Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng nn ptnt chi nhánh thăng long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.17 KB, 72 trang )

Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp

1

Khoa: Ngân hàng

Lời nói đầu
Ngày nay, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu của mọi
nền kinh tế trên thế giới. Bởi vì, chỉ có sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì
nền kinh tế của một quốc gia mới có thể phát huy hết những thế mạnh của mình,
đồng thời tiếp thu được những tinh hoa của thế giới. Và cùng với sự hội nhập thì
một điều tất yếu là các doanh nghiệp sẽ phải đương đầu với sự cạnh tranh khốc
liệt của các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngồi, điều đó đời hỏi các
doanh nghiệp luôn phải đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới
trang thiết bị công nghệ… Do đó cần có một thị trường tài chính hiện đại để đáp
ứng nhu cầu huy động vốn của các doanh nghiệp, cũng như các thành phần kinh
tế khác. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc đẩy mạnh vai trị của các ngân
hàng trên thị trường tài chính là một điều tất yếu.
Hiện nay, hệ thống ngân hàng thương mại nước ta đã đạt được những
bước phát triển rất mạnh mẽ, và đã trở thành một mắt xích quan trọng cấu thành
sự vận động liên tục của nền kinh tế. Cùng với các thành phần khác trong thị
trường tài chính hệ thống ngân hàng thương mại đóng một vai trị quan trọng
trong việc tham gia bình ổn thị trường tiền tệ, kìm chế lạm phát, phát triển thị
trường ngoại hối. Trong những năm qua các ngân hàng thương mại nước ta đã
thực hiện huy đông được một lượng vốn đánh kể cho việc phát triển kinh tế, từ
đó tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Chi nhánh Thăng Long là một ví dụ
tiêu biểu. Ngay từ khi thành lập, ngân hàng đã không ngừng từng bước lớn mạnh
bắt nhịp với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và đáp ứng nhu cầu phát triển
của nền kinh tế Việt Nam. Thấy được tầm quan trọng của công tác huy động vốn
đối với hoạt động của mình, chi nhánh đã đề ra rất nhiều những biệm pháp để


tăng cường công tác huy động vốn. Vì vậy, sau quá trình thực tập tại chi nhánh
Sv .Đinh Tiến Dũng

1

Lớp: NHB-K8


Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp

2

Khoa: Ngân hàng

em đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng
NN & PTNT chi nhánh Thăng Long”
Nội dung chun đề gồm có 3 chương:
Chương1 - Cơng tác huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Chương2 - Thực trạng công tác huy động vốn của NHNN&PTNT
Chi nhánh Thăng Long
Chương3 - Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại
NHNN&PTNT chi nhánh Thăng Long.
Vì kinh nghiệm thực tế của bản thân còn nhiều hạn chế, nên những vấn đề
mà em xem xét trong nội dung chuyên đề thực tập cịn rất nhiều thiếu góp ý. Em
rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cơ giáo, các anh chị, cô chú tại
NHNN&PHNT chi nhánh Thăng Long để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo và giúp đỡ tận tình của thầy cơ giáo
và tồn thể nhân viên NHNN&PTNT chi nhánh Thăng Long Hà Nội đã giúp đỡ
em trong quá trình hoàn thành chuyên đề này.


Sv .Đinh Tiến Dũng

2

Lớp: NHB-K8


Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp

3

Khoa: Ngân hàng

CHƯƠNG 1:CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của ngân hàng thương mại.
Hình thức sơ khai của các ngân hàng thương mại được hình thành và phát
triển từ hoạt động kinh doanh của thợ vàng trước đây. Các thợ vàng trước đây
thường là những người giàu có, vì vậy họ có điều kiện về vốn để thực hiện hoạt
động cho vay để thu lãi. Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu cất trữ tiền, họ thường có
két tốt để cất trữ tiền một cách an toàn. Do yêu cầu cất trữ tiền của các lãnh chúa,
cũng như các nhà buôn… các thợ vàng cũng thực hiện luôn việc cất trữ tiền hộ
để thu các khoản phí. Và chính hoạt động cất trữ hộ đã làm tăng lượng tiền tạm
có của các thợ vàng. Thực tiễn cho thấy ln có một lượng tiền được gửi vào và
một lượng tiền được rút ra, song tất cả người gửi tiền và người rút tiền đều
không thực hiện cùng một lúc, đã tạo số dư thường xuyên trong két. Do vậy, họ
có thể sử dụng tạm thời khoản tiền này để thực hiện hoạt động cho vay, từ đây
bắt đầu hình thành các hoạt động tín dụng sơ khai của ngân hàng thương mại.
Mặt khác, với việc mỗi một quốc gia đều có một đồng tiền riêng được sử

dụng trong hoạt động lưu thông trao đổi mua bán hàng hoá đã tạo điều kiện cho
những người thợ vàng thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ bằng cách đổi
ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại. Lợi nhuân thu được là chênh lệch giữa giá mua
và giá bán. Đó là hoạt động mua bán ngoại tệ sơ khai, từ đó hính thành lên hoạt
động trao đổi mua bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật cũng như của
toàn bộ nền kinh tế thế giới, thì quá trình hoạt động kinh doanh trên thị trường
của các ngân hàng thương mại cũng đã có rất nhiều thay đổi quan trọng. Ngày

