Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.62 KB, 22 trang )

Nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tự phê bình
và phê bình trong sinh hoạt Đảng
Mục lục
Mở đầu
Phần 1: Nhận thức chung về nguyên tắc tự phê bình
và phê bình trong sinh hoạt Đảng
1.1Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về nguyên tắc tự phê bình và phê bình
1.2 Tầm quan trọng của tự phê bình và phê bình trong
giai đoạn hiện nay
1.3 Thực trạng thực hiện nguyên tắc tự phê bình và
phê bình trong sinh hoạt Đảng
Phần 2: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng
2.1Tăng cường quán triệt, giáo dục nhận thức, trách
nhiệm cho cán bộ, đảng viên về tự phê bình và phê bình
2.2 Xác định và lựa chọn nội dung sinh hoạt tự phê
bình và phê bình phải cụ thể, thiết thực, gắn với công tác
lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đảng
2.3 Tiếp thu các ý kiến quần chúng, ý kiến đóng góp
của các tổ chức chính trị - xã hội trong cơ quan, đơn vị để tự
phê bình và phê bình. Tạo điều kiện để cá nhân khắc phục
khuyết điểm sau tự phê bình và phê bình.
2.4 Làm tốt mọi công tác chuẩn bị, điều hành sinh
hoạt tự phê bình và phê bình đúng trọng tâm, bảo đảm
nguyên tắc
2.5 Nâng cao trách nhiệm bí thư chi bộ; mở rộng dân
chủ; duy trì chặt chẽ chế độ tự phê bình và phê bình
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo



Mở đầu
1.Lý do chọn đề tài
Tự phê bình và phê bình là một chế độ, một nội dung
quan trọng trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng ta. Sinh
hoạt tự phê bình và phê bình đã trở thành quy luật gắn liền
với quá trình trưởng thành và phát triển của Đảng. Tự phê
bình và phê bình là chính quy luật phát triển của Đảng, là
phương pháp để giáo dục, rèn luyện đảng viên, là vũ khí sắc
bén để chống tả khuynh và hữu khuynh; uốn nắn những lệch
lạc trong nhận thức; ngăn chặn suy thối tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống; khắc phục tư tưởng ngại khó, ngại khổ; tư
tưởng chủ quan, nóng vội, duy ý chí; nói thẳng, nói thật;
nhận rõ những khuyết điểm, yếu kém, sai phạm… nhằm
mục đích để xây dựng, củng cố sự đồn kết thống nhất trong
Đảng, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh,
nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, tăng
cường đoàn kết, thống nhất từ trong tư duy, nhận thức, lý
tưởng đến hành động cách mạng.
Trong những năm qua, thông qua việc tổ chức quán
triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết TƯ 4 (khóa XI), sinh
hoạt tự phê bình và phê bình trong tồn Đảng từng bước đi
vào nền nếp, chất lượng. Tuy nhiên, qua sinh hoạt tự phê
bình và phê bình ở nhiều chi bộ, tổ chức cơ sở đảng cũng đã
cho thấy những yếu kém, bất cập: nhận thức của một số cán
bộ, đảng viên về tự phê bình và phê cịn hạn chế; việc chuẩn
bị nội dung sinh hoạt của một số cấp ủy chưa cụ thể, chưa
tập trung vào những bất cập, yếu kém trong lãnh đạo, chỉ
đạo, xác định trách nhiệm cá nhân và tập thể; tư tưởng “dĩ
hòa vi quý” còn nặng nề… Trong thời gian tới, để phát huy

dân chủ, giữ vững được đoàn kết nội bộ, giúp cán bộ, đảng
viên không ngừng tiến bộ, bên cạnh việc tiếp tục tổ chức
quán triệt Nghị quyết TƯ 4 (khóa XI) trong sinh hoạt Đảng


cần khơng ngừng nâng cao chất lượng tự phê bình và phê
bình.
Với những lý do trên tơi xin chọn “Nâng cao hiệu quả
thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong sinh
hoạt Đảng” làm đề tài tiểu luận thi kết thúc học phần môn
học Xây dựng Đảng.
2.Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu: Hiểu sâu, nắm vững những nội dung cơ bản
về tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng, đề ra giải
pháp nâng cao hiệu quả thực hiện công tác này.
Nhiệm vụ: khái quát lại những nhận thức chung về tự
phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng, phân tích thực
trạng thực hiện cơng tác này, đề ra các giải pháp nâng cao
hiệu quả thực hiện tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt
Đảng.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài dựa trên thế giới quan phương pháp
luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và các quan
điểm có giá trị phương pháp luận của Hồ Chí Minh cùng với
quan điểm của Đảng, Nhà nước về thực hiện tự phê bình và
phê bình. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: nghiên cứu
tài liệu, phương pháp tổng kết thực tiễn, so sánh, …
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết Luận, Danh mục từ viết tắt
tiểu luận được cấu trúc thành 2 phần:

Phần 1: Nhận thức chung về nguyên tắc tự phê bình
và phê bình trong sinh hoạt Đảng
Phần 2: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng


Phần 1: Nhận thức chung về nguyên tắc tự phê bình
và phê bình trong sinh hoạt Đảng
1.1Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về nguyên tắc tự phê bình và phê bình
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến tự
phê bình và phê bình trong Đảng. Trong bài báo Tự phê
bình, phê bình, sửa chữa, Người đã đưa ra khái niệm hồn
chỉnh về tự phê bình và phê bình. Người viết: “Tự phê bình
là cá nhân (cá nhân hoặc đồn thể) thật thà nhận khuyết
điểm của mình để sửa chữa, để người khác giúp mình sửa
chữa, mà cũng để người khác biết mà tránh những khuyết
điểm mình đã phạm. Phê bình là thấy ai (cá nhân, cơ quan,
đồn thể) có khuyết điểm thì thành khẩn nói cho họ biết để
họ sửa chữa, để họ tiến bộ. Mục đích của tự phê bình và phê
bình đều nhằm giúp nhau sữa chửa khuyết điểm, phát triển
ưu điểm, cùng nhau tiến bộ”. Người đề cập đến tự phê bình
và phê bình cụ thể, thiết thực và toát lên sự chân thành,
thẳng thắn, gần gũi mà ai cũng có thể học được, làm theo
được, nhất là đối với cán bộ, đảng viên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tự phê bình và phê bình là
để học cái hay, tránh cái dở, chứ khơng phải để nói xấu
nhau. Phê bình và tự phê bình là để trị bệnh cứu người, dân
chủ trong Đảng tốt hơn, kỷ luật cao hơn, cán bộ, đảng viên
gương mẫu, có tinh thần trách nhiệm hơn, làm cho mỗi tổ

chức mạnh hơn, lãnh đạo tốt hơn. Người thường nhắc nhở
cán bộ, đảng viên thực hiện tự phê bình và phê bình “như
rửa mặt hàng ngày”, mỗi tổ chức đảng coi tự phê bình và
phê bình là cơng việc thường xun. Nêu cao tính tự giác,
tính chiến đấu, tính nêu gương, chân thành, thẳng thắn,
khách quan, trung thực, làm rõ những ưu, khuyết điểm,
nguyên nhân, đề xuất những biện pháp phát huy ưu điểm,


khắc phục khuyết điểm...được như thế thì trong đảng sẽ
khơng có bệnh mà “Đảng sẽ mạnh khỏe vơ cùng”
Đối với mỗi tổ chức cơ sở đảng, chi bộ đảng, căn cứ
vào tình hình thực tiễn, nhiệm vụ chính trị của đơn vị, thực
hiện nghiêm túc, có nền nếp tự phê bình và phê bình thơng
qua sinh hoạt chi bộ hằng tháng là việc làm mang tính xây
dựng, phát triển nội dung sinh hoạt, lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện nhiệm vụ của tổ chức đảng, đảng viên; nhận
thức, vận dụng đúng quan điểm, chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước liên quan đến lĩnh
vực công tác; thực hiện giải pháp cải tiến, nâng cao chất
lượng sinh hoạt chị bộ, sửa đổi lối làm việc, thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ, đề cao ý thức tổ chức kỷ luật,
tác phong làm việc của mỗi cán bộ, đảng viên, để mỗi người
cán bộ, đảng viên, mỗi chi bộ, mỗi tổ chức cơ sở đảng ngày
càng đúng hơn, tốt hơn, ưu điểm nhiều hơn, khuyết điểm ít
hơn.
Tuy nhiên, để tự phê bình và phê bình có kết quả,
đúng mục đích, thì tự phê bình và phê bình phải đúng quy
trình, phương pháp, nghiêm túc khơng nể nang, khơng “dĩ
hịa vi q”, khơng thêm cũng khơng bớt và phải căn cứ vào

sự việc có thật để nhận xét, đánh giá và phân tích, vạch rõ
cả ưu điểm và khuyết điểm, có lý, có tình, mềm dẻo, khéo
léo về cách thức để người có khuyết điểm nhận thấy khuyết
điểm của mình, có thái độ đúng đắn trong tiếp thu phê bình,
sửa chữa khuyết điểm. Phải xuất phát từ động cơ đúng đắn,
trong sáng, mang tính chất xây dựng, có tình đồng chí u
thương giúp đỡ lẫn nhau; phải cơng khai trực tiếp nói ý kiến
của mình để “phải trái phân minh, nghĩa tình trọn vẹn”,
khơng “nhẹ trên, nặng dưới”. Biết tự phê bình mình trước,
phê bình người khác sau; cấp trên tự giác, gương mẫu tự
phê bình trước để cấp dưới noi theo, ai cũng thực hiện tự


phê bình và phê bình. Kết hợp chặt chẽ phê bình và tự phê
bình với sửa chữa khuyết điểm…Làm tốt những điều này thì
chất lượng tự phê bình và phê bình sẽ nâng lên.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường phê phán những người
thực hiện không đúng nguyên tắc tự phê bình và phê bình.
Người phân tích: “khuyết điểm cũng như chứng bệnh. Phê
bình cũng như uống thuốc. Sợ phê bình cũng như có bệnh
mà giấu bệnh, khơng dám uống thuốc, như thế bệnh ngày
càng nặng thêm, nguy hiểm đến tính mệnh. Phát hiện càng
sớm, điều trị bệnh càng chóng khỏi; để bệnh nặng rất khó
chữa, thậm chí có khi khơng chữa nổi. Cha ơng ta có câu:
“Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lịng”. Khen thì dễ nhưng
“phê” thì rất khó. Ai cũng muốn được khen mà khơng muốn
bị chê, chê là đụng chạm đến khuyết tật của con người, đụng
chạm đến nó là sẽ đau. Chính vì thế trên thực tế, khơng ít
người sợ bị phê bình và ngại phê bình người khác. Đó là
một khuyết điểm.

