Tải bản đầy đủ (.docx) (100 trang)

phát triển kinh tế trang trại ở huyện quỳ hợp, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.24 MB, 100 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI
Ở HUYỆN QUỲ HỢP, TỈNH NGHỆ AN

Sinh viên thực hiện: Giáo viên hướng dẫn:
Ngô Thị Tuyết Nhung
Lớp: K44-KTCT
Niên khóa: 2010 - 2014 ThS. Nguyễn Lê Thu Hiền
Huế, tháng 05 năm 2014
Lời Cảm Ơn
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này ngoài sự
cố gắng của bản thân tôi nhận được rất nhiều sự
giúp đỡ của mọi người. Đầu tiên, tôi xin chân thành
cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại Học Kinh Tế Huế,
các thầy cô giáo, đặc biệt là các thầy cô trong Khoa
Kinh tế Chính trị, những người đã trang bị cho tôi
những kiến thức cơ bản, những định hướng đúng đắn
trong học tập và tu dưỡng đạo đức không chỉ là nền
tảng cho quá trình nghiên cứu khóa luận mà còn là
hành trang quý báu trong công tác.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
ThS. Nguyễn Lê Thu Hiền, người đã dành nhiều thời
gian và tâm huyết, tận tình hướng dẫn chỉ bảo cho tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện khóa
luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn đến toàn thể các anh
chị, cô chú các phòng Nông nghiệp và Phát triển


nông thôn, Phòng Tài nguyên và Môi trường, phòng
Lao động Thương binh & xã hội và Chi cục Thống kê
huyện; các xã, các chủ trang trại trên địa bàn huyện
đã tạo điều kiện thuận lợi, tận tình giúp đỡ tôi trong
quá trình điều tra và thu thập số liệu.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn người thân,
gia đình và bạn bè đã quan tâm giúp đỡ, động viên
tôi trong quá trình học tập, tiến hành nghiên cứu và
hoàn thành đề tài này.
Do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên trong
quá trình hoàn thành khóa luận không thể tránh khỏi
2
2
những sai sót, kính mong sự góp ý xây dựng của quý
thầy, cô giáo để khóa luận của tôi được hoàn thiện
hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 05 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Ngô Thị Tuyết Nhung
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CĐ, ĐH Cao đẳng, đại học
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CN – XDCB Công nghiệp – xây dựng cơ bản
ĐVT Đơn vị tính
KDTH Kinh doanh tổng hợp
KHKT Khoa học kỹ thuật
KTTT Kinh tế trang trại
KT - XH Kinh tế - xã hội

LĐTB & XH Lao động thương binh và xã hội
ND Nông dân
NTTT Nuôi trồng thủy sản
PTNT Phát triển nông thôn
PTTH Phổ thông trung học
TM - DV Thương mại - dịch vụ
TT Trang trại
Tr.đ Triệu đồng
SHV Số học viên
3
3
SL Sản lượng
4
4
DANH MỤC CÁC BẢNG
5
5
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
6
6
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Lê Thu Hiền
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động sản xuất trong nông nghiệp ở nước ta với nhiều hình thức tổ chức sản
xuất khác nhau và mỗi hình thức tổ chức sản xuất nó đã đem lại những kết quả cụ thể.
Ngày nay trong xu thế của nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế thì việc xây dựng
một mô hình sản xuất phù hợp đem lại giá trị sản xuất cao, đồng thời giải quyết được
các vấn đề chung của xã hội là một vấn đề cấp thiết. Nước ta là một nước nông nghiệp
truyền thống từ ngàn xưa, bởi vậy trong hoạt động sản xuất của người dân là luôn luôn
đi tìm phương thức sản xuất tốt nhất. Như một lẽ tất nhiên, hình thức sản xuất kinh tế

trang trại ra đời. Xu thế phát triển kinh tế trang trại đã và đang là vấn đề cần được
quan tâm hiện nay ở các nước trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng, sự
phát triển kinh tế trang trại là sản phẩm của quá trình phát triển sản xuất từ thấp đến
cao, từ sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hóa với quy mô lớn dần.
Cùng với sự phát triển của nông nghiệp cả nước, kinh tế trang trại (KTTT) của
tỉnh Nghệ An nói chung và huyện Quỳ Hợp nói riêng đang có những bước phát triển
mạnh mẽ. Quỳ Hợp là một huyện miền núi phía Tây Bắc của tỉnh Nghệ An, cách
Thành phố Vinh 120km. Là một huyện nền kinh tế nông nghiệp giữ vị trí quan trọng,
người dân sống chủ yếu bằng việc sản xuất nông nghiệp. Với những chủ trương,
đường lối đổi mới kinh tế nông nghiệp trong những năm qua của Đảng, chính sách
khuyến khích của nhà nước và sự chỉ đạo của các chính quyền địa phương, kinh tế
trang trại đã tác động trực tiếp làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội huyện Quỳ Hợp.
Trong tiến trình công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn, KTTT Quỳ Hợp phát triển
nhanh cả về quy mô, số lượng và chất lượng, đã khẳng định vị trí của mình trong điều kiện
kinh tế thị trường với những thành tựu nhất định: góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, khai hoang phục hóa, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên, giải
quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân, thay đổi phương thức sản xuất,…
Tuy nhiên, trước cũng như sau khi có thông tư mới về kinh tế trang trại, các trang
trại (TT) ở Quỳ Hợp phát triển mạnh ở các loại hình: TT trồng trọt, TT chăn nuôi và TT
kinh doanh tổng hợp, còn một số loại hình như TT lâm nghiệp, TT nuôi trồng thủy sản,
…chưa phát triển. Ngoài ra trong quá trình phát triển, kinh tế trang trại ở huyện đang
7
SVTH: Ngô Thị Tuyết Nhung
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Lê Thu Hiền
bộc lộ nhiều hạn chế: trình độ sản xuất nông sản hàng hoá còn thấp; sức cạnh tranh trên
thị trường kém; lợi nhuận thu được chưa tương xứng với tiềm năng đất đai, lao
động, của huyện. Vì vậy, nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế huyện Quỳ Hợp, phát
hiện ra những khó khăn, thách thức và đề xuất giải pháp phát triển kinh tế trang trại cân
đối giữa nông - lâm - ngư nghiệp theo hướng bền vững là việc làm cần thiết cho phát
triển nông nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế xã hội huyện Quỳ Hợp nói chung.

