Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tập tính thường ngày và mối quan hệ giữa chỉ số nhiệt ẩm (THI) với các chỉ tiêu sinh lý bê lai SIND và LAI ½ RED ANGUS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.42 KB, 9 trang )


ĐINH VĂN TUYỀN – Tập tính thường ngày và mối quan hệ giữa chỉ số nhiệt ẩm


63

TẬP TÍNH THƯỜNG NGÀY VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CHỈ SỐ NHIỆT ẨM (THI)
VỚI CÁC CHỈ TIÊU SINH LÝ CỦA BÊ LAI SIND VÀ LAI ½ RED ANGUS NUÔI
BÁN CHĂN THẢ TẠI ĐĂK LĂK
Văn Tiến Dũng, Nguyễn Tấn Vui và Đinh Văn Tuyền
Bộ môn Dinh dưỡng Thức ăn chăn nuôi và Đồng cỏ
*Tác giả liên hệ: Đinh Văn Tuyền - Bộ môn Dinh dưỡng Thức ăn chăn nuôi và Đồng cỏ
VCN-Thụy Phương - Từ Liêm - Hà Nội
Tel: (04) 37.571.692; Email: vantuyen1973@ gmail.com
ABSTRACT
Daily behaviour and the relationship between THI index and rectal temperature, pulse rate and
respiration rate observed on Lai Sind and Red Angus x Lai Sind crossbred calves in a semi-grazing
production system in Dak Lak
A one week behaviour study was conducted on 12 calves of 9-10 months old (6 lai Sind and 6 Red Angus
crossbred calves) raised under a semi-grazing program in Eakar district of Daklak province. The calves were
mustered daily to the pasture for grazing from 7h-10h30 in the morning and 14h-17h in the afternoon and
confined in the roofed shed and offered supplement and freshly cut grass during the rest of day. The time that a
calf spent collecting and ruminating feeds, standing, laying, sleeping, resting and the number of urinating and
drinking water was recorded for a period of 24h. Ambient temperature and humidity and physiological
parameters of the calves (rectal temperature, pulse rate and respiration rate) was collected every 3 hours during 5
consecutive days. The results showed that Lai Sind calves spent 359 minutes grazing and/or collecting feeds, 377
minutes rumianting, 149 minutes sleeping, and 445 minutes resting whereas Red Angus crosbred calves spent
374, 400, 120, and 428 minutes for respective activities. Analysis of regression between rectal temperature, pulse
rate, respiration rate and temperature-humidity index (THI) showed that in a THI range of 75,1-83,1 only
correlation between THI and pulse rate was statistically significant (P<0,05) with a R
2


of 0,94. It was concluded
that Red Angus crosbred calves seemed to be a better eater and had higher respiration rate but lower rectal
temperature than lai Sind calves and that THI at the experiment site in July ranged 75-83 which caused very low
heat stress on Lai Sind and Red Angus crosbred calves.
Key words: calves, behaviour, rumination, temperature-humidity index, rectal temperature, pulse rate,
respiration rate
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghiên cứu tập tính có vai trò quan trọng trong việc xác định thể trạng sức khỏe, hạn chế
stress và cải tiến kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm
chăn nuôi. Gia súc nhai lại nói chung và bò thịt nói riêng biểu hiện tập tính thường ngày nhất
là tập tính ăn uống, ngủ nghỉ, nhai lại và các tập tính này bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như
nhiệt độ, ánh sáng, thành phần thức ăn, tuổi gia súc và các tác nhân kích thích khác
(Sliworsky, 2009). Nghiên cứu tập tính thường bắt đầu từ các quan sát hành vi và ghi chép sau
đó phân tích định tính tạo manh mối cho phân tích định lượng. Do đặc thù của nghiên cứu tập
tính thường gắn liền với quan sát hành vi nên đòi hỏi phải có các trang thiết bị chuyên dụng
và cán bộ nghiên cứu thực hiện trong các điều kiện khó khăn như quan sát ban đêm, theo dõi
ngoài trời nắng nóng vv
Chính vì vậy đây là lĩnh vực được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm nhưng ở Việt
Nam, các nghiên cứu này còn khá hiếm, nhất là đối với bò thịt. Cũng giống như nghiên cứu
tập tính, việc nghiên cứu tác động của môi trường đến các quá trình sinh lý của con vật nói
chung và bò thịt nói riêng có vai trò quan trọng trong việc ứng dụng để nâng cao năng suất vật
nuôi. Các ảnh hưởng của nhiệt độ, độ ẩm và tốc độ gió đến một số chỉ tiêu sinh lý bò đã được
quan tâm rất sớm và trong nhiều năm qua việc nghiên cứu và ứng dụng chỉ số nhiệt ẩm
(temperature humidity index – THI) trong chăn nuôi bò, nhất là bò sữa qui mô lớn rất được
quan tâm (Srikandakumar và Johnson, 2004; Amundson và cs, 2005; Khongdee và cs, 2006).

VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 23-Tháng 4 - 2010


64


Việc sử dụng chỉ số THI để dự báo nguy cơ và mức độ stress nhiệt ở vật nuôi có thể giúp
người chăn nuôi xây dựng biện pháp thích hợp để phòng ngừa và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực
của thời tiết đến sức khỏe và năng suất vật nuôi. Mặc dù tầm quan trọng của các nghiên cứu
và ứng dựng tập tính và chỉ số nhiệt ẩm trong chăn nuôi gia súc là rất lớn nhưng các nghiên
cứu trong lĩnh vực này ở Việt nam còn khá hạn chế. Cho đến nay mới chỉ có một vài báo cáo
của các tác giả như Đinh Văn Cải và cs (2004), Lê Văn Phước và cs (2007), Vũ Chí Cương và
cs (2007) và Nguyễn Thạc Hòa và cs (2008) được đăng tải và chủ yếu chỉ là nghiên cứu trên
bò sữa. Chính vậy, nhằm bổ sung thông tin về tập tính ăn uống, nhai lại và ngủ nghỉ cũng như
mối quan hệ giữa chỉ số THI với một số chỉ tiêu sinh lý của bê hướng thịt nuôi ở Việt nam,
chúng tôi nghiên cứu “Tập tính thường ngày và mối quan hệ giữa chỉ số nhiệt ẩm (THI) với
các chỉ tiêu sinh lý của bê Laisind và lai ½ Red Angus nuôi bán chăn thả tại Đăk Lăk”.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu
Đối tượng: Nghiên cứu được tiến hành trên 12 bê thịt trong khoảng 9-10 tháng tuổi bao gồm 6
bê lai Sind (3 con đực và 3 con cái) và 6 bê lai ½ Red Angus (3 con đực và 3 con cái).
Thời gian và địa điểm:Nghiên cứu được tiến hành tại Trại bò thuộc xã Eađar, huyện Eakar
tỉnh Đăk Lăk trong thời gian 1 tuần từ 22-30 tháng 7 năm 2008.
Phương pháp nghiên cứu
Theo dõi tập tính thường ngày của bê:Trong thời gian theo dõi tập tính ăn uống, ngủ nghỉ và
nhai lại, bê được chăn thả ngày 2 buổi, sáng từ khoảng 7h đến 10h30 và chiều từ 2h đến 5h
trên bãi chăn thả tự nhiên. Ngoài ra bê được bổ sung thêm thức ăn tinh (gồm hạt bông, bột sắn
và urea theo tỷ lệ 50:49,5:0,5) ở mức xấp xỉ 1% khối lượng cơ thể và cỏ ghi nê tươi cũng với
mức khoảng 1% khối lượng cơ thể (dạng chất khô). Chế độ cho ăn như sau: sáng chăn thả
ngoài đồng cỏ, trưa về ăn cỏ và thức ăn tinh bổ sung (1/2 định mức cho ăn), chiều quay lại bãi
chăn và tối về cho ăn nốt khẩu phần bổ sung cỏ và thức ăn tinh. Tập tính ăn uống, ngủ nghỉ và
nhai lại của mỗi bê thí nghiệm được theo dõi ghi chép liên tục trong thời gian 24 giờ cả ngoài
bãi chăn thả và trong chuồng nuôi thông qua quan sát bằng mắt, đếm, ghi chép thời gian bê
thực hiện các hoạt động. Việc theo dõi và ghi chép được thực hiện bởi 2 người và chia theo ca
12 giờ, mỗi người chịu trách nhiệm chính trong 1 ca và thực hiện chế độ luân phiên. Trong

suốt thời gian theo dõi tập tính, mỗi ngày chỉ tiến hành theo dõi trên 01 bò liên tục, xong mới
chuyển sang theo dõi con tiếp theo. Trong thời gian 1 tháng trước khi bắt đầu thí nghiệm, cán
bộ theo dõi trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng bê hàng ngày để làm quen với bê, tránh gây ảnh
hưởng đến tập tính của bê trong thời gian theo dõi thí nghiệm.
Các chỉ tiêu theo dõi bao gồm: Tổng thời gian vận động (tìm kiếm thức ăn và nước uống,
gặm cỏ và lấy thức ăn sẵn có, các hoạt động khác).Tổng thời gian nghỉ ngơi (thời gian gia súc
không nhai lại, không đi lại, không nhắm mắt). Tổng thời gian nhai lại ; Tần suất nhai lại (số
lần nhai lại/phút). Số miếng nhai lại (số lần nhai/miếng thức ăn ợ lên nhai lại). Số đợt nhai lại
(số miếng thức ăn ợ lên nhai lại/1ngày đêm); Thời gian của mỗi đợt nhai lại. Tổng thời gian
nằm; Tổng thời gian đứng; Tổng thời gian gặm cỏ.Tần suất gặm cỏ (số miếng gặm/phút);
Tổng thời gian ngủ; Số lần thải phân và nước tiểu
Xác định chỉ số nhiệt ẩm và chỉ tiêu sinh lý của bê
Trong thời gian theo dõi xác định các chỉ tiêu sinh lý bê được nuôi nhốt hoàn toàn, được cung
cấp đầy đủ nước sạch và bổ sung thức ăn tại chuồng ngày 2 lần vào buổi sáng và buổi chiều
(8h sáng và 4h chiều).

