Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Cảm hứng quê hương trong thơ nguyễn du (tt luận văn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.46 KB, 24 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1.Trong nền Văn học Việt Nam, cảm hứng quê hương đất nước là
một nguồn mạch không bao giờ vơi cạn. Nguồn cảm hứng này dạt dào bởi
sự tác động sâu sắc của hoàn cảnh lịch sử, xã hội. Khi đất nước có giặc ngoại
xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam ra trận thể hiện quyết tâm bảo vệ sự tồn
vẹn lãnh thổ, cũng chính là bảo vệ quê hương mình. Tình yêu quê hương,
đất nước là tình cảm ln thường trực, thiêng liêng, bao trùm cả cuộc đời
con người. Dù ta sống ở bất cứ nơi nào thì q hương vẫn ln vĩnh cửu và
sâu lắng trong trái tim. Vì thế, q hương ln khơi nguồn cảm hứng cho
nhiều thế hệ nhà thơ.
1.2. Trong đời thơ, Nguyễn Duy ln tự nhận mình là người con
của đồng ruộng với thái độ bằng lịng như đón nhận một cơ duyên, một
định mệnh. Mang mảnh hồn quê nên nhà thơ hay nói về nỗi nhọc nhằn
“hay nói về gian khổ”. Từ tình cảm sâu nặng ấy mà thơ Nguyễn Duy
luôn đau đáu hướng về quê hương, về những mảnh đời quê gần trong nỗi
nhớ mà xa xôi với khoảng cách không gian và thời gian. Mảnh đời quê
nào cũng nghèo đói, nhỏ bé, giản dị mà lớn lao. Họ đã trở thành hình
tượng nghệ thuật, trở thành đối tượng để nhà thơ trải lịng, tâm tình, suy
tư, bộc lộ cái tơi của riêng mình. Cái tơi ấy đúng như lời quả quyết “ta
hát những lời của ta”. Thật sự, miền quê “đi đứng nói cười” trong bản
chất của một thi sĩ “thảo dân” thôi thúc Nguyễn Duy cất cơng đãi cát tìm
vàng trong kho ngơn từ dân gian. Nhà thơ thỏa sức bộc lộ nhu cầu khám
phá, khả năng thể nghiệm làm mới một thể loại thơ truyền thồng. Ông
xứng đáng với vị thế của nhà thơ viết nhiều nhất, hay nhất về chốn quê
nhà trong hình thức sáng tạo của nhiều thể thơ, trong đó có thể lục bát
đương đại
1.3. Nguyễn Duy là nhà thơ sáng tác ở cả hai giai đoạn năm 1975 và
sau 1975. Hành trình làm thơ của Nguyễn Duy được khởi nguồn từ khi ơng
cịn là học sinh. Nhưng đến năm 1973, ông mới ghi được dấu ấn bằng chùm




2
thơ đạt giải nhất của cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời
vuông, Tre ViệtNam. Từ mốc thời gian quan trọng ấy, Nguyễn Duy đã xuất
bản nhiều tập thơ đặc sắc, đã thu hút được sự quan tâm của độc giả yêu thơ
như Cát trắng (1973), Ánh trăng(1984). Sau thời chiến, Nguyễn Duy bắt đầu
một hành trình sáng tác mới khao khát khám phá. Qua các tập thơ Mẹ và em
(1987), Đãi cát tìm vàng (1987), Đường xa (1989), Quà tặng (1990), Về
(1994), Vợ ơi (1995)... ông đã chứng tỏ một sức viết dồi dào. Thực tế đó cho
thấy những bài thơ được khởi nguồn từ cảm hứng quê hương đã trở thành
những thi phẩm thành công nhất trong suốt mấy chục năm cầm bút của
Nguyễn Duy. Xuất phát điểm cũng là nơi neo đậu của hồn thơ ông luôn là
quê hương.
Từ những cơ sở trên, chúng tôi chọn Cảm hứng quê hương trong
thơ Nguyễn Duy làm đề tài nghiên cứu. Chúng tôi cho rằng, nghiên cứu
thơ Nguyễn Duy rất cần thiết đề cập đến cảm hứng quê hương trên cơ sở
tiếp thu, kế thừa những cơng trình của những người đi trước để góp thêm
cái nhìn về cảm hứng thơ đặc sắc trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Nghiên cứu, đánh giá về thơ Nguyễn Duy
Đã có những bài viết về thi phẩm đặc sắc trong sự nghiệp sáng tác
của Nguyễn Duy. Trịnh Thanh Sơn bình về Đị Lèn, Đặng Hiển xúc động
với Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa. Lê Trí Viễn bày tỏ ý kiến về Tre Việt
Nam.Vũ Quần Phương đã cảm nhận về nỗi nhớ ruộng đồng của Nguyễn
Duy qua Hơi ấm ổ rơm. Hầu hết, các tác giả đều hướng đến cái gốc của
cảm xúc, hứng khởi làm nên nét riêng của thơ Nguyễn Duy. Tất cả đều
xuất phát từ tình cảm thương u, xót xa, tự hào của nhà thơ với người
nhà quê, với nơi nguồn cội.
Bên cạnh đó, thơ Nguyễn Duy nói chung đã thu hút được sự quan

tâm của nhà phê bình văn học có uy tín. Hồi Thanh khẳng định thơ
Nguyễn Duy đậm đà hồn quê qua bài viết Đọc một số bài thơ của
Nguyễn Duy. Bên cạnh đó, Nguyễn Quang Sáng nhận thấy đề tài muôn


3
thủa của Nguyễn Duy là tình yêu, con người và đất nước, quê hương
trong bài viết Đi tìm tiềm lực trong thơ Nguyễn Duy. Với bài Nguyễn
Duy - Người thương mến đến tận cùng chân thật, Vũ Văn Sỹ đã có
những nhận xét về những xúc cảm thương mến về những điều thân thuộc
vốn đã tồn tại trong tiềm thức Nguyễn Duy. Còn Nguyễn Thị Thanh Đạm
trong chuyên luận Đặc điểm mỹ thơ Nguyễn Duy đã đề cập đến con
người quê và quê hương trong thơ Nguyễn Duy. Chu Văn Sơn đã phát
hiện ra nhiều mới mẻ của hồn thơ Nguyễn Duy trong bài viết Nguyễn Duy thi sĩ thảo dân, đặc biệt nhấn mạnh Nguyễn Duy là thi sĩ thảo dân ngay trong
quan niệm nhân sinh và nghệ thuật.
2.2. Những nghiên cứu liên quan cảm hứng quê hương trong
thơ Nguyễn Duy
Nguyễn Duy trải nghiệm cuộc sống sâu sắc nên cảm hứng trong thơ
ông rất phong phú. Nguyến Đức Thọ đã nhấn mạnh đến một khía cạnh hình
tượng người vợ. Với bài bình trong tập Ánh trăng, Lê Quang Hưng nhận
xét về những suy tư trong thơ Nguyễn Duy thường xuất phát từ nơi
nguồn cội nên mọi sự vật đều đậm chất dân tộc.
Bên cạnh đó, có nhiều luận văn thạc sĩ chọn thơ Nguyễn Duy làm đề
tài nghiên cứu. Nguyễn Thị Thu Hiền với đề tài Cái tôi nội cảm tìm về cội
nguồn trong thơ trữ tình Nguyễn Duy, Dương Tú Anh với đề tài Phong cách
thơ Nguyễn Duy. Luận văn đã khái quát về điệu hồn dân tộc và vẻ đẹp riêng
trong thơ Nguyễn Duy.
Qua những cơng trình nghiên cứu trên, các tác giả đã đề cập đến
những cảm hứng thơ phong phú trong suốt mấy chục năm sáng tác của
Nguyễn Duy như: cảm hứng sử thi, cảm hứng thế sự, đời tư. Xuất phát từ

cảm hứng ấy, nhà thơ đã xây dựng được những hình tượng nghệ thuật rất
đặc sắc và cất cơng tìm tịi những hình thức nghệ thuật phù hợp. Vì vậy,
các tác giả nghiên cứu về thơ Nguyễn Duy đã thống nhất khẳng định vị
trí và những đóng góp quan trọng của Nguyễn Duy trong nền thơ ca hiện
đại Việt Nam.


