A. PHẦN MỞ ĐẦU .
1. Lý do chọn đề tài.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng nền văn minh
nhân loại càng phát triển bao nhiêu thì người ta càng nhận thức sâu sắc về nhân
tố con người bấy nhiêu.
Trong thời đại ngày nay nền kinh tế tri thức đang là một yếu tố quan
trọng thúc đẩy tăng nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch mạnh về
cơ cấu, tạo sự nhảy vọt vượt bậc về lực lượng sản xuất. Trong nền kinh tế tri
thức nhân tố con người đặc biệt là người lao động có kỹ thuật, có tay nghề cao
có ý nghĩa rất quan trọng. Do vậy phát triển nguồn lực con người là một yếu tố
mang tính nhân văn bởi con người không chỉ đóng vai trò là một yếu tố cơ bản
của quá trình sản xuất mà còn là mục tiêu của sự phát triển kinh tế xã hội.
Hiện nay đất nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hóa để xây
dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đã tham gia và trở thành
thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Công cuộc hội nhập
đã mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức lớn về mọi mặt đối với nước ta.
Trong điều kiện đó để đẩy nhanh, mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, xây dựng nền kinh tế tri thức đất nước ta hơn lúc nào hết việc nghiên cứu
phát triển nguồn nhân lực con người là rất cần thiết.
Đảng ta đã xác định phát triển nguồn nhân lực con người là nhân tố được
quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tại
Hội nghị lần 2 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII và trong nghị quyết của
Đại hội đại biểu toàn quốc lần IX của Đảng, Đảng ta đã khảng định: “ Để đưa
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đi tới thắng lợi cần phải phát
triển mạnh giáo dục đào tạo, phát triển nguồn lực con người với tư cách là yếu
tố cơ bản, là nguồn lực nội sinh cho sự phát triển bền vững”.
1
Mặt khác trong chiến lược dân số giai đoạn 2001-2010 do Thủ Tướng
Chính Thủ phê duyệt ngày 22/12/2010 cũng đã khẳng định “giải quyết đồng
bộ, từng bước và có trọng điểm từng yếu tố của chất lượng, cơ cấu dân số và
phân bố dân cư để nguồn nhân lực trở thành thế mạnh, là tài sản vô giá của đất
nước hiện tại và cho thế hệ mai sau”.
Từng bước phát triển nguồn nhân lực con người có chất lượng cao trong
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở hình thành con
người Việt Nam có năng lực trí tuệ. Vĩnh Tường là một huyện thuộc tỉnh Vĩnh
Phúc với các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội thuận lợi, huyện đã đề ra những
mục tiêu rất quan trọng nhằm mục đích đưa huyện “Từ một huyện thuần nông
thành huyện công nghiệp hiện đại trước năm 2020” để đáp ứng kịp thời quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để đạt được mục tiêu có tính
chất chiến lược này thì phát triển nguồn nhân lực con người là điều quan trọng
hàng đầu.
Là một sinh viên trường Đại học sư phạm sinh ra và lớn lên trên quê
hương Vĩnh Tường bản thân luôn mong muốn sẽ góp một phần nhỏ vào việc
xây dựng quê hương thông qua các kết quả nghiên cứu của mình. Nên tôi chọn
đề tài “Phát triển nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay” để
nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu.
Con người và nguồn lực con người là một vấn đề không mới từ lâu đã thu
hút nhiều công trình nghiên cứu. Có nhiều công trình nghiên cứu đề cập tới các
khía cạnh:
“Phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp hóa hiện đại hóa” của tác
giả Nguyễn Thanh (2000).
2
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và vấn đề phát huy nhân tố con
người trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Võ Minh Hiến (2003).
“Triết học Mác- LêNin về con người và xây dựng con người Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của tác giả Vũ Thiên Vương
(2003).
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Xuất phát từ quan điểm chủ nghĩa Mác- LêNin về con người với tư cách
là một thành tố quan trọng của lực lượng sản xuất, nguồn lực con người và vai
trò của nguồn lực con người đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta. Đề tài làm rõ thực trạng và giải pháp chủ yếu để phát triển nguồn nhân
lực con người phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện Vĩnh
Tường tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Thực trạng nguồn lực con người ở huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc
trong giai đoạn hiện nay.
Đề xuất một số giải pháp để phát triển nguồn lực con người ở huyện Vĩnh
Tường.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Nguồn lực con người ở huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Phát triển nguồn lực con người trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại
hóa ở huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay.
5. Đóng góp của đề tài.
Ở mức độ nào đó đề tài góp phần:
3
Làm rõ vai trò nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta nói chung và huyện Vĩnh Tường nói riêng.
Làm tài liệu cho sinh viên chuyên ngành.
6. Phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở nghiên cứu của đề tài là những quan điểm của chủ nghĩa Mác-
LêNin, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Đề tài sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp
phân tích tổng hợp,
7. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
gồm có 2 chương và 5 tiết.
4
B. NỘI DUNG .
Chương I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- LêNin về nguồn lực con
người với tư cách là một thành tố quan trọng của lực lượng sản xuất.
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về lực lượng sản xuất và vai
trò của lực lượng sản xuất.
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- LêNin về lực lượng sản xuất.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- LêNin về vai trò của lực lượng
sản xuất.
1.2. Vai trò của nguồn lực con người và ý nghĩa của việc phát triển
nguồn lực con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2.1. Quan điểm Mácxit về nguồn lực con người.