Chính vì vậy tôi đã lựa chọn đề tài “Phát triển kinh tế trang trại ở huyện Quỳ
Hợp, tỉnh Nghệ An” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phát triển kinh tế trang trại là một nội dung quan trọng có ý nghĩa lí luận và thực
tiễn trong phát triển kinh tế nên có nhiều đề tài nghiên cứu, bài viết liên quan như:
Luận văn thạc sĩ: “Phát triển kinh tế trang trại bền vững trên địa bàn huyện Nam
Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế” của Phạm Văn Tiển.
Khóa luận tốt nghiệp: “Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại trên
địa bàn huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An” của Nguyễn Thị Dung.
Khóa luận tốt nghiệp: “Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở
huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An” của Nguyễn Thị Thu Phương.
Khóa luận tốt nghiệp: “Phát triển kinh tế trang trại ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh
Nghệ An trong giai đoạn hiện nay” của Trần Thị Hậu.
Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu nhận thấy chưa có đề tài nào nghiên cứu
chuyên sâu về phát triển KTTT ở huyện Quỳ Hợp nên tôi đã lựa chọn đề tài: “Phát
triển kinh tế trang trại ở huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng đi sâu đánh giá phát triển kinh tế trang trại ở
huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, từ đó định hướng những giải pháp cụ thể nhằm thúc
đẩy sự phát triển KTTT của huyện.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến kinh tế trang trại.
- Phân tích thực trạng phát triển kinh tế trang trại huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An
thời gian qua, từ đó đánh giá những kết quả đạt được cũng như những hạn chế và
8
SVTH: Ngô Thị Tuyết Nhung
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Lê Thu Hiền
nguyên nhân của hạn chế đó trong phát triển kinh tế trang trại huyện Quỳ Hợp, tỉnh

Nghệ An từ năm 2009 - 2013.
- Đề xuất phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy phát triển
kinh tế trang trại của huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An trong những năm tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Kinh tế trang trại ở huyện Quỳ Hợp, tỉnh
Nghệ An.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Về không gian
Toàn bộ lãnh thổ 21 xã, thị trấn thuộc huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An.
4.2.2. Về thời gian
Nghiên cứu từ năm 2009 – 2013.
4.2.3. Về phạm vi của đối tượng nghiên cứu
Chủ yếu nghiên cứu các trang trại thuộc huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An sau khi
đã áp dụng Thông Tư 27/2011/TT-BNNPTNT về tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng
nhận kinh tế trang trại. Theo đó KTTT của huyện hiện nay có 3 loại hình: TT trồng
trọt, TT chăn nuôi và TT kinh doanh tổng hợp.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Mẫu nghiên cứu: Chọn 37 trang trại trong tổng số 54 trang trại theo Thông tư 27
về tiêu chí kinh tế trang trại với 3 loại hình kinh tế trang trại (16 trang trại trồng trọt, 2
trang trại chăn nuôi và 19 trang trại kinh doanh tổng hợp).
* Phương pháp chung:
Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để xem xét và phân tích vấn
đề một cách khoa học, khách quan.
* Phương pháp cụ thể:
- Phương pháp thu thập tài liệu
Để có thông tin đầy đủ cho đề tài nghiên cứu, tác giả đã thu thập tài liệu ở các
cơ quan như: Chi cục Thống kê huyện Quỳ Hợp, Phòng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn (PTNT), Phòng Tài nguyên và Môi trường, Phòng Lao động thương binh và
xã hội huyện Quỳ Hợp. Dựa trên những tài liệu thu thập được từ nhiều nguồn đó tác

9
SVTH: Ngô Thị Tuyết Nhung
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Lê Thu Hiền
giả sử dụng phương pháp thống kê như một công cụ để thống kê, đánh giá những giá
trị gần đúng, xác thực nhất, cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình.
- Phương pháp điều tra thực địa
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tương đối rộng nên cần nhiều thời gian để kết hợp
các phương pháp nghiên cứu. Việc khảo sát thực địa được thực hiện trên 37 trang trại
để phát hiện và kiểm định một số vấn đề của đề tài.
- Phương pháp xử lý thông tin số liệu
Dựa trên nhiều nguồn thông tin, tài liệu khác nhau được thu thập, tác giả đã tiến
hành phân tích, nghiên cứu, xử lý tài liệu (xử lý bảng số liệu, xây dựng biểu đồ,…bằng
excel) phục vụ cho đề tài.
- Phương pháp bản đồ, biểu đồ
Kết hợp với phương pháp thống kê số liệu để áp dụng phương pháp bản đồ, biểu
đồ, đồ thị, qua đó các kết quả nghiên cứu được thể hiện rõ ràng. Xây dựng bản đồ,
biểu đồ dựa trên các số liệu, tài liệu để phản ánh hiện trạng phát triển kinh tế trang trại
của huyện Quỳ Hợp, hướng phát triển và các mối liên hệ lãnh thổ không gian cũng
như những dự kiến phát triển.
6. Đóng góp của đề tài
- Đề tài có thể là tài liệu tham khảo cho địa phương nghiên cứu và vận dụng đưa
ra đường lối chính sách để phát triển KTTT trên địa bàn của huyện nói riêng và của
tỉnh nói chung.
- Ngoài ra đề tài còn là một nguồn tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm
nghiên cứu vấn đề này.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận, kiến nghị và tài liệu tham khảo, kết cấu của đề
tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về kinh tế trang trại.
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An.

Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển kinh tế
trang trại ở huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An.
10
SVTH: Ngô Thị Tuyết Nhung
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Lê Thu Hiền
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ TRANG TRẠI
1.1. Khái niệm, đặc trưng và vai trò của kinh tế trang trại
1.1.1. Khái niệm và phân loại kinh tế trang trại
1.1.1.1. Khái niệm
Trong những năm gần đây, kinh tế trang trại (KTTT) ở nước ta có xu hướng phát
triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng của trang trại trên nhiều địa phương.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu các khái niệm và nội dung của trang trại và
kinh tế trang trại là cần thiết để có những nhận thức đúng đắn trong việc đánh giá đúng
thực trạng phát triển của nó.
* Khái niệm trang trại
Tổ chức nông lương Liên hiệp quốc (FAO, 1997) đã đưa ra khái niệm TT trên cơ
sở khái niệm nông trại. Theo FAO, nông trại (farm) là một mảnh đất mà trên đó có
nông hộ thực hiện các hoạt động sản xuất nông nghiệp phục vụ cho sinh kế của họ.
Một số nhà khoa học trên thế giới cho rằng: Trang trại (TT) là đơn vị cơ sở sản
xuất nông nghiệp của hộ gia đình nông dân, được hình thành và phát triển từ khi
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dần thay thế phương thức sản xuất phong
kiến. Ngày nay, TT là loại hình tổ chức sản xuất phổ biến trong nền nông nghiệp của
hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Ban Kinh tế Trung ương: “Trang trại là một hình thức tổ chức kinh tế trong
nông - lâm - ngư nghiệp được hình thành trên cơ sở phát triển kinh tế hộ nhưng mang
tính sản xuất hàng hóa rõ rệt, đạt khối lượng và tỷ lệ sản phẩm hàng hóa lớn hơn và
thu được lợi nhuận nhiều hơn.” [5, 4]
Điểm chung của những khái niệm trên cho thấy: trang trại là kinh tế hộ dựa trên
cơ sở lao động, đất đai, tư liệu sản xuất hộ gia đình nhưng mức độ tổ chức cao hơn,