Sv .Đinh Tiến Dũng

3

Lớp: NHB-K8


Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp

4

Khoa: Ngân hàng

nay, các ngân hàng hoạt động dưới rất nhiều các hình thức khác nhau để đáp ứng
nhu cầu hoạt động riêng. Quá trình gia tăng nguồn vốn để đưa vào kinh doanh đã
dẫn đến sự ra đời và phát triển của các ngân hàng cổ phần. Và để tăng cường khả
năng kiểm soát, cũng như điều tiết kinh tế của nhà nước đã dẫn đến sự hình
thành lên các ngân hàng quốc doanh, ngồi ra các ngân hàng cịn tồn tại dưới
hình thức là các ngân hàng liên doanh, các tập đoàn ngân hàng… Và song song
với q trình đó là q trình đa dạng hoá trong hoạt động của các ngân hàng,
nhiều nghiệp vụ ngân hàng mới đang ngày càng phát triển. Ngân hàng thương

mại từ chỗ chỉ cho vay ngắn hạn là chủ yếu đã đi đến cho vay trung và dài hạn,
cho vay để đầu tư vào bất động sản. Ngồi ra, nhiều ngân hàng cịn tiến hành cho
vay tiêu dùng, kinh doanh chứng khốn, cho th… Bên cạnh đó, các hình thức
huy động vốn cũng trở lên ngày càng phong phú. Bên cạnh các hình thức huy
động vốn truyền thống như nhận tiền gửi, các ngân hàng còn mở rộng các hình
thức đi vay như vay ngân hàng trung ương, vay trên thị trường tín dụng.
Ngày nay, tuy hệ thống ngân hàng thương mại cũng như ngân hàng quốc
doanh đã trở lên rất đa dạng và phong phú về loại hình hoạt động, cũng như các
dịch vụ cung cấp, nhưng nhìn chung các hoạt động chủ yếu của các ngân hàng
thương mại vẫn không thay đổi về bản chất, mà nó chỉ tiện lợi hơn, đa dạng hơn.
Sự hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng ngay từ đầu đã ln đóng vai
trị quan trọng là thước đo, là huyết mạch và còn là thước đo cho sự hoạt động
của một nền kinh tế.
Tóm lại, ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh
tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ, hoặc vai
trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Thực tế, rất nhiều tổ chức trung gian
tài chính- bao gồm cả các cơng ty kinh doanh chứng khốn, cơng ty mơi giới
chứng khốn, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng
cung cấp các dịch vụ ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đang mở rộng phạm
Sv .Đinh Tiến Dũng

4

Lớp: NHB-K8


Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp

5


Khoa: Ngân hàng

vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt
động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiệm vụ môi giới khác.
Mặc dù đã trải qua quá trình phát triển lâu dài, nhưng cho đến nay khái
niệm về cụ thể về Ngân hàng thương mại vẫn chưa được thực sự thống nhất, mà
vẫn cịn có nhiều các khái niệm khác nhau. Tuy nhiên, theo luật các tổ chức tín
dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được Quốc hội khoá X ( kỳ
họp thứ hai, từ ngày 21 tháng 11 đến ngày 12 tháng 12 năm 1997) thơng qua
thì :
“ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh tốn”.
Như vậy, ta có thể thấy có rất nhiều những quan điểm cũng như những
cách nhìn nhận khác nhau về khái niệm ngân hàng thương mại. Các quan điểm
nhìn nhận về khái niệm ngân hàng thương mại tuỳ thuộc vào từng quốc gia, từng
khu vực, cũng như từng khía cạnh. Tuy nhiên nhìn chung thì các quan niệm này
đều cho thấy các hoạt động và các dịch vụ mà các ngân hàng cung cấp.
-Đặc điểm:
Đặc điểm đầu tiên phải kể đến của các ngân hàng thương mại chính là nó
có một sự ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển kinh tế. Bởi vì, ngân hàng là tổ
chức huy động tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá
nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội đều gửi tiền
trong ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trị là người thủ quỹ của toàn xã hội. Thu
nhập từ ngân hàng là thu nhập quan trọng của nhiều ngân hàng. Ngồi ra ngân
hàng cịn là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia
đình và một phần đối với nhà nước ( thành phố, tỉnh ). Đối với các doanh nghiệp,
ngân hàng là tổ chức cung cấp hệ thống tín dụng để phục vụ cho việc mua sắm
trang thiết bị, xây dựng nhà máy, mua hàng hoá dự trữ. Khi doanh nghiệp hoặc
Sv .Đinh Tiến Dũng