4
Từ nhiều bài nghiên cứu, ta cũng nhận thấy, cảm hứng quê hương
luôn là một nguồn mạch bền bỉ, xuyên suốt đời thơ Nguyễn Duy. Cảm
hứng miền quê luôn thường trực chi phối sự lựa chọn đề tài và hình thức
sáng tác. Tầm quan trọng của cảm hứng quê hương với sức sống của hồn
thơ Nguyễn Duy đã được ghi nhận. Nhưng thực tế cảm hứng quê hương
chưa được nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống. Tuy nhiên, những
nhận xét xác đáng từ những bài nghiên cứu trên chính là những gợi ý q
báu để chúng tơi lựa chọn và đề tài Cảm hứng quê hương trong thơ
Nguyễn Duy. Thực hiện đề tài trên, chúng tôi sẽ đi sâu tìm hiểu những
phương diện biểu hiện từ một cảm hứng thơ chủ đạo trong đời thơ
Nguyễn Duy. Từ đó, góp phần làm sáng tỏ hơn nữa những đóng góp của
ơng trong tiến trình vận động của thơ ca Việt Nam.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài đi sâu vào tìm hiểu những phương diện biểu hiện của cảm
hứng quê hương trong thơ Nguyễn Duy.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu gắn liền với mảng thơ trữ tình
của Nguyễn Duy, cụ thể là các tập thơ các tuyển tập thơ của Nguyễn Duy
từ trước và sau năm 1975.
4. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về đề tài này, chúng tôi hướng vào tìm hiểu những biểu

hiện cụ thể của cảm hứng quê hương trong thơ Nguyễn Duy, so sánh đối chiếu
với các tác giả khác. Trên cơ sở ấy, tìm ra nét đặc sắc riêng của Nguyễn Duy.
Tổng quát luận văn hướng khẳng định ý nghĩa của cảm hứng quê hương trong
thơ ca hiện đại nói riêng và thơ ca Việt Nam nói chung.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp
Từ phương pháp phổ biến này, luận văn sẽ nêu ra được những
phương diện của cảm hứng quê hương trong thơ Nguyễn Duy qua những
phân tích, minh họa cụ thể.


5
5.2. Phương pháp so sánh lịch sử
Phương pháp này được sử dụng trong luận văn nhằm đặt vấn đề
nghiên cứu trong chiều đồng đại, nghịch đại để khẳng định nét đặc sắc
của hồn thơ Nguyễn Duy trong mối tương quan với tác giả khác.
5.3. Phương pháp khảo sát, phân loại, thống kê
Bằng khảo sát, phân loại qua những con số cụ thể, luận văn sẽ tìm
được những yếu tố nội dung cũng như nghệ thuật tiêu biểu làm cơ sở
vững chắc tạo nên tính thuyết phục cho những kết luận .
6. Đóng góp của luận văn
Tìm hiểu cảm hứng q hương - nguồn cảm hứng xuyên suốt trong suốt
hành trình sáng tạo của Nguyễn Duy nhằm khẳng định tình cảm chủ đạo và
những trăn trở của ông đối với nơi mình sinh ra và lớn lên. Thơng đề tài nghiên
cứu này để khẳng định vị thế của Nguyễn Duy trong hành trình phát triển của
thơ Việt Nam từ giai đoạn kháng chiến chống Mỹ đến thời kỳ đổi mới.
Có thể vận dụng kết quả của luận văn vào việc nghiên cứu học tập
thơ Nguyễn Duy ở trường phổ thông
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục mài liệu tham khảo,

luận văn được khai triển trong 3 chương
Chương 1: Cảm hứng quê hương trong thơ ca Việt Nam và hành
trình sáng tác của Nguyễn Duy
Chương 2: Cảm hứng quê hương trong thơ Nguyễn Duy, nhìn từ
thế giới hình tượng
Chương 3: Cảm hứng quê hương trong thơ Nguyễn Duy, nhìn từ
phương diện hình thức nghệ thuật


6
Chƣơng 1. CẢM HỨNG QUÊ HƢƠNG TRONG THƠ CA
VIỆT NAM VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN DUY
1.1. Cảm hứng quê hƣơng trong thơ ca Việt Nam
1.1.1. Cảm hứng và cảm hứng sáng tạo trong thơ
Cảm hứng là trạng thái tình cảm mãnh liệt bắt nguồn từ trái tim nhà
thơ trước đối tượng mà họ quan tâm miêu tả. Có khi cảm hứng đến với nhà
thơ bất chợt trong trạng thái hưng phấn cao độ khi rung động trước đối
tượng mà họ phản ánh.
Về thực chất, cảm hứng là kết quả của quá trình thâm nhập đời
sống, thể nghiệm đề tài và tư tưởng của tác giả. Để có cảm hứng đòi hỏi
nhà thơ phải nhiệt huyết với đời, phải đón nhận “tiếng vang động” của đời.
Chế Lan Viên đã khẳng định: “Chẳng có thơ đâu giữa lịng đóng khép”.
Song cảm hứng vẫn nguyên vẹn là cảm hứng nếu người nghệ sĩ không tự
thôi thúc nhu cầu sáng tạo. Và hơn hết họ phải vận dụng năng lực vốn có để
tái hiện đối tượng mà họ vừa được chiếm lĩnh.
Nghiên cứu cảm hứng đã cho chúng ta một cái nhìn đầy đủ về đối
tượng mà người nghệ sĩ quan tâm, cũng như toàn bộ suy tư của người nghệ
sĩ ấy trước đối tượng đó. Từ cảm hứng đến cảm hứng sáng tạo người nghệ sĩ
bắt đầu một hành trình lao động nghệ thuật đầy hứng khởi và nghiêm túc.
1.1.2. Cảm hứng quê hương trong thơ ca Việt Nam

1.1.2.1. Mối quan hệ giữa quê hương và thơ ca
Quê hương là đối tượng được quan tâm đặc biệt của thơ ca, đồng
thời là nguồn cảm hứng bất tận của sáng tạo nghệ thuật. Thơ là một thể
loại trữ tình, da diết và lắng đọng nhất. Viết về quê hương dưới hình thức
thơ, người nghệ sĩ ln tìm được điểm tựa về tinh thần, hướng về những
tình cảm thiêng liêng và chân thật trong dòng chảy của cuộc sống đầy
bộn bề, lo toan.
Lịch sử thơ ca đã ghi nhận những nhà thơ lớn ln hướng ngịi bút
biểu hiện cảm hứng q hương, bên cạnh những cảm hứng phong phú