mang tính chất sản xuất hàng hóa và tỷ suất hàng hóa càng cao càng tốt, sản xuất gắn
với kinh doanh và hướng đến thị trường. [1]
11
SVTH: Ngô Thị Tuyết Nhung
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Lê Thu Hiền
* Khái niệm kinh tế trang trại
Hiện nay, khái niệm về KTTT được nhiều nhà khoa học nhìn nhận dưới nhiều
góc độ khác nhau thể hiện rõ:
+ Quan điểm 1: Kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức kinh tế - hình thức tổ
chức kinh doanh trong nông nghiệp (hiểu nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm nông,
lâm, ngư nghiệp) phổ biến được hình thành và phát triển trên nền tảng kinh tế hộ. Quá
trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại có gắn với sự tích tụ tập trung các yếu
tố sản xuất kinh doanh đất đai, lao động, tư liệu sản xuất – vốn, khoa học công nghệ,
để nâng cao năng lực sản xuất và sản xuất ra nhiều sản phẩm hàng hóa với năng suất,
chất lượng và hiệu quả cao. [18]
+ Quan điểm 2: KTTT hay các TT gia đình, thực chất là kinh tế hộ sản xuất hàng
hoá với quy mô lớn hơn, sử dụng lao động, tiền vốn của gia đình là chủ yếu để sản xuất
kinh doanh có hiệu quả. Một bộ phận TT ngoài lao động của gia đình, có thuê thêm lao
động để sản xuất, kinh doanh, quy mô diện tích đất canh tác xoay quanh mức hạn điền ở
từng vùng theo quy định của pháp luật (Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 10/11/1998 của
Bộ Chính trị về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn). [12, 4]
+ Quan điểm 3: KTTT là hình thức tổ chức sản xuất hàng hóa trong nông
nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao
hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy hải sản, trồng
rừng, gắn với chế biến và tiêu thụ nông, lâm, thủy sản. [11, 2]
Như vậy, từ những quan điểm của các nhà khoa học có thể thống nhất khái niệm
KTTT như sau: Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất hàng hóa lớn trong
nông, lâm, ngư nghiệp của các thành phần kinh tế khác nhau ở nông thôn, có sức
đầu tư lớn, có năng lực quản lý trực tiếp quá trình sản xuất kinh doanh, phương
pháp tạo ra suất sinh lợi cao hơn bình thường trên đồng vốn; có trình độ đưa

những thành tựu khoa học công nghệ mới kết tinh trong hàng hóa tạo ra sức cạnh
tranh cao hơn trên thị trường xã hội, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao.[18, 34]
Tóm lại: Kinh tế trang trại là một khái niệm biểu hiện một tổng thể bao gồm các
mối quan hệ giữa các yếu tố và thành phần kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của trang trại. Còn trang trại là một cơ sở sản xuất kinh doanh cụ thể là nơi diễn
ra các hoạt động của kinh tế trang trại. [8, 7]
12
SVTH: Ngô Thị Tuyết Nhung
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Lê Thu Hiền
1.1.1.2. Phân loại kinh tế trang trại
Dựa vào đặc điểm, loại hình, phương thức sản xuất, hình thức sở hữu tư liệu sản
xuất mà có nhiều cách phân loại KTTT khác nhau.
Thứ nhất, theo cơ cấu sản xuất
+ TT chuyên môn hóa: Là loại TT chỉ chuyên kinh doanh một loại sản phẩm (TT
chăn nuôi, TT trồng trọt, có TT chỉ chuyên kinh doanh một loại cây trồng, vật nuôi).
+ TT kinh doanh tổng hợp: Là TT chuyên kinh doanh nhiều loại sản phẩm (TT
kinh doanh nhiều loại cây trồng, vật nuôi, hoặc có TT kinh doanh cả chăn nuôi và
trồng trọt, trồng rừng, nuôi trồng thủy sản và chế biến).
Theo Thông tư 27/2011/TT-BNNPTNT phân loại trang trại như sau: [16, 1]
Trang trại trồng trọt;
Trang trại chăn nuôi;
Trang trại lâm nghiệp;
Trang trại nuôi trồng thuỷ sản;
Trang trại tổng hợp.
Thứ hai, theo hình thức tổ chức quản lý
+ TT gia đình: Là kiểu TT độc lập sản xuất kinh doanh của từng gia đình có tư
cách pháp nhân riêng, do chủ hộ hoặc một người có năng lực và uy tín trong gia đình
đứng ra quản lý. Đây là loại hình phổ biến ở nhiều nước hiện nay.
+ TT liên doanh: Là kiểu TT do 2 TT gia đình trở lên tự nguyện hợp nhất lại
thành một TT có quy mô lớn hơn, có tư cách pháp nhân mới nhằm tăng thêm năng lực

về vốn, tư liệu sản xuất để có sức cạnh tranh với những TT có quy mô sản xuất lớn
khác, đồng thời hưởng những ưu đãi của nhà nước đối với các TT lớn nhưng vẫn giữ
nguyên quyền tự chủ điều hành sản xuất của từng TT cũ.
+ TT hợp doanh cổ phần: Là kiểu TT được tổ chức theo nguyên tắc của công ty
cổ phần, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản phẩm.
Thứ ba, theo mức độ sở hữu tư liệu sản xuất
+ TT mà chủ TT sở hữu toàn bộ tư liệu sản xuất từ đất đai, chuồng trại, kho bãi
đến công cụ máy móc.
+ TT mà chủ TT sở hữu một phần tư liệu sản xuất, còn một phần cho thuê.
13
SVTH: Ngô Thị Tuyết Nhung
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Lê Thu Hiền
+ TT mà chủ trại hoàn toàn không có tư liệu sản xuất, phải thuê toàn bộ các cơ sở
của một TT để sản xuất từ đất đai, mặt nước, rừng cây đến những chuồng trại, kho
hàng, máy móc thiết bị
Thứ tư, theo cơ cấu thu nhập
+ TT thuần nông: Thu nhập chủ yếu từ sản xuất nông nghiệp
+ TT thu nhập chủ yếu ngoài nông nghiệp, ngoài trang trại: Loại này đang có xu
hướng ngày càng tăng ở nhiều nước.
Thứ năm, theo phương thức điều hành sản xuất
+ Loại TT có chủ TT và gia đình ở ngay trong TT ở nông thôn và trực tiếp điều
hành cũng như trực tiếp lao động sản xuất.
+ Loại TT có chủ TT và gia đình không ở nông thôn, không ở trang trại mà ở nơi
khác (thị trấn, thành phố) nhưng vẫn trực tiếp điều hành và quản lý TT mà không thuê
người khác.
+ Loại TT có chủ TT sống và làm việc ở thành phố, thuê người quản lý và điều
hành TT ở nông thôn.
1.1.2. Tiêu chí nhận dạng kinh tế trang trại
Trong quá trình nghiên cứu về KTTT ở nước ta, hệ thống tiêu chí xác định KTTT
chưa có sự thống nhất từ Trung ương đến địa phương và vấn đề này đang làm chậm