1.2.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- LêNin về vai trò của nguồn lực
con người và ý nghĩa của việc phát triển nguồn lực con người trong quá
trình phát triển xã hội.
1.2.3. Quan điểm của Đảng ta về vai trò của nguồn lực con người với
tư cách là một thành tố quan trọng của lực lượng sản xuất.
1.2.4. Tính thiết yếu của việc phát triển nguồn lực con người trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Chương II. Thực trạng phát triển nguồn lực con người trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc
trong giai đoạn hiện nay.
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội ở huyện Vĩnh Tường.
2.2. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện Vĩnh Tường.
5
2.3. Thực trạng, giải pháp phát triển nguồn lực con người trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện Vĩnh Tường trong giai đoạn
hiện nay.
2.3.1. Quan điểm về sự nghiệp phát triển đào tạo nguồn lực con người
ở huyện Vĩnh Tường.
2.3.2. Mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đào tạo nguồn lực con người ở
huyện Vĩnh Tường tính đến năm 2020.
2.3.3. Số lượng và chất lượng nguồn lực con người ở huyện Vĩnh
Tường.
2.2.4. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong việc
phát triển nguồn lực con người ở huyện Vĩnh Tường trong những năm qua.
2.2.5 Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực con người ở
huyện Vĩnh Tường.
6
Chương I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-LêNin về nguồn lực con
người với tư cách là một thành tố quan trọng của lực lượng sản xuất.
1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- LêNin về lực lượng sản xuất và
vai trò của lực lượng sản xuất.
1.1.1.Quan điểm của chủ nghĩa Mác- LêNin về lực lượng sản xuất.
Để tiến hành sản xuất vật chất con người phải dùng các yếu tố vật chất
và kỹ thuật nhất định tác động vào giới tự nhiên. Tổng thể các nhân tố đó là
lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất biểu thị mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên. Nghĩa là trong quá trình thực hiện sản xuất xã hội con người
phải chinh phục tự nhiên bằng các sức mạnh hiện thực của chính mình, sức
mạnh được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong khái niệm lực lượng
sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con
người trong quá trình sản xuất tạo nên của cải đảm bảo cho sự phát triển
của con người.
Vậy lực lượng sản xuất là năng lực thực tế của con người được hình
thành trong hoạt động sản xuất vật chất để giải quyết mâu thuẫn giữa tự
nhiên và xã hội, là sức mạnh vật chất để con người cải tạo tự nhiên, làm cho
tự nhiên thích ứng với nhu cầu xã hội. Xét từ quan điểm triết học lực lượng
sản xuất là phạm trù, tiêu chí cho trình độ và năng lực thực tế cải tạo tự
nhiên của con người.
Lực lượng sản xuất được hình thành trong hoạt động sản xuất vật chất
tức là hình thành trong lao động. Đối tượng lao động, tư liệu lao động và
người lao động đã cấu thành nên các yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất.
Đối tượng lao động thường chỉ là một phần tư liệu vật chất mà con
người thông qua lao động tiến hành tác động vào tư liệu đó tạo thành tư liệu
có giá trị sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội, tư liệu đó bao gồm vật tự
nhiên chưa gia công và vật thể đã gia công. Một mặt đối tượng lao động là
7
tiền đề để con người tiến hành sản xuất tư liệu vật chất, không có nó thì
không thể tiến hành sản xuất được, tức là không thể có lực lượng sản xuất
thực tế. Lao động chỉ có thể kết hợp với đối tượng lao động mới là nguồn
gốc của của cải vật chất, mới cấu thành lực lượng sản xuất thực tế. Mặt
khác đối tượng lao động lại là một tiêu chí xác định trình độ chinh phục tự
nhiên của con người và thước đo sự phát triển lực lượng sản xuất, trong
điều kiện lực lượng sản xuất không giống nhau thì sẽ có đối tượng lao động
tương ứng, chất và lượng của đối tượng lao động trực tiếp chế định trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
Tư liệu lao động cũng gọi là công cụ lao động, là một yếu tố cơ bản
của lực lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công
cụ lao động do con người sáng tạo ra, là sức mạnh của tri thức đã được vật
thể hóa, nó “nhân” sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản
xuất. Công cụ lao động là yếu tố “động nhất” của lực lượng sản xuất. Cùng
với quá trình tích lũy kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kỹ
thuật công cụ lao động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Chính sự
cải tiến và hoàn thiện không ngừng của công cụ lao động đã làm biến đổi
toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến cùng đó là nguyên nhân sâu xa của mọi
biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình
độ trinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các trình độ
kinh tế trong lịch sử.
Người lao động là con người, nhưng không phải tất cả mọi người đều
là người lao động. Người lao động là người có kinh nghiệm sản xuất, kỹ
năng lao động và kiến thức nhất định, có thể vận dụng tư liệu lao động để
tác động vào đối tượng lao động, tức có năng lực lao động nhất định, đồng
thời làm công tác sản xuất thực tiễn. Người lao động có khả năng lao động
không chỉ cần có thể lực nhất định mà phải có trí lực nhất định, bởi vì sản
8
xuất vật chất là hoạt động có mục đích, có ý thức, vừa cần sự hao tốn về thể
lực và trí lực hơn nữa cùng với việc ngày càng phát triển của sức lao động
và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật nhân tố trí lực chiếm tỉ lệ ngày càng
tăng cao, vai trò của người lao động trí óc trong sản xuất vật chất ngày càng
rõ rệt.