7
khác. Trong ý thức sáng tạo hòa với tâm hồn đa cảm, họ đã tạo nên những
cảm nhận riêng về mảnh đất mình sinh ra, gắn bó. Đó là trường hợp Lí
Bạch, Đổ Phủ, Puskin, Xéc gây Exênhin.
Như vậy, quê hương và thơ ca có mối quan hệ gắn bó. Quê hương
là chất liệu và cũng là mạch nguồn cảm hứng khơng bao giờ vơi cạn. Cịn
thơ ca với vai trị là hình thức biểu hiện đã làm mới thêm, gợi ấn tượng
sâu sắc về những điệu hồn riêng và những sáng tạo độc đáo. Với mối
quan hệ ấy, quê hương và thơ ca song hành thực hiện một sứ mệnh
thiêng liêng: nâng đỡ tâm hồn con người, bồi đắp những phẩm chất tốt
đẹp ở con người.
1.1.2.2 Sơ lược về cảm hứng quê hương trong thơ ca Việt Nam
Quê hương luôn hiện hữu thiêng liêng trong tâm hồn mỗi con
người. Vì ai sinh ra, sống trên cõi đời chẳng có một miền quê. Từ hiện
thực ấy, quê hương đã đi vào thơ ca tự nhiên, phổ biến. Cảm hứng quê
hương của mỗi nhà thơ đều có những nét riêng. Bởi lẽ, cảm hứng ấy
khơng chỉ bị chi phối bởi hồn cảnh sống, cá tính sáng tạo mà cịn ảnh
hưởng từ những nguyên tắc thẩm mỹ của thời đại.
Ra đời trước văn học viết, văn học dân gian là những sáng tác của

người bình dân trong xã hội, trong đó ca dao là một thể loại đặc sắc.
Người bình dân nặng nghĩa tình sử dụng ca dao để giãi bày những xúc
cảm da diết về “nơi chôn nhau cắt rốn”. Quê hương gắn với những hình
ảnh thân thuộc từ đời sống đến tiềm thức. Đó là mái đình, giếng nước,
gốc đa, cánh đồng, lũy tre. Hình tượng quê hương bật lên ý nghĩa về
nguồn cội, về sức trường tồn vĩnh hằng thiêng liêng.
Với nhà thơ trung đại, cảm hứng quê hương có một sức hút mãnh
liệt. Chính cảm hứng ấy thơi thúc họ vượt qua tính quy phạm viết nên
những bài thơ rất thuần Việt. Từ thế kỷ XV, trong suy tư của Nhà nho,
quê hương luôn là nơi xuất phát của những tình cảm cao đẹp và là nơi
tìm về để tĩnh tại tâm hồn.


8
Đến đầu thế kỷ XX, nền văn học nước ta đón nhận thêm những
luồng văn hóa mới từ phía trời Tây. Cảm hứng quê hương trong thơ ca
được thể hiện với những cách tân sâu sắc. Tình cảm mãnh liệt về nguồn
cội ở Tố Hữu, Nguyễn Bính đã thốt hẳn ra những ràng buộc của thi
pháp trung đại. Quê hương hiện lên qua hình ảnh, ngơn ngữ gợi cảm, đời
thường và thể thơ hiện đại.
Thời kỳ từ năm 1945 -1975, cảm hứng quê hương càng trở nên
đậm nét bởi tác động của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại kéo dài ba
mươi năm. Cảm hứng quê hươngtrong thơ Hoàng Cầm, Tế Hanh dồn nén
với những xúc cảm yêu thương, đau xót, tự hào.
Trong sự vận động của nền văn học cách mạng, hành trình sáng
tạo nghệ thuật của Nguyễn Duy là hành trình đi qua nhiều miền Tổ quốc.
Cảm hứng quê hương ở ngòi bút của Nguyễn Duy được mở rộng về biên
độ. Quê hương được đặt trong mối quan hệ với Tổ quốc. Mà mối quan hệ
rộng lớn bao trùm này xuất phát từ quan hệ làng và nước. Sự thu hẹp hay
mở rộng ranh giới của quê hương là phụ thuộc vào điểm nhìn của nhà

thơ, và sự vận động chuyển hóa cảm xúc của nhà thơ. Khi Nguyễn Duy
đi ra Hà Nội, vào Đà Lạt, Huế đến tận mũi Cà Mau, từng miền quê lắng
trong lòng thi sĩ, thân thuộc như quê hương. Thời gian nhà thơ ở phía trời
Âu, xa Tổ quốc vạn dặm, Tổ quốc đã bao hàm quê hương. Nhìn từ
xa…Tổ quốc thăm thẳm trời quê hương “Dù ở đâu Tổ quốc cũng trong
lòng/Cột biên giới cắm từ thương đến nhớ”. Dù có đến với mảnh đất nào
để thỏa mãn khao khát tìm kiếm thì ơng vẫn khơng ngi nhớ về xứ
Thanh - q hương thứ nhất vĩnh cửu. Qua thời chiến tranh, quê hương
đánh thức niềm trăn trở, suy tư, bởi những xáo trộn, bộn bề của cuộc
sống đời thường. Bằng sức sáng tạo bền bỉ, Nguyễn Duy đã góp vào làng
thơ Việt một phong cách thơ ấn tượng, một tư tưởng thật sâu sắc và một
mỹ quan mới về quê hương.


9
1.2. Cảm hứng quê hương trong hành trình sáng tác của
Nguyễn Duy
1.2.1 Thơ Nguyễn Duy trước 1975 giầu xúc cảm với quê hương
Nguyễn Duy làm thơ rất sớm nhưng đến mãi những năm 70 của
thế kỷ XX, Nguyễn Duy gây được ấn tượng mạnh mẽ qua chùm thơ đạt
giải nhất do tuần báo Văn nghệ tổ chức 1972-1973: Tre Việt nam, Bầu
trời vuông, Hơi ấm ổ rơm. Thời điểm này ta nhận thấy ở Nguyễn Duy là
hồn thơ da diết trong cảm xúc với làng quê.
Cát trắng là tập thơ đầu tay ghi dấu ấn sâu sắc, được sáng tác khi
Nguyễn Duy đã trở thành một người lính chiến đấu trong kháng chiến
chống Mỹ. Tập thơ chủ yếu khắc họa chân dung người lính. Tuy vậy, vẫn
những bài viết về nỗi nhớ quê hương, những người thân yêu như một cõi
riêng tư: Khúc dân ca, Xó bếp, Hơi ấm ổ rơm.
Trước 1975, ta nhận thấy tiếng thơ của Nguyễn Duy hòa vào âm
hưởng trầm hùng của thời đại, mang cảm hứng sử thi rõ nét. Thơ Nguyễn

Duy còn là tiếng nói của cái tơi giàu tình cảm với q hương nên rất mực
trữ tình. Ngịi bút của nhà thơ hướng ra thế giới bên ngoài theo chặng
đường hành quân qua những miền đất lạ. Và tâm tưởng ông cũng lặng lẽ
tìm đường trở về nơi nguồn cội (Dịng sơng Mẹ, Tuổi thơ). Có thể nói,
giai đoạn thơ này tạo nền tảng để nhà thơ tìm tịi vượt lên chính mình.
1.2.2. Thơ Nguyễn Duy sau 1975 khao khát tìm về với nguồn cội
Sau năm 1975 thơ Nguyễn Duy hòa chung vào sự vận động, đổi
mới, thơ ca Việt Nam. Sự nghiệp thơ ca của ông, một lần nữa bước qua
thử thách. Tập thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, có đề tài phong phú, đạt
giải A của hội nhà văn Việt Nam. Ông đã trải nghiệm thật sâu sắc để làm
hiện hình được vẻ đẹp riêng của nhiều miền đất khác nhau.
Sau 1986 - sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI là mốc thời gian
đặc biệt quan trọng đối với đất nước và đối với sự nghiệp sáng tác của
Nguyễn Duy. Với bút lực dồi dào, nhiều tập thơ được xuất bản: Mẹ và
em (1987), Đãi cát tìm vàng (1987), Đường xa (1998),Quà tặng (1990),


