trị t tởng thiêng liêng
về sự vẹn toàn biên cơng, lÃnh thổ của đất nớc:
"Nh nớc Đại Việt ta từ trớc,
Vốn xng nền văn hiến đà lâu,
Cõi bờ sông núi đà riêng,
Phong tục Bắc - Nam cũng khác,
Trải... Đinh, Lý, Trần, Lê nối đời dựng nớc
Cùng Hán, Đờng, Tống, Nguyên đều chủ một phơng.
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Mà hào kiệt không bao giờ thiếu" [46, 257].
ở "Bình Ngô đại cáo", ý thức biên phòng đà phát triển đến đỉnh cao.
Ngoài việc khẳng định núi, sông bờ cõi riêng, bản anh hùng ca này còn xác
định rõ giá trị vật chất, tinh thần của một dân tộc độc lập, đó là nền "văn
hiến", là "hào kiệt", là thế đối xứng lịch sử các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê
của Đại Việt với Hán, Đờng, Tống, Nguyên của Trung Hoa. Những nhân tố
có chiều sâu lịch sử ấy đà tạo nên sức mạnh của dân tộc ta, một dân tộc ®éc
lËp trªn mét l·nh thỉ thèng nhÊt, cã chđ qun.
Cịng nh vËy, sau nµy, Ngun H - Quang Trung (thÕ kỷ XVIII) đÃ
tuyên bố: "Trong khoảng vũ trụ, trời nào, sao đấy đà phân định rõ ràng, ph-

1
9


ơng Nam, phơng Bắc chia nhau mà cai trị, một thớc đất, một ngời dân, bốn
bề giáp ranh những đâu, đà có sách chép rõ" [6, 221]. Điều khẳng định ấy
đà biểu hiện rõ quan điểm về sự toàn vẹn lÃnh thổ quốc gia của ông cha ta.

Trong lịch sử bảo vệ CQANBG của dân tộc ta, ý chí độc lập, sự toàn
vẹn lÃnh thổ còn là thớc đo giá trị của các triều đại, các nhân vật lịch sử trớc vận mệnh của dân tộc. Ông cha ta cho rằng, ngời nào quan tâm đến việc
bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lÃnh thổ và an ninh biên giới là có công lớn. Và
ngợc lại, để mất đất hoặc mất dân vì hám lợi riêng bị coi là trọng tội. Lý
Nhân Tông, trong tờ biểu gửi cho vua Tống đòi thu hồi đất đai bị lấn chiếm
đà nêu ra một nguyên tắc bất di bất dịch: Mặc dù đất ấy chỉ nhỏ hơn hòn
đạn nhng vẫn khiến lòng tôi đau xót, luôn nghĩ đến cả trong giấc mộng.
Vua Lê Thánh Tông, trong lời dụ bảo Lục khoa Lê Cảnh Huy trớc khi đi sứ
sang nhà Minh để giải quyết biên sự vào cuối năm 1471, có viết: "Một thớc
núi, một tấc sông của ta lẽ nào tùy tiện vứt bỏ đi đợc? Phải kiên quyết để
tranh luận, không để cho họ lấn dần. Nếu họ không theo, còn có thể sai sứ
sang tận triều đình của họ biện bạch rõ lẽ phải trái. Nếu kẻ nào đem một thớc núi, một tấc đất đai của Thái Tổ làm mồi cho giặc, tội phải chu di" [14,
180].
Tiếc thay, một số tập đoàn phong kiến vì quyền lợi ích kỷ của dòng
họ, đà đang tâm cắt một phần đất cho nớc ngoài (nh Mạc Đăng Dung dâng
biểu nộp cho nhà Minh một vùng đất biên cơng rộng lớn...). Đây cũng là bài
học lịch sử - bài học phản diện, cho thấy việc giữ gìn toàn vẹn biên cơng
phải gắn liền với sự ổn định chính trị quốc gia và thống nhất đất nớc.
Hai là, nhiệm vụ bảo vệ biên giới là nhiệm vụ chung của cả dân tộc,
là công việc của Triều đình, của từng ngời dân, công cuộc biên phòng phải
dựa vào sức mạnh toàn diện của đất nớc.

2
0



×