quá trình đăng ký, phân loại và cấp giấy chứng nhận trang trại, tác động hạn chế tốc độ
phát triển KTTT và gây cho các chủ TT tâm lý chưa yên tâm đầu tư phát triển. Dưới
đây là một số tiêu chí xác định KTTT:
1.1.2.1. Tiêu chí của Bộ Nông nghiệp và PTNT – Tổng cục thống kê (Trích từ
thông tư 69/2000/TTLT - BNN - TCTK)
Trong những năm gần đây kinh tế trang trại phát triển mạnh ở hầu khắp các địa
phương trong cả nước, hình thành mô hình sản xuất mới trong nông nghiệp và nông
thôn nước ta. Do chưa có quy định thống nhất của các Bộ, ngành Trung ương về tiêu
chí trang trại nên các địa phương tự đặt ra những tiêu chí về trang trại dựa vào tính
chất sản xuất hàng hoá, quy mô về diện tích đất đai, đầu gia súc, v.v để thống kê về
số liệu kinh tế trang trại của địa phương, vùng nên số liệu thống kê về kinh tế trang trại
chưa thật chuẩn xác, ranh giới giữa kinh tế hộ nông dân và kinh tế trang trại không rõ
ràng, khó khăn cho việc đánh giá thực trạng và xây dựng các chính sách đối với kinh
14
SVTH: Ngô Thị Tuyết Nhung
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Lê Thu Hiền
tế trang trại. Chính phủ đã có Nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 về kinh tế
trang trại. Thi hành Nghị quyết của Chính phủ, Liên Bộ Nông nghiệp và PTNT và
Tổng cục Thống kê quy định hướng dẫn tiêu chí về kinh tế trang trại như sau:
Một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản được xác định là
trang trại phải đạt được cả hai tiêu chí định lượng sau đây:
* Giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân 1 năm:
Đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên hải miền Trung từ 40 triệu đồng trở lên
Đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên từ 50 triệu đồng trở lên
* Quy mô sản xuất phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế nông hộ tương
ứng với từng ngành sản xuất và vùng kinh tế.
Đối với trang trại trồng trọt
Trang trại trồng cây hàng năm thì từ 2 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và
Duyên hải miền Trung; Còn từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên.
Trang trại trồng cây lâu năm: Từ 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và Duyên

hải miền Trung; Từ 5 ha trở lên đối với ở các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên; Trang
trại trồng hồ tiêu 0,5 ha trở lên.
Trang trại lâm nghiệp: Từ 10 ha trở lên đối với các vùng trong cả nước.
Đối với trang trại chăn nuôi
Chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò, v.v thì chăn nuôi sinh sản, lấy sữa có thường
xuyên từ 10 con trở lên; Chăn nuôi lấy thịt có thường xuyên từ 50 con trở lên.
Chăn nuôi gia súc: lợn, dê, v.v thì chăn nuôi sinh sản có thường xuyên đối với
hơn 20 con trở lên, đối với dê, cừu từ 100 con trở lên; Chăn nuôi lợn thịt có thường
xuyên từ 100 con trở lên (không kể lợn sữa), dê thịt từ 200 con trở lên.
Chăn nuôi gia cầm: gà, vịt, ngan, ngỗng, v.v có thường xuyên từ 2.000 con trở
lên (không tính số đầu con dưới 7 ngày tuổi).
Đối với trang trại nuôi trồng thuỷ sản
Diện tích mặt nước để nuôi trồng thủy sản có từ 2 ha trở lên (riêng đối với nuôi
tôm thịt theo kiểu công nghiệp từ 1 ha trở lên).
15
SVTH: Ngô Thị Tuyết Nhung
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Lê Thu Hiền
Đối với các loại sản phẩm nông lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản có tính chất đặc
thù như: trồng hoa, cây cảnh, trồng nấm, nuôi ong, giống thủy sản và thuỷ đặc sản, thì
tiêu chí xác định là giá trị sản lượng hàng hoá [9]
1.1.2.2. Tiêu chí của Bộ Nông nghiệp và PTNT ngày 13/04/2011 (Trích từ Thông tư
27/2011/TT – BNNPTNT quy định về tiêu chí và thủ tục cấp giấy chứng nhận KTTT)
Theo Thông tư số 27/2011/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và PTNT ngày
13/4/2011, tiêu chí về kinh tế trang trại được xác định cơ bản bởi yếu tố diện tích và giá
trị sản lượng hàng hóa. Theo đó, cá nhân, gia đình sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,
nuôi trồng thủy sản muốn đạt tiêu chuẩn kinh tế trang trại phải thỏa mãn điều kiện sau:
* Đối với cơ sở trồng trọt, nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất tổng hợp phải đạt:
Có diện tích trên mức hạn điền, tối thiểu: 3,1 ha đối với vùng Đông Nam Bộ và
Đồng bằng Sông Cửu Long; 2,1 ha đối với các tỉnh còn lại.
Giá trị sản lượng hàng hóa đạt 700 triệu đồng/năm.