ĐINH VĂN TUYỀN – Tập tính thường ngày và mối quan hệ giữa chỉ số nhiệt ẩm


65

Chỉ số nhiệt ẩm được xác định bằng cách đo nhiệt độ, độ ẩm môi trường trong chuồng nuôi 3
tiếng/lần trong thời gian 24h, bắt đầu từ 7h sáng ngày hôm trước và kết thúc vào 4h sáng ngày
hôm sau. Nhiệt kế và ẩm độ kế được đặt trong chuồng nuôi cách mặt sàn chuồng 0,5 mét
hướng ngược với ánh sáng mặt trời. Chỉ số THI được tính toán từ số liệu ghi chép nhiệt độ và
ẩm độ này theo công thức của Mader và cs (2006):
THI = 0,8 x T + (RH/100) x (T-14,4) +46,4
Trong đó: T là nhiệt độ không khí tính bằng độ C.
RH là ẩm độ tương đối của không khí tính bằng %
Các chỉ tiêu sinh lý bê được xác định trong nghiên cứu này bao gồm thân nhiệt, nhịp tim và

nhịp thở. Thân nhiệt được đo tại trực tràng bằng cách đưa nhiệt kế vào sâu trong trực tràng và
giữ trong 3 phút. Nhịp tim và nhịp thờ được đo bằng dụng cụ y tế chuyên dùng và mỗi lần đo
cũng được thực hiện trong thời gian 3 phút. Các chỉ tiêu sinh lí của mỗi con được đo trong
một ngày, tại các thời điểm 7h, 10h, 13h, 16h và 19h - cùng với thời gian xác định nhiệt độ và
ẩm độ không khí.
Xử lý số liệu: Các giá trị trung bình của các chỉ tiêu theo dõi tập tính, chỉ số nhiệt ẩm và chỉ
tiêu sinh lý được tính tóan trên bảng tính Excel (2007). Phần mềm Minitab 14.0 được dùng
trong phân tích ANOVA các giá trị trung bình theo giống hoặc giới tính của một số chỉ tiêu
tập tính và sinh lý của bê. Phương trình hồi qui tuyến tính giữa chỉ số THI và các chỉ tiêu sinh
lý bê (thân nhiệt, nhịp tim, nhịp thở) cũng được xây dựng trên Minitab.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Tập tính thường ngày của các nhóm bê
Hoạt động của bê trong một ngày đêm: Kết quả theo dõi hoạt động của bê trong thời gian
24h liên tục được thể hiện tại Bảng 1 cho thấy trong một ngày đêm bê lai Sind dành 359 phút
(bê đực dành 357 và bê cái 361 phút) cho việc lấy thức ăn tại chuồng và/hoặc gặm cỏ trên bãi
chăn, 377 phút để nhai lại (bê đực dành 362 và bê cái 393 phút), 149 phút để ngủ (bê đực
dành 156 và bê cái 141 phút), và 445 phút để nghỉ ngơi (bê đực dành 434 và bê cái 456 phút).
Tính chung cho cả đực và cái thì mỗi ngày đêm bê lai Sind đứng trong thời gian 636 phút,
nằm 492 và đi lại 308 phút. Số lần bê đi lấy thức ăn và nước uống khoảng 6 lần và đi bài tiết
phân, nước tiểu khoảng 10 lần. Bê lai ½ Red Angus sử dụng trung bình 374 phút (bê đực dành
351 và bê cái 398 phút) để lấy thức ăn tại chuồng và/hoặc gặm cỏ trên bãi chăn thả, 400 phút
để nhai lại thức ăn (bê đực dành 418 và bê cái 382 phút), 120 phút để ngủ (bê đực 117 và bê
cái 123 phút), và 428 phút cho việc nghỉ ngơi (bê đực 435 và bê cái 421 phút). Tính trung
bình cả bê đực và bê cái thì mỗi ngày đêm bê lai ½ Red Angus đứng trong thời gian 678 phút,
nằm 430 phút và đi lại trong 325 phút; số lần bê đi lấy thức ăn và nước uống là 15-16 lần và
đi bài tiết phân, nước tiểu là 13-18 lần.
Bảng 1 cho thấy, trong cùng điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng thì bình quân thời gian nhai lại
của con lai ½ Red Angus cao hơn so với con lai Sind (P<0,05). Số lần đi lấy thức ăn, nước
uống và số lần bài tiết của bê lai ½ Red Angus cao hơn đáng kể so với bê lai Sind (Bảng 1)
cũng cho thấy dường như bê lai ½ Red Angus phàm ăn hơn, khả năng bài tiết cao hơn và do

đó khả năng thu nhận thức ăn tốt hơn bê lai Sind. Tuy nhiên giả thiết này cần phải được kiểm
chứng qua thí nghiệm theo dõi thức ăn và sinh trưởng phát triển của hai nhóm bê này và trong
thời gian thí nghiệm dài hơn. Ngoài ra tập tính thường ngày của bê cũng phụ thuộc vào giới
tính trong đó tổng thời gian đứng của bê đực (599 phút) thấp hơn đáng kể (P<0,05) so với
tổng thời gian đứng của bê cái (716 phút).

VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 23-Tháng 4 - 2010


66

Bảng 1. Hoạt động của bê trong một ngày đêm

Lai Sind Lai ½ Red Angus

Cái Đực TB Cái Đực TB
Sai khác thống

1

Đ
ứng ăn (phút) 180±25,9

136±7,4 158±29,7

185±68,5

136±58 161±62,9

S†

Đ
ứng nhai (ph) 217±8,2 176±99,5

197±67 202±99,7

221±22,9

211±65,6


Đ
ứng nghỉ (ph) 323±116

242±75 282±98 322±5 288±3,6

305±19,2


Đ
ứng BT (lần) 10±2 11±2,5 10±2,1 18±4,6 13±1 16±4 B*
T
ổng thời gian đứng
(phút)
720±85,2

553±39,6

637±108,8

712±43,5


645±76,3

678±66,5

S*
N
ằm ngủ nghỉ (ph) 274±37,0

348±11,8

311±47,6

218±63,3

264±82,6

241±70,6

B†S†
N
ằm nhai (ph) 176±58,7

186±5,3 181±37,7

180±36 197±6,7

189±24,8



T
ổng thời gian nằm
(phút)

450±81,6

534±14,6

492±70 399±99,5

461±77,3

430±84,8


Đi l
ấy TĂ và nước uống
(l
ần) 5,3±1,5 6,0±2,0 5,7±1,6 16,3±3,2

15,0±8,2

15,7±5,6

B**
Đi g
ặm (ph) 181±9,2 221±14,4

201±24,4


212±86,6

215±25,9

214±57,2


Đi l
ại khác(ph) 88±5,1 126±44,8

107±35,3

113±12,1

109±26,1

111±18,3


T
ổng thời gian đi lại
(phút)
269±7,8 347±38,5

308±49,4 325±75,1

324±8,7 325±47,8


T

ổng thời gian ăn
(phút)

361±35,1

357±21,8

359±26,2

398±35 351±83,2

374±62,5


T
ổng thời gian nhai lại
(phút)
393±66,8

362±105

377±80,3

382±70,7

418±27,9

400±52 B*
T
ổng thời gian ngủ

(phút)
141±22,9

156±79,4

149±52,9

123±41,4

117±50,1

120±41,2


T
ổng thời gian nghỉ
(phút)
456±92,6

434±46,5

445±66,6

421±20,9

435±36,2

428±27,6



1
S†: ảnh hưởng của giới tính ở mức P<0,1; S* ảnh hưởng của giới tính ở mức P<0,05; B† ảnh hưởng của giống
ở mức P<0,1; B* ảnh hưởng của giống ở mức P<0,05; B** ảnh hưởng của giống ở mức P<0,01
Phân bố thời gian nhai lại của bê theo các buổi trong ngày: Trong quá trình theo dõi thí
nghiệm chúng tôi nhận thấy bê chủ yếu dành thời gian nhai lại vào ban đêm (từ 17h hôm
trước đến 7h sáng hôm sau) và buổi trưa (từ 10h30 đến 14h) sau khi từ bãi chăn thả trở về
chuồng nuôi. Do đó mặc dù quá trình theo dõi 24 tiếng nhưng kết quả trình bày trong Bảng 2
chỉ liệt kê theo buổi trưa và buổi tối.
Bảng 2. Thời gian nhai lại của bê theo thời gian trong ngày
Trưa Tối Tổng Giống Tính
biệt
Thời gian
(phút)
Tỷ lệ (%)

Thời gian
(phút)
Tỷ lệ
(%)
Thời gian
(phút)
Tỷ lệ
(%)
Đ

c

65,7

15,73


352

84,27

417,7

100,0

Lai ½
RedAngus
Cái 75,5 18,90 324 81,10 399,5 100,0
Đực 72,5 20,03 289,5 79,97 362,0 100,0
Lai Sind
Cái 82,5 21,01 310,2 78,99 392,7 100,0