10
Sáu và tám (1994),Về (1994), Tình tang (1995), Vợ ơi (1995), Bụi
(1997). Trong số những tập thơ ấy thì tuyển tập Mẹ và em chứa đựng hầu
hết các bài thơ được xem là tồn bích trong đời cầm bút của ông. Đó là
những bài thơ viết nên từ cảm hứng q hương như: Đị Lèn, Cầu Bố,
Tuổi thơ, Xó bếp, Dịng sơng Mẹ, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa. Q hương
đồng hiện trong hình ảnh những con người nhẫn nại, cần cù, tình nghĩa
chính là điểm tựa của những giá trị bền vững.
Nhìn chung, sau năm 1975, ngịi bút Nguyễn Duy được thể hiện
nguồn cảm hứng rất phong phú. Nhưng cảm hứng quê hương luôn là một
mạch chảy ngầm dồi dào và mãnh liệt. Nguồn cảm hứng ấy đã được
Nguyễn Duy thể hiện bằng những nội dung phong phú và hình thức nghệ
thuật đặc sắc.



11
Chƣơng 2. CẢM HỨNG QUÊ HƢƠNG TRONG THƠ
NGUYỄN DUY, NHÌN TỪ THẾ GIỚI HÌNH TƢỢNG
2.1. Cảnh quê trong thơ Nguyễn Duy
2.1.1. Cảnh sắc thiên nhiên
Trong thơ Nguyễn Duy, ta bắt gặp vẻ đẹp đơn sơ từ những hình
ảnh thiên nhiên quen thuộc. Đó là hình ảnh dịng sơng trữ tình mà chở
bao cuộc đời lam lũ (Dịng sơng Mẹ). Bên cạnh sơng Mã là dịng sơng
cội nguồn, cịn có sự hiện hữu của những dịng sơng khác mà nhà thơ bắt
gặp trên hành trình đi xa đến mọi miền Tổ quốc. Từ điểm nhìn mở rộng
biên độ quê hương, những dịng sơng của miền đất khác nhau chảy qua
đời thơ Nguyễn Duy đều thấp thống dáng vẻ của dịng sơng quê hương
(Sông Cấm, Sông Thao). Cảnh thiên nhiên của quê hương cịn có hình
ảnh đồng ruộng. Đồng lúa vào mùa gặt rộn ràng, mang vẻ đẹp trữ tình
của thiên nhiên, hiện diện thành quả lao động của con người (Tiếng hát
mùa gặt). Nhưng cánh đồng cũng hiện lên thật ám ảnh. Cánh đồng ấy
mặm mịi vì hứng bao mồ hơi nước mắt (Muối trắng). Bên cạnh cánh
đồng, dịng sơng, cây tre cũng là hiện thân của thiên nhiên tạo vật đáng
nhớ của làng quê. Tre cũng mang điệu hồn quê, hồn dân tộc, tre có ý nghĩa
biểu tượng cho con người việt Nam với những phẩm chất đáng tự hào (Tre
Việt Nam). Trong khu vườn quê, Nguyễn Duy còn bộc lộ niềm tha thiết với
tất cả hình ảnh thiên nhiên thuộc về quê mình, kể cả cây cỏ nhỏ bé, thoảng
qua (Cỏ dại). Nhà thơ cũng dành bao nhiêu là yêu mến cho loài hoa rất
riêng của đồng ruộng (Hoa lúa, Hoa gạo).
Những con vật quen thuộc trong tiềm thức của người nhà quê cũng là
thi liệu để Nguyễn Duy thể hiện hồn quê mộc mạc…Trong số những con vật
đồng quê: trâu bò đủng đỉnh, con sáo sậu, con chào mào, tiếng kêu của chim
cuốc gợi nên âm điệu bình dị. Cánh cò lặp đi lặp lại với tần xuất cao gợi hồn

quê da diết nhất. Thi sĩ cảm nhận tinh tế bằng khứu giác và tâm hồn mùi vị của
quê. Ấy là mùi ruộng đồng, hòa trộn bùn đất, mùi rơm rạ.
Đối với Nguyễn Duy, cảm hứng quê hương gắn liền với cảm hứng
đất nước trên chặng đường chiến đấu gian khổ. Nên tình yêu đối với một
miền quê đã trở thành tình yêu với mọi miền quê. Nguyễn Duy khám phá


12
cái hồn riêng của thiên nhiên ở dọc miền Tổ quốc. Hà Nội, mảnh đất kinh
kỳ ngàn năm văn hiến, cổ kính, diễm lệ (Một góc chiều Hà Nội). Huế là
thơ mộng với dịng chảy Sơng Hương (Nhớ bạn).Đà Lạt, huyền ảo trên
cao nguyên. Cà Mau vẫn còn nguyên cái vẻ hoang sơ, Xuồng đầy, Lời ru
từ mũi Cà Mau, Mùa nước nổi…lắng sâu hồn đất, hồn người trong niềm
tự hào tha thiết.
Vẻ đẹp quê hương vốn được hiện lên từ cảnh thiên nhiên bình dị.
Điều đặc biệt, thiên nhiên mang vẻ đẹp bình dị mà ln chứa đựng giá trị
tinh thần đặc sắc. Rất riêng ở hồn thơ “trót sinh ra ở miền quê nghèo”, là
thiên nhiên còn in vết nhọc nhằn. Dù là cảnh sắc quê hương Thanh Hóa
hay cảnh sắc những miền q khác nhau thì đều hiện hữu cho tâm hồn
thuần Việt của thi sĩ.
2.1.2. Địa danh quê hương
Địa danh nơi gọi về nguồn cội, gốc tích trở nên thiêng liêng và sâu
lắng. Và điều đáng bàn hơn cả là địa danh của quê hương trong thơ
Nguyễn Duy in dấu bao nhiêu kỷ niệm đẹp cũng như bao nhiêu nỗi nhọc
nhằn ( Đò Lèn). Địa danh Lam Sơn lừng lẫy trong lịch sử với nỗi hoài
niệm về người xưa - việc cũ. Địa danh chung, địa danh có tính chất tồn
của cảnh bức tranh q được Nguyễn Duy gọi bằng ngôn từ dân dã mà
nhiều thương mến: làng ta. Sự thật, làng ta luôn phải đối diện với cái
nghèo, cái khổ. Trong vẻ mộc mạc của những địa danh, bình dị của thiên
nhiên chốn quê cũng đã gói trọn nỗi lịng trăn trở của nhà thơ.