Trong những yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất người lao động
là chủ thể của quá trình sản xuất, là yếu tố năng động, có vai trò chủ đạo
trong lực lượng sản xuất, là “lao động sống”. Tư liệu lao động với tư cách
là nhân tố vế chất, là “lao động chết” là kết quả sáng tạo của lao động sống.
Cũng giống như Mác đã nói: giới tự nhiên không chế tạo ra bất kỳ máy móc
nào, không chế tạo ra xe hơi, đường sắt, điện báo, máy dệt…Chúng là sản
phẩm lao động của con người, đã biến thành vật chất tự nhiên của ý thức
con người, đã biến vật chất của ý chí con người điều khiển tự nhiên hoặc
bộ máy hoạt động của con người trong giới tự nhiên. Chúng là cơ quan đầu
não của con người được sáng tạo bởi bàn tay con người, là lực lượng “tri
thức được vật hóa”.
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học công nghệ đóng
vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất là
động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay khoa học công nghệ đã
phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi trong
sản xuất, trong đời sống và trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp” Sức lao
động đặc trưng cho lao động hiện đại không chỉ còn kinh nghiệm và thói
quen của họ mà là tri thức khoa học. Có thể nói: khoa học và công nghệ
hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
Từ sự cấu thành lực lượng sản xuất có thể thấy lực lượng sản xuất là
năng lực thực hiện sự thay đổi vật chất giữa con người và tự nhiên. Quá
trình biến đổi này là quá trình tự nhiên không ngừng “nhân hóa”, “sức
9
mạnh tự nhiên” và sức mạnh bản chất con người không ngừng đối tượng
hóa, mặt khác lại là quá trình sức mạnh tự nhiên bên ngoài bị nhất thể hóa
với thể lực con người, quy luật tự nhiên biến thành trí lực con người. Hai
quá trình này dựa vào nhau, chế định nhau hình thành nên lực lượng sản
xuất của loài người, lực lượng cấu thành bản chất của lực lượng sản xuất.
1.1.2. Quan điểm của Chủ Nghĩa Mác- LêNin về vai trò của lực
lượng sản xuất.
* Lực lượng sản xuất là “tiêu chuẩn cao nhất của phát triển xã hội”.
Vị trí và tác dụng của lực lượng sản xuất đã biểu thị một cách khoa
học trong toàn bộ kết cấu xã hội và sự thay đổi phát triển của nó, tức lực
lượng sản xuất là lực lượng quyết định cuối cùng của phát triển xã hội.
Triết học Mác đã rút ra một kết luận quan trọng sự phát triển của lực lượng
sản xuất là tiêu chuẩn căn bản để đánh giá tiến bộ xã hội hay một xã hội
không tiến bộ. Chính LêNin đã nói sự phát triển của lực lượng sản xuất là
“tiêu chí cao nhất của tiến bộ xã hội”
Vấn đề thứ nhất: Sở dĩ phát triển của lực lượng sản xuất có thể trở
thành tiêu chuẩn cao nhất, hoặc tiêu chuẩn căn bản của tiến bộ và không
tiến bộ xã hội là vì sự phát triển của một xã hội bất kỳ cũng đều có rất nhiều
tiêu chuẩn như: sự không ngừng nâng cao của trình độ kinh tế, sự không
ngừng hoàn thiện của chế độ chính trị, sự không ngừng tiến bộ của văn hóa,
tư tưởng, sự không ngừng phát triển của năng lực chủ thể con người thay
đổi hợp lý cách thức sống. Thực hiện được mục tiêu này xét cho cùng là
quyết định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất.
- Vấn đề thứ hai: sự phát triển của lực lượng sản xuất thể hiện tập
trung sự phát triển của xã hội. Sự phát triển của xã hội thể hiện trong sự
phát triển của nhiều phương diện như kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng
nhưng xét cho cùng là thể hiện tập trung sự phát triển của lực lượng sản
10
xuất. Trong một xã hội người ta tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát
triển với tốc độ cao vượt qua tốc độ phát triển của xã hội khác và trên thực
tế người ta thể hiện kết cấu xã hội thay đổi hợp lý, làm cho quan hệ xã hội
thay đổi tiến lên, năng lực chủ thể được nâng cao.
Triết học Mác- LêNin xác nhận sự phát triển của lực lượng sản xuất là
tiêu chí cao nhất hoặc tiêu chuẩn căn bản của phát triển xã hội đối với việc
phân tích sự phát triển của con người, nó luôn cung cấp căn cứ đáng tin
cậy. Tất nhiên chúng ta phải xem xét lý giải một cách toàn diện, không thể
tuyệt đối hóa vai trò tiêu chuẩn của lực lượng sản xuất.
Trước tiên: sự phát triển của lực lượng sản xuất là tiêu chuẩn căn bản
phát triển xã hội, nhưng không phải là duy nhất, trong đó không thể bỏ sang
một bên quan hệ sản xuất để lý giải tiêu chuẩn lực lượng sản xuất, bởi vì
ảnh hưởng của lực lượng sản xuất đối với sự phát triển của xã hội luôn cần
phải thông qua quan hệ sản xuất mới có thể thực hiện được. Lực lượng sản
xuất phát triển sẽ tạo ra vật chất của cải to lớn, nhưng sự phân phối của vật
chất trong xã hội lại không phải do lực lượng sản xuất quyết định trực tiếp
mà do quan hệ sản xuất. Do đó khi chúng ta phát triển lực lượng sản xuất
thì không thể không chú trọng đến quan hệ sản xuất.