5

Lớp: NHB-K8


Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp

6

Khoa: Ngân hàng

người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ, họ
thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử… Và khi
cần thơng tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến các ngân hàng
để được tư vấn. Các khoản tín dụng của ngân hàng cho Chính phủ ( thơng qua
mua chứng khốn Chính phủ ) là nguồn tài chính qua trọng cho đầu tư và phát
triển. Ngân hàng thực hiện các chính sách về kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền
tệ, vì vậy là cơng cụ quan trong trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm
phát triển kinh tế bền vững. Do đó vấn đề nghiên cứu và hiểu một cách cặn kẽ về
loại hình tổ chức này để từ đó làm cơ sở cho việc đề ra các phương thức vận
hành và quản lý nó một cách hiệu quả là một điều hết sức cần thiết.
Trong thị trường tài chính thì các ngân hàng thương mại đóng vai trị là
một trung gian tài chính. Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hạt
động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp súc với hai loại cá
nhân và tổ chức trong nền kinh tế là các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi
tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là
những người cần bổ sung vốn; và thứ hai là các cá nhân và tổ chức thặng dư
trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho
hàng hố, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại của hai loại cá

nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu sẽ chuyển
tiền từ nhóm thứ hai đến nhóm thứ một nếu cả hai cùng có lợi. Tuy nhiên quan
hệ trực tiếp nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy mô thời gian và không
gian… Điều này cảm trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh
trung gian tài chính. Do chuyên mơn hố các trung gian tài chính sẽ giảm được
các chi phí giao dịch. Mặt khác, các ngân hàng sẵn sàng chấp nhận các khoản
cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các loại chứng khốn ít rủi ro cho
người gửi tiền. Thực tế ngân hàng đã tham gia vào kinh doanh rủi ro.

Sv .Đinh Tiến Dũng

6

Lớp: NHB-K8


Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp

7

Khoa: Ngân hàng

Đặc điểm tiếp theo phải kể đến là ngân hàng thương mại đóng vai trị tạo
ra các phương tiện thanh tốn cho nền kinh tế. Tiền có một vai trị quan trọng là
lam phương tiện thanh toán. Giấy nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất
định đã đựơc sự chấp nhân rộng rãi. Như vậy, ban đầu các ngân hàng đã tạo ra
phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số tiền kim loại đang nắm
giữ. Với nhiều ưu thế , dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế cho tiền kim
loại làm phương tiện lưu thơng và phươn tiện cất trữ nó trở thành tiền giấy.
Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy

họ có số dư tiền gửi trên tài khoản thanh tốn, họ có thể chi trả để có được hàng
hố và các dịch vụ theo u cầu. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao
gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông, thứ hai là số dư tài
khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng tại ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên
các khoản tài khoản gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn… Khi ngân hàng cho
vay, số dư tiền gửi trên tài khoản của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể
dùng mua hàng hố hay dịch vụ. Do đó bằng việc cho vay, các ngân hàng đã tạo
ra phương tiên thanh tốn. Tồn bộn hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện
thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng
khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng sử dụng một khoản tiền vay để chi trả
thì sẽ tạo lên một khoản thu (tức làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng
khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi
khơng một ngân hàng nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ
thống ngân hàng có thể toạ ra một khối lượng tiền gửi gấp bội thơng qua hoạt
động cho vay.
Ngồi ra các ngân hàng thương mại cịn đóng vai trị của trung gian thanh
toán. Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán hiện nay ở hầu hết các quốc gia.
Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá dịch vụ.
Để việc thanh toán được nhanh chóng và thuận tiện, đồng thời tiết kiệm chi phí,
Sv .Đinh Tiến Dũng

7

Lớp: NHB-K8


Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp

8


Khoa: Ngân hàng

ngân hàng đưa ra nhiều hình thức thanh tốn khác nhau như thanh toán bằng séc,
uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết
nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng cịn thực
hiện thanh tốn bù trừ thơng qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các
trung gian thanh toán.
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại.
Cùng với sự phát triển của kinh tế, thì các hoạt động của ngân hàng
thương mại cũng dần dần được mở rộng và trở lên đa dạng hơn. Các ngân hàng
thương mại ngày nay là một doanh nghiệp cung cấp rất nhiều các dịch vụ khác
nhau cho công chúng và doanh nghiệp. Thành công của một ngân hàng phụ
thuộc vào năng lực cung cấp và xác định các dịch vụ tài chínhàm xã hội có nhu
cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả. Dưới đây là một số những
dịch vụ mà các ngân hàng thương mại thường hay cung cấp cho khách hàng.
Mua bán ngoại tệ:
Dịch vụ mua bán, trao đổi ngoại tệ là một trong những dịch vụ đầu tiên mà
ngân hàng thực hiện. Với dịch vụ này, các ngân hàng thương mại sẽ đứng ra mua
một loaị ngoại tệ này để đổi lấy một loại ngoại tệ khác, từ đó thu về chênh lệch
và hưởng phí giao dịch. Hiện nay điều này trở lên rất quan trọng đối với thương
mại quốc tế, đặc biệt là đối với ngành du lịch. Đồng thời, dịch vụ này còn là một
kênh huy động vốn cho ngân hàng, cho vay ngoại tệ.
Nhận tiền gửi:
Cho vay được coi là một hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã
tìm mọi cách để huy động tiền. Và một trong những nguồn quan trọng nhất trong
việc huy động vốn của các ngân hàng thương mại đó là các khoản tiền gửi thanh
toán và tiết kiệm của khách hàng. Ngân hàng mở dịch vụ tiền gửi để bảo quản hộ
người có tiền với cam kết trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để giành được các
khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho khoản tiền gửi như một phần thưởng
Sv .Đinh Tiến Dũng


