Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Đặc điểm ngoại hình của giống bò vàng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (676.38 KB, 9 trang )



ĐẶC ĐIỂM NGOẠI HÌNH CỦA GIỐNG BÒ VÀNG VIỆT NAM
Trần Trung Thông, Phạm Văn Giới, Trịnh Văn Trung, Nguyễn Công Định,
Nguyễn Văn Đức,
1
Trần Thị Thu Thuỷ,
1
Nguyễn Văn Ba và
1
Phạm Doãn Lân
Bộ môn Di truyền - Giống vật nuôi
1
Phòng Thí nghiệm trọng điểm Công nghệ Tế bào Động vật
Tóm tắt
Số liệu điều tra từ 327 cá thể tại tỉnh Lạng Sơn, Thanh Hoá, Nghệ An, Phú Yên, Bà Rỵa-Vũng Tàu được sử
dụng cho nghiên cứu này. Tại mỗi tỉnh, chọn 1 huyện, trong huyện, chọn 1-2 xã đặc trưng nhất và trong xã chọn
những cá đặc trưng nhất của giống để khảo sát.
Nhìn chung, tầm vóc của bò Vàng Việt Nam nhỏ hơn so với trước đây.
Bò Vàng Việt Nam rất đa dạng về ngoại hình, thể hiện rõ nhất là khối lượng (KL). KL trung bình của giống
bò Vàng Việt Nam từ 2 đến 5 tuổi là 199,06kg, biến động từ cao nhất 356kg đến thấp nhất 105kg. KL giữa các địa
phương khác nhau: bò nuôi ở Nghệ An lớn nhất (221,70kg); tiếp theo là bò nuôi ở Phú Yên (211,78kg); Lạng Sơn
(209,26kg); Bà Rỵa-Vũng Tàu (191,98kg) và nhỏ nhất là bò nuôi ở Thanh Hoá (189,80kg). Sự sai khác giữa các giá
trị trung bình về KL của giống Vàng Việt Nam nuôi ở các tỉnh là rõ rệt (P<0,05).
KL trung bình của bò đực là 220,80kg, trong lúc đó bò cái chỉ là 189,10kg và sự sai khác đó giữa 2 giới
tính là rõ rệt (P<0,05).
Cần xác định nguồn gen để khảng định chúng là 1 hay nhiều giống khác nhau.
1. Đặt vấn đề
Giống bò Vàng Việt Nam thuộc loại gia súc lớn nhai lại (hay gia súc lớn có sừng), lớp
động vật có vú (Mammalia), bộ guốc chẵn (Artiodactyla), bộ phụ nhai lại (Ruminantia), họ sừng
rỗng (Bovidae), tộc bò (Bovini), loài bò (Bos indicus). Sỡ dĩ, tên gọi là giống bò Vàng Việt Nam


vì chúng có sắc lông màu vàng và được lai tạo, chọn lọc thành giống từ lâu đời tại Việt Nam.
Giống bò Vàng Việt Nam có nguồn gốc từ bò Vàng Ấn Độ có u và bò Vàng Trung Quốc
không u do quá trình giao lưu, buôn bán đưa vào ta và được thuần hóa tại Việt Nam từ lâu đời
(Lê Viết Ly và cộng sự, 1999). Từ đó, giống bò Vàng đã trở thành vật nuôi quý với người dân,
gắn liền với đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội ở từng địa phương, hình thành nên các tên riêng
theo địa danh nơi nó sinh sống.
Bò Vàng Việt Nam rất đa dạng về ngoại hình, khối lượng (KL) và kích thước (KT) một
số chiều đo khác nhau, được nuôi ở hầu hết các địa phương trên cả nước như Lạng Sơn, Thanh
Hoá, Nghệ An, Phú Yên, Bà Rịa-Vũng Tàu,…
Đánh giá những đặc điểm ngoại hình như màu sắc lông, KL và KT một số chiều đo chính
của quần thể giống vật nuôi là công việc mở đầu, cần thiết đối với một chương trình chọn lọc,
nhân thuần và lai tạo giống.
Giống bò Vàng Việt Nam được mang tên theo từng địa phương vì có những nét đặc trưng
riêng đã được chọn lọc theo mục tiêu của người dân nên chúng đáp ứng tốt với điều kiện khí hậu
ở từng vùng (Lê Viết Ly và cộng sự, 1999). Các nhóm bò này cùng mang một số đặc tính đặc
trưng nhất là KT nhỏ bé, năng suất thịt, sữa thấp nhưng có khả năng chịu được điều kiện khắc
khổ, khả năng kháng bệnh và sinh sản tốt. Mặc dù đã có nhiều chương trình cải tạo giống bò thịt


