Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở huyện Phù Ninh_ tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.14 KB, 90 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát tri ển KTTT ở huyệ n Phù Ninh_PhúTh ọ
LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói rằng, một đất nước hay một nền kinh tế dù phát triển đến đâu thì cũng
không thể không quan tâm tới việc làm sao để kinh tế nông nghiệp phát triển được. Nông
nghiệp và nông thôn là hai vấn đề cần quan tâm phát triển, như vậy mới đảm bảo cho một
nền kinh tế phát triển nhanh, cân đối và bền vững. Việt nam đang trong quá trình hội nhập
kinh tế thế giới, chúng ta đang trong quá trình thực hiện công cuộc công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước, nhận thức rõ được tầm quan trọng của nông nghiệp nông thôn.
Chính vì lẽ đó mà Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm khuyến khích các thành phần
kinh tế cùng tồn tại và phát triển. Sự quan tâm đó được thể hiện bằng các chủ trương,
đường lối, chính sách…trong đó có ưu tiên phát triển kinh tế trang trại (KTTT) trong NN
& NT.
Khái niệm về trang trại hayKTTT đã trở nên quen thuộc,KTTT đã và đang tồn tại,
phát triển ngày càng nhanh, mạnh và vững chắc cả về sô lượng và chất lượng, cũng như
tính ổn định mà trang trại đem đến cho sản phẩm của mình. Những năm gần đây, với cơ
chế đổi mới của Đảng và Nhà nước, KTTT đã đạt được rất nhiều kết quả đáng khích lệ,
góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn, đem lại hiệu quả cao trong việc
khai thác các nguồn lực, hạn chế đi nhiều sự manh mún tự cung tự cấp, tạo ra sự đa dạng
trong sản phẩm nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu lương thực thực phẩm, góp phần giải
quyết được các vấn đề về kinh tế xã hội, ổn định đời sống cho nhân dân.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, KTTT vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế thiếu sót như: hiệu
quả kinh tế chưa như mong muốn từ việc sử dụng đất chưa hợp lý, sản phẩm làm ra khó
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
1
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
tiêu thụ, giá trị sản phẩm vẫn còn ở mức thấp…ngoài ra, còn có nhiều bất cập về cơ chế,
chính sách của Nhà nước chưa được triển khai tới các trang trại.
Huyện Phù Ninh thuộc tỉnh Phú Thọ, là một huyện trung du miền núi phía Bắc,


huyện có những điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển các mô hình (MH) KTTT:
đất đai rộng lớn, lao động dồi dào, khí hậu đa dạng…bên cạnh đó, được sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước cũng như các cấp chính quyền địa phương, một lợi thế rất lớn.
Cùng với sự phát triển của loại hình kinh tế này trên cả nước, KTTT trên địa bàn
huyện Phù Ninh cũng đã có những bước phát triển đáng kể. Hiện nay, trên địa bàn huyện
có nhiều MH KTTT, sau một thời gian hình thành và phát triển đã hát huy được kết quả
bước đầu, mang lại những thắng lợi mới. Nhưng sự phát triển KTTT trong huyện hiện nay
còn gặp nhiều vấn đề khó khăn mà chưa giải quyết được: trình độ quản lý còn hạn chế;
hiểu biết về khoa học kỹ thuật còn ít; thông tin về vốn, về thị trường còn nhiều thiếu xót;…
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễnở địa phương, em đã lựa chọn nghiên cứu đề
tài " Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở huyện Phù Ninh_ tỉnh Phú
Thọ".
Để hoàn thành việc nghiên cứu về đề tài này, em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ
Võ Hòa Loan và các thầy cô trong khoa KTNN&PTNT, em cũng xin cảm ơn các cô bác
cán bộ trong Phòng Kinh tế thuộc UBND huyện Phù Ninh, nơi em đã về thực tế suốt 4
tháng. Tuy nhiên, với trình độ lý luận còn non nớt nên vẫn còn nhiều thiếu xót trong việc
trình bày đề tài này, em mong có sự đóng góp ý kiến.
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
2
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. MỤC TIÊU CHUNG
Hệ thống hoá lý luận và thực tiễn về KTTT, tìm hiểu và đánh giá thực trạng sản
xuất kinh doanh một số mô hình trang trại trên địa bàn huyện Phù Ninh, từ đó có những đề
xuất biện pháp nhằm góp phần từng bước nâng cao hiệu quả kinh tế của KTTT.
2. MỤC TIÊU CỤ THỂ
- Hệ thống hoá lý luận và thực tiễn về KTTT.
- Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất kinh doanh của một số MH KTTT trên địa bàn

huyện nhà.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất kinh
doanh của các MH KTTT trên địa bàn huyện.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung nghiên cứu mô hình một số trang trại điển hình trên địa bàn huyện
cùng một số mối quan hệ giữa các ngành nghề trong trang trại.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
3
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
+ Không gian: Các MH KTTT trên địa bàn các xã thuộc huyện Phù Ninh.
+ Thời gian: Nghiên cứu tình hình phát triển KTTT qua 3 năm (2004 - 2006).
+ Thời gian thực hiện đề tài từ 03/01/2007 đến 28/4/2007.
PHẦN TRÌNH BÀY NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG I
Cơ sở lý luận về KTTT trong nông nghiệp nông thôn.
CHƯƠNG II
Thực trạng phát triển KTTT ở huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
CHƯƠNG III
Phương hướng và giải pháp phát triển KTTT trong nông nghiệp nông thôn ở
huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
4
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KTTT TRONG NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN

1.1. KHÁI NIỆM VỀ TRANG TRẠI VÀ KTTT
1.1.1. Trang trại
Để có một khái niệm thật đúng đắn và chuẩn mực về trang trại là rất khó, nó
thường bị lẫn lộn với khái niệm hộ nông dân. Chúng ta cần có sự phân biệt rõ ràng giữa
trang trại và hộ nông dân dựa trên những tiêu chí mà Nhà nước đã quy định.
Theo Ellis năm 1998 thì "hộ nông dân là hộ có phương tiện kiếm sống từ ruộng
đất, sử dụng lao động gia đình vào sản xuất, luôn nằm trong một hệ thống kinh tế rộng
hơn, nhưng về cơ bản được đặc trưng bởi sự tham gia từng phần vào thị trường với mức
độ hoàn hảo không cao".
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
5
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
Theo tác giả Nguyễn Thế Nhã thì "trang trại là hình thức tổ chức nông nghiệp dựa
trên cơ sở gia đình là chủ yếu, tự chủ sản xuất và bình đẳng với các tổ chức kinh doanh
khác".
Trang trại là đơn vị sản xuất hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp là chủ
yếu (theo nghĩa rộng bao gồm cả lâm nghiệp và thuỷ sản). Như vậy, trang trại không gồm
những đơn vị thuần tuý hoạt động chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Nếu có hoạt động chế
biến hay tiêu thụ sản phẩm thì đó là những hoạt động kết hợp với hoạt động sản xuất nông
nghiệp.
Theo những giáo trình em đã được học, trang trại ban đầu là hình thức tổ chức sản
xuất nông, lâm, ngư cơ sở do các chủ trang trại gia đình và chủ trang trại tư nhân trực tiếp
tiến hành tổ chức sản xuất trên một khu đất tập trung, liền khoảnh đủ lớn để chuyên canh,
thâm canh, ứng dụng những công nghệ mới nhằm cung cấp hàng hoá thường xuyên cho
thị trường và quản lý chặt chẽ để tiết kiệm các chi phí sản xuất. Mục đích chủ yếu của
trang trại là sản xuất hàng hoá; tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng
của chủ thể độc lập; sản xuất được tiến hành trên quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất
được tập trung tương đối lớn; với cách tổ chức tiến bộ và trình độ kỹ thuật khá cao; hoạt

động tự chủ và luôn gắn với nhu cầu từ thị trường. Khi đi vào kinh tế thị trường thì hoạt
động của trang trại không chỉ dừng lại ở tổ chức và sản xuất mà được mở rộng sang kinh
doanh với mục đích thu lợi nhuận tối đa và từ đấy trang trại phải xử lý nhiều vấn đề kinh
tế, phải đưa ra các chiến lược kinh doanh thích ứng với thị trường, phải quản lý theo
phương thức marketing, theo chế độ kế hoạch và hạch toán gắn với phân tích tài chính với
hiệu quả kinh, với doanh lợi.
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
6
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
1.1.2. Kinh tế trang trại
Khác với trước đây, ngày nay trang trại phải được hiểu đầy đủ là kinh tế trang trại,
hoặc kinh tế của chủ trang trại - đơn vị kinh doanh cơ sở trực tiếp sản xuất trồng trọt trên
đồng ruộng và chăn nuôi trong chuồng trại.
Theo PGS.TS Lê Trọng thì "kinh tế trang trại là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở là
doanh nghiệp trực tiếp tổ chức sản xuất ra nông sản hàng hoá dựa trên cơ sở hiệp tác và
phân công lao động xã hội, được chủ trang trại đầu tư vốn, thuê mướn phần lớn hoặc hầu
hết sức lao động và trang bị tư liệu sản xuất để hoạt động kinh doanh theo yêu cầu của nền
kinh tế thị trường được Nhà nước bảo hộ theo luật định".
Kinh tế trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cơ sở trong nông, lâm, thuỷ sản
với mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hoá, có quy mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất đủ
lớn, có trình độ kỹ thuật cao, tổ chức và quản lý tiến bộ.
Nhận thức được vai trò của kinh tế trang trại trong nền kinh tế đất nước, nhất là
trong quá trình đưa nông nghiệp nông thôn phát triển, Nghị quyết của Chính phủ số
03/2000/NQ - CP ngày 02/02/2000 về kinh tế trang trại đã chỉ rõ: "kinh tế trang trại là hình
thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia
đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn
nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ nông, lâm,
thuỷ sản".

Để góp phần nhận dạng đúng trang trại, các tiêu chí nhận dạng trang trại cần đáp
ứng các yêu cầu sau:
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
7
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
- Phải chứa đựng những đặc trưng của trang trại, nhất là đặc trưng cơ bản của trang
trại. Yêu cầu này nhằm đảm bảo tính chính xác của việc nhận dạng trang trại trong các cơ
sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
- Đơn giản hoá và dễ vận dụng khi nhận dạng trang trại.
- Phản ánh được tính phong phú của các loại hình trang trại và sự biến động của nó
qua các thời kỳ.
Có nhiều tiêu chí để xác định kinh tế trang trại. Theo Thông tư số 69 (tháng
6/2000) của liên bộ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Tổng cục Thống kê đưa ra
các tiêu chí sau:
+ Thứ nhất: Giá trị sản xuất hàng hoá tạo ra trong 1 năm. Đây là chỉ tiêu chủ yếu
để nhận dạng trang trại.
* Về số lượng cụ thể: Tuỳ theo loại hình kinh doanh trang trại và những điều kiện
cụ thể để quy định. Hiện nay, trang trại được quy định là đơn vị kinh doanh sản xuất nông
nghiệp có giá trị sản phẩm hàng hoá từ 40 triệu đồng trở lên đối với miền Bắc, và từ 50
triệu đồng trở lên đối với miền Nam (ở Mỹ năm 1970, người ta quy định ở mức 1000
USD, tương đương 16triệu đồng). Có những trường hợp cụ thể chưa thể căn cứ vào tiêu
chí này, ví dụ trang trại đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản, hoặc mới bước vào kinh
doanh, do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp tuy chưa đạt yêu cầu này, nhưng nếu tính tới
khả năng trang trại sẽ đạt được khi đi vào kinh doanh và các tiêu thức khác nếu đạt vẫn có
thể coi là trang trại khi vận dụng tiêu chí này để xem xét.
+ Thứ hai: Xét về quy mô diện tích ruộng đất (nếu là trang trại trồng trọt là sản
xuất chính), số lượng gia súc, gia cầm (nếu trang trại chăn nuôi là chính).
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan

Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
8
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
* Về số lượng cụ thể: Cũng tuỳ thuộc loại hình kinh doanh (cây hàng năm hay cây
lâu năm, cây có giá trị kinh tế thấp hay cây có giá trị kinh tế cao, ví dụ: Hiện nay trong
trồng trọt, trang trại được quy định là đơn vị kinh doanh nông nghiệp có quy mô diện tích
2ha với cây hàng năm ở phía Bắc, 3 ha với cây hàng năm ở Tây nguyên và Đồng bằng
sông Cửu long… Có 3 ha với cây lâu năm ở tất cả các miền trong cả nước. Đối với những
cây trồng có giá trị kinh tế cao như hoa, cây cảnh thì diện tích có thể xuống đến 0,5 ha.
+ Thứ ba: Xét về quy mô cho sản xuất kinh doanh, trong đó lưu ý hai yếu tố là vốn
và lao động. Quy mô sản xuất của trang trại phải tương đối lớn và vượt trội so với kinh tế
hộ nông dân. Các tiêu chí này cũng được quy định cụ thể cho từng loại hình kinh doanh
của trang trại. Hiện nay, người ta quy định trang trại có vốn đầu tư trên 20 triệu đồng, thuê
từ 2 lao động trở lên.
Hiện nay, theo Thông tư liên tịch số 62 ngày 20/5/2003 của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn và Tổng cục Thống kê, một hộ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,
thuỷ sản được xác định là trang trại chỉ cần đạt tiêu chí về giá trị sản lượng hàng hoá, dịch
vụ bình quân một năm, hoặc về quy mô sản xuất trang trại.
1.1.3. Tính tất yếu của việc hình thành kinh tế trang trại
1.1.3.1. Vị trí của kinh tế trang trại trong nền kinh tế
Kinh tế trang trại là một tế bào quan trọng của nền nông nghiệp hàng hóa, nó có vị
trí chủ lực trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Kinh
tế trang trại có quy mô chuyên môn hoá cao và đa dạng hoá có hiệu quả, thoát khỏi sự tự
cung tự cấp hướng sang sản xuất hàng hoá theo yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
9
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ

Kinh tế trang trại là bộ phận cấu thành của hệ thống kinh tế nông nghiệp, nó là đơn
vị kinh tế trung gian tiếp nhận và chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại.
Kinh tế trang trại là đối tượng để tổ chức lại nền kinh tế nông nghiệp, dựa vào đó
mà Nhà nước có thể đầu tư, hợp tác và tạo mối quan hệ gắn kết giữa thành thị và nông
thôn.
1.1.3.2. Vai trò của kinh tế trang trại
Kinh tế trang trại là hình thức doanh nghiệp trực tiếp sản xuất ra nông sản phẩm,
hàng hóa cho xã hội, phù hợp với đặc điểm sản xuất nông nghiệp và quy luật sinh học của
cây trồng vật nuôi.
Kinh tế trang trại góp phần phát triển kinh tế của nhiều vùng, tập trung khai thác
những vùng đất trống, đồi núi trọc, những vùng hoang hoá tạo vai trò to lớn về mặt xã hội.
Đồng thời sử dụng lao động dư thừa đặc biệt là lao động thời vụ ở nông thôn góp phần cải
thiện đời sống, tránh những tệ nạn xã hội.
Kinh tế trang trại có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, xây dựng và
phát triển nông thôn mới tiến tới phát triển bền vững nền nông nghiệp hàng hoá, nền nông
nghiệp sinh thái bền vững.
1.1.3.3. Đặc trưng của kinh tế trang trại
Trang trại sản xuất kinh doanh nông sản phẩm hàng hoá cho thị trường, cho nhu
cầu của xã hội. Vì vậy, quy mô sản xuất hàng hóa của trang trại phải có mức độ tương đối
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
10
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
lớn, tỷ suất hàng hoá thường đạt 70 - 80% trở lên. Tỷ suất hàng hoá càng cao càng thể hiện
bản chất và trình độ phát triển của kinh tế trang trại, hoạt động sản xuất của trang trại phải
có sự khác biệt với hộ sản xuất hàng hóa nhỏ, đặc biệt là hộ sản xuất tự cấp tự túc. Đây
cũng là điểm đặc thù của trang trại trong điều kiện kinh tế thị trường với các hình thức tổ
chức sản xuất nông nghiệp tập trung như trước đây.
Mức độ tập trung hoá và chuyên môn hoá các điều kiện và yếu tố sản xuất cao hơn