8

Lớp: NHB-K8


Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp

9

Khoa: Ngân hàng

cho khách hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu chi tiêu trước mắt và cho phép
ngân hàng sử dụng tạm thời số tiền này để đưa vào kinh doanh.
Cho vay:
Hoạt động cho vay cũng là một trong những hoạt động đầu tiên của các
ngân hàng thương mại. Hiện nay, các ngân hàng thương mại có các hình thức
cho vay như sạu:
- Cho vay thương mại và chiết khấu thương phiếu: Ngay ở thời kỳ đầu,
các ngân hàng thương mại đã chiết khấu thương phiếu mà thực ra là cho vay đối
với người bán ( người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền
trước). Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với các khách hàng ( là người
mua ), giúp họ có vốn để mua hàng hoá để mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Cho vay tiêu dùng:Trong giai đoạn đầu thành lập, các ngân hàng thương
mại đều khơng tích cực với hoạt động cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình
trong việc tiêu dùng, bởi vì họ tin rằng hoạt động cho vay tiêu dùng hàm chứa rủi
ro cao, rất dễ dẫn đến phá sản. Tuy nhiên sau đó, cùng với sự phát triển không
ngừng của các nền kinh tế, kéo theo sự tăng kên của thu nhập cá nhân, nhu cầu
cho tiêu của cá nhân, cũng như hộ gia đình tăng cao hoạt động cho vay tiêu dùng
cũng theo đó mà trở thành một hoạt động sinh lới cao. Mặt khác, sự cạnh tranh

giữa các ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường ngày càng trở lên
khốc liệt trong việc huy động vốn, điều này đã buộc các ngân hàng phải hướng
đến các cá nhân và hộ gia đình như một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh
thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín
dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển. Mặc dù hiện
nay tốc độ đã chậm lại do cành tranh tín dụng ngày càng lớn trong khi nền kinh
tế phát triển chậm lại. Tuy nhiên cho vay tiêu dùng vẫn luôn là một hoạt động
quan trong của các ngân hàng thương mại.

Sv .Đinh Tiến Dũng

9

Lớp: NHB-K8


Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp

Khoa: Ngân hàng
1
0
-Cho vay tài trợ cho các dự án: Ngày nay, ngoài các hoạt động mang tính

truyền thống như là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng thương mại còn tham gia
vào các hoạt động tài trợ và đồng tài trợ cho các dự án như xây dựng nhà máy ,
phát triển công nghệ cao, một số ngân hàng còn tham gia vào hoạt động cho vay
để đàu tư vào đất. Hoạt động cho vay tài trợ cho các dự án nói chung thường
hàm chứa rủi ro cao. Do vậy, hoạt động này thường được thực hiện với một
công, hoặc một số công ty đầu tư, các thành viên của công ty sở hữu ngân hàng,
cùng với sự hợp tác của các công ty khác để chua sẻ rủi ro. Ngoài ra, các ngân

hàng còn tham gia vào việc tài trợ cho các chương trình văn hố xã hội, các
chương trình thể thao, các trương trình văn hố xã hội…
Bảo quản tài sản hộ:
Các ngân hàng thực hiệc việc lưu giữ vàng, các giấy tời có giá và các tài
sảm khác cho khách hàng trong két ( vì vậy cịn gọi là dịch vụ cho thuê két ) .
Ngân hàng thường giữ hộ các tài sản tài chính, giấy tờ cầm cố, hoặc những giấy
tờ quan trọng khác của khách hàng với nguyên tắc an tốn bí mật và thuận tiện.
Dịch vụ này phát triển cùng với nhiều dịch vụ khác như mau bán hộ các giấy tờ
có giá khác cho khách, thanh tốn lãi hoặc cổ tức hộ… Mặt khác, các giấy chứng
nhận do ngân hàng ký và phát cho khách hàng ( ghi nhận về tái sản đang được
lưu giữ ) có thể trao đổi mau bán như một loại tiền và đây là nền tảng cho việc
hình thành các loại hình thanh toán hiện nay như séc, các loại thẻ…
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán:
Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ thực hiện
bảo quản mà còn thay mặt khách hàng thực hiện các hoạt động chi trả hộ khách
hàng. Và q trình thanh tốn thơng qua ngân hàng đã mở đầu cho việc thanh
tốn khơng dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để
lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách hàng, sau đó khách hàng chỉ việc
mang giấy đến ngân hàng sẽ nhận được tiền. Phương thức thanh tốn khơng