được thực hiện ở nước ta, nhưng bò Vàng địa phương vẫn chiếm đến 74% trong tổng đàn do
chúng đáp ứng tốt hơn với điều kiện khí hậu nhiệt đới khắc nghiệt, dinh dưỡng nghèo nàn và
phương thức chăn nuôi nông hộ nhỏ lẻ mang tính lạc hậu so với các giống bò nhập ngoại.
Nguồn gốc và phân loại của giống bò Vàng Việt Nam không thống nhất: được chia thành
7 nhóm, nhưng thuộc một giống (Lê Viết Ly và cộng sự, 1999); nhiều giống (At lat, 2004), được
đặt theo tên từng địa danh. Vậy, chúng khác giống hay loại hình khác nhau nhưng thuộc một
giống; thuộc loài bò có u (Bos indicus) hay không u (Bos taurus) là những vấn đề cần được xác
định. Xuất phát từ những vấn đề đó, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu đặc điểm
ngoại hình của giống bò Vàng Việt Nam” nhằm mục đích Xác định được đặc điểm ngoại hình cơ
bản của giống bò Vàng Việt Nam nuôi tại các tỉnh làm cơ sở cho việc khẳng định giống để hoạch
định kế hoạch bảo tồn, chọn lọc, lai tạo giống, phát triển và khai thác phù hợp nhất.

2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng và địa điểm nghiên cứu
Giống bò Vàng Việt Nam nuôi tại Bình Gia, Lạng Sơn; Như Xuân, Thanh Hoá; Yên
Thành, Nghệ An; Sông Hinh, Phú Yên và Châu Đức, Bà Rịa-Vũng Tàu.
2.2. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 8 năm 2009 đến tháng 5 năm 2010.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
- Đàn bò Vàng Việt Nam đặc trưng nhất của giống nuôi tại các tỉnh được sử dụng cho
nghiên cứu này.
- Tại mỗi tỉnh, chọn 1 huyện và trong huyện đó, chọn 1 hoặc 2 xã có đàn bò mang các đặc
điểm ngoại hình điển hình nhất dựa theo đặc điểm giống của mỗi tỉnh.
- Tại mỗi xã, chọn những cá thể biểu thị đặc trưng cho từng nhóm giống tại từng điểm
được xác định bằng phương pháp trực quan của tổ chuyên gia.
- Cân KL bằng cân điện tử với độ chính xác đến 0,01kg và đo KT một số chiều đo chính
bằng thước giây và thước gậy: 30-100 cá thể/mỗi nhóm giống.
- Bộ số liệu thu được của đề tài được xử lý, phân tích, tính toán các tham số thống kê như
trung bình bình phương nhỏ nhất (LSM), sai số chuẩn (SE) của các chỉ tiêu về KL và KT các
chiều đo chính bằng chương trình PROC. GLM (SAS, 1993).
- Phương pháp thử so sánh mức sai khác giữa các số trung bình về khối lượng và các
chiều đo được xác định bằng t cặp và màu sắc lông được xác định bằng Chi-Square (trích dẫn từ
Nguyễn Văn Đức và Lê Thanh Hải, 2002).
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Đặc điểm chung của giống bò Vàng Việt Nam
Giống bò Vàng Việt Nam có chung màu lông vàng, song cũng biểu thị sự đa dạng về ngoại
hình như màu sắc lông, tầm vóc cơ thể và được nuôi ở hầu hết các địa phương trên cả nước. Đặc
điểm chung nhất của giống là sắc lông màu vàng, da mỏng, lông mịn, tầm vóc nhỏ bé: KL bò cái


là 160-200kg và bò đực là 250-300kg. Kết cấu thân hình cân đối, bò cái trước thấp hậu cao, bò
đực tiền cao hậu thấp. Đầu bò cái thanh hơn bò đực, sừng nhỏ, ngắn, trán phẳng hoặc hơi lõm;