2.2. Cảnh sinh hoạt chốn thôn quê
2.2.1. Cảnh lao động ngày mùa
Cảnh lao động của người dân quê sau lũy tre làng được Nguyễn Duy
tái hiện sinh động. Đó trước tiên là cảnh lao động ngày mùa, biểu hiện cho
sức sống, cho tinh thần lạc quan của người dân nghèo. Trong thơ, có cảnh
lao động vất vả của người nơng dân Tĩnh Gia trên cánh đồng muối trắng
(Tiếng hát mùa gặt, Muối trắng). Nhà thơ hóa thân vào đồng ruộng thấu
hiểu nỗi xót xa của mọi người nơng dân khi mất mùa, lụt lội (Dân ơi).
Quê hương xứ Thanh cũng hòa nhịp trong khói lửa chiến tranh.
Người dân quê hang hái tham gia kháng chiến. Nguyễn Duy đã tái hiện


13
lại cảnh tượng rộn ràng ấy như một minh chứng cho tình yêu quê hương
đất nước của những con người bình dị (Cầu Bố, Dịng sơng Mẹ). Sau bao
nhiêu năm chiến tranh, cảnh lao động vẫn thấm đẫm mồ hôi và nỗi đeo
đẵng về sự nghèo đói. Nguyễn Duy khao khát có sự khởi sắc, phải đánh
thức đất đai (Đánh thức tiềm lực). Khao khát ấy chính là biểu hiện của
tấm lòng quê tha thiết ở Nguyễn Duy.
2.2.2. Sinh hoạt đời thường
Trong bức tranh sinh hoạt đời thường ở làng quê xứ Thanh còn phản
phất đến da diết một âm thanh rất trữ tình, sâu lắng. Ấy là lời ru của bà của
mẹ. Thế giới hiện lên qua lời hát ru là thiên nhiên sinh động, là cuộc sống
chân thực nghèo mà chan chứa tình thương. Lời hát ru có giá trị tinh thần to
lớn (Lời ru mùa thu, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa).
Trong kí ức của nhà thơ, sinh hoạt hàng ngày của người dân quê
nói chung, gia đình mình nói riêng thật đạm bạc. Cái chất đạm bạc không
thể lẫn vào đâu được phản chiếu cuộc sống cịn thiếu thốn trăm bề “gạo
chiêm ghế ngơ, gạo mùa ghế khoai”. Viết về đời sống thường nhật ngày
ấy, thơ Nguyễn Duy bật nên bao nỗi rưng rưng, ngậm ngùi (Xó bếp,

Thuốc lào, Cầu Bố).
2.2.3. Sinh hoạt cộng đồng đậm bản sắc văn hóa
Thuở nhỏ khi cịn ở q ngoại, Nguyễn Duy đã được tiếp xúc với tín
ngưỡng văn hóa dân gian. Trong thơ, Nguyễn Duy không chỉ nhắc đến địa
danh chùa Trần, đền Cây Thị, đền Sòng của xứ Thanh mà còn tái hiện lễ hội
dân gian với những sinh hoạt văn hóa đặc sắc. Ấy là điệu hát văn, xem cơ
đồng đã tồn tại bao đời (Đị Lèn, Đi lễ). Bên cạnh những lễ hội văn hóa,
Nguyễn Duy có nhắc đến tết truyền thống của dân tộc trên quê hương với
nỗi nhớ, nỗi lo âu thường trực (Tết Nam nhớ Bắc, Tết ở vùng quê sau lụt).
2.3. Hình tƣợng con ngƣời quê hƣơng trong thơ Nguyễn Duy
Quê hương - gia đình cái nơi của sự sống và tình thân cùng với
nhiều mối quan hệ khác đã đúc kết những bài học làm người đầu tiên để
hình thành nên nhân cách mỗi người. Với Nguyễn Duy, mảnh đất quê
hương luôn luôn là thánh địa trong sâu thẳm trái tim. Và ở nơi ấy, chân
dung con người trở thành hình ảnh trung tâm. Trong số những người


14
nơng dân q ta trầm mình với ruộng đồng có hình ảnh những người thân
ruột thịt. Hình ảnh những người thân yêu ấy là kết tinh cao nhất, biểu
hiện sâu sắc nhất tình yêu quê hương của nhà thơ.
2.3.1. Hình tượng người bà
Ký ức về bà nổi bật nhất, ấn tượng nhất chính là gánh nặng mưu sinh
vất vả, nhọc nhằn được Nguyễn Duy diễn tả bằng giọng điệu trữ tình, u mến
mà cũng đầy xót xa. Bà mang dáng dấp của người phụ nữ xưa, của “thân cò
lặn lội” tưởng như mong manh yếu đuối nhưng mạnh mẽ, bươn trải với cuộc
sống. Nguyễn Duy viết về bà với cuộc mưu sinh trĩu nặng và tình thương vơ
bờ đối với đứa cháu còn non nớt, hồn nhiên (Đò Lèn). Bà sống một cuộc đời
thuần khiết, nhân hậu, giữ trọn vẹn cho cháu tuổi thơ trong sáng.
Nguyễn Duy còn tái hiện những khoảnh khắc nhớ về bà rất đời thường

mà đọng đầy ý nghĩa. Bà bao bọc cháu bằng trách nhiệm lớn lao, răn dạy cháu
những điều nhỏ nhặt mà cần thiết qua sinh hoạt hằng ngày (Xó bếp). Từ hình
tượng bà, hình tượng tỏa sáng vẻ đẹp của quê hương, Nguyễn Duy đã đúc kết
bài học nhân sinh đáng để ta suy ngẫm.
2.3.2. Hình tượng người mẹ
Mẹ là hình tượng đẹp trong thơ ca. Bởi một lẽ tự nhiên, ai cũng
được được trao cho sự sống quý giá từ người mẹ. Ngòi bút thơ của
Nguyễn Duy chân thực và xúc động khắc họa hình ảnh mẹ. Ở góc độ đời
sống, mẹ cũng là hiện thân của làng quê nghèo. Sự thiếu thốn về vật chất
hiện lên ở dáng vẻ bên ngồi của mẹ. Đơi vai của mẹ cũng trĩu xuống vì
gánh nặng mưu sinh. Từ nỗi lo cơm áo, đồng ruộng mẹ hiện lên với
phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam từ bao đời nay. Ở một góc
độ tình mẫu tử, Nguyễn Duy cũng viết rất hay về mẹ. Nhà thơ có cách
riêng để làm sáng ngời tình mẫu tử thiêng liêng của mẹ. Từ góc độ tình
cảm này, ta khơng chỉ thấu hiểu cao cả của lòng mẹ mà ta còn ta suy
ngẫm, thức tỉnh về triết lí nhân sinh ở đời (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa).
Dưới ngòi bút của Nguyễn Duy, mẹ là hiện thân cho vẻ đẹp truyền thống
của bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam. Dù mẹ khơng cịn nữa nhưng mẹ
đã hóa thân vĩnh cửu vào quê hương.


15
Thơ Nguyễn Duy cịn hướng đến khắc họa hình ảnh người mẹ của
nhiều miền quê. Đó là những người mẹ mà ông được gặp gỡ trên đường
hành quân ra mặt trận. Điều đáng lưu ý, người mẹ nhân dân trong thơ
Nguyễn Duy được khơi nguồn từ cảm hứng quê hương hài hòa trong cảm
hứng đất nước. Người mẹ nhân dân và người mẹ sinh thành nhà thơ đều
tỏa sáng ở phẩm chất đẹp đẽ: che chở, yêu thương, kiên cường, buất
khuất (Hơi ấm ổ rơm, Bát nước Ngô của người mẹ Việt ở Cam Lộ). Sự
hòa quyện giữa chung và riêng ấy là điểm tựa cho cái nhìn mở rộng biên