Sv .Đinh Tiến Dũng

1
0

Lớp: NHB-K8


Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp


Khoa: Ngân hàng
1
1
dùng tiền mặt có rất nhiều những tiện ích như : an tốn, nhanh chóng, chính xác,

tiết kiệm chi phí… đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và tiết kiệm cho
phí cho khách hàng, thơng qua đó cũng phần nào nâng cao thu nhập cho khách
hàng. Khi ngân hàng mở chi nhánh, phạm vi thanh toán của ngân hàng được mở
rộng, càng tạo ra nhiều tiện ích hơn. Điều này khuyến khích việc gửi tiền vào
ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh tốn hộ. Cùng với sự phát triển của cơng
nghệ thơng tin, bên cạnh các thể thức thanh tốn như séc, uỷ nhiệm chi , nhờ thu,
đã phát triển hình thức thanh toán mới bằng thẻ…
Quản lý ngân quỹ:
Các ngân hàng mở tài khoản và tiền gửi của phần lớn các doanh nghiệp
và cá nhân. Nhờ đó, các ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều
khách hàng. Đó cũng là điều kiện để ngân hàng có nhiều kinh nghiệm trong việc
quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp
cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong dó ngân hàng đồng ý quản lý
việc thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặn dư tiền
mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn cho đến khi
khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Tài trợ cho các hoạt động của chính phủ:
Các hoạt động của ngân hàng thương mại ln có tác động cũng như ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển chung của nền kinh tế. Vì vậy, ngay từ khi được
thành lập các ngân hàng đã phải hoạt động theo những quy định chung của chính
phủ các nước. Mặt khác, ngân hàng thương mại có một khả năng huy động vốn
vay rất lớn. Do đó, các ngân hàng thương mại đã trở thành trọng tâm chú ý của
chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu của chính phủ thường là lớn và cấp bách trong
khi các nguồn thu khơng đủ, nên chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các
khoản vay của ngân hàng. Ngày nay m chính phủ các nước đều giành quyền cấp

phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp phép thành
Sv .Đinh Tiến Dũng

1
1

Lớp: NHB-K8


Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp

Khoa: Ngân hàng
1
2
lập với cam kết họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chinh sách của

chính phủ và tài trợ cho chính phủ. Các ngân hàng thường mua trài phiếu chính
phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động
được
Bảo lãnh:
Do khả năng thanh toán của một ngân hàng cho một khách hàng là rất lớn
và do ngân hàng năm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong
bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây nghiệp vụ bảo lãnh ngày
càng trở lên đã dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách
hàng của mình mua chịu hàng hố, trang thiết bị, phát hành chứng khốn, vay
vốn của tổ chức tín dụng khác…
Cho th tài chính:
Thực chất cho th tài chính là một hình thức tài trợ vốn, trong đó theo
yêu cầu sử dụng của bên đi thuê (thường là các Doanh nghiệp không đủ vốn để
mua tài sản), bên cho thuê (thường là các ngân hàng hoặc các cơng ty tài chính..)

tiến hành mua tài sản và chuyển giao cho bên đi thuê sử dung. Cuối hợp đồng
thuê, bên đi thuê có thể mua ln tài sản (do vậy cịn gọi là hợp đồng thuê mua).
Rất nhiều các ngân hàng tích cực cho khách hàng lựa chọn quyền thuê các thiết
bị, máy móc cần thiết thông qua các hợp đồng thuê mua, khi đó các ngân hàng
mua thiết bị và cho khách hàng thuê với điều kiện khách hàng phải trả tới hơn
70% hoặc 100% giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy cho thuê của ngân hàng có
nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn.
Cung cấp dịch vụ uỷ thác tư vấn:
Hoạt động của ngân hàng chính là hoạt động đặc chưng của một tổ chức
tài chính, do đó điều tất yếu là ngân hàng phải có rất nhiều chuyên gia về lĩnh
vực tài chính giàu kinh nghiệm cũng như chun mơn. Và đó cũng là lý do mà
rất nhiều cá nhân và doanh nghiệp nhớ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt
Sv .Đinh Tiến Dũng

1
2

Lớp: NHB-K8


Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp

Khoa: Ngân hàng
1
3
động tài chính hộ. Khi khách hàng có nhu cầu thì ngân hàng sẽ tiến hành các tư

vấn về đầu tư,về quản lý, về thành lập, tách gộp công ty, hay mua bán chứng
khốn. Thậm chí các ngân hàng cịn tiến hành các dịch vụ như uỷ thác di chúc,
quản lý tài sản của khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản

các tài sản có giá. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư
vấn về tài chính.
Cung cấp dịch vụ mơi giới đầu tư chứng khốn:
Cùng với sự phát triển khơng ngừng của các nền kinh tế trên thế giới, thì
cùng với nó là sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp nói
chung và giữa các ngân hàng nói riêng, đã buộc các ngân hàng phải ngày càng lỗ
lực trong việc thực hiện cung cấp ngầy càng đầy đủ các dịch vụ cho khách hàng,
nhằm thoả mãn mọi nhu cầu cho khách hàng. Và đây cũng là một trong những ly
do khiến các ngân hàng bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho
khách hàng mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Hiện nay, các
ngân hàng cịn thành lập ra các cơng ty chứng khốn hoặc các cơng ty mơi giới
chứng khốn đẻ cung cấp các dịch vụ về chứng khoán cho khách hàng.
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm:
Ngày nay hoạt động của các ngân hàng đã lan sang cả lĩnh vực bảo hiểm.
Các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó đảm bảo việc hoàn trả
trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế do gặp rủi ro trong hoạt động
mất khả năng thanh tốn. Ngồi ra ngân hàng cịn liên doanh với các công ty bảo
hiểm, hoặc tổ chức ra các công ty bảo hiểm con, ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết
kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh, tiết kiệm hưu trí…
Cung cấp các dịch vụ đại lý:
Do nhiều yếu tố khác nhau lên nhiều ngân hàng không thể thiêt lập các chi
nhánh và văn phịng đại diện ở khắp mọi nơi. Vì vậy một nhu cầu tất yếu sinh ra
đó là nhu cầu về dịch vụ đại lý. Chính vì vậy, mà các ngân hàng lớn có khả năng
Sv .Đinh Tiến Dũng

1
3

Lớp: NHB-K8



Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp

Khoa: Ngân hàng
1
4
sẽ cung cấp các dịch vụ đại lý cho các ngân hàng khác khơng có điều kiện. Các

dịch vụ đó có thể là thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân
hàng đầu mối cho đồng tài trợ…
1.1.3. Vai trị của cơng tác huy động vốn trong hoạt động của ngân
hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động vốn,
cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Vì vậy cơng tác huy động vốnhoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại đóng một vai trị hết sức
quan trọng.
Hoạt động của các ngân hàng thương mại có ảnh hưởng rất lớn đến các
thành phần trong nền kinh tế. Bởi vì các ngân hàng nắm giữ một lượng vốn rất
lớn của khách hàng, và cũng từ đó các hoạt động của ngân hàng sẽ có tác động
rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế.Vì vậy pháp luật của các quốc gia ln
buộc các ngân hang phải duy trì một lượng vốn lớn. Đó là yếu tố đảm bảo một
phần cho các rủi ro có thể xẩy ra. Đó cũng là lý do khiến cho việc huy động vốn
là yếu tố đóng vai trị quan trọng trong hoạt động của hệ thống ngân hang.

1.2. Công tác huy động vốn của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại.
Nguồn vốn là yếu tố cần thiết đầu tiên cần thiết cho hoạt động kinh doanh
của ngân hàng thương mại, luật pháp của mỗi quốc gia đều quy định mức vốn tối
thiểu mà ngân hàng phải có ngay từ khi thành lập. Trong quá trình hoạt động
kinh doanh, khi thiếu hụt vốn các ngân hàng có thể huy động thêm vốn từ nhiều
nguồn khác nhau trên thị trường. Song, nguồn vốn của ngân hàng thương mại có

thể chia thành các nguồn chủ yếu như sau:
-Vốn chủ sở hữu:

Sv .Đinh Tiến Dũng

1
4

Lớp: NHB-K8


Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp

Khoa: Ngân hàng
1
5
Để bắt đầu hoạt động (được pháp luật cho phép) chủ ngân hàng phải có

một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình
thành lên trang thiệt bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ
hình thành của loại vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài
chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường.
- Nguồn vốn hình thành ban đầu: Tuỳ theo tính chất của mỗi loại ngân
hàng mà nguồn gốc hình thành ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở
hữu nhà nước, ngân hàng Nhà nước cấp vốn (vốn Nhà nước). Nếu là ngân hàng
cổ phần, các cổ đơng góp vốn thơng qua mua cổ phiếu hoặc cổ phần. Ngân hàng
liên doanh do các bên liên doanh tham gia góp vốn, ngân hàng thư nhân là thuộc
sở hữu tư nhân.
- Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: Trong quá trình hoạt động
các ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc

vào điều kiện cụ thể. Nguồn từ lợi nhuận, trong điều kiện thu nhập dịng lớn hơn
khơng, chủ ngân hàng có su hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một
phần thu nhập dòng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích luỹ tuỳ thuộc vào cân nhắc của
chủ ngân hàng về tích luỹ và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập
dịng lớn hơn, nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận sẽ cao sơ với vốn của chủ hình
thành ban đầu. Nguồn vốn bổ sung từ quá trình phát hành thêm cổ phần, góp
thêm, cấp thêm… để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị,
hoặc để đáp ứng yêu cầu tăng vốn của chủ. Đặc điểm của hình thức huy động
này là khơng thường xun, song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn sở hữu
lớn vào lúc cần thiết.
- Các quỹ: Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có một mục đích riêng. trước
tiên là dự phịng tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích luỹ lại
nhằm bù đắp lại những tổn thất có thể xảy ra. Quỹ bảo tồn vốn mục đích bù đắp
sự hao mịn của vốn dưới tác động của lạm pháp. Quỹ thặng dư là phần đánh giá
Sv .Đinh Tiến Dũng