Khi thực hành tự phê bình và phê bình phải dân chủ,
khơng mệnh lệnh, áp đặt, soi mói, “bới lơng, tìm vết”. Bởi
vì có dân chủ mới mong trong Đảng có nhiều sáng kiến,
mới tập trung được trí tuệ. Mất dân chủ, khiến cho “các
đảng viên và cán bộ dù có ý kiến cũng khơng dám nói, dù
muốn phê bình cũng sợ, khơng dám phê bình”2. Lợi dụng
phê bình để tranh cãi, gây mất đồn kết hoặc khuyết điểm
chưa rõ thì tìm cách che dấu…Những biểu hiện như vậy là
không đúng, trái với quan điểm của Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh về tự phê bình và phê bình, như thế làm cho tính
chiến đấu, dân chủ giảm sút, năng lực lãnh đạo, chất lượng
sinh hoạt đảng của chi bộ không thiết thực, những khuyết
điểm của tổ chức đảng chậm được phát hiện.
Người còn nhắc nhở chúng ta, phải xem tự phê bình
và phê bình thực hiện thường xun như cơng việc rửa mặt


hàng ngày, thái độ tự phê bình cần mạnh dạn, thẳng thắn,
thật thà. Tự phê bình là một cuộc đấu tranh, người cách
mạng nhất định thật thà tự phê bình và kiên quyết sửa chữa
khuyết điểm, phải đánh thắng kẻ địch trong lịng mình đó
chính là chủ nghĩa cá nhân. Trước lúc đi xa, trong bản Di
chúc của mình, khi nói về Đảng, một trong ba điều Bác đã
căn dặn chúng ta: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi,
thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là
cách tốt nhất để cũng cố và phát triển sự đoàn kết và thống
nhất của Đảng…”. Kế thừa quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh về tự phê bình và phê bình, Đảng ta cũng đã khẳng
định: “Một quy luật cơ bản trong phát triển, tiến bộ của
Đảng là thường xun tự phê bình và phê bình”. Thực tiễn

cơng tác xây dựng Đảng gần 90 năm qua cho thấy tự phê
bình và phê bình là ngun tắc ln được Đảng ta quán triệt
và thực hiện, là nhân tố quan trọng làm cho Đảng ln giữ
vững vai trị cầm quyền và phát huy năng lực lãnh đạo cách
mạng.
Đại hội lần thứ XI của Đảng đã đưa ra quan
điểm: “Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt
đảng…Coi trọng đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt
cấp ủy, tổ chức đảng, chất lượng tự phê bình, phê bình trong
sinh hoạt đảng.” Quan điểm Đại hội XII: “Hoàn thiện cơ
chế, quy chế và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả
việc tự phê bình, phê bình, chất vấn trong các kỳ họp của
Ban Chấp hành Trung ương, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy
các cấp. Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả cơ chế
phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng”. Để
nâng cao hiệu quả cơng tác tự phê bình và phê bình, Ban
Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị đã ban hành nhiều
Nghị quyết, Chỉ thị, quy định và hướng dẫn để triển khai
thực hiện, đồng thời xem đây là một trong những giải pháp


rất quan trọng để xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy
lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” trong nội
bộ.
1.2 Tầm quan trọng của tự phê bình và phê bình trong
giai đoạn hiện nay
Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng
(khoá XI) ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay”. Nghị quyết khẳng định phải tiếp

tục tiến hành củng cố, xây dựng Đảng, nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta, coi đây là vấn đề
sống còn của Đảng ta, chế độ ta. Cán bộ, đảng viên và nhân
dân đồng tình rất cao với Nghị quyết cũng như nội dung bài
phát biểu khai mạc và bế mạc Hội nghị của đồng chí Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Đặc biệt là vấn đề tự phê bình và
phê bình được nhấn mạnh trong bài phát biểu bế mạc Hội
nghị: “Lâu nay chúng ta vẫn nói, tự phê bình và phê bình là
quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, là vũ khí sắc bén để
xây dựng Đảng, để giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng
viên.Thực tế cũng có khơng ít tập thể và cá nhân làm tốt
việc này. Nhưng nhìn chung, do chỉ đạo không tốt, do ý
thức tự giác của một số cán bộ, đảng viên khơng cao, cho
nên kết quả cịn hạn chế” …
Cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, phấn khởi
vì đồng chí Tổng Bí thư của Đảng đã nêu “trúng” giải pháp
quan trọng và căn bản nhằm xây dựng Đảng ngang tầm đòi
hỏi của thời kỳ mới, đó là thường xun tự phê bình và phê
bình trong sinh hoạt Đảng. Thực hiện tốt việc này mới có
thể ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thối về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.