Thứ hai: “Lực lượng sản xuất là tiêu chuẩn” là sự thống nhất không
ngừng phong phú của “vật” và sự không ngừng phát triển của con người.
Lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn của con người, do vậy sự phát
triển của lực lượng sản xuất không chỉ biểu hiện sự không ngừng phong
phú của vật mà còn biểu hiện sự không ngừng phát triển của con người.
Nhìn từ lịch sử tổng thể của nhân loại tùy theo sự phát triển của lực lượng
sản xuất, lực lượng bản chất con người không ngừng phát triển. Trên ý
nghĩa này Mác cho rằng phát triển lực lượng sản xuất cũng chính là phát
triển lực lượng bản chất con người.
11
Thứ ba: “Lực lượng sản xuất là tiêu chuẩn” là sự thống nhất của trình
độ hiện thực và tốc độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản
xuất của những quốc gia dân tộc không giống nhau muốn đạt đến trình độ
tương đồng, thời gian có dài, có ngắn, có tốc độ nhanh, có chậm không thể
chỉ lấy trình độ hiện thực của lực lượng sản xuất để đánh giá sự tiến bộ hay
không tiến bộ của xã hội. Chúng ta cần có sự thống nhất giữa trình độ thực
tiễn và tốc độ phát triển của lực lượng sản xuất để khảo sát sự phát triển của
xã hội, tức là từ góc nhìn của sự phát triển lực lượng sản xuất, xem nó có
thúc đẩy lực lượng sản xuất hay là trói buộc lực lượng sản xuất để đánh giá
tiến bộ hay không tiến bộ của xã hội.
* Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi
quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó.
Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi do những nguyên
nhân sau:
- Bản thân người lao động thì những kỹ năng và kinh nghiệm không
ngừng tích lũy và tăng lên.
- Bản thân tri thức khoa học, tri thức công nghệ trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp.
- Sự ổn định của quan hệ sản xuất là nhu cầu khách quan để có thể sản
xuất được.
Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà
trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển của lực lượng sản xuất”.
Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn
đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là nó tạo điều
12
kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản
xuất và do lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm
cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực
lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằn quuan hệ
sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới để
thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất
cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ
mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế. Nhưng rồi quan hệ sản
xuất mới này lại sẽ trở lên không phù hợp với lực lượng sản xuất đã phát
triển hơn nữa sự thay thế phương thức sản xuất lại diễn ra.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chứng minh vai trò quyết định của lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất song nó cũng chỉ ra rằng quan hệ sản
xuất bao giờ cũng có tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất. Quan
hệ sản xuất quy định mục đích sản xuất, tác động đến thái độ của con người
trong lao độnglao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội,
đến phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ, do đó tác động đến sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Ngược lại quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu so với sự phát triển của lực
lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan
hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất thì theo quy luật
chung quan hệ sản xuất cũ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển. Tuy nhiên việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản
13
xuất với quan hệ sản xuất không phải là giản đơn. Nó phải thông qua hoạt
động nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người.
1.2. Vai trò của nguồn lực con người và ý nghĩa của việc phát triển
nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2.1. Quan điểm Mácxit về nguồn lực con người.
Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về nguồn lực con người:
Theo ý kiến của một số nhà khoa học tham gia chương trình KX- 07-
“Con người Việt Nam- mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế- xã
hội” do Tiến sĩ Phạm Minh Hạc làm chủ biên thì “nguồn lực con người cần
được hiểu là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh
thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất” [5, 328]
Theo phó giáo sư, tiến sĩ Hoàng Chí Bảo cho rằng: “Nguồn lực con
người là sự kết hợp thể lực và trí lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất
lượng, hiệu quả hoạt động và triển vọng mới phát triển của con người”[6,
14]
Trong luận án Tiến sĩ triết học: “Nguồn lực con người trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, tác giả Đoàn Văn Khái xác định:
“Nguồn lực con người là khái niệm chỉ số dân, cơ cấu dân số và nhất là chất
lượng con người với tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát triển
xã hội”.
Tại hội nghị lần thứ hai Ban Chấp Hành Trung ương khóa VIII:
“Nguồn lực con người là người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành
thạo, phải có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi
một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học công nghệ hiện
đại” [7, 53]
Còn rất nhiều các khái niệm mang ý nghĩa phổ quát như:
14
- Nguồn lực con người là những yếu tố ở trong con người, có thể huy
động, sử dụng để thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
- Nguồn lực con người là toàn bộ vốn người ( thể lực, trí lực, kỹ năng,
nghề nghiệp… ) mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy động được trong quá
trình sản xuất kinh doanh hay trong một hoạt động nào đó.
- Nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh
thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội…Tạo nên năng lực
ở con người, của cộng đồng người có thể sử dụng, phát huy trong quá trình
phát triển kinh tế xã hội đất nước và hoạt động xã hội.
Trước hết khái niệm “nguồn lực” theo nghĩa chung nhất thường được
hiểu là toàn bộ các yếu tố vật chất lẫn tinh thần tạo nên sức mạnh hiện thực
hay sức mạnh trong dạng tiềm năng cho sự biến đổi, sự phát triển đó.