hẳn so với sản xuất của nông hộ, thể hiện ở quy mô sản xuất như đất đai, đầu con gia súc,
lao động, giá trị nông sản hàng hoá. Quy mô sản xuất của trang trại trước hết là quy mô
đất đai được tập trung đến mức đủ lớn theo yêu cầu của sản xuất hàng hóa, chuyên canh
và thâm canh, song không nên vượt quá tầm kiểm soát quá trình sản xuất - sinh học trên
đồng ruộng hoặc trong chuồng trại của chủ trang trại.
Mục đích sản xuất của trang trại là sản xuất nông, lâm, thuỷ sản hàng hoá với quy
mô lớn, chính vì vậy mà người chủ trang trại cũng cần phải có một trình độ quản lý và
trình độ chuyên môn nhất định. Người làm chủ trang trại hay chủ kinh tế cá thể (bao gồm
kinh tế gia đình và kinh tế tiểu chủ) nắm một phần quyền sở hữu và toàn bộ quyền sử
dụng đối với ruộng đất và tư liệu sản xuất. Người làm chủ trang trại là người có ý trí và có
năng lực tổ chức quản lý, có kinh nghiệm và kiến thức nhất định về sản xuất kinh doanh
nông nghiệp và thường là người trực tiếp quản lý trang trại của mình. Những đặc trưng ấy
được so sánh với chủ nông hộ tự cấp, tự túc, vì vậy mà đây có thể coi là những đặc trưng
phân biệt chủ trang trại với chủ nông hộ sản xuất tự cấp, tự túc. Những đặc trưng trên của
chủ trang trại không được hội tụ đủ ngay từ đầu mà được hoàn thiện dần cùng với quá
trình phát triển của trang trại. Trang trại được sở hữu bởi một cá thể độc lập nên trang trại
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
11
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
hoàn toàn tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, từ lựa chọn phương thức sản xuất,
quyết định kỹ thuật công nghệ cho đến tiếp cận thị trường, tiêu thụ sản phẩm… Đây là đặc
trưng cho phép phân biệt giữa trang trại và hộ công nhân trong các nông, lâm trường đang
trong quá trình chuyển đổi ở nước ta hiện nay.
Trang trại có cách thức quản lý và tổ chức đi dần vào phương thức kinh doanh,
song trực tiếp, đơn giản và gọn nhẹ lại vừa mang tính gia đình vừa mang tính doanh
nghiệp. Tổ chức quản lý sản xuất của trang trại tiến bộ hơn, trang trại có nhu cầu cao hơn
nông hộ về ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và thường xuyên tiếp cận thị trường. Điều
này được thể hiện:

* Do mục đích của trang trại là sản xuất hàng hoá nên hầu hết các trang trại đều kết
hợp giữa chuyên môn hoá với phát triển tổng hợp. Đây là điều khác biệt của trang trại so
với hộ sản xuất tự cấp, tự túc.
* Cũng do sản xuất hàng hoá, đòi hỏi các trang trại phải ghi chép, hạch toán kinh
doanh, tổ chức sản xuất khoa học trên cơ sở những kiến thức về môn học, về kinh tế thị
trường.
* Sự hoạt động của trang trại đòi hỏi phải tiếp cận với thị trường, để biết được thị
trường cần loại sản phẩm nào, số lượng bao nhiêu, chất lượng và chủng loại ra sao, giá cả
và thời điểm cung cấp như thế nào… Nếu chủ trang trại không có những thông tin về các
vấn đề trên, hoạt động kinh doanh sẽ rất tù mù, không mang lại hiệu quả như mong muốn.
Vì vậy, tiếp cận thị trường là yêu cầu luôn luôn, cấp thiết với mỗi trang trại.
1.1.3.4. Những yếu tố tác động đến quá trình hình thành và phát triển của KTTT
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
12
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
Sản xuất cần có sự kết hợp của nhiều yếu tố, các yếu tố này ảnh hưởng rất lớn đến
quy mô và sự phát triển của kinh tế trang trại, bao gồm các yếu tố:
- Đất đai: Là tư liệu sản xuất đặc biệt và không thể thay thế được, là yếu tố đầu tiên
trong việc xác định tiêu chí trang trại, các trang trại muốn hình thành cần có một diện tích
đất đủ lớn với quy mô nhất định. Dựa vào đó mà người ta có thể tập trung quỹ đất bằng
các hình thức khác nhau để phù hợp với ý đồ sản xuất kinh doanh của chủ trang trại.
- Lao động: Là yếu tố quan trọng để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh, nó
góp phần quyết định đến sự phát triển của trang trại. Trong lao động, ngoài chú ý đến mặt
số lượng thì yếu tố chất lượng có ý nghĩa rất quan trọng đối với tình hình sản xuất kinh
doanh của chủ trang trại. Vì lao động am hiểu kỹ thuật, hiểu biết thị trường… đảm bảo
cho trang trại sử dụng hợp lý các nguồn lực, sản xuất đúng hướng, đạt hiệu quả cao trong
kinh doanh.
- Vốn: Là yếu tố quan trọng để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh, nó là cơ sở

để chủ trang trại hình thành ý tưởng kinh doanh và quy mô sản xuất. Vốn để đảm bảo cho
trang trại đầu tư đúng mức, đảm bảo phù hợp với quy luật của cây trồng vật nuôi để đạt
năng suất, chất lượng và hiệu quả của sản xuất kinh doanh.
- Chính sách: Là tập hợp các chủ chương và hành động do Chính phủ thực hiện,
các chính sách tác động đến trang trại bao gồm: đất đai, tín dụng, lao động… Chính sách
đúng, nó sẽ là động lực cho sự phát triển còn đối với một chính sách không hợp lý sẽ kìm
hãm sự phát triển.
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
13
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
- Thị trường: Thị trường ở đây bao gồm cả đầu tư vào và đầu tư ra, thị trường ổn
định thì các chủ trang trại yên tâm đầu tư hơn trong sản xuất, đầu tư và thúc đẩy sản xuất
ngày càng nhiều hơn.
- Khoa học và công nghệ: Là yếu tố thúc đẩy nhanh hơn công cuộc công nghiệp
hóa - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, đảm bảo cho nông nghiệp phát triển một
cách bền vững, tạo nhiều sản phẩm, đa dạng về chủng loại, với chất lượng cao.
- Ngoài các yếu tố kể trên còn có các yếu tố khác như khí hậu, thời tiết, địa hình,
phong tục tập quán… có ảnh hưởng không nhỏ tới sự hình thành và phát triển của kinh tế
trang trại. Vì vậy, trong quá trình phát triển của kinh tế trang trại cần phải coi trọng các
yếu tố ảnh hưởng một cách đúng đắn để kinh tế trang trại phát triển một cách đúng hướng
đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh.
1.1.4. Các loại hình trang trại
Trang trại có những loại hình khác nhau với các nội dung và quản lý khác nhau.
Xét về tính chất sở hữu có các loại hình trang trại:
+ Trang trại gia đình:
Đây là loại hình trang trại phổ biến chủ yếu trong nông, lâm, ngư nghiệp với các
đặc trưng, được hình thành từ hộ nông dân, từ kinh tế hộ sản xuất tự cấp, tự túc đi dần vào
kinh doanh sản xuất hàng hoá và trở thành hộ sản xuất giỏi rồi chuyển lên kinh tế trang

