Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Đặc điểm ngoại hình, di truyền, tập tính, sinh trưởng, sinh sản của lợn rừng việt nam, thái lan và con lại giữa chúng được nuôi tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (860.1 KB, 14 trang )



ĐẶC ĐIỂM NGOẠI HÌNH, DI TRUYỀN, TẬP TÍNH, SINH TRƯỞNG, SINH SẢN CỦA
LỢN RỪNG VIỆT NAM, THÁI LAN VÀ CON LAI GIỮA CHÚNG
ĐƯỢC NUÔI TẠI VIỆT NAM
Võ Văn Sự,
1
Tăng Xuân Lưu, Trịnh Phú Ngọc,
2
Phạm Doãn Lân,
Phạm Hải Ninh, Lê Thị Bình, Nguyễn Thị Thanh Hòai
Bộ môn Động vật quí hiếm và ĐDSH;
1
Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì;

2
Phòng Thí nghiệm Trọng điểm Công nghệ TBĐV
Tóm tắt
Đề tài nhằm xác định các đặc điểm ngọai hình, di truyền, tập tính, sinh trưởng, sinh sản của lợn rừng Việt,
Thái và con lai được nuôi tại Việt nam. Lợn rừng Thái lan, lợn rừng Việt nam và các loại lợn lai khác nhau cơ bản
về di truyền. Tuy nhiên về ngoại hình có nhiều điểm giống nhau, nên việc phân biệt cần chuyên môn cao và hệ
thống ghi chép rõ ràng. Một số tập tính quan trọng của lợn rừng như sau: Làm ổ đẻ thiên vê hướng tự nhiên như
trong rừng, tuy nhiên nếu có chuồng và ổ lót thì lợn vẫn cháp nhận đẻ tại đó. Rất dễ xẩy ra đánh nhau giữa lợn đực
và lợn đực / mẹ có thể giết con của ổ khác. Vì thể cần nuôi tách riêng. Nhìn chung chúng cũng tìm đến chuồng vào
mùa đông và bóng mát vào mùa hè, nên phải xây dựng chuồng trại cho chúng. Việc lấy tinh có thể thực hiện qua
việc dùng lợn cái thực làm mồi. Tuổi phối lần đầu của lơn rừng Thái lan: 216-327 ngày, Lợn rừng Việt nam: 556
ngày, lợn Vân pa: 213 ngày. Tính trạng này giao động khá lớn thể hiện sự "hoang dã, không chọn lọc" và cách thức
nuôi dưỡng khác nhau. Khoảng cách hai lứa đẻ ở lợn rừng Thái lan giao động từ 196,87 - đến 214,77 ngày và lợn
Vân pa là 198 ngày. Số ca đẻ an tòan rất cao, chiếm 98%, sấy thai và chết lúc đẻ chỉ chiếm 2%. Số con đẻ sống ở
lọai lợn rừng Thái, và con lai với lợn rừng Vịêt, lợn Vân pa giao động từ 7.59 đến 7.63 con/ổ. Riêng lợn rừng thuần
Việt, số con đẻ chỉ đạt trung bình là 5.55 con. Khối lượng sơ sinh ở lợn rừng Thái, Việt và con lai là 0,454 và 0,469


gam/con. Còn lợn Vân pa và con lai có khối lượng thấp hơn (307-362 gam/con). Mức tăng trọng của lợn rừng Thái
lan giao động từ 2,18 đến 2,48 kg/tháng. Ơ tuổi 60 ngày, lợn rừng Việt nam có khối lượng là 6,26 kg, trong lúc đó
lợn rừng Thái lan là 6,24 kg.
1. Đặt vấn đề
Việc thuần hóa lợn rừng Việt nam bắt đầu từ năm 2003 và sau đó đã nhanh chóng phát
triển rộng rãi. Các lọai lợn rừng Việt tiếp tục được thử nghiệm thuần hóa, các lọai lợn rừng từ
Thái lan được nhập về và các lọai lai tạo giữa các lọai lợn rừng đó với các lọai lợn bản địa đã tạo
nên một “tập đòan lợn rừng, lai” đa dạng tại nước ta.
Nghiên cứu này hướng tới việc xác định một số đặc điểm sinh học của các lọai lợn rừng
thuần và lai nhằm làm cơ sở cho việc chăn nuôi, chọn lọc và các nghiên cứu tiếp theo.
2. Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Lợn rừng Thái lan (L.R Thái) , Lợn rừng Việt nam (L.R Vịêt), các loại con lại giữa
chúng với lợn Vân pa, lợn bản địa vùng miền núi.
- Nghiên cứu được tiến hành tại các đàn lợn nuôi tại các trang trại như là: Trại Bảy dũng
(Bình phước), Trại Xương Lâm (Bắc giang), CT Mỹ Hạnh (Hà nội), Trại Khánh Giang (Bình
phước), Trại giống vật quý hiếm Hoà khánh và các trang trại khác.