trong lúc đó, ở bò đực mõm ngắn, mạch máu nổi rõ, mắt to nhanh nhẹn. Cổ bò cái thanh, nhưng
cổ bò đực to, dày. Yếm kéo dài từ hầu đến vú, cổ có nhiều nếp nhăn nhỏ.
Giống bò Vàng Việt Nam có một số ưu điểm nổi bật: chịu đựng tốt với điều kiện nhiệt đới
nóng ẩm, thích nghi được với phương thức chăn nuôi tận dụng, đầu tư ít; bò thành thục sớm, mắn
đẻ. Song, bò có nhược điểm lớn nhất là không đáp ứng với yêu cầu chăn nuôi thâm canh và hiệu
quả kinh tế thấp vì sinh trưởng chậm, năng suất thịt và sữa rất thấp, tỷ lệ thịt xẻ thấp.
Ngoài những đặc điểm nêu trên, giống bò Vàng Việt Nam được sử dụng chủ yếu cho cày
kéo. Khả năng cày kéo của bò tốt, có thể làm việc được ở nhiều địa hình khác nhau. Đồng thời,
bò còn được sử dụng làm nguồn lực kéo xe ở hầu hết các vùng nông thôn trong cả nước.
3.2. Khối lượng và kích thước của giống bò Vàng Việt Nam
3.2.1. Khối lượng và kích thước chung của giống
Kết quả ở nghiên cứu này thực hiện trên 5 tỉnh được coi là đàn bò mang đặc trưng nhất
của giống bò Vàng Việt Nam trình bày tại bảng 3.1.
KL trung bình của giống bò Vàng Việt Nam từ 2 đến 5 tuổi là 199,06kg, biến động từ cao
nhất 356kg đến thấp nhất 105kg. Kết quả này phù hợp với kết quả công bố về KL của Lê Quang
Nghiệp (1984) trong cùng độ tuổi 24-60 tháng tuổi.
Đối với KT một số chỉ tiêu chính của giống bò Vàng Việt Nam như dài thân chéo (DTC)
được xác định ở nghiên cứu này là 111,71cm, cao nhất là 138cm và thấp nhất là 91cm; vòng
ngực (VN) trung bình là 138,33cm, cao nhất là 176cm và thấp nhất là 108cm; các chỉ tiêu cao
vây (CV) và cao khum (CK) trung bình là 115,45cm và 116,63cm và dài tai (DT) trung bình là
17,82cm, dài nhất là 21cm và ngắn nhất là 15cm. Kết quả này phù hợp với kết quả công bố về
KT một số chiều đo chính trên giống bò Vàng Việt Nam của Lê Quang Nghiệp (1984).


Bảng 3.1. Khối lượng và kích thước một số chỉ tiêu chính của giống bò Vàng Việt Nam
Chỉ tiêu
Số lượng bò
LSM
SE
MIN

MAX
Khối lượng (kg)
327
199,06
2,22
105
356
Dài thân chéo (cm)
185
111,71
0,61
91
138
Vòng ngực (cm)
187
138,33
0,85
108
176
Cao vây (cm)
184
115,45
0,31
96
120
Cao khum (cm)
184
116,63
0,34
97

122
Dài tai (cm)
151
17,82
0,10
15
21

Xét theo giới tính, KL bò đực lớn hơn bò cái (Bảng 3.2). KL trung bình của bò đực là
220,80kg, trong lúc đó bò cái chỉ là 189,10kg. Sự sai khác về giá trị trung bình KL giữa 2 giới
tính là rất rõ rệt (P<0,05).
Bảng 3.2. Khối lượng giống bò Vàng Việt Nam phân theo theo giới tính
Giới tính
Số lượng bò (con)
LSM (kg)
SE
Cái
244
189,10
a

2,42
Đực
83
220,80
b

4,43
Ghi chú: Các chữ khác nhau trên giá LSM trong cùng cột biểu thị sự sai khác giữa chúng có ý nghĩa ở mức P<0,05


3.2.2. Khối lượng và kích thước của giống theo từng tỉnh
KL và KT một số chiều đo chính của giống bò Vàng Việt Nam khác nhau theo từng tỉnh
(Bảng 3.3). Điều này có thể do mục tiêu chọn lọc, điều kiện khí hậu và phương thức nuôi dưỡng
của từng tỉnh khác nhau. Kết quả trong nghiên cứu này cho thấy giống bò Vàng Việt Nam nuôi ở
Nghệ An lớn nhất (221,70kg); tiếp theo là bò nuôi ở Phú Yên (211,78kg); Lạng Sơn (209,26kg);
Bà Rỵa-Vũng Tàu (191,98kg) và nhỏ nhất là bò nuôi ở Thanh Hoá (189,80kg). Sự sai khác giữa
các giá trị trung bình về KL của giống Vàng Việt Nam nuôi ở các tỉnh là rõ rệt (P<0,05).
Bảng 3.3. Khối lượng giống bò Vàng Việt Nam nuôi tại các tỉnh
Nhóm bò
Số lượng bò (con)
LSM (kg)
SE
Lạng Sơn
58
209,26
ac