Theo tác giả Đoàn Văn Khái thì có thể phân loại nguồn lực tùy thuộc
vào cơ sở sau: theo nghĩa phổ quát nhất có nguồn lực vật chất và nguồn lực
tinh thần, theo mối quan hệ bên trong và bên ngoài có nguồn lực bên trong
(nội lực) và nguồn lực bên ngoài (sự trợ giúp từ bên ngoài), theo quan hệ
chủ thể, khách thể thì có nguồn lực chủ quan (con người) và nguồn lực
khách quan (tất cả những yếu tố còn lại từ yếu tố chủ thể).
Cơ sở phân chia nguồn lực rất đa dạng, trong đó con người được coi
một nguồn lực: đương nhiên, nếu xem xét một cách biện chứng thì con
người có thể là nguồn lực vật chất trong mối liên hệ này nhưng lại là nguồn
lực tinh thần trong mối liên hệ khác. Con người cùng với các yếu tố như tài
nguyên thiên nhiên có thể được gọi là nguồn lực bên trong (nội lực) của
một quốc gia nhưng cũng có thể coi là nguồn lực bên ngoài nếu có sự trợ
giúp về sức mạnh cơ bắp trí tuệ của con người từ bên ngoài đối với quốc
gia đó.
15
Trong lý luận về lực lượng sản xuất, con người được coi là yếu tố quan
trọng hàng đầu quyết định sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất
thông qua việc luôn tạo ra công cụ lao động mới và sử dụng công cụ ấy
bằng kỹ năng lao động của mình. Ở góc độ này con người được coi là lực
lượng lao động cơ bản của xã hội.
Còn khái niệm về nguồn lực con người: đó là lý luận về vốn, con
người được coi như là một loại vốn. Theo cách hiểu này thì nguồn lực con
người được hiểu là toàn bộ “vốn người” như thể lực, trí tuệ, kỹ năng nghề
nghiệp mà mỗi cá nhân sở hữu.
Như vậy nguồn lực con người không chỉ là lực lượng lao động hay
nguồn lao động mà là tập hợp các yếu tố có nội dung rộng lớn bao gồm các
mặt sau:
- Thứ nhất: khái niệm “nguồn lực con người” biểu hiện ra là người lao
động, là lực lượng lao động trong độ tuổi theo quy định và có khả năng lao
động bao gồm lực lượng lao động hiện có và sẽ có trong tương lai gần.
- Thứ hai: khái niệm nguồn lực con người phản ánh khía cạnh cơ cấu
dân cư và cơ cấu lao động trong các ngành, các vùng, cơ cấu lao động đã
qua đào tạo, cơ cấu trình độ, cơ cấu độ tuổi trong lực lượng lao động, cơ
cấu nguồn lao động dự trữ. Mặt khác khái niệm “nguồn lực con người” còn
phản ánh cơ cấu lao động theo giới.
-Thứ ba: khái niệm “nguồn lực con người” còn phản ánh chất lượng
dân số, chất lượng của lực lượng lao động thể hiện qua hàng loạt các yếu tố
trong đó trí tuệ, thể lực, đạo đức là những yếu tố quan trọng nhất.
-Thứ tư: Khái niệm “nguồn lực con người” còn hàm chứa cả sự liên hệ
tác động lẫn nhau giữa các yếu tố nội tại của nó, sự ảnh hưởng qua lại giữa
nguồn lực con với các nguồn lực khác.
16
-Thứ năm: Khái niệm “nguồn lực con người” còn chỉ ra rằng con
người được xem xét với tư cách nguồn lực nội tại, cơ bản trong hệ thống
các nguồn lực phát triển xã hội, nguồn lực con người khác với các nguồn
lực khác. Vì thế nó là nguồn lực của mọi nguồn lực. Con người không chỉ
là chủ thể quyết định sự vận động và sự phát triển của xã hội mà còn là
khách thể của các quá trình kinh tế xã hội, là đối tượng chính của sự phát
triển xã hội phải hướng vào phục vụ. Nói cách khác nếu các nguồn lực khác
chỉ là phương tiện, mục đích chính của sự phát triển xã hội thì nguồn lực
con người vừa là phương tiện, vừa là mục tiêu tiêu của sự phát triển xã hội.
Trong thời đại ngày nay khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp với sự phát triển mạnh mẽ của nhiều ngành khoa học công
nghệ hiện đại, với hàm lượng chất xám ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong
mỗi sản phẩm làm ra thì con người ngày càng tỏ rõ vai trò quyết định của
sự phát triển của xã hội nói chung và lực lượng sản xuất nói riêng.
Các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, vốn, …là có hạn ngay cả
nếu phong phú đến đâu cũng có thể bị khai thác cạn kiệt. Hơn nữa các
nguồn lực vật chất như vốn kỹ thuật, công nghệ cũng sẽ không được sử
dụng có hiệu quả nếu không có những con người có trí tuệ và đủ năng lực
để làm chủ nó. Trái lại trí tuệ nguồn lực con người lại là vô hạn, luôn luôn
phát triển, có khả năng tái sinh và tự tái sinh không bao giờ cạn kiệt nếu
chúng ta biết nuôi dưỡng thúc đẩy nó phát triển. Có thể nói con người là
nguồn lực chủ yếu, vững chắc, lâu bền nhất trong sự phát triển nhân loại, là
nguồn lực của mọi nguồn lực.