* Đối với cơ sở chăn nuôi phải đạt giá trị sản lượng hàng hóa từ 1.000 triệu
đồng/năm trở lên;
* Đối với cơ sở sản xuất lâm nghiệp phải có diện tích tối thiểu 31 ha và giá trị
sản lượng hàng hóa bình quân đạt 500 triệu đồng/năm trở lên. [16, 2]
Trước khi chưa có thông tư 27/2011-BNNPTNT ra ngày 13/04/2011 thì ở tỉnh
Nghệ An nói chung và huyện Quỳ Hợp nói riêng xác định thế nào là trang trại sản xuất
kinh doanh chủ yếu căn cứ vào thông tư liên tịch số 69/2000/TTLT-BNN-TCTK của Bộ
Nông nghiệp và PTNT – Tổng cục thống kê hướng dẫn tiêu chí xác định kinh tế trang
trại. Sau khi áp dụng thông tư 27/2011-BNNPTNT đến tháng 12/2013 toàn huyện Quỳ
Hợp đã có 54 trang trại đạt tiêu chí được cấp giấy chứng nhận kinh tế trang trại.
1.1.3. Đặc trưng của kinh tế trang trại
Kinh tế trang trại là một cấp độ trong quá trình phát triển của kinh tế hộ từ sản
xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hóa. C.Mác đã phân biệt chủ TT với người tiểu
nông như sau: “Chủ TT bán ra thị trường toàn bộ sản phẩm làm ra và mua vào tất cả
các loại tư liệu sản xuất, còn người tiểu nông thì sản xuất tự túc là chủ yếu, không bán
sản phẩm, hoặc bán không đáng kể và mua vào càng ít càng tốt và trong chừng mực
có thể, anh ta còn tự chế tạo lấy công cụ lao động vào quần áo”. [3]
16
SVTH: Ngô Thị Tuyết Nhung
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Lê Thu Hiền
Có thể thấy sự khác nhau giữa kinh tế nông hộ và kinh tế trang trại qua một số
tiêu chí như: Thứ nhất, về mục tiêu, kinh tế tiểu nông chủ yếu sản xuất tự túc, còn kinh
tế trang trại là sản xuất hàng hóa. Thứ hai, xét về quy mô thì kinh tế tiểu nông có quy
mô sản xuất nhỏ, trong khi diện tích cũng như nguồn vốn của kinh tế trang trại lại lớn,
hàng hóa tập trung hơn. Thứ ba, trình độ sản xuất kinh tế tiểu nông thấp và mang tính
thủ công, kinh tế trang trại có trình độ sản xuất cao với khả năng áp dụng phương tiện
máy móc hiện đại. Thứ tư, lao động chính của kinh tế tiểu nông là lao động gia đình,
kinh tế trang trại ngoài sử dụng lao động gia đình thì còn thuê lao động ngoài.
Từ đó ta có thể rút ra những đặc trưng cơ bản của KTTT như sau:
Thứ nhất, trang trại là một hình thức tổ chức kinh tế trong nông, lâm, ngư nghiệp

phổ biến được hình thành trên cơ sở kinh tế hộ nhưng mang tính sản xuất hàng hóa rõ
rệt và tỷ suất hàng hóa cao hơn kinh tế nông hộ.
Thứ hai, các trang trại có sự tập trung tích tụ cao rõ rệt so với mức bình quân của
các hộ kinh tế gia đình trong xã hội, ở từng vùng về các điều kiện sản xuất (đất đai,
vốn, lao động); đạt khối lượng và tỷ suất sản phẩm hàng hóa lớn hơn và thu được
nhiều lợi nhuận hơn.
Thứ ba, nhìn chung chủ trang trại là những người có ý thức làm giàu, có điều
kiện làm giàu và biết làm giàu, có vốn, có trình độ kỹ thuật và khả năng quản lý, có
hiểu biết nhất định về thị trường, bản thân và gia đình thường trực tiếp tham gia lao
động quản lý, sản xuất của trang trại đồng thời có thuê mướn thêm lao động để sản
xuất kinh doanh.
Thứ tư, kinh tế trang trại mang tính chất sản xuất hàng hóa, gắn liền với thị
trường, chính vì vậy có nhu cầu về các yếu tố đầu vào sản xuất (lao động, tiền vốn,
nguyên vật liệu…) cao hơn hẳn kinh tế hộ mang tính tự cấp tự túc, về tiếp thị về sự tác
động của khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, về sự phát triển của công
nghiệp, trực tiếp là công nghiệp bảo quản và chế biến nông, lâm, thủy sản, chế tạo
công cụ nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm và đáp ứng được đòi hỏi
của khách hàng về quy cách, chất lượng sản phẩm để đảm bảo tiêu thụ hàng hóa, cạnh
tranh trên thị trường.
17
SVTH: Ngô Thị Tuyết Nhung
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Lê Thu Hiền
Thứ năm, quy mô sử dụng (cũng là mức độ tích tụ) các điều kiện sản xuất (đất
đai, lao động, vốn) là những yếu tố cơ bản nhất, quyết định tính chất hàng hóa của
trang trại. Vì vậy tiêu chí để xem xét một hộ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp có phải là
trang trại hay không phải căn cứ vào quy mô sử dụng đất, lao động và tiền vốn.
Thứ sáu, về định lượng, quy mô cụ thể của các yếu tố này phải xem xét phù hợp
với từng loại hình kinh doanh, nhưng nói chung phải đủ lớn để phân biệt một cách rõ
rệt so với mức bình quân của kinh tế hộ trong vùng; có sự khác nhau theo vùng và thay
đổi theo thời gian (trình độ phát triển kinh tế). [18, 32 - 33]

1.2. Vai trò của kinh tế trang trại đối với phát triển kinh tế - xã hội
Do kinh tế trang trại mới phát triển, đến nay còn thiếu những số liệu thống kê
tổng hợp để phân tích chính xác tác động của nó đối với kinh tế - xã hội (KT – XH)
nông thôn, nhưng bước đầu có thể đánh giá như sau:
1.2.1. Sự phát triển kinh tế trang trại làm biến đổi về chất nền nông nghiệp:
chuyển từ tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hoá
Phát triển kinh tế trang trại có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế ở khu
vực nông thôn và đối với cả nước trong việc cung cấp lương thực, thực phẩm cho khu
vực nông thôn và các khu vực khác trên cả nước. Nhu cầu về lương thực, thực phẩm là
nhu cầu đầu tiên, thiết yếu cơ bản của đời sống con người và xã hội, xuyên suốt mọi
thời đại, mọi nền văn minh. [1, 29]
Khi có sự tác động của công nghiệp hoá vào nông nghiệp, nông thôn, trong cơ chế
thị trường, với sự giúp đỡ của Nhà nước, một bộ phận ngày càng lớn các hộ tiểu nông đã
vượt lên chính mình, trở thành các TT sản xuất hàng hoá. Họ là những người tiên phong,
phá vỡ cách nghĩ, cách làm của nền kinh tế tiểu nông đã tồn tại, bảo thủ từ nhiều thế kỷ
nay. Sau khi ra đời các chủ TT trở thành lực lượng dẫn đường, lôi cuốn và giúp đỡ các hộ
tiểu nông chuyển hướng sang sản xuất kinh doanh hàng hoá. Trong quá trình đó, hàng loạt
các hộ tiểu nông vươn lên sản xuất hàng hoá với quy mô lớn và trở thành các trang trại,
quá trình nhân rộng các mô hình TT làm cho nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn trở nên
năng động, hiệu quả hơn.
Sự ra đời và phát triển các TT gắn liền với sản xuất kinh doanh hàng hoá. Vì vậy, các
chủ TT luôn được đặt trong môi trường kinh doanh của thị trường, sự trăn trở tính toán
18
SVTH: Ngô Thị Tuyết Nhung
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Lê Thu Hiền
thường xuyên làm cho chủ TT ngày càng trở nên năng động, nhạy bén và đưa ra quyết định
ứng xử đúng đắn trước môi trường sản xuất, môi trường kinh doanh. Dám nghĩ, dám làm,
dám chấp nhận rủi ro, đó là tố chất thể hiện năng lực kinh doanh của chủ TT. Sự dày dạn và
thành công của đông đảo các chủ TT, sẽ là nhân tố nòng cốt thúc đẩy kinh tế nông nghiệp,
nông thôn nước ta phát triển trong tương lai.