Trong những năm gần đây, nhất là từ khi nước ta
bước vào xây dựng nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội
nhập, cơng tác tự phê bình và phê bình trong Đảng làm
không được thường xuyên, nền nếp. Một số tổ chức Đảng
và cán bộ, đảng viên có sai lầm, khuyết điểm nhưng khơng
được phê bình, nhắc nhở kịp thời nên dẫn đến sai lầm

nghiêm trọng. Công tác tự phê bình và phê bình thực hiện
chưa thường xuyên, nặng về hình thức; bên cạnh xu hướng
đúng đắn, lành mạnh, đã thấy một số dạng tự phê bình và
phê bình khơng đúng đắn, thiếu nghiêm túc như đồng chí
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu ra. Đó là biến cuộc
họp tự phê bình và phê bình thành nơi “ca tụng” lẫn nhau
hoặc “đấu đá”, “hạ bệ” nhau với những động cơ khơng
trong sáng!
Mục đích của tự phê bình và phê bình là giúp nhau
phát huy ưu điểm, đẩy lùi những mặt xấu, tiêu cực. Khi tiến
hành tự phê bình và phê bình phải nêu rõ cả ưu điểm và
khuyết điểm, phải khách quan, trung thực đồng thời coi
trọng tính nhân văn, tạo lập văn hố phê bình; hướng vào
phê bình việc làm chứ khơng phải phê bình người. Sự phê
bình, nhắc nhở với động cơ trong sáng chân thành sẽ giúp
những đảng viên mắc khuyết điểm tự điều chỉnh, phòng
tránh tiêu cực có hiệu quả. Làm sao những lời mỉa mai,
châm chọc, vụ lợi động cơ cá nhân khi phê bình phải
nhường chỗ cho tính trung thực, khách quan, lẽ phải, tình
thương và lịng nhân ái.
Để đưa Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây
dựng Đảng hiện nay” vào cuộc sống, cần thường xuyên
quán triệt nghiêm túc thật thà tự phê bình và phê bình.
Trung ương Đảng, các cấp uỷ đảng phải có cơ chế quy định
cụ thể chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng, nhất là ở
chi bộ, gắn với việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo


đức Hồ Chí Minh”. Hàng tháng, hàng q có chế độ để cấp
trên tự phê bình trước cấp dưới, cán bộ chủ chốt tự phê bình

trước cán bộ, đảng viên. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt, người
đứng đầu cơ quan, đơn vị phải thật sự gương mẫu trong tự
phê bình và phê bình. Đây là điều hết sức quan trọng trong
tình hình hiện nay, bởi vì đảng viên và quần chúng biết rõ
những ưu điểm, khuyết điểm, sai lầm của cán bộ lãnh đạo.
Họ sẽ nhìn vào cán bộ lãnh đạo của mình để noi gương, có
cách ứng phó cho phù hợp. Vì vậy người càng ở vị trí quan
trọng, càng giữ chức vụ cao càng phải gương mẫu, nghiêm
túc.
Có thể khẳng định hiệu quả của chế độ tự phê bình và
phê bình phần lớn phụ thuộc thủ trưởng cơ quan, đơn vị và
các cán bộ lãnh đạo. Bên cạnh đó cũng cần phát huy dân
chủ để quần chúng, nhân dân phê bình, góp ý cán bộ, đảng
viên và tổ chức đảng. Đảng ta là đảng của dân, vì nhân dân
mà phục vụ, do đó phải liên hệ mật thiết với quần chúng.
Tình trạng tổ chức đảng, đảng viên ít liên hệ gắn bó với
nhân dân trên địa bàn, nơi cư trú đang làm cho đảng viên xa
rời quần chúng là khuyết điểm cần khắc phục.
Cần có cơng tác kiểm tra, giám sát, xử lý việc thực
hiện chế độ tự phê bình và phê bình. Khi đã có cơ chế, quy
định của đảng về chế độ tự phê bình và phê bình thì cũng
cần có cơ chế kiểm tra, giám sát và thực hiện các quy định.
Đồng thời xử lý những vi phạm quy định cũng như sự
không thật thà, thiếu nghiêm túc hay những hành động trả
thù, trù dập, ức hiếp…đối với những người thẳng thắn đấu
tranh phê bình. Bảo vệ những người thẳng thắn, thật thà,
dám đấu tranh vì lẽ phải cũng là một trong những vấn đề
cấp bách để cho cơng tác tự phê bình và phê bình đạt hiệu
quả như mong muốn; biến Nghị quyết của Đảng thành hiện
thực trong cuộc sống.