4,74
Nghệ An
49
221,70
ab

5,03
Phú yên
74
211,78
bc
4,35
Thanh Hóa

50
189,80
c
7,12
Bà RÞa-Vũng Tàu
96
191,98
c
6,47
Ghi chú: Các chữ khác nhau trên giá trị LSM trong cùng cột biểu thị sự sai khác giữa chúng có ý nghĩa ở mức
P<0,05



Đánh giá theo giới tính của giống nuôi tại các tỉnh (Bảng 3.4) cho thấy KL của bò đực
nuôi tại Nghệ An cao nhất, đạt tới 243,30kg, trong lúc đó bò đực Thanh Hoá chỉ đạt 195,10kg.
Đối với bò cái, KL bò Nghệ An vẫn cao nhất (200,00kg) và thấp nhất là bò nuôi tại Lạng Sơn
(183,60kg). Sự sai khác giữa 2 giới tính trong mỗi tỉnh rõ rệt, nhưng giữa các tỉnh cùng giới tính
không rõ rệt Kết quả này phù hợp với công bố trên 2 giới tính đực và cái của Lê Quang Nghiệp
(1984) từ 24 đến 60 tháng tuổi.
Bảng 3.4. Khối lượng giống bò Vàng Việt Nam phân theo giới tính của từng tỉnh
Nhóm bò
Giới tính
Số lượng bò (con)
LSM (kg)
SE
Lạng Sơn
Cái
36
183,60

a
5,84
Đực
22
235,00
bc
7,47
Nghệ An
Cái
27
200,00
a
6,74
Đực
22
243,30
b
7,47
Phú yên
Cái
50
187,90
a
4,95
Đực
24
235,70
b
7,15
Thanh Hóa

Cái
43
184,40
a
5,34
Đực
7
195,10
ac
13,24
Bà Rịa-Vũng Tàu
Cái
88
189,20
a
3,73
Đực
8
194,70
ac
12,38

3.2.2.1. Bò Vàng Lạng Sơn
KL của giống bò Vàng Việt Nam nuôi tại Lạng Sơn từ 2 đến 5 năm tuổi là 209,26kg, cao
nhất là 235kg (bò đực) đến thấp nhất là 183,60kg (bò cái). Đối với từng giới tính, KL bò cái là
183,60kg và bò đực là 235,00kg. Kết quả này phù hợp với KL con cái có khối lượng 180-230 kg
và con đực 300-350 kg (Lê Viết Ly và cộng sự, 1999).
Bò Vàng Lạng Sơn có tầm vóc trung bình, kết cấu vững chắc, CV đạt 100-104cm; DTC
là 111-113cm; VN là 130-138cm. Kết quả này phù hợp với kết quả công bố về KT một số chiều
đo chính trên 2 giới tính đực và cái của Lê Quang Nghiệp (1984) từ 24 đến 60 tháng tuổi và của

Lê Viết Ly và cộng sự (1996).




Bò đực Lạng Sơn Bò cái Lạng Sơn
3.2.2.2. Bò Vàng Thanh Hóa
Giống bò Vàng Thanh Hóa có tầm vóc nhỏ hơn so với các nhóm bò Vàng Việt Nam khác.
Thân hình chữ nhật dài, đầu bò cái thanh hơn bò đực, sừng ngắn, trán phẳng hoặc hơi lõm, bò đực
mõm ngắn hơn bò cái, mạch máu nổi rõ trên mặt, mắt to nhanh nhẹn. Cổ bò cái thanh và nhỏ hơn
bò đực. Yếm của bò kéo dài từ hầu đến ức, da cổ, yếm có nhiều nếp nhăn nhỏ. Bò đực có u, tuy
không to, song bò cái không có u; lưng hông thẳng, hơi rộng, bắp thịt nở nang; mông hơi xuôi,
ngắn và lép. Ngực tương đối sâu nhưng lép, bụng to tròn, không sệ; bốn chân cứng cáp, thanh tú,
hai chân trước thẳng, hai chân sau ở một số con có chạm kheo. Màu sắc lông da vàng tươi, da
mỏng, lông mịn dài. Kết quả này phù hợp với công bố của Lê Viết Ly và cộng sự (1999).