1.2.2. Phát triển kinh tế trang trại gắn với công nghiệp chế biến, thúc đẩy hình
thành các vùng hàng hoá nguyên liệu nông sản tập trung
Việc phát triển KTTT đã tạo ra các vùng chuyên canh, sản xuất hàng hóa, làm
tiền đề cho phát triển công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, tạo điều kiện thuận
lợi cho phát triển công nghiệp, dịch vụ nông thôn.
Các trang trại ngày càng giữ vị trí chủ yếu trong việc cung cấp cho thị trường
những nông sản hàng hoá phục vụ tiêu dùng nội địa, chế biến và xuất khẩu. Ở nước ta,
KTTT mới phát triển trong những năm gần đây, số lượng trang trại còn nhỏ bé so với
tổng số hộ nông dân, nhưng theo Tổng cục Hải quan Việt Nam về tình hình xuất khẩu
nhóm hàng nông sản của Việt Nam trong năm 2013 đã sản xuất ra 40% - 60% lượng
nông sản hàng hoá trong một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như: gạo, cà phê, cao su,
sắn. [22]
KTTT cùng với công nghiệp chế biến bước đầu đã hình thành mối liên kết nông -
công nghiệp ở nông thôn. Nhiều vùng sản xuất hàng hoá nông sản tập trung, mà ở đó
KTTT là nòng cốt đã hình thành như: chè ở trung du, miền núi phía Bắc; cà phê, cao
su ở Tây Nguyên; lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng; cam,
mía ở các tỉnh miền Trung; thuỷ sản ở vùng ven biển.
1.2.3. Kinh tế trang trại góp phần khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực ở nông thôn
Trong nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu đặc biệt. Đối với người
nông dân, đất đai quý giá “tấc đất, tấc vàng”. Chỉ có KTTT mới khai thác sử dụng đất
đai có hiệu quả, xét về cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Về chiều rộng, rõ ràng sự ra đời của
KTTT tận dụng tốt ruộng, đất bãi, đất rừng đồi, mặt nước trước đó bị bỏ hoang hoá.
Các trang trại không chỉ sử dụng hợp lý lao động của mình, mà còn tạo thêm việc
làm góp phần giải quyết số lao động dư thừa ở nông thôn. Theo Tạp chí Con số và Sự
19
SVTH: Ngô Thị Tuyết Nhung
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Lê Thu Hiền
kiện số 4/2013 của Tổng cục Thống kê, kết quả Tổng điều tra tại thời điểm 01/7/2011,
cả nước có 20.028 trang trại theo tiêu chí trang trại mới đã sử dụng gần 95.000 lao

động. Các TT đã tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động, góp phần tăng thu nhập, tạo
ra nhiều sản phẩm và sản phẩm hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản. [15]
KTTT ra đời và phát triển đòi hỏi đầu tư vốn lớn, tính toán sử dụng có hiệu quả hơn.
Các chính sách cho vay vốn trung hạn, dài hạn đối với hộ nông dân nói chung còn rất hạn
chế, thủ tục vay phức tạp, làm cho nông dân ngại tiếp cận đến. Thời gian tới khi mà quy
mô kinh doanh mở rộng, các trang trại đã bước vào thời kỳ kinh doanh cơ bản, nhu cầu
vốn sẽ tăng nhanh, thị trường tài chính nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sẽ sôi động hơn.
1.2.4. Kinh tế trang trại góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống xây
dựng nông thôn mới
Kinh tế trang trại phát triển, đi liền với nó là công nghiệp chế biến nông sản thực
phẩm, thị trường và hàng loạt cơ sở vật chất hạ tầng cũng hình thành, phát triển. Điều
đó làm cho hoạt động kinh tế nông thôn sôi động hơn, thuận lợi hơn; bộ mặt xã hội
nông thôn văn minh hơn; giao tiếp của người nông dân với thị trường, với công nghiệp
thuận lợi hơn.
Phát triển kinh tế trang trại góp phần giải quyết việc làm cho lực lượng lao động
ở nông thôn. Bên cạnh đó không chỉ giải quyết việc làm cho bản thân chủ trang trại và
người thân mà còn thu hút một lượng lớn lao động làm thuê.
Trong cơ chế thông thoáng của thị trường, những hộ tiểu nông giỏi vượt lên trở
thành các chủ TT. Như vậy, có hiện tượng phân hoá về mức sống giàu nghèo ở nông
thôn, đó là điều khó tránh khỏi. Khi có một bộ phận “tiên phong” vượt lên làm giàu sẽ
trở thành động lực cạnh tranh, tấm gương lôi cuốn mọi người làm theo, tạo thêm công
ăn việc làm, tăng thêm thu nhập cho mọi người, làm cho mức sống chung được nâng
lên, trong đó có cả bộ phận nông dân nghèo.
1.2.5. Phát triển kinh tế trang trại góp phần tích cực cải thiện sinh thái vùng
Việc phát triển kinh tế trang trại ở miền núi, ven biển, biên giới, hải đảo theo quy hoạch
vừa có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo vệ, tái tạo cảnh quan môi trường, có ý nghĩa về an
ninh, chính trị, quốc phòng, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, vừa có ý nghĩa kinh tế,
nâng thu nhập và mức sống cho nông dân ở vùng sâu, vùng xa.
20
SVTH: Ngô Thị Tuyết Nhung

Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Lê Thu Hiền
Do gắn liền với quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh và vì lợi ích thiết thực lâu dài
của mình mà các chủ trang trại luôn ý thức khai thác hợp lý và quan tâm tới việc bảo vệ môi
trường sinh thái, trước hết là trong phạm vi không gian sinh thái của từng trang trại và sau đó
là trong phạm vi từng vùng.
Ở các vùng trung du, miền núi với đặc thù của riêng mình đã góp phần quan
trọng vào việc trồng rừng, bảo vệ rừng, phủ xanh đồi núi trọc, sử dụng hiệu quả nguồn
tài nguyên đất, cải thiện môi trường sinh thái, ngoài ra còn góp phần vào giảm thiểu và
khắc phục những thiên tai do vấn đề hoang hóa rừng gây ra.
1.3. Tiêu chí đánh giá và các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến sự phát triển
của kinh tế trang trại
Căn cứ vào đặc điểm cụ thể của kinh tế trang trại huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An,
tác giả đã xác định hệ thống tiêu chí sau để phản ánh và đánh giá thực trạng KTTT của
huyện trong quá trình nghiên cứu.
1.3.1. Tiêu chí đánh giá sự phát triển của kinh tế trang trại
1.3.1.1. Tiêu chí phản ánh quy mô số lượng, loại hình kinh tế trang trại
Quy mô về số lượng các trang trại: phản ánh sự tăng về mặt số lượng các trang
trại qua các năm hay hiểu một cách đơn giản đó là các cá thể hộ gia đình, cá thể kinh
doanh kinh tế trang trại ngày càng nhiều hơn. Qua đó giúp cho việc đánh giá xu hướng
và định hướng cho phát triển kinh tế trang trại nói riêng và ngành nông nghiệp nói
chung. Quy mô số lượng các TT thay đổi đồng thời cũng kéo theo các loại hình kinh tế
trang trại cũng sẽ có sự thay đổi.
Hình thành mới các cơ sở sản xuất nông nghiệp theo hình thức trang trại hoặc
chuyển hóa từ kinh tế hộ gia đình thành kinh tế trang trại là biểu hiện của việc gia tăng
số lượng các trang trại.
1.3.1.2. Tiêu chí phản ánh các yếu tố sản xuất của trang trại
- Lao động bình quân một trang trại: phản ánh số lượng và chất lượng người lao
động làm trong trang trại đó. Các TT sử dụng nhiều lao động (lao động gia đình và lao
động làm thuê) cho thấy nhu cầu cấp thiết nhằm đáp ứng xu thế phát triển nhanh
chóng của kinh tế trang trại. Một khi TT sử dụng nhiều lao động sẽ đòi hỏi trình độ, kỹ

thuật tay nghề của lao động ngày càng cao hơn.
21
SVTH: Ngô Thị Tuyết Nhung
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Lê Thu Hiền
- Đất đai bình quân một trang trại: phản ánh quy mô của một TT sẽ được phát
triển và mở rộng về mặt diện tích sau một thời gian hoạt động kinh doanh, chất lượng
các loại đất qua đó sẽ được cải tạo theo thời gian và cải thiện lên đáng kể.
- Vốn sản xuất bình quân một trang trại: vốn là một trong những yếu tố không
thể thiếu trong sản xuất kinh doanh. Số vốn sẽ được tích lũy và mức độ đầu tư cho sản
xuất ngày càng tăng sẽ chứng tỏ sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế trang trại. Vốn sản
xuất sẽ được đầu tư cho các tài sản cố định (nhà kho, chuồng trại, máy móc,…) và các
tài sản lưu động (thức ăn chăn nuôi, phân bón,…).
- Giá trị công cụ máy móc thiết bị trên đơn vị diện tích: máy móc thiết bị được
ứng dụng và vận hành trong sản xuất của một TT sẽ có tác động trực tiếp đến việc hạ
thấp chi phí sử dụng lao động, ngoài ra tăng năng suất và sản lượng nông sản làm ra.
Năng suất, chất lượng các sản phẩm của TT ngày càng cao, máy móc càng hiện đại thì
càng thấy rõ sự phát triển của KTTT. Tuy nhiên việc ứng dụng được những KHKT tiến
bộ vào sản xuất đòi hỏi người lao động phải nắm bắt kỹ thuật.
1.3.1.3. Tiêu chí phản ánh kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các trang trại
- Quy mô sản xuất: Theo Thông tư 27 đã được nêu.
- Tổng giá trị sản xuất hàng hóa của trang trại là tổng trang trại tính bằng
tiền của các loại sản phẩm được sản xuất ra ở trang trại, bao gồm phần giá trị để
lại tiêu dùng (tiêu dùng cho sinh hoạt và cho tái sản xuất) và giá trị sản phẩm bán
ra trên thị trường.
Tổng giá trị sản xuất = Tổng (Số lượng/ sản lượng x Giá bán)
- Tổng chi phí là toàn bộ các khoản chi phí vật chất, bao gồm các khoản chi phí
nguyên vật liệu: giống, phân bón, thuốc trừ sâu, lao động và các khoản chi phí dịch vụ bên
ngoài: bảo vệ thực vật, dịch vụ thủy lợi.
- Tổng lợi nhuận là chỉ tiêu kết quả cuối cùng của sản xuất, là giá trị sản phẩm
vật chất và dịch vụ do các ngành sản xuất ra trong một năm hay một chu kỳ sản xuất

kinh doanh.
Tổng lợi nhuận = Tổng giá trị sản xuất hàng hóa – Tổng chi phí
- Tỷ suất hàng hoá của các trang trại chính là tỷ lệ phần trăm giữa sản lượng
hàng hoá trang trại và tổng khối lượng sản phẩm mà trang trại làm ra. Nó phản ánh
22
SVTH: Ngô Thị Tuyết Nhung
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Lê Thu Hiền
mức độ sản xuất hàng hoá nông sản của các trang trại. Một nền kinh tế trang trại phát
triển thể hiện ở một tỷ suất hàng hoá cao. Cơ sở để có tỷ suất hàng hoá cao của các trang
trại chính là sự chuyên môn hoá và áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên
tiến, đảm bảo chất lượng hàng hoá trang trại tốt, phù hợp với nhu cầu của thị trường.
- Giá trị sản phẩm hàng hoá bán ra là giá trị còn lại sau khi trừ đi phần đã tiêu
dùng hay chính là phần giá trị mà trang trại đem sản phẩm của mình bán ra trên thị
trường. Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế đang chuyển sang nền kinh tế thị
trường thì chỉ tiêu giá trị hàng hoá có ý nghĩa quan trọng. Nó cho phép đánh giá
quy mô sản xuất kinh doanh của ngành chuyên môn hoá, đây cũng là một tiêu chí
bắt buộc của một loại hình trang trại, nó khác biệt so với sản xuất theo mô hình hộ
gia đình.
Tỷ suất hàng hoá thể hiện tỷ trọng sản phẩm hàng hoá đó trong giá trị sản
phẩm hàng hoá, vừa thể hiện tỷ trọng sản phẩm hàng hoá đó trong tổng giá trị
sản xuất.
1.3.2. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế trang trại
Kinh tế trang trại được hình thành và phát triển chịu sự ảnh hưởng của rất nhiều
nhân tố, trước hết phải kể đến các nhân tố sau:
1.3.2.1. Điều kiện tự nhiên
* Đất đai, địa hình
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế được trong nông nghiệp.
Không có đất đai thì không có sản xuất nông nghiệp. Đất đai là tư liệu sản xuất quan
trọng hàng đầu trong nông nghiệp nói chung và cho các trang trại nói riêng. Sự hình
thành KTTT gắn liền với việc tập trung và tích tụ ruộng đất. Đất đai là nguồn tài