ĐINH VĂN TUYỀN – Tập tính thường ngày và mối quan hệ giữa chỉ số nhiệt ẩm


67

Bảng 2 cho thấy, thời gian nhai lại của bê lai Sind và lai ½ Red Angus chủ yếu diễn ra vào
buổi tối, chiếm khoảng 80% tổng thời gian; khoảng 20% tổng thời gian còn lại diễn ra vào
buổi trưa. Theo Lê Văn Thọ và Đàm Văn Tiện (1992) trâu bò sau khi ăn khoảng 30-70 phút
thì bắt đầu nhai lại và thời gian nằm nghỉ thì nhai lại dễ phát sinh nhất. Như vậy với phương
thức chăn thả 2 buổi thì thời gian buổi tối bê được nghỉ ngơi dài (thường 14-15 tiếng) nên
hoạt động nhai lại chủ yếu diễn ra trong buổi tối là phù hợp với đặc điểm sinh lý của bê.
Đặc điểm quá trình gặm cỏ và nhai lại: Kết quả tại Bảng 3 cho thấy, tần suất gặm cỏ trung
bình của nhóm bê lai ½ Red Angus (50,7 lần/phút) cao hơn đáng kể (P<0,05) so với nhóm bê
lai Sind (41,3 lần/phút). Từ kết quả này có thể thấy bê lai ½ Red Angus đã vận động cơ hàm

nhiều hơn bê lai Sind, nghĩa là bê lai ½ Red Angus có tiềm năng thu nhận thức ăn ngoài đồng
cỏ cao hơn bê lai Sind. Kết quả phân tích thống kê cũng cho thấy tần suất gặm cỏ còn phụ
thuộc vào giới tính của bê trong đó bê đực có tần suất gặm cỏ cao hơn bê cái (P<0,05).
Bảng 3. Tần suất gặm cỏ và quá trình nhai lại của bê trong một ngày đêm
Nhóm bê
Tần suất
gặm cỏ
(lần/phút)
Tần suất
nhai
lại (lần/phút)

Số miếng nhai
lại/miếng thức
ăn (lần ợ)
Số đợt nhai
lại/ ngày
đêm (lần)
Thời gian
của mỗi đợt
nhai lại(phút)

Đực ½ Red Angus 52 53 43,7 22,3 18,0
Cái ½ Red Angus 49,3 57,7 43,3 20 20,6
Đực Lai Sind 49 55,3 45,7 18,3 20,7
Cái Lai Sind 33,7 58 49,7 16,3 21,8
TB ½ Red Angus 50,7 55,3 43,5 21,2 19,3
TB Lai Sind 41,3 56,7 47,7 17,3 21,2
Sai khác thống kê
1

B*S* - B† B** -
1
S* ảnh hưởng của giới tính ở mức P<0,05; B† ảnh hưởng của giống ở mức P<0,1; B* ảnh hưởng của giống ở
mức P<0,05; B** ảnh hưởng của giống ở mức P<0,01
Tần suất nhai lại của bê lai hai giống tương đương nhau nhưng số lần nhai lại cho 1 miếng
thức ăn (1 lần ợ thức ăn lên để nhai lại) của bê lai ½ Red Angus (43,5 lần) thấp hơn so với bê
lai Sind (47,7 lần). Tuy nhiên sự sai khác này chỉ có ý nghĩa ở mức P<0,1. Thời gian nhai lại
cho mỗi miếng thức ăn của bê lai ½ Red Angus cũng thấp hơn nhưng không sai khác về mặt
thống kê so với bê lai Sind trong khi tổng số đợt nhai lại trong 1 ngày đêm của bê lai ½ Red
Angus lại cao hơn đáng kể (P<0,01) so với bê lai Sind (21,2 lần nhai lại ở bê lai ½ Red Angus
so với 17,3 lần ở bê lai Sind).
Bảng 1 và 3 cho thấy, bê lai ½ Red Angus có tính phàm ăn và tiềm năng thu nhận thức ăn
cao hơn bê lai Sind cùng tuổi và nuôi trong cùng điều kiện. Theo Vũ Duy Giảng và cs,
(2008) thời gian trâu bò dùng để nhai lại phụ thuộc chủ yếu vào lượng chất xơ trong khẩu
phần. Thức ăn thô trong khẩu phần càng ít thì thời gian nhai lại càng ngắn. Hằng ngày bò
chăn thả dành khoảng 6-8 giờ để nhai lại, tức là bằng với thời gian gặm cỏ, mỗi miếng ợ
lên nhai lại được nhai 40-50 lần, mỗi lần nhai lại bình quân 40-50 phút. Số lần nhai
lại/ngày ở bò 6-8 lần và ở bê là 16-18 lần. Kết qủa cho thấy, số lần nhai lại của một miếng
thức ăn (43,3-49,7 lần) hoàn toàn nằm trong khoảng phù hợp với tài liệu nghiên cứu trên.
Thời gian của lần nhai lại 18,0-21,8 phút là ngắn hơn nhưng số lần nhai lại trong ngày
của hai nhóm bê thí nghiệm nằm trong khoảng 16,3-22,3 lần/ngày lại nhiều hơn so với giá
trị đưa ra bởi Vũ Duy Giảng và cs (2008).

VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 23-Tháng 4 - 2010


68

Kết quả theo dõi mối quan hệ giữa chỉ số THI và một số chỉ tiêu sinh lý bê
Chỉ số THI, nhiệt độ và ẩm độ: Kết quả theo dõi các chỉ số THI, nhiệt độ và ẩm độ ở Bảng 4

và Đồ thị 1 cho thấy, trong thời gian theo dõi thí nghiệm, nhiệt độ bình quân trong ngày tăng
từ 23,2
0
C vào lúc 4 giờ sáng lên đến 32,0
0
C vào lúc 13 giờ trưa và sau đó giảm dần xuống còn
23,6
0
C vào lúc 1giờ sáng. Trong khi đó ẩm độ lại biến thiên theo chiều hướng ngược lại: giảm
dần từ 84% vào lúc 4 giờ sáng còn 56% lúc 13 giờ trưa và lại tăng dần lên 83% lúc 1giờ sáng.
Do diễn biến nhiệt độ và ẩm độ theo chiều hướng trái ngược nhau, nên chỉ số THI trong giai
đoạn theo dõi thí nghiệm biến động trong phạm tương đối hẹp, từ 71,6 đến 83,1. Theo
Wiersama (trích bởi Moran, 2005) khi chỉ số THI nằm trong khoảng <72 thì bò sữa không bị
stress nhiệt, THI trong khoảng 72-78 sẽ gây stress nhẹ, THI trong khoảng 79-89 sẽ gây stress
khá nặng, THI từ 89-98 gây stress rất nặng và khi THI > 98 bò sẽ chết.
Số liệu theo dõi cho thấy, chỉ số THI trong thời gian cuối tháng 7 năm 2008 tại địa bàn huyện
Eakar, Đăk Lăk điều kiện thời tiết khí hậu tại phần lớn thời gian trong ngày là thích hợp,
không gây strees nhiệt cho đàn bê. Nhưng trong khoảng thời gian buổi trưa (10h-16h) bê có
thể bị stress nhiệt. Vì vậy, cần xây dựng biện pháp phòng ngừa. Tuy nhiên, cần lưu ý là ở bò
sữa đặc biệt bò sữa cao sản ở Mỹ quá trình trao đổi chất thường diễn ra rất mạnh, do đó lượng
nhiệt mà bò sản sinh có thể lớn hơn rất nhiều so với bê thịt nuôi trong giai đoạn sinh trưởng.
Vì vậy mức nhiệt ẩm của thời gian thí nghiệm tại Đăk Lăk có thể không gây ra stress đáng kể
nào cho đàn bê lai.
Bảng 4. Nhiệt độ, ẩm độ và THI ở các giờ trong ngày
Nhiệt độ (
0
C) Ẩm độ (%) THI Giờ
TB Min Max TB Min Max TB Min Max
1 23,6


22,8

23,9

83

82

84

73,6

71,9

75,1

4 23,2

22,8

23,9

84

83

84

71,6


70,4

72,0

7 28,1

25,0

28,3

81

79

83

75,8

74,9

76,8

10 29,1

26,7

30,6

65


61

74

82,3

78,9

85,8

13 32,0

28,9

33,9

56

50

61

82,4

81,3

83,4

16 30,6


28,3

32,8

56

52

66

83,1

81,5

85,1

19 26,7

25,6

32,8

79

74

83

75,1


74,2

76,1

22 24,8

23,9

26,1

82

81

84

73,9

73,4

75,3

Bảng 5 cho thấy, mặc dù các chỉ tiêu sinh lý đều có biến động nhưng tất cả vẫn nằm trong giới
hạn sinh lý cho phép và phù hợp với kết quả của Đinh Văn Cải và cs (2004) và Kabuga
(1992). Kết quả phân tích phương sai cho thấy có sự sai khác đáng kể về thân nhiệt và nhịp
thở nhưng không khác nhau về nhịp tim giữa 2 giống lai sử dụng trong nghiên cứu này


ĐINH VĂN TUYỀN – Tập tính thường ngày và mối quan hệ giữa chỉ số nhiệt ẩm



69

Đồ thị 1: Biến thiên nhiệt độ, ẩm độ và chỉ số THI trong ngày
Tuy nhiên, sự khác nhau về thân nhiệt giữa 2 giống lai chỉ có ý nghĩa về thống kê ở thời điểm
xác định lúc 16h và 19h trong khi sự khác nhau về nhịp thở giữa 2 giống xuất hiện tất cả các
thời điểm theo dõi ngoại trừ thời điểm lúc 10h sáng. Theo quan sát của chúng tôi sự khác
nhau về hai chỉ tiêu sinh lý này giữa hai giống phản ánh sự khác nhau trong quá trình thu
nhận, tiêu hóa, hấp thu thức ăn và quá trình trao đổi chất. Các hoạt động này của bê lai ½ Red
Angus diễn ra mạnh mẽ hơn nên bê có nhịp thở cao hơn.
Kết quả Bảng 1 và kết quả theo dõi tăng trọng trình bày trong báo cáo của Đinh Văn Tuyền và
cs (2010) có thể là minh chứng cho nhận định trên. Tiến hành phân tích tương quan và xây
dựng phương trình hồi qui giữa chỉ số THI và các chỉ tiêu sinh lý cho cả 2 nhóm bê. Kết quả
trình bày ở Bảng 6 và Đồ thị 2 cho thấy giữa chỉ số THI và các chỉ tiêu sinh lý như nhịp tim,
nhịp thở, thân nhiệt có mối tương quan thuận.
Mối quan hệ giữa chỉ số THI đến các chỉ tiêu sinh lý của bò
Bảng 5. Biến đổi các chỉ tiêu sinh lý theo THI
Thời gian (giờ) 7 10 13 16 19 Min Max
Chỉ số THI 75,8 82,3 82,4 83,1 75,1 75,1 83,1
Thân nhiệt (
0
C) 38,8 38,7 39,0 39,1
a
39,0
a
38,2 39,4
Nhịp tim (lần/phút) 68,4 70,0 71,1 70,6 68,0 69,2 71,1
Lai ½
Red
Angus