- Thời gian: 2007-2010
2.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
Đặc điểm ngọai hình
Quan sát các đặc điểm ngoại hình như tầm vóc, màu sắc, lông, da, chân móng nhằm xác
định sự khác nhau của các nhóm lợn.
Di truyền
Phân tích sai khác di truyềnQuan sát các đặc điểm ngoại hình như tầm vóc, màu sắc,
lông, da, chân móng nhằm xác định sự khác nhau của các nhóm lợn.
Tập tính
Nghiên cứu tập trung đến các tập tính quan trọng liên quan đến việc đưa ra phương thức
tổ chức chăn nuôi, quản lý đàn lợn, như ăn nghỉ đi lại, đánh nhau, sinh đẻ. Tập tính được nghiên

cứu qua việc quan sát sự xuất hiện các tập tính đó.
Sinh trưởng
Nghiên cứu sinh trưởng qua việc xác định khối lượng cơ thể ở các giai đọan sinh trưởng
khác nhau
Sinh sản
Nghiên cứu các tham số: tuổi đẻ lần đầu, khỏang cách hai lứa đẻ, số con đẻ sống
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Đặc điểm ngọai hình

Ảnh 1. Lợn rừng thuần Thái Lan - mới sinh
Các loại lợn rừng nuôi tại Vịêt nam có thể tạm thời phân ra mấy nhóm giống / dòng như
sau:
1. Giống Lợn rừng Thái mặt dài. Loại này tương đối giống lợn rừng Việt nam. Lợn con
trước 3 tháng tuổi có sọc dưa: 7 sọc đen và 6 sọc vàng. Sau 3 tháng tuổi sọc vàng biến mất,
nhưng lông toàn thân cũng thay đổi sang dạng nâu – bạc – mốc. Hai má có lông bạc. Lợn trưởng
thành có lông bờm, lợn đực có răng nanh khá phát triển. Thân hình mảnh, chân cao, phía trước
cao hơn phía sau (xem ảnh 1, 2 và 3).




Ảnh 2. Lợn rừng thuần Thái lan- nái nuôi con
Ảnh 3. Lợn rừng thuần Thái lan- đực giống
2. Giống Lợn rừng Việt nam: Thường có ở nhiều vùng núi, thậm chí các rừng tràm ở
đồng bằng sông Cửu long. Các sọc ở lợn con ở lợn rừng Việt nam rõ, đậm và liền mạch hơn lợn
rừng Thái. Lúc trường thành lợn rừng Việt có thân hình mảnh mai, cao hơn và lông bờm xờm
hơn, trong hung dữ hơn. Việc phân biệt với lợn rừng Thái lan theo ngọai hình là tương đối khó.
Lợn rừng Việt cũng có tỉ lệ nạc cao hơn hẳn, lớp nạc nằm ngay dưới da.
3. Giống lợn Lai rừng cấp tiến: tại Trại ông Bảy Dũng (Bình phước), đã có một số cá thể
lai cấp tiến với lợn rừng Việt nam. Những cá thể này cũng khá giống với lợn rừng Thái mặt dài

và Lợn rừng Việt nam.
4. Giống Lợn Thái mặt ngắn: Đặc điểm là to con, màu đen, thân tròn, đẻ nhiều con. Loại
này tương đối giống với con lai giữa lợn rừng Việt nam hoặc lợn rừng Thái lai với các giống lợn
đen ở vùng cao. Theo chúng tôi đó là lợn lai giữa Lợn Rừng thuần và các giống lợn địa phương
vùng núi Thái lan (tựa như các giống lợn Vân pa, lợn Mường khương Việt nam).
5. Các loại lợn tạp giao giữa Lợn rừng Việt nam hoặc Lợn rừng Thái lan với các loại lợn
địa phương tại Việt nam như lợn Sóc tây nguyên, Lợn Vân pa, Lợn ỉ, Lợn Móng cái Con lai
một nữa thiên về bố (lợn rừng) và nữa thiên về mẹ. Hiện nay theo các nguồn thông tin và các
cuộc khảo sát của chúng tôi, thì tại các bản làng dọc miền núi phía Bắc (Lai châu, Hà giang),
Dãy Trường sơn (Thanh hoá, Quảng trị, Quảng ngãi, Gia lai), vùng Bình phước đều có nhiều ổ
lợn lai loại này, do người dân nuôi thả lợn vào rừng và xảy ra giao phối giữa lợn rừng với lợn
nhà. Và giờ đây khi mà phong trào nuôi lợn rừng đang nổi lên, thì một số nơi thậm chí đã đưa ra
chương trình nuôi loại lợn này, như thể huyện Bá thước (Thanh hoá). Ngoại hình lợn con thế hệ
F1 thường chia làm đôi, một số giống lợn rừng, lông có sọc, nhưng không đều, ngắt quảng, sọc
đen-vàng không tương phản và một nửa thì đốc về mẹ, thậm chí có có vùng lang trắng hồng nếu
mẹ là lợn Móng cái. Tại trạng trại của ông Trương Gia Tôn còn có lợn lai lợn rừng Trung quốc.
Con lai loại này có các vết đen, trắng ở chân, thậm chí ở trên thân (xem ảnh 4 và 5).