nguyên quý giá của đất nước nhất là đối với nước ta đất chật người đông. Kinh tế trang
trại chỉ hình thành và phát triển nếu có sự tập trung đất đai với một quy mô nhất định
để tổ chức sản xuất ra sản phẩm hàng hoá cung cấp cho thị trường và kinh doanh có
hiệu quả. Tuy nhiên, năng lực sản xuất của cây còn phụ thuộc vào trình độ thâm canh,
vào tiến bộ khoa học kỹ thuật được áp dụng trong nông nghiệp. Vì vậy, điều kiện về
quy mô tập trung đất đai để hình thành trang trại gia đình cũng thay đổi theo thời gian.
23
SVTH: Ngô Thị Tuyết Nhung
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Lê Thu Hiền
Địa hình nơi tổ chức sản xuất trang trại cũng ảnh hướng lớn đến sự phát triển của
trang trại. Nó có ảnh hưởng đến khả năng chăm sóc cây trồng vật nuôi, khả năng thâm
canh và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào canh tác.
* Khí hậu, thời tiết
Các thông số cơ bản của khí hậu như: nhiệt độ bình quân năm, hàng tháng, nhiệt
độ cao nhất, thấp nhất hàng năm, hàng tháng, lượng mưa, độ ẩm không khí, thời gian
chiếu sáng, cường độ chiếu sáng, chế độ gió, sương muối…có ảnh hưởng rất lớn đến
sự phát triển của cây trồng, vật nuôi, ảnh hưởng đến phương hướng và hiệu quả sản
xuất kinh doanh của các trang trại.
Ngoài đất đai, khí hậu thì nguồn nước cũng cần được xem xét. Nguồn nước
bao gồm nước mặt và nước ngầm, khả năng đưa nước từ nguồn tới nơi sản cuất của
trang trại.
1.3.2.2. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật
Khoa học kỹ thuật (KHKT) có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến sự phát triển của
KTTT. Trong những năm qua nhiều thành tựu KHKT đã được áp dụng mạnh mẽ và
nhanh chóng vào nông nghiệp. Nhờ sự phát triển của KHKT đã tạo ra nhiều sản phẩm
hàng hóa như là yếu tố đầu vào cho sản xuất của các trang trại, đó là các loại vật tư,
phân bón, giống cây con các loại, máy móc thiết bị… Chính những yếu tố đầu vào có
chất lượng tốt đã tạo ra một khả năng to lớn góp phần tăng năng suất, sản lượng và
chất lượng của sản phẩm nông nghiệp.
Những thành tựu KHKT áp dụng vào quá trình tổ chức sản xuất, bố trí cơ cấu

cây trồng, vật nuôi, phát triển các loại ngành nghề và dịch vụ, tổ chức quản lý và phân
công hiệp tác lao động đã đem lại những thay đổi lớn lao trong trình độ sản xuất và tổ
chức quản lý điều hành sản xuất kinh doanh của các trang trại.
Công nghệ sau thu hoạch, trình độ chế biến nông sản phẩm, khả năng nâng cao
chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa về hình thức, mẫu mã đối với các loại hàng hóa dịch
vụ trong nông nghiệp trong những năm qua là rất nhanh chóng, đó chính là nhờ những
thành tựu KHKT vừa góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh doanh
nông nghiệp, vừa bảo đảm cho KTTT phát triển một cách nhanh chóng và bền vững.
24
SVTH: Ngô Thị Tuyết Nhung
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Nguyễn Lê Thu Hiền
Số lượng TT ngày càng tăng lên trong đó có nhiều TT đã mạnh dạn ứng dụng
KHKT vào sản xuất, kinh doanh những loại cây trồng vật nuôi, những loại sản phẩm
mới có năng suất và chất lượng cao hơn và do đó làm tăng hiệu quả sản xuất kinh
doanh của các TT một cách rõ rệt. [10, 32 - 33]
1.3.2.3. Cơ sở hạ tầng
Những loại cơ sở hạ tầng thiết yếu nhất đối với KTTT là: đường giao thông, điện,
thủy lợi, thông tin liên lạc và thương mại.
Sản xuất nông nghiệp phân bổ trên một địa bàn rất rộng lớn. Trong quá trình sản
xuất đòi hỏi phải được cung ứng một lượng rất lớn về vật tư, giống, phân bón, nhiên
liệu…và đến cuối vụ thu hoạch một khối lượng sản phẩm lớn hơn rất nhiều cần được
vận chuyển tới nơi tiêu thụ.
Nông sản hàng hóa của trang trại thường dưới dạng thô, tươi, sống, cồng kềnh dễ
bị hư hỏng, khó bảo quản, khó chuyên chở. Nếu không có hệ thống giao thông thuận
lợi (đường bộ, đường thủy, đường không) cho phép chi phí vận chuyển ở mức chấp
nhận được thì người nông dân cam chịu tồn tại nền kinh tế có tính kiên quyết của nền
nông nghiệp hàng hóa, của kinh tế trang trại.
Sự phát triển của hệ thống cung cấp điện cũng có ý nghĩa rất quan trọng bởi nó là
cơ sở cho sự hình thành các xí nghiệp công nghiệp nông thôn, đặc biệt là các xí nghiệp
chế biến nông sản, một thị trường tiêu thụ rất lớn và ổn định ngay tại địa phương. Điện

còn thúc đẩy nhanh quá trình ứng dụng các tiến bộ KHKT trong sản xuất nông nghiệp,
còn là cơ sở cho sự ra đời và phát triển nhanh chóng của nhiều ngành nghề xã hội khác
nhau trên địa bàn nông thôn như thông tin liên lạc, thương mại, du lịch văn hóa…và
góp phần cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân.
Không một loại cây trồng, một loại gia súc nào có thể sinh trưởng bình thường
trong điều kiện không được cung ứng nước. Vì vậy, thủy lợi luôn là biện pháp hàng
đầu trong sản xuất nông nghiệp. Đối với sản xuất nông nghiệp hàng hóa, thủy lợi càng
có vai trò quan trọng hơn. Vấn đề khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn nước
mặt, nước ngầm, phòng chống thiên tai như hạn hán, lũ lụt, ngập úng, ngập mặn…
đang được đặt ra cấp thiết đối với các vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung,
chuyên canh quy mô lớn. Có giải quyết được vấn đề cơ bản công tác thủy lợi mới đảm
25
SVTH: Ngô Thị Tuyết Nhung

×