Nhịp thở (lần/phút) 25,3
a
25,8 31,5
a
30,5
a
27,2
a
25,3 31,5
Thân nhiệt(
0
C) 38,9 38,8 38,9 39,4
b
39,5
b
38,2 39,0
Nhịp tim (lần/phút) 66,8 69,5 69,5 69,3 67,6 66,8 70,5
Lai Sind
Nhịp thở (lần/phút) 22,5
b
24,0 26,9
b
26,6
b
24,3
b
22,5 26,9
Các giá trị của cùng chỉ tiêu theo dõi cùng 1 cột có chỉ số trên bằng chữ khác nhau thì khác nhau (P<0,05)
Bảng 6.Phương trình hồi qui giữa chỉ số THI và chỉ tiêu sinh lý bê lai hướng thịt tại Đăk Lăk
Chỉ tiêu Phương trình P R

2

Thân nhiệt (
0
C) Y=0,057x + 34 0,113 0,28
Nhịp tim (lần/phút) Y=0,317x +43,8 0,028 0,94
Nhịp thở (lần/phút) Y=0,385x - 4,2 0,235 0,26

Đồ thị 2.Mối quan hệ giữa chỉ số THI và các chỉ tiêu sinh lý của bê lai hướng thịt
Tuy nhiên, hệ số xác định (R
2
) thấp và giá trị P cao (>0,05) đối với phương trình hồi qui giữa
chỉ số THI với thân nhiệt và THI với nhịp thở cho thấy mối quan hệ giữa THI và các chỉ tiêu
này xác định trên đàn bê lai trong thời gian thí nghiệm là không chặt chẽ và không tin cậy.

VIỆN CHĂN NUÔI - Tạp chí Khoa học Công nghệ Chăn nuôi - Số 23-Tháng 4 - 2010


70

Phương trình hồi qui giữa chỉ số THI và nhịp tim có hệ số xác định cao (R
2
=0,94) và đáng tin
cậy (P <0,05) cho thấy đối với đàn bê lai hướng thịt trong thí nghiệm này khi chỉ số THI thay
đổi sẽ làm thay đổi nhịp tim trước rồi đến các chỉ tiêu sinh lý khác. Kết quả này cũng cho thấy
đối với bê lai Sind và lai ½ Red Angus nuôi tại Đăk Lăk khi chỉ số THI dao động trong
khoảng 75,1-83,1 thì bê bắt đầu có biểu hiện bị stress nhiệt nhưng mới chỉ ở mức rất nhẹ (chỉ
nhịp tim tăng nhẹ còn thân nhiệt và nhịp thở chưa bị ảnh hưởng đáng kể).
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Kết luận