Ảnh 4. Lợn con rừng lai giữa bố là lợn rừng
và mẹ là lơn đen vùng núi (Mường tè - điện
biên)
Ảnh 5. Lợn con rừng lai giữa bố là lợn
rừng và mẹ là lơn đen vùng núi phía bắc:
con đẻ ra có loại đen, có loại sọc dưa
Do sự phân ly, con lai giữa lợn rừng và lợn đen vùng núi có một số cũng có lông sọc như
thể lợn rừng và một số lợn không có.

Như vậy ta thấy rằng việc phân biệt các giống lợn rừng chỉ bằng quan sát ngọai hình sẽ
không chính xác, cần phải căn cứ lý lịch của chúng.
4.2. Sự khác nhau về di truyền giữa các giống lợn rừng
Cõy phõn di truyền giữa cỏc giống lợn phõn tớch được xõy dựng theo phương phỏp
UPGMA dựa trờn khoảng cỏch di truyền được thể hiện ở hỡnh 2. Qua hỡnh 2 cho thấy cõy phõn
loại được chia thành 3 nhỏnh khỏc nhau, nhỏnh thứ nhất bao gồm cỏc giống lợn nuụi bản địa của
Việt Nam (Bản, LI, MC, Ilai), nhỏnh thứ hai là cỏc mẫu lợn rừng của Việt Nam và Thỏi Lan
(RVN, RTL và lợn lai giữa RVN và RTL), nhỏnh thứ ba là giống lợn ngoại nhập nuụi tại Việt
Nam (LD). Tuy nhiờn cỏc giống lợn nuụi bản địa của Việt Nam và cỏc mẫu lợn rừng tạo thành
một nhỏnh khỏc biệt rừ rệt với giống lợn ngoại nhập (LD). Theo một số nghiờn cứu cho rằng quỏ
trỡnh thuần húa lợn nhà nuụi của Chõu Á và Chõu Âu được thực hiện độc lập từ cỏc loài phụ lợn
rừng ở khu vực Chõu Á và Chõu Âu (Giuffra và cs 2000; Okumura và cs 2001). Do sự khỏc
nhau rừ rệt về di truyền giữa lợn rừng của Chõu Á và Chõu Âu nờn dẫn đến sự khỏc nhau giữa
cỏc giống lợn nuụi ở Chõu Á và Chõu Âu, bằng chứng là cũng với phương phỏp phõn tớch
tương tự (sử dụng chỉ thị microsatellite) tỏc giả Li và cộng sự (2000) chỉ ra sự tỏch biệt về di
truyền giữa cỏc giống lợn của Trung Quốc và cỏc giống lợn ngoại nhập (Large White, Landrace
và Duroc). Điều này đó giải thớch cho kết quả phõn tớch của chỳng tụi về sự sai khỏc giữa giống
lợn ngoại nhập với cỏc giống lợn nuụi bản địa của Việt Nam (xem Hỡnh 1)



Hình 1. Cây phân loại di truyền giữa các giống lợn được xây dựng theo phương pháp UPGMA
dựa trên khoảng cách di truyền Nei (1972)
- Sự sai khỏc di truyền giữa lợn rừng Việt Nam, lợn rừng Thỏi Lan và một số giống lợn
nuụi của Việt Nam là khỏ lớn với mức ý nghĩa thống kờ P<0.01.
- Khoảng cỏch di truyền giữa lợn rừng Việt Nam và Thỏi Lan là 0,406, sự sai khỏc di
truyền giữa hai nhúm lợn rừng này cú ý nghĩa thống kờ P<0,01.
- Giống lợn ngoại nuụi tại Việt Nam cú khoảng cỏch di truyền rất xa so với lợn rừng và
cỏc giống lợn nuụi của Việt Nam.
4.3. Tập tính