độ quê hương của Nguyễn Duy. Mẹ không chỉ là biểu tượng của quê
hương mẹ còn là nhân dân, Tổ quốc.
2.3.3. Hình tượng người cha
Với mảng thơ Nguyễn Duy viết về những người thân yêu của quê
nhà, nếu như hình tượng mẹ và bà đọng lại nhiều cảm xúc nhất thì hình
tượng cha lại gợi nhiều suy tư nhất. Cha ông rong ruổi chiến trận. Trong
nhìn nhận của Nguyễn Duy, cha gân guốc, mạnh mẽ, phóng khống. Dù
hồn cảnh có khắc nghiệt đến đâu, cha vẫn sáng ngời tình yêu dành cho
Tổ quốc. Trong con mắt nhà thơ, cha là người anh hùng xuất thân là nơng
dân nên rất bình dị và vô tư. Bằng thơ, Nguyễn Duy thể hiện tình cảm
u mến, q trọng chất người nơng dân ở cha.
Hình ảnh người cha khi trở về với đồng ruộng đọng lại nhiều nỗi
niềm thế sự nhất trong thơ Nguyễn Duy. Thời bình, cha gồng gánh mưu
sinh trên đồng ruộng. Nghĩ về cha “man mác kiếp trâu cầy” mà dội lên
nỗi xót xa. Cuộc sống nhọc nhằn vất vả nhưng cách ứng xử của cha xuất
phát từ tinh thần lạc quan thật đáng khâm phục (Về làng).
Trong thơ Nguyễn Duy, ta cịn bắt gặp hình ảnh ơng lão nơng dân
mang dáng dấp của người cha chốn quê nhà (Ông già sơng Hậu). Đó là
những con người của miền q khác nhau nhưng ở họ đều tốt lên cái khí
chất rất đặc trưng của quê hương Việt Nam.
2.3.4. Tấm chân tình với quê hương
Như một quy luật tình cảm tất yếu, Nguyễn Duy yêu quê hương đất
nước nhưng yêu hơn cả là làng quê cụ thể của mình. Cho nên trong thơ,
thi sĩ say mê trước tất cả hình ảnh thiên nhiên mộc mạc hay những tạo


16
vật thuộc về chốn q nhà: dịng sơng, cánh đồng, con vật thân thương, ở
giữa phố mà hình ảnh đồng quê cứ dội về (Nhớ thiên nhiên).
Đối với con người nhà quê, nhà thơ thể hiện một mạch tình cảm

nhất quán “Xin thương mến đến tận cùng chân thật”. Từ cuộc sống của
con người quê hương, Nguyễn Duy cũng đã nói thẳng một sự thật tù
đọng ở nơng thơn bao đời nay với cái nhìn và tiếng nói của người trong
cuộc, với tình yêu đau đáu hướng về chốn quê (Nhìn từ xa…Tổ quốc)
Điều đáng lưu trong thơ là tấm lòng chân thành của Nguyễn Duy đối
với quê nhà. Nhà thơ mong mỏi có được sự đổi thay cho mảnh đất q mình.
Và tất yếu, để có sự đổi thay tươi đẹp ấy thì theo ơng phải Đánh thức tiềm lực
bằng những gì thiết thực nhất.
Trong hồn cảnh xa q đằng đẵng, tất cả những gì thuộc về quê
hương cả lại bùng lên mãnh liệt, đong đầy vào nỗi nhớ. Đặc biệt là thời
gian Nguyễn Duy xa Tổ quốc sống ở nơi xứ người, cảnh vật ln gợi nỗi
chạnh lịng để tâm tưởng muốn làm một cuộc hành trình quay về quê nhà
(Nhớ nhà). Thi sĩ tự nhận thấy mình chỉ được hạnh phúc khi sống giữa
Tổ quốc mình, với tâm hồn dân tộc mình.


17
Chƣơng 3. CẢM HỨNG QUÊ HƢƠNG TRONG THƠ NGUYỄN
DUY, NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT
3.1. Thể loại
Tìm hiểu cảm hứng quê hương trong thơ Nguyễn Duy phải bàn đến
một yếu tố quan trọng là thể loại sáng tác. Với nhà thơ, cảm hứng quê
hươ ng có diện phản ánh rộng. Để truyền tải nội dung phong phú, ông đã
sử dụng nhiều thể thơ. Ngoài thể tự do, năm chữ, bảy chữ, ông quan tâm
sâu sắc đến thể thơ lục bát
Lục bát là một thể thơ dân tộc, có một vị trí quan trọng trong sáng
tác của Nguyễn Du, Nguyễn Bính, Tố Hữu. Trong mấy chục năm cầm
bút, Nguyễn Duy trăn trở chuyển thể lục bát dân gian thành lục bát mang
bản sắc của chính mình, phù hợp với cơng chúng hiện đại. Ơng đã vận
dụng thể sáu - tám trên tinh thần học hỏi và sáng tạo để truyền tải nhiều

cảm hứng trong thơ. Nhưng có lẽ những bài thơ lục bát về quê hương, đã
làm nên thương hiệu của nhà thơ. Đó là Tre Việt Nam, Khúc dân ca, Ngồi
buồn nhớ mẹ ta xưa, Đò Lèn.
Khảo sát về những bài thơ lục bát khơi nguồn từ cảm hứng quê
hương, ta thấy, nhà thơ tiếp thu ảnh hưởng sâu sắc từ ca dao. Có khi
Nguyễn Duy tiếp thu ca dao trên cả phương diện chất liệu ngôn từ và
hình ảnh, cách ví von. Vì vậy, có câu lục bát rất truyền thống, quen thuộc
và ngọt ngào (Khúc hát dân ca). Ông mượn ý hoặc vận dụng nguyên cả
câu ca dao để diễn tả tạo nên dáng vẻ câu thơ vừa quen vừa lạ hướng đến
diễn tả hiện thực quê hương thời hậu chiến (Về làng).
Thơ lục bát là thơ luật, Nguyễn Duy đã giữ cái luật của lục bát
trong cách thức ngắt nhịp, gieo vần. Những cách tân lục bát của ơng trên
phương diện nghệ thuật: ngắt dịng, nhịp, phối thanh ở bài thơ khắc họa
hình tượng con người quê để lại ấn tượng sâu sắc hơn cả. Đó là người
mẹ hóa thân trong hình ảnh con cị. Câu lục bát của Nguyễn Duy hòa trộn
với ca dao nhắc cho ta một đạo lí sống, đạo lí nguồn cội gia đình. Khép
lại những câu lục bát của Nguyễn Duy viết về mẹ - nơi ngọn nguồn của


18
yêu thương và lẽ sống cũng là nơi ngọn nguồn gọi về xúc cảm quê hương
(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa).
Ngồi lục bát, tài năng thơ của Nguyễn Duy cịn được kết tinh ở
một số thể loại thơ như thơ năm chữ, bảy chữ, tự do. Thể tự do của
Nguyễn Duy được chia khổ, chia đoạn dàn trải theo mạch cảm xúc của
tâm tư nhà thơ. Có nhiều bài thơ viết theo thể tự do rất đặc sắc như: Hơi
ấm ổ rơm, Xó bếp, Nhớ thiên nhiên, Dịng sơng Mẹ… Ông đã vận dụng
sức biểu cảm của ngôn từ đời thường, dàn trải rồi cô nén cảm xúc theo
những câu thơ dài ngắn đan xen nhau. Đời sống gia đình được cụ thể, chi
tiết. Nơi ấy nghèo lắm vật chất chẳng có gì, nhưng nơi ấy là hồn ta từng