1.3 Thực trạng thực hiện nguyên tắc tự phê bình và
phê bình trong sinh hoạt Đảng
Thực hiện sự chỉ đạo của cấp ủy cấp trên các chi bộ
triển khai việc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảm
bảo đúng quan điểm chỉ đạo, quy trình, nguyên tắc. Các chi
bộ đã thường xuyên giáo dục cho đảng viên thấy rõ sự cần
thiết phải tăng cường tự phê bình và phê bình trong sinh
hoạt chi bộ để mọi người thống nhất tư tưởng và hành động,
khắc phục những biểu hiện bng lỏng sinh hoạt Đảng, coi
nhẹ tự phê bình và phê bình. Các chi bộ “tập trung làm rõ
trách nhiệm cá nhân” trong tự phê bình và phê bình. Mục
đích nhằm chỉ ra những điểm mạnh để phát huy, những
điểm hạn chế để sửa chữa khắc phục, xây dựng khối đoàn
kết thống nhất trong chi bộ. Việc làm rõ trách nhiệm cá
nhân trong quá trình tự phê bình và phê bình đã khắc phục
khuyết điểm trên từng cơng việc và lĩnh vực mà mỗi đảng
viên được chi bộ, đảng bộ, cơ quan giao. Thực hiện “nêu
gương tự phê bình và phê bình”, chi bộ khơng cịn phê bình
chung chung, x xoa, chiếu lệ. Bí thư chi bộ đã nghiên túc
chỉ ra những ưu, khuyết điểm của từng đảng viên, đồng thời
phát huy ý thức tự giác, dân chủ để đảng viên tham gia đóng
góp ý kiến. Qua kiểm điểm, ý thức tự phê bình và phê bình
của đảng viên được nâng lên. Vì vậy, tính chiến đấu và bản
lĩnh chính trị của mỗi đảng viên được nâng cao.
Bên cạnh đó, đã tăng cường kỷ luật, kỷ cương, từng
đảng viên trong chi bộ phải chấp hành nghiêm các nguyên
tắc, chế độ sinh hoạt Đảng, các chỉ thị, nghị quyết của cấp
trên và nghị quyết của Chi bộ, nêu cao tính tiên phong,

gương mẫu của người đảng viên trên vị trí cơng tác của
mình.
Chi bộ đã tổ chức tự phê bình và phê bình trong mỗi
kỳ sinh hoạt, nội dung sinh hoạt có tính cụ thể, thiết thực


hướng vào việc kiểm điểm, phân tích, đánh giá, phê phán
những vấn đề cấp bách trước mắt của chi bộ và cán bộ, đảng
viên, trước hết là hướng vào việc thực hiện nhiệm vụ chính
trị, chức trách, nhiệm vụ và việc tu dưỡng, rèn luyện phẩm
chất năng lực, phong cách làm việc của cán bộ, đảng viên.
Phê bình và tự phê bình được tiến hành một cách kịp thời
nên những hạn chế, khuyết điểm không để tái diễn, kéo dài,
do đó đã khích lệ mọi đảng viên trong chi bộ đã phát huy
được tính chủ động, mạnh dạng đóng góp ý kiến, phê bình
sự lãnh đạo của chi bộ cũng như tự phê bình và phê bình lẫn
nhau một cách rất thẳng thắn, mang tính xây dựng, giúp
nhau cùng tiến bộ, hoàn thành thắng lợi mục tiêu nhiệm vụ
đã đề ra.
tuy nhiên thực tế hiện nay cho thấy, một bộ phận cán
bộ, đảng viên, tổ chức đảng chưa nhận thức đúng, đầy đủ về
vai trị, mục đích, ý nghĩa, tác dụng của tự phê bình và phê
bình nên chưa chú trọng, nghiêm chỉnh, tự giác thực hiện.
Khơng ít đảng viên, tổ chức đảng khơng tự giác phê bình mà
tìm mọi cách để giấu giếm, bao che, đỗ lỗi cho hoàn cảnh
khách quan; một số cán bộ, đảng viên chưa mạnh dạn nói
thẳng, nói thật, phê bình, góp ý cho cấp trên, vẫn cịn tình
trạng lợi dụng tự phê bình và phê bình để đã kích, nói xấu,
hạ bệ chỉ trích, phê phán lẫn nhau, vì mục đích cá nhân
“vạch lá tìm sâu”, “chuyện bé xé ra to”, làm cho người bị

phê bình khơng nhận ra được sai lầm để sửa chữa. Bên cạnh
đó, một số cấp ủy chưa chú trọng và chưa ý thức được việc
bồi dưỡng, tập huấn thường xuyên trong công tác sinh hoạt,
phát triển đảng nên ảnh hưởng rất nhiều đến năng lực điều
hành, tổ chức sinh hoạt đảng, đặc biệt là cơng tác phê bình
và tự phê bình.
Nguyên nhân của tình trạng này do chưa làm tốt công
tác giáo dục nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa của tự


phê bình và phê bình; chưa tiến hành tự phê bình và phê
bình theo đúng quan điểm của Đảng và tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Thực hiện tự phê bình và phê bình chưa
đảm bảo tính đảng, tính giáo dục, tính khách quan, trung
thực, chân thành và cơng khai. Đặc biệt là chưa thực sự mở
rộng dân chủ và chưa xuất phát từ tình đồng chí, u thương
giúp đỡ lẫn nhau.