Nghiên cứu này được thực hiện trên hai đối tượng chính là: Lợn rừng Thái lan và Lợn
rừng Việt nam.
4.3.1. Tập tính Giết con, đánh nhau
- Tại những nơi nuôi thả rông hoặc sân chơi quá rộng, nhiều nái / ổ đẻ ở chung, thì trước
Lợn mẹ cắn chết con: Tại lợn rừng Thái lan, chưa thấy hiện tượng này. Tuy nhiên ở lợn rừng
Việt đã có một lần xẩy ra. Nguyên nhân chưa rõ. Đó là hiện tượng có thể bình thường đối với các
loài vật đặc biệt là hoang dã: thiếu chất, bị quấy phiền, con bị người bắt nên lạ hơi, giết những
con yếu để nuôi con khỏe
- Giết con của con cái khác: Trong các trường hợp nuôi chung nhiều đực cái gia đình
khác nhau, lợn con sơ sinh dễ bị con bố khác, mẹ khác giết chết và ăn thịt. Tập tính này cũng có
ngay ở các giống lợn nhà như lợn Vân pa, lợn Mường khương…
- Đực giống "ghen" nhau: Hai con đực ở chuồng cạnh nhau, hoặc chung chuồng nhau.
Một con đực được dẫn đi phối giống. Con khác ở lại rất "hậm hực", lồng lộn, đi đi lại lại không
yên. Khi con đực kia quay về, có thể đánh nhau. Tại trại Xương lâm, hai con đực giống sổng


chuồng, xông vào đánh nhau, và một con chết.
4.3.2. Tập tính đi lại, ngủ, nghĩ, vào chuồng, ở ngoài sân
Những năm đầu chăn nuôi lợn rừng, nhiều trang trại nuôi lợn rừng theo kiểu mà họ cho
là”tự nhiên” đó là thả rông ngoài trời không cần nơi ăn nghỉ cho lợn. Còn một số trang trại khác
vẫn xây chuồng, lán cho lợn. Điều tra này nhằm xác định, liệu lợn có nhu cầu về nơi trú nắng,
mưa như các lọai lợn khác. Từ đó giúp người nuôi nhìn nhận lại, liệu có nên làm chuồng, lán cho
lợn hay không. Sau đây là một số kết quả quan sát tại Trại lợn Xương lâm (Bắc Giang) (xem
bảng 1).
Bảng 1. Sự xuất hiện ở trong chuồng của lợn rừng Thái lan khi thời tiết biến đổi không thuận lợi
Thời
gian
Thời
điểm
Loại lợn

Nhiệt
độ
Các biến đổi bất
thường
Phản ứng của lợn
3/2010
Ban
ngày
Hậu bị, lợn nái
18-29
Giông, gió to
100 % lợn chạy vào
chuồng

Đêm
khuya
Hậu bị, lợn nái

Lạnh
Một số ngủ ngoài
chuồng, một số ngủ, nằm
theo nhóm

Bất kỳ
Lợn đực giống


ít khi ngủ / nằm trong
chuồng, mà nằm gốc
cây, hốc đất


5 giờ
sáng
Lợn to
Lạnh

50% trong, 50% ngoài

5 giờ
sáng
Lợn con, hậu bị
Lạnh

100% trong chuồng, sát
nhau

Bảng trên cho thấy rõ ràng rất cần tạo nên tránh mưa, nắng cho lợn, đặc biệt là lợn con.
4.3.3. Tập tính phối giống
- Cũng giống như lợn bản địa, lợn hậu bị thường cưỡi lên nhau, có khi 5-7 con cưỡi nhau
tạo thành một dãy.
- Tại những nơi nuôi nhiều cái / đực, con đực luôn luôn ngửi đít con cái để phát hiện
động dục và nếu chín muồi là giao phối.
- Việc giao phối cũng diễn ra như các giống lợn khác, con đực bám con cái đến khi xuất
được tinh mới thôi.
4.3.4. Khả năng lấy tinh
Đã tiến hành huấn luyện thử nghiệm hai đực giống để lấy tinh, một con ở Sóc trăng và
một con khác ở Nam định. Con đực tại Sóc trăng được nuôi từ sau khi tách mẹ bởi một bác sỹ
thú y kiêm thụ tinh viên lâu năm. Con đực tại Nam định có từ Trang trại Mỹ Hạnh (Ba vì) lúc 2
tháng tuổi. Các đực giống này được huấn luyện rất lâu. Tuy nhiên cả hai đều nhảy lên giá sống