Nguồn lực con người đặc biệt là năng lực trí tuệ của nó chỉ phát huy
được vai trò, sức manh thực tế khi nó dựa trên cơ sở những nguồn lực khác,
lấy đó làm điều kiện, tiên đề cho mọi hoạt động và phát triển con người
trong thực tiễn.
17
Như vậy, con người phải được xem xét trên hai mặt phương tiện và
mục tiêu: con người phương tiện (là cách thức, là công cụ để tác động vào
đối tượng để thực hiện nhiệm vụ, những chương trình phát triển) phải gắn
bó hữu cơ với con người mục tiêu.
Trong khi sử dụng khai thác phương tiện con người, chủ thể quản lý
phải nhìn nhận, đây là phượng tiện đặc biệt có tính xã hội, là chủ thể mang
nhân cách. Sức mạnh của con người biểu hiện qua sức mạnh thể lực, trí lực,
đạo đức, niềm tin, ý chí, ở sự thống nhất biện chứng giữa sức mạnh vật chất
và sức mạnh tinh thần của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng. Những yếu tố
đầu tiên có quan hệ hữu cơ với nhau và trong điều kiện ngày nay, trí lực có
vai trò đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên trí lực và thể lực chỉ có thể tạo ra sức
mạnh thúc đẩy tiến bộ xã hội khi chủ nhân của nó là con người có phẩm
chất đạo đức tốt, sự tha hóa đạo đức sẽ dẫn đến suy thoái chất lượng nguồn
lực con người.
Vấn đề đặt ra là cần phân biệt khái niệm “nguồn lực con người” với
“nguồn nhân lực” và “nhân tố con người”. Hiện nay khái niệm nguồn nhân
lực dùng với nghĩa nguồn lực con người. Tuy nhiên theo tác giả Đoàn Văn
Khái thì khái niệm “nguồn nhân lực” ngoài nghĩa rộng được hiểu như khái
niệm “nguồn lực con người” còn được hiểu theo nghĩa hẹp là tổng hợp các
cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động, bao gồm
những người từ giới hạn dưới của độ tuổi lao động trở lên (ở nước ta giới
hạn dưới của độ tuổi lao động là 15 tuổi). Hay nguồn nhân lực bao gồm
nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động (với cách hiểu
này nguồn nhân lực tương đương với nguồn lao động).
Khái niệm “nhân tố con người” được hiểu là cái cốt lõi mang đặc trưng
xã hội, là thuộc tính xã hội, giữ vị trí trung tâm trong tiềm năng của nguồn
lực con người. Nhân tố con người phản ánh bản chất xã hội, mặt chất lượng
18
của nguồn lực con người. Nhân tố con người là hệ thống các yếu tố, các đặc
trưng quy định vai trò chủ thể tích cực, sáng tạo, tự giác của con người bao
gồm một chỉnh thể thống nhất giữa mặt hoạt động với tổng hòa các đặc
trưng về phẩm chất, năng lực con người trong một quá trình biến đổi và
phát triển xã hội nhất định.
Như vậy khái niệm “nhân tố con người” phản ánh bản chất xã hội của
con người, của nguồn lực con người, là hạt nhân cốt lõi đặc trưng của mặt
chất lượng của nguồn lực con người, nhấn mạnh vai trò chủ thể tích cực
sáng tạo của con người. Còn khái niệm “nguồn lực con người” hay “nguồn
nhân lực” dùng để nói lên khả năng và phẩm chất của lực lượng lao động.
Khái niệm “nguồn lực con người” và “nhân tố con người” có cùng một
ý nghĩa khi đặt trong mối quan hệ với các nhân tố khác (vật chất) biểu hiện
những đặc trưng, xu hướng, thuộc tính của con người, là nhân tố hoạt động
sống, khả năng tái sinh và tự nhân mình lên gấp bội tiềm năng vô tận của
chí tuệ con người. Do đó phát huy nhân tố con người có thể hiểu như là
phát huy nguồn nhân lực con người, khi đó con người trở thành một điều
kiện, một tiềm năng cần phát huy để tạo ra một động lực để phát triển của
một quá trình xã hội.
Khái niệm “tài nguyên con người” được sử dụng với hàm ý nhấn mạnh
phương diện khách thể của con người, coi con người như là một dạng tài
nguyên, một loại của cải quý giá cần được khai thác hợp lý có hiệu quả
nguồn tài nguyên này đặc biệt là tiềm năng trí tuệ trong đó phát huy nguồn
lực con người thể hiện ở ba mặt: phát triển nguồn lực con người, sử dụng
nguồn lực con người và nuôi dưỡng nguồn lực con người.
Nguồn lực con người được Đảng ta xác định tại Hội nghị lần thứ hai
Ban chấp hành Trung ương khóa VIII “người lao động có trí tuệ cao, có tay
nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp được đào tạo, bồi dưỡng phát huy
19
bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học công nghệ
hiện đại” [8, 9].
1.2.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác- LêNin về vai trò của nguồn
lực con người và ý nghĩa của việc phát triển nguồn lực con người trong
quá trình phát triển xã hội.