Phần 2: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện
nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng
2.1Tăng cường quán triệt, giáo dục nhận thức, trách
nhiệm cho cán bộ, đảng viên về tự phê bình và phê bình
Quan điểm xuyên suốt của Đảng ta về tự phê bình và
phê bình là phải dựa trên nguyên tắc tổ chức và Điều lệ
Đảng. Trong sinh hoạt tự phê bình và phê bình, mỗi cá
nhân, tổ chức đảng phải thể hiện rõ tinh thần đấu tranh
không khoan nhượng đối với những tư tưởng và hành động
sai trái đi ngược lại lợi ích của Đảng và của nhân dân. Tự
phê bình và phê bình trong Đảng địi hỏi phải dân chủ, công

khai, trung thực, thẳng thắn, chân thành và cụ thể; tự phê
bình và phê bình là để tiến bộ, khơng lợi dụng tự phê bình
và phê bình để đả kích, nói xấu, gây mất đồn kết nội bộ. Tự
phê bình và phê bình phải được xuất phát từ động cơ trong
sáng, vì lợi ích chung của tập thể. Đây là những vấn đề có ý
nghĩa quan trọng quyết định đến chất lượng hiệu quả của
buổi sinh hoạt; là cơ sở để thống nhất nhận thức và hành
động, hình thành tinh thần trách nhiệm và thái độ đúng đắn
của mỗi cán bộ, đảng viên đối với công tác TPB và PB của
Đảng, làm cho tính tự giác trong sinh hoạt của cán bộ, đảng
viên được nâng cao.
Mục đích, ý nghĩa của sinh hoạt tự phê bình và phê
bình khơng gì khác là làm cho chi bộ trong sạch, vững
mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, tăng cường
đoàn kết nội bộ, các cá nhân, tổ chức không ngừng tiến bộ.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: Mục đích của việc tự
phê bình và phê bình đó là “cốt để giúp nhau sửa chữa
khuyết điểm, giúp nhau tiến bộ, tăng cường đồn kết thống
nhất nội bộ, làm cho cơng việc tốt hơn”. Trong sinh hoạt tự
phê bình và phê bình, mỗi cá nhân phải tự nguyện, tự giác
nói lên những yếu kém khuyết điểm của bản thân trước tập


thể chi bộ, tiếp thu ý kiến đóng góp với tinh thần cầu thị, coi
đó là cơ hội để khắc phục khuyết điểm và tiến bộ. Nhận
thức về mục đích, ý nghĩa tự phê bình và phê bình cịn được
thể hiện ở chỗ khi phê bình phải trên tinh thần đồng chí,
đồng đội, thân thiện, vì cơng việc chung, theo Bác: “phê
bình phải thành khẩn, nghiêm trang, đúng mực”.
Đối với tổ chức đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng

nhấn mạnh: “... Đảng không phài từ trên trời rơi xuống,
Đảng là người, nên có sai lầm, tức là cũng có lúc khỏe
mạnh, lúc ốm đau, bệnh tật. Đó là lẽ thường tình, khơng vì
thấy ốm đau mà phát sinh tư tưởng lo sợ, bi quan, tuyệt
vọng, giấu giếm bệnh tật trong mình”. Thơng qua sinh hoạt
tự phê bình và phê bình, mỗi đảng viên phải có trách nhiệm
tìm ra hạn chế, khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ
đạo, tập trung xây dựng tổ chức đảng vững mạnh, xây dựng
mối đoàn kết trong tập thể cấp ủy, chi bộ, tổ chức đảng,
khơng vì nể nang mà né tránh, che dấu khuyết điểm trong
lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ.
Việc giáo dục nhận thức, xây dựng ý thức tự giác tự
phê bình và phê bình phải được tiến hành thường xuyên,
sinh hoạt tự phê bình và phê bình phải được lồng ghép trong
tất cả các loại hình sinh hoạt (sinh hoạt tổ đảng, sinh hoạt
chi bộ; sinh hoạt chuyên đề...).
2.2 Xác định và lựa chọn nội dung sinh hoạt tự phê
bình và phê bình phải cụ thể, thiết thực, gắn với công tác
lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đảng
Sinh hoạt tự phê bình và phê bình là một biện pháp
hữu hiệu để xây dựng và củng cố tổ chức đảng; thơng qua tự
phê bình và phê bình để giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng
viên, đấu tranh chống lại những tàn dư phong kiến, xây
dựng đạo đức, tác phong công tác của người đảng viên.
Trong sinh hoạt tự phê bình và phê bình, việc lựa chọn đúng


nội dung sinh hoạt sẽ tạo điều kiện để phát huy dân chủ, nêu
cao tính tự giác cũng như ý thức trách nhiệm của cán bộ,
đảng viên và cấp ủy viên trong xây dựng Đảng, nâng cao

năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.
Thực tiễn cho thấy, ở đâu sinh hoạt tự phê bình và phê bình
được tiến hành thường xuyên, xác định đúng nội dung, tự
phê bình và phê bình có chất lượng, thì ở đó nguyên tắc lãnh
đạo của Đảng được củng cố và giữ vững, năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức đảng, chi bộ ngày càng được nâng
cao, nội bộ cơ quan đơn vị đoàn kết, thống nhất, tỉ lệ cán bộ,
đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ cao. Ngược lại, ở đâu
xem nhẹ sinh hoạt tự phê bình và phê bình, nội dung khơng
bám sát thực tiễn thì ở đó vai trị lãnh đạo của tổ chức đảng
bị buông lỏng, tỷ lệ đảng viên vi phạm kỷ luật cao, đoàn kết
nội bộ kém.
Lựa chọn nội dung tự phê bình và phê bình, điều hành
buổi sinh hoạt tự phê bình và phê bình có chất lượng là
trách nhiệm của cấp ủy. Trên thực tế, đã có trường hợp lợi
dụng tự phê bình và phê bình để giải quyết mẫu thuẫn cá
nhân, góp ý phê bình theo kiểu “bới lơng tìm vết”, làm lạc
hướng nội dung sinh hoạt của chi bộ. Vì vậy, nội dung sinh
hoạt tự phê bình và phê bình của chi bộ, tổ chức đảng cần
tập trung vào những mặt yếu kém của cán bộ, đảng viên,
những vấn đề nổi cộm trong lãnh đạo của tập thể chi bộ. Đối
với tập thể chi bộ nên tập trung vào những vấn đề về việc ra
chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo cơ quan đơn vị thực hiện nhiệm
vụ; phương pháp triển khai thực hiện nghị quyết; kết quả
lãnh đạo trên các mặt công tác của cơ quan đơn vị; tinh thần
đoàn kết nội bộ v.v. trên từng mặt chỉ rõ những vấn đề làm
được, chưa làm được, nguyên nhân và phương hướng khắc
phục. Đối với cá nhân cán bộ, đảng viên, thực hiện tự phê
bình và phê bình phải gắn với quyền hạn, trách nhiệm,



nhiệm vụ được giao. Đó là những vấn đề về phẩm chất
chính trị, đạo đức lối sống, trình độ chun mơn nghiệp vụ,
năng lực cơng tác, ý chí học tập và rèn luyện, tinh thần trách
nhiệm với cơ quan, đơn vị … Tự phê bình và phê bình đối
với đảng viên phải như Chủ Tịch Hồ Chí Minh từng nhắc:
“phê bình việc chứ khơng phê bình người”; thơng qua kết
quả cơng tác để đóng góp, phê bình, cốt để đồng chí mình
tiến bộ.
Việc xác định nội dung sinh hoạt phải căn cứ vào
nhiệm vụ của chi bộ, nhiệm vụ cụ thể của cán bộ, đảng viên
theo thời gian nhất định, tự phê bình và phê bình phải kịp
thời, hiệu quả.
2.3 Tiếp thu các ý kiến quần chúng, ý kiến đóng góp
của các tổ chức chính trị - xã hội trong cơ quan, đơn vị để tự
phê bình và phê bình. Tạo điều kiện để cá nhân khắc phục
khuyết điểm sau tự phê bình và phê bình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Hiểu được người cố
nhiên là khó, nhưng biết được mình cũng khơng phải là dễ”.
Vì vậy, mỗi chi bộ, tổ chức đảng, đảng viên rất cần đến
những ý kiến đóng góp phê bình của các tổ chức trong cơ
quan đơn vị. Quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội
trong cơ quan, đơn vị đóng vai trò phản biện giống như một
chiếc gương để chi bộ, tổ chức đảng, đảng viên soi vào đó
để hiểu được mình hơn, thấy được những ưu khuyết điểm
của bản thân một cách khách quan, trung thực để có quyết
tâm sửa chữa. Phát huy dân chủ, lắng nghe quần chúng luôn
mang ý nghĩa quan trọng, thiết thực trong tự phê bình và
phê bình. Cần phát huy cao độ vai trị phản biện đối với tập
thể chi bộ và cán bộ, đảng viên của Đồn TNCS Hồ Chí

Minh; Cơng đồn, Phụ nữ v.v. thơng qua sinh hoạt đóng góp
ý kiến theo định kỳ; qua thư góp ý, trực tiếp đối thoại …


Đối với tập thể, phát hiện và tổ chức sửa chữa yếu
kém, khuyết điểm để không ngừng tiến bộ là mục đích cuối
cùng của tự phê bình và phê bình. Đối với cá nhân, sau tự
phê bình và phê bình phải tự nhận thức được khuyết điểm
của bản thân, xây dựng cho mình kế hoạch sửa chữa với
quyết tâm cao bằng những hành động cụ thể, thiết thực; phải
xác định được nội dung, biện pháp, thời gian sửa chữa
khuyết điểm theo yêu cầu của chi bộ, tổ chức đảng. Tổ chức
đảng phải tạo điều kiện để đảng viên sửa chữa, khắc phục
khuyết điểm; theo dõi, động viên và biểu dương kịp thời sẽ
tạo nên động lực cho đảng viên tập trung rèn luyện, phấn
đấu sau tự phê bình và phê bình.
2.4 Làm tốt mọi cơng tác chuẩn bị, điều hành sinh
hoạt tự phê bình và phê bình đúng trọng tâm, bảo đảm
nguyên tắc
Sinh hoạt tự phê bình và phê bình nếu không được
chuẩn bị tốt, điều hành không bám nguyên tắc dễ nảy sinh
nhiều vấn đề phức tạp. Vì vậy, đối với cấp ủy, bí thư chủ trì
buổi sinh hoạt, việc tập trung cao độ trong điều hành nội
dung là hết sức quan trọng. Bên cạnh đó, cần phải đặc biệt
chú ý đến các tình huống phát sinh và chủ động đưa buổi
sinh hoạt tự phê bình và phê bình đi đúng nội dung chương
trình theo kế hoạch, đạt được mục đích, u cầu đề ra. Cơng
tác chuẩn bị quyết định đến 60% kết quả hoàn thành nhiệm
vụ, nhưng trên hết, cấp ủy phải luôn bám nguyên tắc, phổ
biến chủ đề tự phê bình và phê bình đến từng đảng viên