(cái) mà không lên giá giả. (Tinh lấy được phối cho nhiều con cai và có tỉ lệ đẻ tốt như bình
thường).
4.3.5. Tập tính đẻ, nuôi con và lợn con mới sinh
- Tại những nơi nuôi thả rông hoặc sân chơi quá rộng, nhiều nái / ổ đẻ ở chung, thì trước
lúc đẻ lợn mẹ thường đi làm ổ. Lợn mẹ vơ cây, tha rác về một nơi ít người qua lại và đẻ tại đó.
Những "kiểu" đẻ này thường thấy ở những Trang trại Phú Gia.
- Một số trang trại có xây lán tạm cho lợn đẻ. Xung quanh lán được bao bọc bằng lưới
B40. Nền cát. Lợn chuẩn bị đẻ được đưa vào đó. Trước lúc đẻ lợn thường bươi cát lên tạo thành
vũng và nằm đẻ trong đó. Nhược điểm của kiểu này là nếu mưa, lợn con có thể chết. Một khi có
con nằm ngoài ổ gần đó, thì lợn mẹ sẽ "cắp" lợn con về cùng nằm với con khác. Qua quan sát,
trong một lần đẻ, một con con nằm xa hơn con mẹ 50 cm, con con cố bò lê về phía mẹ, nhưng
con mẹ cũng không tìm ra và bỏ mặc con.
- Lợn mẹ được nuôi trong chuồng có lót rơm, cỏ khe hở phía dưỡi cửa để cho con đi ra.
Đây là mô hình chăn nuôi tại Trang trại Xương lâm (Bắc giang). Trước lúc đẻ đưa con mẹ vào và
không cho ra. Lợn mẹ đẻ như lợn nhà. Ngày nắng ráo, lợn con tự ra chơi.
Nhìn chung lợn rừng nuôi con hệt như lợn ta.
4.4. Khả năng sinh sản
4.4.1. Tuổi phối, đẻ lần đầu
Bảng 2. Tuổi phối lần đầu của giống lợn Thái lan, Rừng, Lợn Vân Pa…

Trang trại->
Xương lâm
Mỹ Hạnh
Khánh giang
Tổng
Rừng Thái lan
Số con
92
25

26
146

Trung bình
242.7
216.6
327.4*
253.3

Độ lêch chuẩn
82.7
90.81
90.34
92.2
Rừng Việt nam
Số con

3

2

Trung bình

556

688

Độ lêch chuẩn

244.45


124.45
Vân pa
Số con

7

9

Trung bình

213.3

208.4

Độ lêch chuẩn

73.67

73.67

Bảng 2 cho thấy, đối với lợn rừng Thái lan thì ở Trang trại Mỹ hạnh lợn được phối sớm
nhất: 216 ngày, Xương lâm là 242 ngày và muộn nhất là Khánh giang: 327 ngày. Sở dĩ đagn lợn
Khánh giang phối muộn là do chỉ đạo, họ cho rằng phối sớm đẻ ít con, nên lùi thời gian phối đến
3-4 tháng sau lần động dục 1 (và hậu quả là số con đẻ ra lứa 1 cũng nhiều hơn, tuy nhiên đến lứa
3 và 4 thì ít hơn hai trang trại kia – Xem phần sinh sản).
Lợn Vân pa có tuổi phối lần đầu tương tự như lợn rừng Thái lan (213 ngày). Tuy nhiên
lợn rừng Việt nam rất muộn: 556 ngày (giao động từ 293 ngày đến 776 ngày).



4.4.2. Khoảng cách hai lứa đẻ
Bảng 3. Khoảng cách hai lứa đẻ của các lọai lợn Thái lan và Vân pa.
Trang trại
Giống lợn
Số con
Trung
bình
Sai số
(SE)
Độ lệch
chuẩn
Thấp
nhất
Cao nhất
Mỹ hạnh
LR Thái lan
71
202.85
5.25
44.21
111
408
Khánh
giang
LR Thái lan
552
196.87
1.07
25.14
145

392
Xương lâm
LR Thái lan
60
214.77
5.88
45.55
146
383
Mỹ hạnh
Vân Pa
26
198.00
10.60
54.10
129
379

Nhìn chung khỏang cách lứa để các lọai lợn rừng và Vân pa không khác nhau đáng kể.
Tuy nhiên mức độ đồng đều khác nhau: Lợn ở Khánh giang đẻ đều hơn (độ lệch chuẩn 25.14
ngày, trong lúc đó các trang trại khác là 44 – 54 ngày) (Xem Bảng 3).
4.4.3. Số con đẻ sống
4.4.3.1. Sinh sản của các giống và con lai tại Trang trại Mỹ Hạnh (Ba vi)
Tại đây thí nghịêm được sinh sản được tiến hành nhằm xác định khả năng sinh sản của
các lọi lợn rừng thuần và lai. Số con đẻ ra của lợn rừng Thái, Việt, lợn Vân pa và cặp lai giữa
chúng được trình bày tại Bảng 4.
Bảng 4. Số con đẻ sống của các lọai lợn rừng và cặp lai tại Trang trại Mỹ Hạnh (Ba vì)
Giống và cặp lai
Số ca đẻ
Sô con đẻ sống