ngây ngất với mùi thơm của khoai sắn, với hình ảnh của người thân theo
ta suốt cả cuộc đời. Đời sống thôn quê sau thời chiến cũng được Nguyễn
Duy diễn tả bằng thể thơ tự do. Hiện thực nghèo đói được nhà thơ phản
ánh chân thực. Từng chi tiết, hình ảnh mang hơi thở của cuộc sống (Với
đồng bằng, Đánh thức tiềm lực).
Có thể khẳng định, với ý thức lao động nghệ thật nghiêm túc và bền bỉ,
Nguyễn Duy đã thể nghiệm mình trong rất nhiều thể loại thơ. Ở mỗi một thể
thơ ông đều gặt hái được những thành công nhất định. Cơ sở để Nguyễn Duy
ghi dấu ấn chính là sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong những tìm tịi, đổi
mới về cấu trúc ngơn từ, nhịp điệu. Trong đó thể thơ lục bát và thể thơ tự do
kết tinh nhiều sáng tạo nhất ở ngòi bút Nguyễn Duy, đồng thời đã trở thành
một phương tiện quan trọng để nhà thơ biểu hiện sâu đậm tình quê hương.
3.2. Ngôn ngữ
3.2.1. Ngôn ngữ đời sống
Khi biểu hiện cảm hứng q hương, Nguyễn Duy đã tích cực vận
dụng ngơn ngữ đời sống. Sống trải nghiệm với hiện thực của nhân dân,
đất nước, ông được tiếp thu vốn ngôn từ phong phú, trong sáng, giầu chất
dân gian. Nguyễn Duy ý thức đưa vào thơ vốn ngôn từ dân dã để tái hiện
bức tranh thiên nhiên, đời sống quen thuộc mà bản sắc. Điều đó được thể
hiện qua cách nhà thơ sử dụng khẩu ngữ, ca dao và đối thoại trong thơ.


19
Hàng loạt từ ngán ngẩm, xin lỗi, phủi tay, bêu, mệt lử, nướng…khắc họa
tính cách, nỗi niềm của con người bình dân sau lũy tre làng mà các từ
khác dù mượt mà hơn khơng thể thay thế (Dịng Sơng Mẹ, Hơi ấm ổ
rơm). Dưới ngòi bút của Nguyễn Duy, yếu tố của ngơn ngữ đời cịn là
những từ hơ gọi “Rơm rạ ơi ”, những phương ngữ của nhiều vùng quê
khác nhau: “Không răng...”, “Răng mà..”, những đại từ : “mình”, “ta”,
“ai”, “đó”, “đây”… Từ những loại ngơn từ ấy, ông đã tạo nên một kiểu

chất thơ rất giản dị, phập phồng hơi thở của đời sống.
Trong khả năng vận dụng điêu luyện ngơn từ của Nguyễn Duy phải
nói đến khả năng vận dụng từ láy. Nhà thơ tập trung khai thác từ láyvtượng
hình, tượng thanh. Khảo sát nhiều bài thơ, ta thấy xuất hiện nhiều từ láy
quen thuộc: lom khom, chập chờn, xơ xác, nồng nàn, tất tưởi, man mác,
nhập nhoàng. .. Từ láy đã giúp nhà thơ bộc lộ tâm trạng lưu luyến khi được
hịa mình với hương của đồng ruộng. Những từ láy rất mới: long thõng, thập
thững… gợi ấn tượng sâu sắc về cuộc sống quê, con người quê.
Trong hành trình làm thơ, viết về cảm hứng quê hương nhà thơ
luôn phát huy ngôn ngữ giản dị, thông dụng, không cầu kỳ kiểu cách
nhưng đã được gọt giũa và được lựa chọn “điểm rơi” thật đắt giá. Chính
điều đó giúp thơ Nguyễn Duy dễ dàng lắng đọng trong tâm trí người đọc.
3.3.2. Ngơn ngữ bác học
Ý thức lao động nghiêm túc, Nguyễn Duy không ngừng trau dồi vốn
ngôn từ, năng lực sử dụng ngôn từ để biểu đạt sâu sắc cảm hứng thơ. Nhà
thơ đã tự tích lũy, hình thành vốn ngơn từ bác học bên cạnh ngơn từ dân
gian. Với sự biến hóa tài tình, chất lượng ngơn từ được biểu hiện thành chất
lượng hình tượng, đã tác động sâu sắc từ tình cảm đến lí trí của người đọc.
Từ những bài thơ về cảm hứng q hương, ta nhận thấy ngơn từ
bác học có được là do nhà thơ sử dụng thành công các biện pháp tu từ so
sánh, ẩn dụ… Những biện pháp nghệ thuật này góp phần tạo nên cách
diễn đạt mới mẻ, ấn tượng. Qua đó, thi sĩ bộc lộ suy tư về sự bình dị mà
đáng q, mn đời của người dân quê.


20
Nếu cảm hứng quê hương ở hồn thơ Nguyễn Duy là điểm khơi
nguồn của sáng tạo thì ngơn từ là công cụ đắc lực để nhà thơ được để
khắc họa những hình tượng nghệ thuật độc đáo, lay động tâm hồn người
đọc. Ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Duy khi hướng đến biểu hiện cảm hứng

q hương ln hịa trộn giữa tính dân gian và bác học, giữa giản dị, mộc
mạc và thâm thúy, giầu ý nghĩa khái quát.
3.3. Giọng điệu
Nói đến lĩnh vực thơ ca không thể quên đề cập đến giọng điệu thơ.
Mỗi một nhà thơ trong thời đại thi ca nhất định phải có giọng điệu riêng.
Nói về yếu tố chi phối giọng điệu: giọng điệu định hướng hình thành cảm
hứng. Men theo hành trình sáng tác của Nguyễn Duy, thì giọng điệu nổi
bật ở mảng thơ cảm hứng quê hương của Nguyễn Duy là giọng kể tâm
tình, giọng điệu hài hước và giọng triết lí.
3.3.1. Giọng kể tâm tình
Bản chất của một nhà thơ ngay từ khi mới cầm bút là bộc lộ khao khát
muốn giãi bày những, khao khát dược bày tỏ cái điệu hồn của mình trước đời
sống. Ta nhận thấy trong nhiều bài thơ trữ tình như: Đị Lèn, Ngồi buồn nhớ
mẹ ta xưa, Cầu Bố, Hơi ấm ổ rơm… của Nguyễn Duy viết về quê hương
thường có kết cấu tuân theo trật tự thời gian trong sự đan xen của nhiều cung
bậc cảm xúc với giọng kể chuyện tâm tình đặc sắc. Giọng điệu tâm tình có sự
nâng đỡ của nhịp lục bát ngọt ngào, êm dịu, của tình cảm yêu thương, tự hào
trước sức trường tồn mãnh liệt của dân tộc Việt Nam
Khi kể câu chuyện về đất nước, quê hương, bằng thơ trữ tình, Nguyễn
Duy tạo nên sự đồng vọng, hịa nhập giữa cái tôi của nhà thơ với thế giới mình
đã từng ở đó. Bằng những từ xưng hơ tơi, ta ở ngơi kể thứ nhất thì câu Nguyễn
Duy cũng tiếp thu xuất sắc giọng kể của ca dao. Nhưng cách kể lai đối lập so với
Nguyễn Bính, thường rất ngắn gọn và kể là phương tiện để bộc lộ tâm tình nhẹ
nhàng, u mến. Chính vì vậy, nếu thơ Nguyễn Bính xuất hiện nhiều những từ
cảm thán, phép cường điệu, thì Nguyễn Duy lại sử dụng nhiều từ hơ gọi có âm
điệu thiết tha: “ Mẹ ta khơng có yếm đào”, “Mẹ ta nhễ nhãi mồ hôi”, “Cha ông