Trong điều kiện chăn nuôi theo phương thức bán chăn thả tại Eakar (Đăk Lăk), bê lai Sind 9-
10 tháng tuổi dành 359 phút trong 1 ngày đêm cho việc lấy thức ăn tại chuồng và/hoặc gặm cỏ
trên bãi chăn, 377 phút để nhai lại, 149 phút để ngủ và 445 phút để nghỉ ngơi; các chỉ tiêu này
ở bê lai ½ Red Angus tương ứng là 374, 400, 120 và 428 phút.
Mỗi 1 ngày đêm bê lai Sind đứng 636 phút, nằm 492 và đi lại 308 phút còn các thời gian này
ở bê lai ½ Red Angus tương ứng là 678, 430 và 325 phút. Trung bình mỗi ngày đêm bê lai
Sind đi lấy thức ăn và nước uống khoảng 6 lần và đi bài tiết phân, nước tiểu khoảng 10 lần
trong khi bê lai ½ Red Angus đi lấy thức ăn, nước uống 15-16 lần và đi bài tiết 13-18 lần. Bê
lai ½ Red Angus có biểu hiện phàm ăn hơn và khả năng thu nhận thức ăn tốt hơn thể hiện ở
tần suất gặm cỏ lớn hơn (50,7 so với 41,3 lần/phút), thời gian nhai lại cao hơn (400 so với 377
phút/ngày đêm), số lần đi lấy thức ăn và/hoặc nước uống cao hơn (16 so với 6 lần/ngày) và số
lần đi bài tiết cao hơn (16 so với 10 lần/ngày).
Giữa bê lai ½ Red Angus và bê lai Sind có sự khác nhau đáng kể về thân nhiệt và nhịp thở
nhưng không có sự khác nhau đáng kể về nhịp tim tại một số thời điểm theo dõi trong ngày.
Nhiệt độ trong ngày tại tháng 7 ở Đăk Lăk biến đổi theo tỷ lệ nghịch với ẩm độ không khí nên
chỉ số THI trong 1 ngày đêm khá ổn định, dao động trong khoảng 75-83 và chỉ gây stress nhẹ
cho bê lai Sind và lai ½ Red Angus.
Đề nghị
Nghiên cứu tiếp tập tính ăn uống, nghỉ ngơi và nhai lại của bê lai hướng thịt ở các lứa tuổi và
thời gian khác nhau
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Amundson, J. L., Mader, T. L., Rasby, R. J. and Q. S. Hale (2005). The effects of temperature and temperature-
humidity index on pregnancy rate in beef cows. Nebraska Beef Cattle Report MP 83- A: 10-12.
Đinh Văn Cải, Hồ Quế Anh, Nguyễn Văn Trí (2004). Ảnh hưởng của stress nhiệt lên sinh lý – sinh sản bò lai
hướng sữa (HF) và bò Hà Lan thuần nhập nội nuôi tại khu vực phía Nam. Báo cáo kết quả NCKH
chăn nuôi thú y. NXB.Nông Nghiệp, Hà Nội.
Vũ Chí Cương, Vương Tuấn Thực, Nguyễn Thiện Trường Giang (2007). Ảnh hưởng của stress nhiệt (nhiệt độ,
ẩm độ, chỉ số nhiệt ẩm-THI) đến một số chỉ tiêu sinh lý, lượng thức ăn thu nhận, năng suất sữa của bò
lai F
1

, F
2
nuôi tại Ba Vì trong mùa hè. Báo cáo khoa học Viện Chăn nuôi 2006.
Vũ Duy Giảng, Nguyễn Xuân Bả, Lê Đức Ngoan, Nguyễn Xuân Trạch, Vũ Chí Cương và Nguyễn Hữu Văn
(2008). Dinh dưỡng và thức ăn cho bò. NXB. Nông nghiệp 2008.
Nguyễn Thạc Hòa, Nguyễn Ngọc Lương, Nguyễn Đình Đảng, Nguyễn Thị Cử (2008). Kết quả nghiên cứu lựa
chọn giải pháp giảm stress nhiệt cho bò sữa. Báo cáo khoa học Viện Chăn nuôi năm 2007.
Kabuga, J. D. (1992). The influence of theral conditions on rectal temperature, respiration rate and pulse rate of
lacting Holstein-Friesian cows in the humid tropic. International journal of Biometeology, 36: 146-150.

ĐINH VĂN TUYỀN – Tập tính thường ngày và mối quan hệ giữa chỉ số nhiệt ẩm


71

Khongdee, S., N. Chaiyabutr, K. Markvichitr and C. Vajrabuckka (2006). Effects of evaporative cooling
on reproductive performance and milk production of dairy cows in hot wet conditions. International
Journal of Biometeology, 50: 253-257.
Lê Văn Phước, Lê Đức Ngoan và Nguyễn Xuân Bả (2007). Ảnh hưởng của chỉ số nhiệt ẩm (THI) đến một số chỉ
tiêu sinh lý bò lai Sind ở Thừa Thiên Huế. Tạp chí khoa học Nông nghiệp, Số 5: 46-49.
Lê Văn Thọ và Đàm Văn Tiện (1992). Sinh Lý Học Gia Súc. NXB. Nông nghiệp 1992
Mader, T. L., Davis, M. S. and T. Brown-Brandl (2006). Environmental factors influencing heat stress in feedlot
cattle. Journal of Animal Science, 84: 712-719
Moran, J. (2005). Tropical Dairy Farming: Feeding Management for Small Holder Dairy Farmers in the Humid
Tropics. Landlinks Press.
Đinh Văn Tuyền, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Tấn Vui và Hoàng Công Nhiên (2010). Kết quả theo dõi khả năng
sinh trưởng bê lai ½ Red Angus và bê lai Sind nuôi tập trung, bán chăn thả tại Đăk Lăk. Tạp chí Khoa
học Công nghệ Chăn nuôi (sắp xuất bản).
Sliworsky, G (2009). Understanding cattle behaviour is critical.
Srikandakumar, A and E. H. Johnson (2004). Effects of heat stress on milk production, rectal temperature,

respiratory rate and blood chemistry in Holstein, Jersey and Australian Milking Zebu cows. Tropical
animal health and production, 36: 685-692.
*Người phản biện: TS. Đỗ Thanh Vân; Nguyễn Thạc Hòa

×