trại gia đình.
Loại hình này chiếm số đông, thông thường khoảng 60 -80% tổng số trang trại, tuỳ
thuộc vào điều kiện cụ thể ở từng vùng, từng địa phương. Mỗi gia đình là một chủ thể
kinh doanh, có tư cách pháp nhân do chủ hộ hay người có uy tín và năng lực trong gia
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
14
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
đình đứng ra quản lý. Ruộng đất tuỳ theo từng thời kỳ có nguồn gốc khác nhau (từ địa
chủ, thực dân chuyển sang cho hộ nông dân, từ Nhà nước giao, do kế thừa, do mua bán
hay chuyển nhượng). Quy mô ruộng đất khác nhau giữa các trang trại ở các nước khác
nhau hay ngay trong cùng một nước, nhưng so với các loại hình trang trại khác, trang trại
gia đình có quy mô đất nhỏ hơn.
Vốn của trang trại do nhiều nguồn tạo nên, như vốn của nông hộ tích luỹ thành vốn
cho trang trại; vốn vay; vốn cổ phần; vốn liên kết; vốn trợ cấp khác; nhưng trong trang trại
gia đình thì nguồn vốn tự có chiếm tỷ trọng lớn và chủ yếu được tích luỹ theo phương
châm "lấy ngắn nuôi dài". Điều tra 3.044 trang trại năm 1999 của trường ĐH_KTQD cho
thấy, vốn tự có của trang trại chiếm 91,03% tổng số vốn của trang trại, có nơi như Đăk lắc
chiếm tới 96%, nơi có tỷ trọng vốn tự có thấp như Sơn La cũng có tỷ lệ lên tới 79,9%.
Sức lao động của các trang trại cũng do nhiều nguồn, của trang trại thuê mướn
ngoài, nhưng trong trang trại gia đình, lao động chủ yếu là lao động thời vụ, lao động thuê
thường xuyên chỉ có ở trang trại gia đình có quy mô lớn, kinh doanh sản phẩm mang tính
liên tục như trồng hoa, trồng rau, chăn nuôi bò sữa…
Quản lý trang trại tuỳ theo quy mô khác nhau có các hình thức quản lý khác nhau,
nhưng trang trại gia đình thì do trực tiếp gia đình quản lý, nếu chủ trang trại không có điều
kiện trực tiếp quản lý thì giao cho một thành viên trong gia đình có năng lực và uy tín
quản lý.
+ Trang trại được uỷ thác:
Loại này thường được giao cho người nhà, bạn bè quản lý sản xuất kinh doanh

từng việc theo từng vụ hay liên tục nhiều vụ. Các trang trại loại này thường có quy mô
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
15
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
nhỏ, đất ít nên đã chuyển sang làm nghề khác, nhưng không muốn bỏ ruộng đất vì sợ sau
này muốn trở về khó đòi hay chuộc lại ruộng đất. Ở nhiều nước, hình thức này trở nên phổ
biến, đặc biệt là các vùng lãnh thổ ở Châu Á như Đài Loan có tới 75% chủ trang trại gia
đình áp dụng hình thức này…
Các loại hình trang trại khi được phân chia theo hướng sản xuất:
+ Trang trại kinh doanh nông, công nghiệp, dịch vụ đa dạng, nhưng hoạt động nông
nghiệp vẫn là chủ yếu.
+ Trang trại sản xuất cây thực phẩm, các trang trại loại này thường có ở vùng sản xuất
thực phẩm trọng điểm xung quanh đô thị, khu công nghiệp, gần thị trường tiêu thụ.
+ Trang trại sản xuất cây ăn quả nằm ở vùng cây ăn quả tập trung, có cơ sở chế biến và
tiêu thụ thuận lợi.
+ Trang trại nuôi trồng sinh vật cảnh thường phát triển ở gần khu đô thị, các khu du lịch
lớn, thuận tiện cho việc tiêu thụ.
+ Trang trại nuôi trồng đặc sản như hươu, nai, trăn, rắn, ba ba, cây dược liệu… nằm ở
những nơi thuận lợi cho nuôi trồng và tiêu thụ.
+ Trang trại chăn nuôi đại gia súc như trâu, bò…, gia súc như lợn hoặc gia cầm thì có thể
chăn nuôi tổng hợp hoặc chuyên môn hoá theo từng loại gia súc.
+ Trang trại kinh doanh nông, lâm nghiệp tổng hợp thường phát triển ở vùng trung du và
miền núi có điều kiện về đất đai nhưng hạn chế về điều kiện thị trường tiêu thụ.
1.1.5. Nhận định xu hướng phát triển của mô hình kinh tế trang trại
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
16
Chuy ên đề tốt nghi ệp

Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
Phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng kinh tế trang trại là con đường tất yếu
ở nước ta trong những năm tới đây. Sự phát triển mô hình kinh tế trang trại theo hướng
sau:
+ Khuyến khích phát triển các hình thức kinh tế trang trại, nhưng đặc biệt quan tâm đến
hình thức trang trại gia đình.
+ Khuyến khích mọi hình thức kinh doanh của trang trại, nhưng tập trung phát triển các
lâm trại, các trang trại chuyên môn hóa cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia
súc… ở các vùng trung du và miền núi. Đối với vùng đồng bằng, nên khuyến khích các
trang trại chăn nuôi lợn, gia cầm, gắn sản xuất nông nghiệp với chế biến… Đối với vùng
ven biển, khuyến khích các trang trại nuôi trồng thuỷ sản, hải sản.
+ Khuyến khích các hình thức trang trại tư nhân phát triển ở các vùng đất trống đồi núi
trọc, đất hoang hoá ở trung du, miền núi và vùng ven biển.
1.1.6. Cơ sở thực tiễn
1.1.6.1. Sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại trên thế giới
Các mạng công nghiệp và cách mạng tư sản nổ ra ở Châu Âu kéo theo sự phát triển
của kinh tế hàng hoá thay thế kinh tế tự cung tự cấp, tạo ra số lượng hàng hoá nhiều hơn,
chất lượng tốt hơn.
Với hai hình thức kinh tế trang trại chủ yếu là trang trại tư bản và trang trại gia đình
(gia trại), kinh tế trang trại đã góp phần không nhỏ cho sự nghiệp phát triển ở một số nước
đặc biệt là các nước công - nông nghiệp. Mỗi nước có một cách quản lý riêng, có quy định
cụ thể riêng về tiêu chí trang trại, nó giúp thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa - hiện
đại hoá. Cơ cấu trang trại đã thay đổi dần theo thời gian.
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
17
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
- Kinh tế trang trại ở Pháp: Theo tài liệu thống kê cho thấy số lượng trang trại ở
Pháp đã giảm qua các thời kỳ nhưng quy mô diện tích lại tăng thêm một lượng đáng kể.

Sự giảm về số lượng trang trại do lao động bị thu hút vào các ngành công nghiệp, đất nông
nghiệp dần bị thay thế, lại lâm vào cảnh chiến tranh suốt từ những năm 1930 -1960. Do
đó, đã làm cho số lượng trang trại giảm đi chỉ còn 982.000 trang trại, vào năm 1987 đã
giảm đi gần 4 lần so với năm 1929. Tuy nhiên, do nhu cầu hàng hoá nông sản ngày càng
tăng lại được thừa hưởng những thành quả của khoa học kỹ thuật, áp dụng trình độ cao
vào sản xuất, dùng máy móc hiện đại nên quy mô trang trại đã được tăng lên phù hợp với
yêu cầu khoa học kỹ thuật. Kết quả đạt được là số thực phẩm gấp 2,2 lần nhu cầu trong
nước, tỷ lệ hàng hoá về hạt ngũ cốc đạt 95%, thịt sữa là 70 - 80%, rau quả trên 70%.
- Kinh tế trang trại ở Nhật Bản: Từ năm 1950 - 1970, trang trại có quy mô 0,3 - 1ha
giảm từ 66% còn 57% trong khi đó trang trại có quy mô từ 1 - 2ha tăng từ 24,5 - 32%.
Nhóm trang trại có quy mô bình quân từ 2 - 5ha tăng từ 8 - 11%. Đến nay, khi nền kinh tế
chuyển dần sang nền kinh tế tri thức, kinh tế trang trại vẫn đang phát triển giữ vai trò quan
trọng trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, thu hút lao
động nhàn rỗi và cải tạo môi trường.
- Kinh tế trang trại ở Đài Loan: Đài Loan là nước có nền công nghiệp đang phát
triển, cơ cấu kinh tế chuyển dần sang công nghiệp và dịch vụ. Từ năm 1955 có 732.000
trang trại đến năm 1970 là 880.274 trang trại, cùng với sự tăng lên về số lượng là sự giảm
đi về quy mô (từ 1,29ha / trang trại xuống còn 0,83ha / trang trại). Đến năm 1984, số
lượng trang trại giảm còn 796.000 trang trại và quy mô tăng lên 1,42ha / trang trại. Với sự
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
18
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
phát triển của khoa học kỹ thuật, các trang trại ngày càng nâng cao về số lượng và chất
lượng sản phẩm hàng hoá của mình.
1.1.6.2. Sự hình thành và phát triển KTTT ở Việt Nam
Cùng với sự phát triển của đất nước, kinh tế trang trại ở nước ta cũng có những
bước phát triển phức tạp qua các mốc lịch sử. Từ thời kỳ Nhà Lý - Trần đến thời kỳ Nhà
Nguyễn và trước Cách mạng tháng Tám 1945, trang trại ở Việt nam đã phát triển rất nhiều,

mặc dù có những lúc chỉ là sự tồn tại của các điền trang, thái ấp hoặc sự khai thác quá mức
của thực dân Pháp.
Thời kỳ 1945 -1975: Ở miền Nam, các đồn điền vẫn tồn tại nhưng không phát
triển, chúng bị tàn phá bởi chiến tranh và không được sự quan tâm của bọn đế quốc, kinh
tế trang trại hoạt động cầm trừng, sản xuất yếu kém. Còn ở miền Bắc, sau khi có cải cách
ruộng đất năm 1953, nông nghiệp đã có những bước phát triển nhưng vẫn còn mang nặng
tính tự cấp tự túc. Các đồn điền được tịch thu chia cho dân cày hoặc chuyển thành nông
trường quốc doanh. Hình thức sản xuất HTX hình thành và phát triển, kinh tế đi vào bao
cấp và kinh tế trang trại không được phát triển.
Thời kỳ 1976 - 1986: Sau khi cả nước thống nhất, bước vào thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội, là thời kỳ thực hiện chủ trương cải tạo nông nghiệp, lấy nông nghiệp là cơ sở
để phát triển kinh tế đất nước, đảm bảo tự túc lương thực thực phẩm và hướng tới xuất
khẩu.
Thời kỳ 1986 - hiện nay: Sau Đại hội Đảng VI tháng 12 / 1986 và Nghị quyết
10/1988, kinh tế cá thể đã khẳng định được vai trò của mình. Kinh tế trang trại lại được
hình thành và phát triển mạnh mẽ chủ yếu là loại hình kinh tế trang trại gia đình nhờ có
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
19
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, các chính sách đó đã tạo điều kiện thuận lợi
cho kinh tế trang trại ngày càng phát triển như: Chỉ thị 29 / CT - TW về giao đất, giao rừng
và củng cố quan hệ sản xuất miền núi, chỉ thị chế khoán sản phẩm đến nhóm và người lao
động, chương trình 327 về phủ xanh đất trống đồi núi trọc và cũng do đặc trưng của kinh
tế trang trại trên các trang trại hình thành nhiều hơn, tập trung nhiều ở các nơi đất hoang
hoá, ven biển, vùng đồi núi nơi đất rộng người thưa có điều kiện cho kinh tế trang trại phát
triển.
Theo Tổng cục Thống kê, đến năm 2004 cả nước có 110.852 trang trại đang hoạt
động, tăng 53.763 trang trại so với năm 2000. Hàng năm, các trang trại tạo ra hơn 10.000