trước buổi sinh hoạt, tập hợp ý kiến quần chúng và các tổ
chức cho từng vấn đề, từng nội dung. Phát huy dân chủ trên
cơ sở giữ vững kỷ luật Đảng trong phát ngôn, tuy nhiên,
không khi buổi sinh hoạt phải được điều chỉnh cân bằng trên
cơ sở điều chỉnh tâm lý và khơng bó cứng các nội dung tự


phê bình và phê bình theo cách tìm khuyết điểm, đóng góp
và yêu cầu sửa chữa.
Đối với sinh hoạt tự phê bình và phê bình, năng lực
điều hành của người chủ trì sinh hoạt (thường là bí thư chi
bộ) thể hiện ở khả năng xác định và lựa chọn chính xác nội
dung của buổi sinh hoạt. Điều khiển cho hội nghị chi bộ
xoay quanh những nội dung đã xác định mà khơng vượt ra
ngồi phạm vi đó. Biết dừng và kết luận đúng lúc khi đã đạt
được mục đích, yêu cầu đề ra. Uy tín của người chủ trì nằm
trong sự cảm hóa, thu hút và bằng những kết luận đúng đắn.
Để nâng cao năng lực điều hành, đòi hỏi người chủ trì phải
có trình độ nhận thức về mọi mặt, nhất là trình độ chun
mơn và năng lực tiến hành cơng tác Đảng, cơng tác chính
trị. Bên cạnh đó là sự nêu gương về phẩm chất chính trị, đạo
đức lối sống, tác phong cơng tác, tích cực hoạt động thực
tiễn, trách nhiệm, nhiệt tình trong cơng việc, sâu sát bám
nắm cơ quan đơn vị và gần gũi với mọi người.
2.5 Nâng cao trách nhiệm bí thư chi bộ; mở rộng dân
chủ; duy trì chặt chẽ chế độ tự phê bình và phê bình
Tự phê bình và phê bình là một quy định, nội dung
quan trọng sinh hoạt của cấp ủy, tổ chức Đảng nói chung và
chi bộ nói riêng. Bí thư, phó bí thư chi bộ nhất thiết phải
duy trì có hiệu quả hoạt động này. Song song với tự phê

bình và phê bình xoay quanh thực hiện nhiệm vụ chính trị
của đơn vị, các chi bộ và từng đảng viên cần phải tự phê
bình và phê bình gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương
4 (khóa XII) của Đảng và Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị
(khóa XII) về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Nắm vững 27 biểu hiện suy thối về tư tưởng, chính
trị, đạo đức lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mà
Nghị quyết Trung ương 4 đã chỉ ra, người chủ trì sinh hoạt


phải khéo léo gợi mở vấn đề, khuyến khích các đảng viên
mạnh dạn thảo luận, trình bày ý kiến của bản thân, phải thật
sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của
mình. Các ý kiến phải được tôn trọng, tổng hợp, xem xét
trước khi đưa ra quyết định. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh, dân
chủ phải đặt trong tổ chức, có kỷ luật, kỷ cương. Tuyệt đối
không được lợi dụng dân chủ trong sinh hoạt để đả kích, nói
xấu nhau, hoặc dân chủ hình thức, mang tính chất xi
chiều.
Kết luận
Qn triệt và thực hiện tốt việc nâng cao chất lượng
tự phê bình và phê bình trogn sinh hoạt Đảng các cấp có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu và năng lực cầm quyền của Đảng ở cơ sở; giữ gìn phẩm
chất, đạo đức, tư cách đảng viên, nâng cao uy tín của Đảng,
đem lại niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ xã
hội chủ nghĩa.
Tiểu luận đã làm rõ được những nhận thức chung về

tự phê bình và phê bình trong cơng tác xây dựng Đảng như:
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về tự phê bình và phê bình; tầm quan trọng của tự
phê bình và phê bình trong giai đoạn hiện nay. Tiểu luận đã
phân tích được thực trạng cơng tác tự phê bình và phê bình
trong sinh hoạt Đảng, từ đó đề xuất 05 giải pháp nâng cao
hiệu quả thực hiện tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt
Đảng hiện nay.
Trong quá trình nghiên cứu viết tiểu luận, do sự
hạn chế về tài liệu tham khảo, kinh nghiệm nghiên cứu
khoa học của bản thân còn nhiều thiếu sót nên khơng thể
tránh khỏi những khuyết điểm nhất định. Vì vậy tơi rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cơ quan



×