Trung bình
Độ lệch chuẩn
Rừng Thái
42
7.63
2.41
Rừng Vịêt
5
5.55
1.59
Vân pa
13
7.63
2.49
R. Việt (bố) – R. Thái (mẹ)
29
7.61
2.66
R. Việt (Bố) - Vân pa (mẹ)
6
7.59
2.58
R. Thái (Bố) - Vân pa (mẹ)
15
7.75
3.28

Bảng 4 cho thấy trừ lợn rừng Việt, còn các lọai khác có số con để ra tương tự như nhau,

giao động từ 7.59 đến 7.63 con/ổ.
4.4.3.2. Mức độ an tòan trong quá trình sinh đẻ ở lợn rừng Thái lan ở một số trang trại:
Bảng 5 cho thấy, hầu như không có “trục trặc”nào đáng kể trong sinh sản của lợn rừng
Thái lan. Trong 495 ca đẻ chỉ có 6 ca sảy thai, 4 ca đẻ chết, chiếm tỉ lệ 2,02%.


Bảng 5. Số ca đẻ theo mức an toàn của giống lợn rừng Thái lan

Mỹ hạnh
Khánh giang
Xuơng lâm
Tổng
Bình thường
89
304
92
485
Đẻ chết
0
3
1
4
Sẩy thai
0
6
0
6
Tổng
89
313

93
495

4.4.3.3. Số con đẻ sống ở lợn rừng Thái lan ở một số trang trại
Bảng 6 cho thấy, số con đẻ sống ở các trại giao động từ 6.85 đến 7.63 con, cao nhất là tại
ba vì, thấi nhất là tại Bắc giang.
Bảng 6. Số con đẻ sống tại 3 cơ sở nuôi lợn Thái lan nhiều nhất

Ca đẻ
Trung bình
Độ lệch chuẩn
Mỹ hạnh
42
7.63
2.66
Khánh giang
740
7.00
1.31
Xương lâm
92
6.85
2.19

4.5. Khả năng Sinh trưởng
4.5.1. Sơ sinh
Khối lượng sơ sinh của các lọai lợn được trình bày ở Bảng 7 và Sơ đồ 2.
Bảng 7 cho thấy khối lượng sơ sinh trung bình của lợn rừng Thái, Việt và con lai của
chúng tương đương: 0,454 và 0,469 gam/con. Còn lợn Vân pa và con lai có khối lượng thấp hơn
(307-362 gam/con). Sơ đồ 2 cho thấy có thể có sự tương quan nghịch giữa số con đẻ sống và

khối lượng tòan ổ (Xem Sơ đồ 3).
Bảng 7. So sánh các cặp thuần và lai giữa các giống (tại Trang trại Mỹ Hạnh (Ba vì)
Giống lợn
Sô con
Khối lượng/con (gam)
Sô con đẻ sống

n
Trung bình
Độ lệch chuẩn
Trung bình
Độ lệch chuẩn
Rừng Thái
320
0.469
0.084
7.63
2.41
Rừng Vịêt
9
0.454
0.046
5.55
1.59
Vân pa
22
0.307
0.058
7.63
2.49

R.Việt _R.Thái
221
0.469
0.080
7.61
2.66


R.Việt_Vân pa
47
0.343
0.096
7.59
2.58
R.Thái_Vân pa
120
0.362
0.112
7.75
3.28


Sơ đồ 2. Khối lượng sơ sinh và số con đẻ sống ở một số giống lợn
(Ghi chú: Thái thuần: Lợn rừng Thái, Việt thuần: Lợn rừng Vịêt, Việt - Thái: Bố là lợn rừng Việt
- Mẹ là Lợn rừng Thái, Việt – Vân pa: Bố là lợn rừng Việt - Mẹ là Lợn Vân pa, Thái – Vân pa:
Bố là lợn rừng Thái - Mẹ là Lợn Vân pa)

Khoi luong so sinh (gam/con)
So con de song
0.70.60.50.40.30.2

14
12
10
8
6
4
2
S 1.91774
R-Sq 25.6%
R-Sq(adj) 24.8%
So con de song va khoi luong so sinh o lon rung Thai lan
desong = 11.03 - 10.97 pss

Sơ đồ 3. Mối quan hệ giữa số con đẻ sống / ổ và khối lượng cơ thể sơ sinh ở Lợn rừng Thái lan
(nuôi tại Trang trại Xương lâm – Bắc giang)
4.5.2. Sau sơ sinh


4.5.2.1. Lợn rừng Thái lan
Sinh trưởng lợn rừng Thái lan tại Trang trại Mỹ Hạnh (Ba vì) và Trại Xương lâm (Băc
giang) được thể hiện qua mô hình tóan học:
P (Mỹ Hạnh) = 1,28 + 2.48 * tháng tuổi.
P (Xương Lâm) = 5,54 + 2,18 * tháng tuổi
Và được thể hiện ở sơ đồ 3,4,5.