1
5

Lớp: NHB-K8


Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp

Khoa: Ngân hàng
1
6
lại tài sản của khách hàng và chênh lệnh giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi

phát hành cổ phiếu mới. Tuỳ theo quy định của từng nước, các ngân hàng còn có

thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng quỹ giám đốc…
Các quỹ của ngân hàng thuộc chủ sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình
thành các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên một số quỹ ngân
hàng không thể sử dụng lâu dài.
- Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần: Các khoản vay trung và
dài hạn của ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ
phần có thể coi là bộ phận của vốn sở hữu của ngân hàng ( vốn bổ sung ) do
nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa,
đất đai, và có thể khơng phải hồn trả khi đến hạn.
Vốn nợ:
Vốn nợ chính là nguồn vốn mà ngân hàng thương mại huy động được trên
thị trường trong quá trình hoạt động kinh doanh. Vì nguồn vốn chủ sở hữu là có
hạn, mà hoạt động của ngân hàng thương mại đòi hỏi cần một lượng vốn lớn, do
đó các ngân hàng thường xuyên có các kênh huy động vốn. Các nguồn này bao
gồm : tiền gửi của khách hàng, tiền vay.
1.2.2.Phân loại vốn huy động của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại có thể huy động vốn theo nhiều phương thức khác
nhau, tuy nhiên có thể chia các nguồn huy động vốn của ngân hàng thương mại
như sau:
Theo đối tượng huy động:
- Nguồn vốn huy động từ dân cư: một trong những kênh huy động vốn rất
quan trọng đối với ngân hàng, đó là nguồn vốn nhàn dỗi từ trong dân cư. Trên
thực tế, trong dân cư luôn tồn tại một nguồn vốn rất lớn mà chưa sử dụng đến, do
đó các ngân hàng thương mại có thể tiến hành huy động nguồn vốn này thơng
qua các hình thức như: tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, uỷ thác đầu tư. Đặc điểm
Sv .Đinh Tiến Dũng

1
6


Lớp: NHB-K8


Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp

Khoa: Ngân hàng
1
7
của nguồn vốn này là tương đối ổn định, các khoản chi phí cho giao dịch đối với

nguồn này tương đối thấp.
- Huy động từ các doang nghiệp: trong nền kinh tế mỗi một doanh nghiệp,
mỗi một tổ chức thường hoạt động theo một chu kỳ nhất định. Và vì vậy, vào
mỗi một thời điểm khác nhau thì doanh nghiệp cũng có nhu cầu về vốn khác
nhau. Do đó, trên cơ sở nắm bắt được chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp, chu
kỳ hoạt động của các tổ chức, mà ngân hàng có thể huy động vốn tuỳ theo thảo
thuận với các doanh nghiệp.
- Huy động từ các tổ chức tín dụng: trong qua trình hoạt động trên thị
trường tài chính sẽ có thời điểm các ngân hàng thương mại xảy ra tình trạng
thiếu hụt vốn tạm thời để thanh toán cho khách hàng, hoặc trong trường hợp
thiếu hụt dự trữ bắt buộc theo quy đinh của Ngân hàng nhà nước, hoặc để đáp
ứng các nhu cầu bất khả kháng. Khi đó, ngân hàng sẽ tiến hành vay vốn từ các tổ
chức tín dụng khác để đáp ứng nhu cẩu trước mắt. Tuy nhiên, nguồn này thường
có tỷ trọng rất thấp, tính ổn định không cao và không thường xuyên. Các ngân
hàng thường rất hạn chế sử dụng tới nguồn huy động này.
Theo mục đích gửi tiền:
- Tiền gửi tiết kiệm: đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguốn
vốn huy động của ngân hàng. Theo tình hình cụ thể của bản thân ngân hàng,
cũng như tình hình thực tế trên thị trường, mà các ngân hàng thương mại sẽ có
những chính sách phù hợp để huy động nguồn vốn thơng qua tiết kiệm. Cơng cụ

chính mà các ngân hàng sử dụng để huy động tiền gửi tiết kiệm chính là lãi suất,
thông qua lãi suất các ngân hàng sẽ thu hút khách hàng gửi tiền vào ngân hàng.
- Tiền gửi thanh tốn: là nguồn tiền có mục đích là phục vụ cho việc thanh
toán thường xuyên hay tiêu dùng hàng ngày của khách hàng. Do vậy nó có tính
ổn định khơng cao, tuy nhiên ngân hàng có thể sử dụng một phần nguồn này để

Sv .Đinh Tiến Dũng

1
7

Lớp: NHB-K8


Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp

Khoa: Ngân hàng
1
8
phục vụ cho các mục đích nhất định trên cơ sở tính tốn hợp lý quy luật biến

động của loại tiền gửi này.
- Tiền gửi ủy thác đầu tư: Hiện tại có nhiều doanh nghiệp có lượng vốn để
đưa vào hoạt động đầu tư, tuy nhiên họ lại thiếu kinh nghiệm trong lĩnh vực tài
chính, hoặc thiếu thơng tin trên thị trường. Khi đó họ có thể uỷ thác đầu tư cho
ngân hàng theo thoả thuận. Hoặc có những doanh nghiệp hay tổ chức không
được phép gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng, nên họ biến tướng dưới hình thức uỷ
thác đầu tư.
- Các nguồn vay khác như phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, thương phiếu…
1.2.3.Các phương pháp huy động vốn của ngân hàng thương mại.