tỷ đồng (trong đó 87,5% là hàng hóa), thu hút và tạo việc làm ổn định cho hơn 578.000 lao
động nông nhàn ở nông thôn, bình quân đạt hơn 36.000.000đồng / năm và mỗi lao động
đạt khoảng 580.000 đồng / tháng.
Nét mới khá rõ nét của các trang trại hiện nay là tỷ suất hàng hoá rất cao chung cho
cả nước là 92,6%, trong đó Nam Trung Bộ là 97%, Đông Nam Bộ là 95,3%, Tây Nguyên
là 91,6%, đồng bằng sông Cửu Long là 91,2%, đồng bằng sông Hồng là 94,6%, thấp nhất
là Tây Bắc là 82,1%. Điều này chứng tỏ tính chất sản xuất hàng hóa của các trang trại là rõ
rệt và đó là nét vượt trội của trang trại so với kinh tế hộ nông dân hiện nay.
Quy mô của các trang trại ở các mức độ khác nhau, tuỳ theo loại hình kinh doanh,
vùng và thành phần xuất thân, nhưng nhìn chung các trang trại có quy mô nhỏ là chủ yếu.
Quá trình chuyển đổi kinh tế hộ sang kinh tế trang trại đã trở thành xu hướng nhưng bên
cạnh đó vẫn còn tồn tại hàng loạt những khó khăn:
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
20
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
* Vẫn còn có những nhận thức chưa đúng về trang trại và kinh tế tran trại, băn khoăn về
việc phát triển kinh tế trang trại ở nước ta.
* Quỹ đất đai hạn hẹp đang là một trong các nguyên nhân hạn chế phát triển kinh tế theo
hướng trang trại.
* Việc quy hoạch định hướng phát triển các vùng sản xuất hàng hóa tập trung chưa tốt.
* Thị trường nông sản chưa ổn định, sản phẩm làm ra khó tiêu thụ, quan hệ giữa nông dân
với các tổ chức thương mại, các doanh nghiệp chế biến chưa thoả đáng, gây trở ngại cho
sản xuất và sự đầu tư theo hướng sản xuất hàng hóa.
* Trình độ công nghệ thấp, dẫn đến chất lượng nông sản thấp, khả năng cạnh tranh kém và
chưa thích ứng với nhu cầu ngày càng cao, ngày càng khắt khe của thị trường trong nước
và đặc biệt là ngoài nước.
* Các chính sách vĩ mô của Đảng và Nhà nước chưa thực sự tác động đồng bộ, chưa theo
kịp yêu cầu của sản xuất nên chưa thực sự khuyến khích hộ phát triển theo hướng kinh tế

trang trại.
* Trình độ chủ trang trại chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế.
1.1.6.3. Chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển KTTT
Nhận thức được vai trò của kinh tế trang trại trong phát triển nông nghiệp và nông
thôn, Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách khuyến khích sự phát triển
của kinh tế trang trại.
Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành TW Đảng (12/1997) và
Nghị quyết số 06 ngày 10/11/1998 của Bộ Chính trị về phát triển nông nghiệp nông thôn,
cần giải quyết một số vấn đề về quan điểm và chính sách nhằm tạo môi trường và điều
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
21
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển mạnh mẽ kinh tế trang trại. Các chính sách gồm:
Chính sách đất đai, chính sách thuế, chính sách đầu tư - tín dụng, chính sách lao động,
chính sách khoa học công nghệ và môi trường, chính sách thị trường… được cụ thể hóa
qua: Thông tư của Bộ Tài chính số 82/2000/TT - BTC ngày 14/8/2000 hướng dẫn chính
sách tài chính nhằm phát triển kinh tế trang trại, Quyết định của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước số 423/2000/QĐ - NHNN1 ngày 22/9/2000 về chính sách tín dụng ngân hàng
đối với kinh tế nông nghiệp…
Chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước đã góp phần thúc đẩy sự phát
triển của kinh tế trang trại tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng đóng góp vào quá trình
công nghiệp hóa - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
1.2.NHỮNG KẾT LUẬN RÚT RA TỪ NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN
Kinh tế trang trại đã thể hiện là một hướng đi đúng đắn, một hướng sản xuất tiên
phong xoá bỏ dần sự nhỏ lẻ, manh mún của kinh tế hộ nông dân trong nền kinh tế thị
trường hiện nay. Kinh tế trang trại đã khẳng định vị thế của mình như sau:
1.2.1. Kinh tế trang trại là mô hình kinh tế sản xuất hàng hoá
Kinh tế trang trại khác với mô hình kinh tế tiểu nông hay mô hình sản xuất HTX