Bò đực Thanh Hóa Bò cái Thanh Hóa
KL trung bình từ 2 đến 5 năm tuổi ở nghiên cứu này là 189,80kg, bò cái là 184,40kg và
đực là 195,10kg, trong lúc đó, KL trưởng thành ở bò cái là 180-200kg và bò đực là 250-320kg;
CV là 100-102cm; VN là 124-130cm; DTC là 108-110cm. Kết quả này phù hợp với kết quả về
KT trên đàn bò Vàng Thanh Hoá của Trần Đình Miên và Vũ Kính Trực (1966). Kết quả này thấp
hơn so với kết quả công bố về KL và KT trên đàn bò Vàng Thanh Hoá trên cả 2 giới tính đực và
cái của Lê Quang Nghiệp (1984) từ 24 đến 60 tháng tuổi và của Lê Viết Ly và cộng sự (1996).
Bò Thanh Hoá đẻ sớm, phối giống lần đầu vào lúc 22-24 tháng tuổi. Ưu điểm nổi bật của bò là
chịu đựng tốt trong điều kiện dinh dưỡng thấp, chịu nóng tốt.
3.2.2.3. Bò Vàng Nghệ An
Kết quả nghiên cứu này cho thấy bò Nghệ An có tầm vóc lớn nhất trong số các nhóm bò
Vàng Việt Nam, KL đạt tới 200,00kg (bò cái) và 243,30kg (bò đực) từ 2 đến 5 tuổi. Kết quả này
phù hợp với công bố về KL bò Vàng Nghệ An của Nguyễn Kim Đường (2008). Hình dáng đặc

trưng là tiền thấp hậu cao ở bò cái và ngược lại ở bò đực là tiền cao hậu thấp. Màu lông vàng sẫm
là chính, chiếm 75%, còn lại có màu vàng nhạt hoặc màu vàng đen. Da mỏng lông mịn. Đầu bò
đực thô và đầu bò cái thanh. Trán rộng phẳng, thỉnh thoảng có con hơi lõm đỉnh trán hơi dô lên,
mắt lồi, mõm rộng; tai to đưa ngang. Sừng bò đực hình búp măng mập, chỏm màu đen, chân sừng


màu tro; sừng bò cái nhỏ, dài và cong về phía trước. Cổ bò đực dày, tròn, bò cái thanh và dài, yếm
to kéo dài từ hầu đến xương mỏ ác. Bò đực có u vai cao hơn bò cái.


Bò đực Nghệ An Bò cái Nghệ An
Bò Vàng Nghệ An có CV là 104-112cm, DTC là 115-125cm, VN là 139-155cm. Bò
trưởng thành có KL là 230kg-320kg. Tuy một số chỉ tiêu về KL và KT trên đàn bò Vàng Nghệ
An đối với 2 giới tính đực và cái ở nghiên cứu này cao, song nhìn chung cũng phù hợp với kết
quả công bố của Lê Quang Nghiệp (1984) từ 24 đến 60 tháng tuổi.
3.2.2.4. Bò Vàng Phú Yên
Bò Vàng Phú Yên là đặc trưng cho giống bò Vàng Việt Nam của vùng Duyên hải miền
Trung, được phân bố tại các tỉnh Duyên hải miền Trung từ Đà Nẵng, Quảng Nam đến Ninh Thuận,
Bình Thuận. Giống bò Vàng Phú Yên có màu lông nâu-vàng toàn thân, song ở bò đực đậm màu
hơn so với bò cái.
Theo đánh giá của hầu hết các chuyên gia chăn nuôi bò ở Việt Nam đều cho biết, giống bò
Vàng Việt Nam nuôi ở tỉnh Phú Yên là tốt nhất của nước ta. Bò Vàng Phú Yên thích nghi tốt trong
nhiệt đới nóng và khô, phát triển được trong điều kiện thức ăn nghèo nàn của địa phương (Lê Xuân
Cương và cộng sự, 1992). Bò phát triển cân đối, chắc chắn, đầu ngắn và nhỏ, dài thân và lưng rộng,
ngực rộng và sâu. Bò có tầm vóc trung bình lớn, KL cao hơn so với giống bò Vàng Việt Nam nuôi
tại các địa phương Lạng Sơn, Bà Rỵa-Vũng Tàu, Thanh Hoá, song nhỏ hơn bò Vàng Việt Nam
nuôi tại Nghệ An.