Nói về vai trò của con người trong sự phát triển xã hội, hơn 100 năm
trước khi coi tiến trình phát triển lịch sử của xã hội loài người là sự thay thế
lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-
LêNin đã cho rằng xu hướng chung của tiến trình phát triển lịch sử được
quy định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội bao gồm con người
và những công cụ do con người tạo ra. Sự phát triển của lực lượng sản xuất
tự nó đã nói lên trình độ phát triển của xã hội qua việc con người chiếm
lĩnh, sử dụng ngày càng nhiều lực lượng tự nhiên với tư cách là cơ sở vật
chất cho mọi hoạt đông sống của chính con người và quyết định mối quan
hệ giữa con người với người trong sản xuất. Sản xuất càng phát triển tính
chất xã hội hóa ngày càng tăng. Việc sản xuất tập thể bằng lực lượng của
toàn xã hội và sự phát triển của nền sản xuất mới do việc nó mang lại sẽ cần
đến những con người hoàn toàn mới, những con người có năng lực phát
triển toàn diện đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất. Đến lượt mình
nền sản xuất đó sẽ tạo nên những con người hoàn toàn mới. Điều đó cho
thấy trong quan niệm của các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác- LêNin phát
triển sản xuất vì sự phát triển và sự tiến bộ xã hội, vì cuộc sống tốt đẹp hơn
cho mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội và phát triển con người, sử dụng
ngày càng có hiệu quả tiềm năng và khả năng sáng tạo của con người là
một quá trình thống nhất để “làm tăng thêm nền sản xuất xã hội” và “để sản
xuất ra những con người phát triển toàn diện” [2, 474]. Mặt khác chủ nghĩa
Mác- LêNin còn coi sự kết hợp chặt chẽ giữa phát triển sản xuất, phát triển
20
con người là “một trong những biện pháp mạnh nhất để cải biến xã hội” [3,
52], mà ở đây là quá độ từ chủ nghĩa Tư Bản lên chủ nghĩa xã hội.
Trong học thuyết duy vật lịch sử của mình, các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác- LêNin coi con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật
chất, là yếu tố hàng đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản
xuất của xã hội mà hơn nữa, con người còn đóng vai trò là chủ thể của quá
trình lịch sử. Con người vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm kết thúc, đồng
thời lại là trung tâm của mọi biến đổi lịch sử, là chủ thể chân chính của quá
trình xã hội. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất con người sáng tạo ra
lịch sử của chính mình, lịch sử xã hội loài người. Do vậy “tiền đề đầu tiên
của lịch sử nhân loại là sự tồn tại của những cá nhân con người sống” [1,
29]. Đó là những con người hiện thực “bằng xương, bằng thịt” với hoạt
động sản xuất vật chất của họ.
Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, là yếu
tố hàng đầu đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của lực lượng sản
xuất mà còn là chủ thể của quá trình lịch sử, của tiến bộ xã hội. Bằng hoạt
động lao động sản xuất, con người đã cải tạo tự nhiên để thỏa mãn những
nhu cầu của mình, đồng thời cải tạo chính bản thân mình, làm ra lịch sử của
chính bản thân mình. ĂngGhen viết “ lao động là nguồn gốc của mọi của
cải, là điều kiện cơ bản, đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như
thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó chúng ta phải nói lao động đã
sáng tạo ra bản thân con người”[ 4, 641]. Sống trong giới tự nhiên, con
người không chỉ tác động vào tự nhiên, con người còn cải biến tự nhiên và
trên cơ sở đó, sáng tạo ra những điều kiện đảm bảo cho sự sinh tồn của bản
thân mình, sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân mình.
Như vậy có thể nói, trong quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác- LêNin thực chất của tiến trình lịch sử loài người là vì con người, vì sự
21
phát triển con người, là đưa con người “từ vương quốc tất yếu sang vương
quốc của tự do”[3,331] là làm cho “con người cuối cùng làm chủ tồn tại xã
hội của chính mình thì cũng do đó mà làm chủ tự nhiên, làm chủ cả bản
thân mình trở thành người tự do”[3, 333]. Đó cũng là quá trình mà nhân
loại tự tạo ra những điều kiện, những khả năng cho chính mình nhằm đem
lại sự phát triển cho mỗi người trong cộng đồng nhân loại, tạo cho con
người năng lực làm chủ tiến trình lịch sử của chính mình, làm chủ chính
mình trong mọi hoạt động của mình.
Quan niệm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác- LêNin về tiến bộ và
phát triển xã hội, lấy sự phát triển của con người làm mục đích càng phải
được khẳng định mạnh mẽ trong bối cảnh hiện thời của xã hội loài người.
Bởi lẽ ngày nay nhân loại đang sống trong một bối cảnh quốc tế đầy những
biến động, cộng đồng thế giới đang thể hiện hết sức rõ ràng tính đa dạng
trong các hình thức phát triển của nó. Đối với nước ta thì quan niệm trên có
một ý nghĩa to lớn trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hiện nay, nhân tố đảm bảo sự thắng lợi đó là nhân tố con người quyết định.
1.2.3. Quan điểm của Đảng về vai trò nguồn lực con người và chiến
lược phát triển con người.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng cộng sản Việt Nam đã coi mục đích cao
cả nhất của mình là giải phóng con người, sự giải phóng đó gắn liền với
chân lý “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Chân lý ấy được Đảng ta vận
dụng triệt để trong tiến trình cách mạng và mục tiêu của cách mạng là giải
phóng con người, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc. Bởi thế trong sự
nghiệp cách mạng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
Đảng ta đã sử dụng con người ở mọi thế hệ, mọi giai tầng một cách tài tình
phát huy nhân tố con người là phát huy sức mạnh của dân tộc.