nông nghiệp bao cấp trước đây, lấy mục tiêu là tự cung tự cấp, toàn bộ nông sản sản xuất
ra đều nhằm phục vụ nhu cầu của cá nhân, đối với mô hình kinh tế trang trại hướng tới
việc bán gần như toàn bộ sản phẩm của mình ra ngoài thị trường. Chính vì vậy, việc trồng
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
22
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
cây gì, nuôi con gì, bán ở đâu… là một trong những yếu tố quan trọng của chủ trang trại.
Trong quá trình tham gia vào nền kinh tế của đất nước, thu nhập của trang trại không chỉ
là những sản phẩm nội tại của nó mà còn có phần lợi nhuận do thị trường đem lại. Với
những đòi hỏi khắt khe đó của thị trường, các trang trại bắt buộc phải đầu tư mạnh mẽ,
phải có sự linh hoạt trong sản xuất kinh doanh, tìm đối tác… thì mới có thể tồn tại và phát
triển được.
1.2.2. Kinh tế trang trại là mô hình kinh tế hộ gia đình sản xuất hàng hóa ở trình
độ cao.
Sản xuất nông nghiệp có một đặc thù rất riêng biệt đó là quá trình sản xuất tác động
lên những sinh vật sống chịu nhiều tác động của yếu tố không thể kiểm soát nổi nên độ rủi
ro thường rất lớn. Vì vậy, ngay từ cuối thế kỷ XVII, một số nước có nền nông nghiệp phát
triển như: Anh, Pháp, Mỹ… đã cho rằng nông nghiệp cũng phải tiến hành sản xuất tập
trung, quy mô lớn, sử dụng nhiều lao động làm thuê giống như các xí nghiệp công nghiệp.
Trải qua thực tế sản xuất đã nhận ra rằng hiệu quả cuối cùng của các xí nghiệp nông
nghiệp đều thấp hơn của các trang trại gia đình quy mô vừa và nhỏ, cho dù phần lợi
nhuận thu từ bóc lột lao động làm thuê ở các xí nghiệp nông nghiệp là khá lớn, thực tiễn
điều đó đã được C.Mác thừa nhận "ngay ở nước Anh, với nền công nghiệp phát triển, hình
thức sản xuất nông nghiệp có lợi nhất không phải là các xí nghiệp nông nghiệp quy mô lớn
mà là các trang trại gia đình không sử dụng lao động làm thuê". Trong các trang trại gia
đình, người chủ trang trại vừa làm công tác quản lý, vừa là người lao động trực tiếp cùng
các thành viên khác trong gia đình hoặc lao động thời vụ.
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan

Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
23
Chuy ên đề tốt nghi ệp
Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
Cần phân biệt rõ: nếu như ở mô hình sản xuất tự cung tự cấp tận dụng khả năng
khai thác đất và mô hình "xí nghiệp nông nghiệp" mang nặng tính bóc lột lao động làm
thuê thì mô hình kinh tế trang trại lại lấy kinh tế hộ gia đình làm trung tâm phát triển sản
xuất hàng hoá có hiệu quả cao.
Ngày nay, nhờ tính ưu việt của nó mà kinh tế trang trại gia đình đã trở thành một
mô hình sản xuất chủ yếu phổ biến ở nền nông nghiệp nhiều nước trên thế giới từ những
nước đang phát triển tới những nước phát triển. Mô hình này tồn tại và mở ra một triển
vọng lớn trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hoá.
1.2.3. Kinh tế trang trại là mô hình tận dụng được các lợi thế tự nhiên - xã hội
của vùng
Tham gia vào nền kinh tế sản xuất hàng hoá nên các chủ trang trại phải tận dụng
mọi điều kiện, mọi khả năng để tồn tại và phát triển được. Có những điều kiện ở nơi này
là bất lợi cho quá trình sản xuất nhưng nó lại là lợi thế vô cùng to lớn để phát triển cho
những nơi khác. Chẳng hạn, ở một vùng đồng chiêm trũng, thì việc tận dụng đất nông
nghiệp dư thừa, đất đai của các hộ gia đình không muốn làm nông nghiệp để xây dựng
trang trại trồng trọt, chăn nuôi kết hợp… khép kín lại vô cùng thuận lợi. Mặt khác, các
trang trại phải nhìn lại một cách nghiêm túc đến những khó khăn do vấn đề thị trường,
giao thông vận tải, công nghệ sau thu hoạch… nếu muốn tồn tại và phát triển mạnh. Dù
sao, mô hình kinh tế trang trại vẫn là một mô hình kinh tế hàng hóa, lợi nhuận phi sản xuất
đóng góp một phần không nhỏ trong hoạt động của các mô hình này. Vì vậy, mọi cố gắng
áp đặt các mô hình sản xuất tiến bộ từ nơi khác vào vùng mình, trang trại mình mà không
tính đến những điều kiện trong vùng đều khó có thể tạo ra một mô hình kinh tế trang trại
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
24
Chuy ên đề tốt nghi ệp

Thực t rạng & gi ải pháp phát triển KT TT ở hu y ện Phù Ni nh_PhúTh ọ
có hiệu quả được. Nói một cách khác, mô hình trang trại phải được nay sinh từ thực tiễn
đòi hỏi của đời sống trong các vùng khác nhau.
1.2.4. Kinh tế trang trại đòi hỏi một trình độ sản xuất cao
Mô hình kinh tế trang trại muốn đạt hiệu quả trong sản xuất thì phải đáp ứng các
phương thức sản xuất và quản lý ở trình độ cao. Các trang trại thành công của các nước
trên thế giới đều sử dụng không nhiều nhân công lao động, như Nhật Bản, Hàn Quốc…
quy mô trang trại khoảng 1 - 1,2 ha và chỉ có bình quân 1 - 2 lao động, ở Châu Âu trang
trại có quy mô 20 - 30 ha cũng chỉ có 1 - 2 lao động của gia đình là chính.
Để làm được điều này, ở nhiều nước khác nhau trên thế giới người nào muốn trở
thành chủ trang trại, được nhà nước công nhận trình độ quản lý và tư cách pháp nhân đều
phải tốt nghiệp các trường, các lớp đào tạo về quản lý, kỹ thuật, thực tập là lao động kinh
doanh một năm trong các trang trại tốt. Có bằng tốt nghiệp nông học, có kiến thức về kinh
tế, pháp luật, thị trường… Với một nền tảng kiến thức và kinh nghiệm dầy dặn, một nền
khoa học kỹ thuật phát triển, những chủ trang trại đã biết tự hoạch định cho mình những
chiến lược sản xuất kinh doanh thích hợp cho trang trại mình như một giám đốc xí nghiệp.
Gvhd : Th. s Võ H oà L oan
Svth: sv Nguy ễn Nhật Hư ng _KTNN45
25

×