Sơ đồ 3. Khối lượng cơ thể của lợn rừng Thái lan ở Trang trại Mỹ Hạnh (Ba vì) và Xương lâm
(Bắc giang)
Thang tuoi
trong luong

403020100
200
150
100
50
0
S 10.4403
R-Sq 87.3%
R-Sq(adj) 87.2%
Lon Thai lan - ba vi
trongluong = 1.279 + 2.480 *thang tuoi

Sơ đồ 4. Khối lượng cơ thể của lợn rừng Thái
lan ở Trang trại Mỹ Hạnh (Ba vì)
Thang tuoi
trong luong
403020100
140
120
100
80
60
40
20
0
S 15.8374
R-Sq 65.0%
R-Sq(adj) 64.9%
Lon Thai lan _ Bac giang
trongluong = 5.541 + 2.183 * thang tuoi


Sơ đồ 4. Khối lượng cơ thể của lợn rừng Thái
lan ở Trang trại Xương lâm (Băc giang)
Trên các sơ đồ ta thấy, nói chung sinh trưởng biến động khá lớn, đặc biệt càng về sau,
mức độ cao thấp khá lớn, thí dụ tại tuổi 40 tháng, có cá thể đạt 75 kg, nhưng cũng có cá thể trên
giưới 150 kg (gấp đôi). Điều này cho thấy đàn lợn chưa được cải tạo, chọn lọc về sinh trưởng và
mặt khác cũng cho thấy có điều kiện chọn lọc lớn.


So khi lượng 2 đàn của Xương lâm và Mỹ Hạnh ta thấy, giai đọan đầu đàn lợn tại Trang
trại Mỹ Hạnh có khối lượng thấp hơn nhưng giai đọan sau cao hơn do chế độ dinh dưỡng khác
nhau trong 2 giai đọan.
Tăng trưởng ở Trang trại Mỹ hạnh là 2,48 kg/tháng, trong khi đó ở Xương lâm là 2,18 kg
/ tháng.
4.5.2.2. So sánh lợn rừng Thái lan và con lai
Sinh trưởng 3 tháng đầu tiên lợn rừng Thái lan tại Trang trại Mỹ Hạnh (Ba vì), Trại
Xương lâm (Băc giang), lợn lai Thái lan - Vân pa và Việt – Thái lan được thể hiện qua mô hình
tóan học:
P (Thái - Mỹ Hạnh) = 1,28 + 0,579 * tuần tuổi.
P (Thái - Xương Lâm) = 2,21 + 0,555 * tuần tuổi
P (Thái lan + Vân pa) = -1,87 + 1,150 * tuần tuổi
P (Thái lan + Việt nam) = 5,31 + 0,109 * tuần tuổi

Tuổi tuần
Thai lan – Ba vì
Thái lan- Bắc giang
Thái lan + Vân pa
Tháo lan + rùng
VN
So sinh

0.472



5
4.175
4.985
3.88
5.855
6
4.754
5.54
5.03
5.964
7
5.333
6.095
6.18
6.073
8
5.912
6.65
7.33
6.182
9
6.491
7.205
8.48
6.291
10

7.07
7.76
9.63
6.4
11
7.649
8.315
10.78
6.509
12
8.228
8.87
11.93
6.618





Ta nhận thấy lợn lai Thái lan x Vân pa có khối lượng cao nhất và lợn lai Việt – Thái lan
thấp nhất.
4.5.2.3. Lợn rừng nuôi tại Ba vì và Nha trang như sau