22
Đất nước ta trải qua một thời kỳ khó khăn, Đảng và Nhà nước ta đã
lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đổi mới kinh tế đất nước bằng bằng cách
xóa bỏ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đưa đất nước ta phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội Đảng VIII năm 1991 tổng kết
đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết Đại hội VI đã đánh giá: đất nước đã
đạt được những kết quả khả quan, nền kinh tế đất nước ta thoát khỏi khủng
hoảng, đời sống nhân dân được cải thiện, lạm phát giảm, Tất cả những
thắng lợi đó chứng tỏ vai trò to lớn của nhân tố con người, nguồn lực con
người và Đảng ta nhận thấy vai trò của con người là yếu tố quyết định.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Đảng ta một lần nữa khảng định chủ trương “phát huy nhân tố con
người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ công
dân, kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật
chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi
ích trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa cá nhân với tập thể và cộng
đồng xã hội”
Đến năm 1993, Trung ương Đảng đã có hội nghị bàn về bốn vấn đề
(dân số, giáo dục, văn hóa, thanh niên), khai mạc hội nghị, Đồng chí Đỗ
Mười- Tổng Bí Thư Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định quan điểm của
Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề con người, đào tạo con người, để có
nguồn nhân lực tương xứng với công cuộc đổi mới, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội.
Con người là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp đổi mới theo
hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội Đảng
VIII của Đảng ta đã xác định một trong những nhiệm vụ trung tâm của
chúng ta hiện nay là “phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho
sự phát triển nhanh và bền vững, nâng cao dân trí bồi dưỡng và phát huy
23
nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi
của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.[8, 85]. Theo đó công nghiệp
hóa vì sự phát triển con người nhằm tạo ra một nguồn nhân lực có chất
lượng. Để thực hiện nó, thì việc nhận thức một cách sâu sắc đầy đủ những
giá trị đích thực và ý nghĩa lớn lao của nhân tố con người là đòi hỏi có tính
cấp thiết. Bởi lẽ như C.Mác đã chỉ rõ: con người là chủ thể của mọi sự
sáng tạo, mọi nguồn lực của cải vật chất và tinh thần, chủ thể của lịch sử.
Từ nhận thức đó chúng ta cần khẳng định rằng con người Việt Nam phát
triển toàn diện cả về thể lực và trí lực, cả về khả năng lao động và, năng lực
sáng tạo và tính tích cực xã hội, cả về đạo đức, tâm hồn, tình cảm là mục
tiêu, là động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà chúng ta
đang từng bước tiến hành trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với thực tiễn của 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay trong bối cảnh khu vực, quốc tế
và thời đại, để phát triển con người Việt Nam “bồi dưỡng và phát huy nhân
tố con người” nhất thiết phải “hiện đại hóa đất nước và đời sống xã hội”.
“Chúng ta chỉ có thể tăng trưởng nguồn lực con người khi quá trình hiện
đại hóa các ngành giáo dục, văn hóa, văn nghệ, bảo vệ sức khỏe, dân số kế
hoạch hóa gia đình gắn liền với kế thừa và phát huy những giá trị truyền
thống và bản sắc văn hóa dân tộc”[9, 23]. Chính vì thế mà mọi kế hoạch
xây dựng và phát triển kinh tế xã hội phải được đặt trong mối liên hệ không
tách rời với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát triển nhân cách, trí tuệ, niềm
vui, và hạnh phúc cho mỗi người, mỗi gia đình và cả cộng đồng dân tộc
Việt Nam, cho việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực nhiều về số
lượng, mạnh mẽ về chất lượng, đủ sức đáp ứng và đảm đương những đòi
hỏi ngày càng cao sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
24
Chủ tịch Hồ Chí Minh Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta đã luôn
nhắc nhở và căn dặn chúng ta là “Việc gì có lợi cho dân thì ta phải hết sức
làm. Việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh”, “Vì lợi ích mười năm
trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” và “Muốn xây dựng chủ nghĩa
xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Trong bản Di
Chúc lịch sử , Người coi việc “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là
một việc rất quan trọng và cần thiết”. Khi nói đến con người với tư cách là
cái “vốn quý nhất” là lực lượng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
Người không chỉ nói đến trí tuệ và tài năng, sức khỏe của con người mà còn
nói đến nhiều yếu tố khác trong đó có những giá trị được kết tinh từ bản
thân con người thông qua hoạt động thực tiễn cách mạng và cải tạo xã hội.
Tiếp thu tư tưởng “Dân vi quý, dân vi bản” của Nho giáo song Hồ Chí
Minh đã đem lại một nội dung mới khoa học và cách mạng cho khái niệm
“dân” và “dân vi bản”. Nói tới con người là nói tới “dân”. Trong bài “Dân
Vận” Bác viết “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của
dân. Công cuộc đổi mới xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân. Sự
nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân. Dân vừa là chủ,vừa làm chủ, vừa là mục tiêu vừa là
động lực của cách mạng Việt Nam, của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước”
Lấy tư tưởng phát triển vì con người của các nhà sáng lập Chủ nghĩa
Mác- LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự nghiệp “Trồng Người”, xây dựng
“ Con người xã hội chủ nghĩa” làm nền tảng lí luận trong suốt sự nghiệp
cách mạng của mình, với tư cách là Đảng cầm quyền, mọi chủ trương chính
sách của Đảng đều hướng tới mục tiêu phát triển con người Việt Nam toàn
diện. Đặc biệt khi vạch ra định hướng phát triển đất nước theo định hướng
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện hóa đất nước, Đảng ta khẳng định việc
25