Huy động từ tiền gửi : Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan
trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động,
nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho
khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ
chức và của dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn
tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong mơi trường cạnh tranh và để có
nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện
nhiều hình thức huy động khác nhau.
- Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch, hoặc tiền gửi thanh toán): Để đáp
ứng nhu cầu chi trả cho các hoạt động thanh toán, giao dịch, các cá nhân và tổ
chức sẽ gửi tiền vào ngân hàng, và trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu
chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đề được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu
bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đề có thể được nhập vào tiền gửi thanh
tốn theo u cầu. Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền này rất thấp (hoặc bằng
khơng), thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ của ngân hàng
với mức phí thấp. Hiện nay, với sự cạnh tranh ngày càng trở lên khốc liệt trên thị
Sv .Đinh Tiến Dũng

1
8

Lớp: NHB-K8


Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp

Khoa: Ngân hàng
1
9

trường, các ngân hàng luôn lỗ lực rút ngắn thời gian, thủ tục một cách nhanh

chóng và thuận tiện nhất. Ngồi ra, để thu hút khách hàng các ngân hàng còn kết
hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay (thấu chi – chi trội hơn
số dư tài khoản tiền gửi thanh toán). Một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức
biến tướng của thanh tốn để nâng lãi suất loại tiền gửi này nhằm cạnh tranh với
các tổ chức tín dụng khác.
- Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội: Nhiều khoản
thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả trong một
thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện trong hoạt động thanh
toán song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng như cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân
hàng đã đưa ra các hình thức gửi tiền có kỳ hạn. Người gửi khơng được sử dụng
các hình thức thanh tốn đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền
gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tuy
không thuận tiện cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh tốn, song tiền gửi
có kỳ hạn được hưởng lãi suất cao hơn tuỳ theo độ dài của kỳ hạn. Đây là một
yếu tố thu hút được nhiều nguồn tiền nhán dỗi trong dân cư cũng như các tổ chức
khác.
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư : Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu
nhập tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiết kiệm). Trong điều kiện có khả năng
tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu
bảo toàn và sinh lời đối với tài khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn.
Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến
khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng
mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh
tranh hấp dẫn (ví dụ như: tiền gửi với các kì hạn khác nhau, tiết kiệm nhiều
trương mục tiết kiệm ( hoặc là sổ tiết kiệm ) cho mỗi kỳ hạn và mỗi lần gửi khác

Sv .Đinh Tiến Dũng


1
9

Lớp: NHB-K8


Chuyên đề Thực tấp Tốt nghiệp

Khoa: Ngân hàng
2
0
nhau. Sổ tiết kiệm này khơng dùng để thanh tốn tiền hàng và dịch vụ song có

thể thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép.
- Tiền gửi của các ngân hàng khác : Nhằm mục đích nhờ thanh tốn hộ và
một số mục đích khác, ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng
khác. Tuy nhiên, quy mô nguồn này thường không lớn.
Huy động từ nguồn tiền vay: Tiền gửi của khách hàng là nguồn quan trọng
nhất của các ngân hàng thương mại, tuy nhiên, khi cần, các ngân hàng cũng có
thể vay mượn thêm từ các thành phần trong nền kinh tế. Tại nhiều nước, ngân
hàng Trung ương thường quy định tỷ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn chủ sở
hữu. Do vậy nhiều ngân hàng vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm
trên thị trường để đáp ứng nhu cầu thanh khoản khi khả năng huy động bị hạn
chế. Các nguồn mà ngân hàng có thể vay mượn thêm là:
- Vay ngân hàng Nhà nước: Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu
cấp bách trước mắt trong chi trả của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp
thiếu hụt dự trữ ( thiếu dự trứ bắt buộc, dự trữ thanh toán ), ngân hàng thương
mại thường vay ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng
Nhà nước là tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được ngân
hàng thương mại chiết khấu (hoặc tái chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi

cần tiền, các ngân hàng thương mại mang những thương phiếu này lên tái chiết
khấu tại ngân hàng Nhà nước. Nghiệp vụ này làm cho thương phiếu của ngân
hàng thương mại giảm đi và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại ngân hàng Nhà
nước) tăng lên. Ngân hàng Nhà nước điều hành vay mượn này một cách chặt
chẽ, ngân hàng thương mại phải thực hiện cácđiều kiệm đảm bảo và kiểm soát
nhất định. Thông thường Ngân hàng Nhà nước chỉ tái chiết khấu cho những
thương phiếu có chất lượng (thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và
phù hợp với mục tiêu của ngân hàng Nhà nước vào từng thời kỳ. Trong điều kiện

Sv .Đinh Tiến Dũng

2
0

Lớp: NHB-K8



×