Lọai lợn
Tuổi
Số ổ
Số con
Khối lượng
L.R Việt
Sơ sinh

18
100
0,417
L.R Việt
21 ngày

65
1,95
L.R Việt
60 ngày

48
5,26
L. R. Thái
Sơ sinh
42
320
0,469
L. R. Thái
21 ngày


3.02
L. R. Thái
60 ngày


6,24



Ta nhận thấy lợn rừng thuần Việt nam có khối lượng thấp hơn lợn rừng Thái nhiều: Tại
21 ngày Lợn rừng Việt có khối lượng 1,95 kg nhưng lợn rừng Thái đạt 3,02 kg, và đến 60 ngày
tuổi, con số này là 5,26 và 6,24.
4. Kết luận và đề nghị
4.1. Kết luận
- Lợn rừng Thái lan, lợn rừng Việt nam và các loại lợn lai khác nhau cơ bản về di truyền.
Tuy nhiên về ngoại hình có nhiều điểm giống nhau, nên việc phân biệt cần chuyên môn cao và
hệ thống ghi chép rõ ràng.
- Một số tập tính quan trọng của lợn rừng như sau: Làm ổ đẻ thiên vê hướng tự nhiên như
trong rừng, tuy nhiên nếu có chuồng và ổ lót thì lợn vẫn cháp nhận đẻ tại đó. Rất dễ xẩy ra đánh
nhau giữa lợn đực và lợn đực / mẹ có thể giết con của ổ khác. Vì thể cần nuôi tách riêng. Nhìn


chung chúng cũng tìm đến chuồng vào mùa đông và bóng mát vào mùa hè, nên phải xây dựng
chuồng trại cho chúng. Việc lấy tinh có thể thực hiện qua việc dùng lợn cái thực làm mồi.
- Sinh sản:
+ Tuổi phối lần đầu của lơn rừng Thái lan: 216-327 ngày, Lợn rừng Việt nam: 556 ngày,
lợn Vân pa: 213 ngày. Tính trạng này giao động khá lớn thể hiện sự "hoang dã, không chọn lọc"
và cách thức nuôi dưỡng khác nhau.
+ Khoảng cách hai lứa đẻ ở lợn rừng Thái lan giao động từ 196,87 - đến 214,77 ngày và
lợn Vân pa là 198 ngày.
+ Số ca đẻ an tòan rất cao, chiếm 98%, sấy thai và chết lúc đẻ chỉ chiếm 2%.
+ Số con đẻ sống ở lọai lợn rừng Thái, và con lai với lợn rừng Vịêt, lợn Vân pa giao
động từ 7.59 đến 7.63 con/ổ. Riêng lợn rừng thuần Việt, số con đẻ chỉ đạt trung bình là 5.55 con.
- Sinh trưởng:
+ Khối lượng sơ sinh ở lợn rừng Thái, Việt và con lai là 0,454 và 0,469 gam/con. Còn lợn
Vân pa và con lai có khối lượng thấp hơn (307-362 gam/con).
+ Mức tăng trọng của lợn rừng Thái lan giao động từ 2,18 đến 2,48 kg/tháng.
+ Ơ tuổi 60 ngày, lợn rừng Việt nam có khối lượng là 6,26 kg, trong lúc đó lợn rừng Thái
lan là 6,24 kg.

4.2. Đề nghị
- Sử dụng các tham số được xác định trong nghiên cứu và sản xuất.
- Tiếp tục nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sự biến động của các tính trạng này.
- Nghiên cứu khả năng chọn lọc và nuôi dưỡng để cải thiện các tính trạng trên.
Tài liệu tham khảo
1. Đặng Tịnh (2006). Kỹ thuật nuôi heo rừng lai. Báo Nông nghiệp số 153 ra ngày 2/8/2006 và số 154 ra
ngày 3/8/2006.
2. Hiếu Cầu (2006). Nhân giống heo rừng. Báo Nông nghiệp số 151 ra ngày 31/7/2006
3. Hoà Bình (2006). Hấp dẫn nuôi lợn rừng Thái Lan. Báo Nông thôn số 175+176 ra ngày 1/9/2006
4. KVISNA KEO SƯA UM và PHIRA KRAI XENG XRI (2005). Heo rừng. Vật nuôi kinh tế đang được chấp
nhận và ưa chuộng rộng rãi, dễ nuôi, lãi nhiều. Dịch giả: : LÊ VINH HIểN và LÊ TUấN Tú – TP Hồ Chí
Minh, 7/2006. DĐ: 0903 315 613
5. Lê Hiền Hào, 1973. Thú kinh tế Miền Bắc Việt Nam. Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật Hà Nội, 1973.
6. Nguyễn Lân Hùng (2006). Nuôi lợn rừng-nghề hốt bạc. Báo Nông nghiệp số 77 ra ngày 18/4/2006
7. Nguyễn Lộc (2006). Người huấn luyện heo rừng đầu tiên ở Việt Nam. Báo Nông nghiệp số 45 ra ngày
3/3/2006
8. University of Michigan Museum Zoology - Animal Diversity. (2006).
Sus scrofa. (wild boar)

×