Bò đực Phú Yên Bò cái Phú Yên



KL bò Vàng Phú Yên từ 2 đến 5 năm tuổi trong nghiên cứu này của bò cái là 187,90kg và
bò đực là 235,70kg. Kết quả này phù hợp với công bố 4 năm tuổi đạt 200-230 kg và 5 năm tuổi
đạt 220-250 kg của Vũ Văn Nội và cộng sự (1985). Kết quả này phù hợp với kết quả công bố về
KL và KT một số chiều đo chính trên đàn bò Vàng Phú Yên đối với 2 giới tính đực và cái của Lê
Quang Nghiệp (1984) từ 24 đến 60 tháng tuổi và của Lê Viết Ly và cộng sự (1996).
Do chất lượng giống bò Vàng Phú Yên tốt nên Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp
miền Nam cùng Trung tâm Giống và Kỹ thuật Vật nuôi Phú Yên đang triển khai đề tài “Phát
triển giống bò Vàng Phú Yên trở thành thương hiệu của tỉnh”.
3.2.2.5. Bò Vàng Bà Rịa-Vũng Tàu
Nhóm bò Vàng Bà Rỵa-Vũng Tàu có thể đại diện cho giống bò Vàng Việt Nam nuôi tại
vùng Đông Nam Bộ. Phân bố rộng ra tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ như Đồng Nai, Bình
Phước, Bình Dương, Tây Ninh.


Bò đực Bà Rịa-Vũng Tàu Bò cái Bà Rịa-Vũng Tàu
Bò Bà Rỵa-Vũng Tàu có màu lông vàng, số ít có màu vàng sáng hoặc vàng cánh gián
đậm. Tầm vóc to hơn các nhóm bò địa phương Thanh Hoá và Lạng Sơn, nhưng nhỏ hơn nhóm
bò Vàng Nghệ An và Phú Yên. KL trung bình từ 2 đến 5 tuổi của bò cái đạt 189,20kg và bò đực
đạt 194,70kg. Bò có yếm cổ ngắn. Kết quả này phù hợp với công bố của Lê Xuân Cương và cộng
sự (1992).
4. Kết luận và đề nghị
4.1. Kết luận
Giống bò Vàng Việt Nam rất đa dạng về ngoại hình, được nuôi ở hầu hết các địa phương
với tên riêng của mỗi tỉnh.
Tầm vóc của bò Vàng Việt Nam nhỏ hơn so với trước đây.
4.2. Đề nghị
Cần nghiên cứu sâu bản chất di truyền của giống bò Vàng Việt Nam để khẳng định giống
và từ đó chọn lọc, nhân thuần và lai tạo giống phục vụ bảo tồn và sản xuất mang lại hiệu quả cao

hơn.


Cần nghiên cứu đánh giá phẩm chất thân thịt của giống bò Vàng Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
1. At lat (2004). Giống vật nuôi. Nhà Xuất Bản nông nghiệp.z
2. Nguyễn Kim Đường (2008), “Một số vấn đề hiện trạng chăn nuôi bò ở Nghệ An”. Tạp chí Khoa học, Công
nghệ Chăn nuôi. Số 13, trang 12-19.
3. Kỷ yếu các báo cáo hội nghị Quốc tế (2008). “Đa dạng sinh học động vật nuôi của Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hoá”.Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi, số đặc biệt 2-2008.
4. Lê Viết Ly, Nguyễn Thiện, Vũ Văn Nội, Vũ Chí Cương, Phạm Kim Cương và Nguyễn Văn Niêm. (1995).
Tổng hợp kết quả báo cáo bò lai hướng thịt. Tuyển tập công trình nghiên cứu khoa học kỹ thuật chăn nuôi
1969-1995.
5. Lê Viết Ly, Hoàng Kim Giao, Mai Văn Sánh, Võ Văn Sự và Lê Minh Sắt (1999). Chuyên khảo bảo tồn
nguồn gen vật nuôi ở Việt nam, Tập 1. NXB Nông nghiệp.
6. Lê Quang Nghiệp (1984). Luận án Phó Tiến Sỹ Nông nghệp, Hà Nội.

×