21
ta man mác kiếp trâu cày”. Suốt đời thơ, ông vẫn kiên trì giữ ngun giọng kể

tâm tình, đơn hậu, tỉnh táo khi nhà thơ thể hiện những xúc cảm về quê
mình. Những day dứt trong nội tâm về miền quê, về số phận con người sau
chiến tranh đã thôi thúc Nguyễn Duy tiếp tục sử dụng giọng điệu kể, giãi
bày, tâm sự trong nhiều thi phẩm khác như: Về làng, Đò lèn, Đánh thức
tiềm lực, Đường xa, Dân ơi.
3.3.2. Giọng hài hước
Trước năm 1975 giọng thơ ơng cũng hịa chung giọng điệu thơ hào
hùng của thời đại chống Mỹ. Dẫu vậy, ngay ở giai đoạn tràn đầy khí thế
này, thơ Nguyễn Duy vẫn ẩn chứa giọng xót xa - giọng lệch chuẩn khi
tâm tình về góc khuất của chiến tranh, phía sau của chiến thắng (Người
con gái, Người đang yêu, Một người cha).
Từ sau những năm tám mươi, trước sự tác động đỏi mới kinh tế
thời mở cửa, Nguyễn Duy nhận ra những mâu thuẫn, những bất cập của
cuộc sống hiện tại. Giọng điệu hài hước qua lớp ngôn ngữ đời thường
được chắt lọc thành thơ, nổi lên thành giọng điệu chính. Để biểu hiện
cảm hứng quê hương, giọng thơ Nguyễn Duy cũng đậm chất hài hước
nhưng hòa trộn với trữ tình tha thiết. Viết về cuộc sống sau lũy tre làng,
ông cũng đã phản ánh một thực trạng đáng buồn đầy nghịch lí từ cuộc
đời “Cáo chết ba năm quay đầu về núi/khệnh khạng hát câu xin lỗi chân
trời” (Dịng Sơng Mẹ). Giọng thơ hài hước nhưng khơng phải mang sắc
thái giễu cợt mà vẫn sâu lắng một tình thương sâu nặng, nỗi chia sẻ chân
tình với những tình cảnh éo le con người của nơi làng quê. Nguyễn Duy
sử dụng phương ngữ có tính đa nghĩa để tạo nên giọng hài hước mà xót
xa “Khơng răng…cha vẫn cười khì” trong tình cảnh “nhà ta xơ xác hơn
ngày xa xưa” (Về làng).Vẫn giọng điệu hài hước, nhà thơ cũng đã lột tả
sự thật về quê nhà khiến ta phải trăn trở (Nhìn từ xa Tổ quốc).
Giọng thơ hài hước của Nguyễn Duy bao giờ cũng có những lắng
đọng của những tình cảm tha thiết, những lời động viên vượt lên chính
hiện thực cịn nhiều cay đắng: nhiều kẻ ăn mày, nhiều trẻ con thất học,



22
cái xấu mạnh hơn cái tốt. Đó cịn là lời tự nhủ với mình đừng mất niền
tin, phải vì những điều thiêng liêng hơn để hướng đến ngày mai.
3.3.3. Giọng triết lí
Ngồi giọng điệu kể, giọng điệu trào lộng để truyền tải nội dung
mang cảm hứng quê hương, Nguyễn Duy cịn sử dụng giọng điệu triết lí.
Với ơng, viết về cảm hứng q hương khơng chỉ có là những dịng cảm
xúc mà cảm xúc ln được kết hợp hài hịa với lí trí. Những hình ảnh
chân thực của đời sống được truyền tải bằng ngơn ngữ, giọng điệu giầu
tính triết nhưng rất trữ tình.
Vốn là người trưởng thành từ vùng quê nghèo, hồn thơ hướng về
quê hương đậm chất dân dã nên giọng triết lí trong thơ Nguyễn Duy nhẹ
nhàng sâu lắng. Trước sự vật thân thuộc, nhà thơ suy ngẫm về con người
Việt Nam kiên cường cha (Tre Việt Nam), tha thiết với mùi của đồng
ruộng,(Hơi ấm ổ rơm), thao thức với dịng sơng (Dịng sơng Mẹ).
Thơ Nguyễn Duy cịn có giọng triết lí về tình q qua hình ảnh
những người thân u. Đó là hình ảnh người bà, người cha, người mẹ. Ở
họ hội tụ vẻ đẹp riêng, chung. Họ kết tinh tình yêu và niềm tự hào của
nhà thơ. Giọng thơ triết lí của Nguyễn Duy khái quát sức mạnh lớn lao
của nhân dân kết tinh từ tình đồng chí, đồng bào (Hầm chữ A). Đặc biệt
ơng xốy sâu vào những điều nghịch lí tồn tại dai dẳng trên quê mình,
khi chiến tranh đã lùi vào dĩ vãng. Cuộc sống nơi quê nhà vẫn chưa khởi
sắc, vẫn rất nghèo khó (Về làng, Nhìn từ xa…Tổ quốc).
Qua mấy chục năm sáng tác, Nguyễn Duy đã hình thành giọng điệu
thơ phong phú. Nhưng giọng trữ tình tha thiết ln là giọng điệu bao trùm cả
đời thơ của Nguyễn Duy. Giọng điệu ấy có vận động biến hóa đến đâu thì ta
ln nhận ra sự hịa nhịp với nguồn cảm hứng quê hương. Điểm nhìn quê
hương hẹp hay mở rộng, thì bằng giọng điệu ấy nhà thơ ln đau đáu hướng
về số phận của nhân dân nước, vị thế của Tổ quốc mình.



23
KẾT LUẬN
1. Nguyễn Duy là nhà thơ lớn của nền thơ ca hiện đại Việt Nam.
Ơng ghi dấu ấn khó phai trong lòng nhiều thế hệ người yêu thơ. Trong
suốt hành trình nửa thế kỷ miệt mài sáng tác, cảm hứng trong thơ ông rất
phong phú. Nhưng cảm hứng quê hương là cảm hứng khởi phát, bền bỉ,
xuyên suốt đời thơ Nguyễn Duy.
2. Cảm hứng quê hương bắt nguồn từ một quan niệm nhân sinh đặc
sắc của thi sĩ “thảo dân”. Từ điểm nhìn, tâm thế khác nhau, quê hương
trong xúc cảm của nhà thơ được thu hẹp hoặc được mở rộng về biên độ.
Ơng thể hiện cái nhìn chân thực, sâu sắc về cuộc sống và con người quê.
Thân phận nhỏ bé hòa trộn với những phẩm chất cao đẹp của con người
quê hương được kết tinh ở những hình tượng nghệ thuật đặc sắc như
người bà, người mẹ, người cha… Hơn nữa, nhà thơ còn bộc lộ khao khát
quê hương, đất nước mình sẽ khởi sắc, sẽ tươi đẹp hơn.
3. Sâu thẳm như mạch ngầm trong cảm hứng quê hương của
Nguyễn Duy là yêu thương, tự hào và xót xa. Mạch ngầm này cũng định
hướng cách lựa chọn hình thức nghệ thuật phù hợp. Trong đó phải kể đến
thể loại, ngôn từ, giọng điệu. Ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Duy vừa mang
màu sắc đời thường bụi bặm vừa mang tính bác học. Chất liệu, hình ảnh
thơ giầu tính truyền thống thể hiện sâu sắc và xúc động hồn q, tình
q. Mạch cảm hứng q hương cịn điều chỉnh giọng điệu, âm hưởng.
Vậy nên, thơ Nguyễn Duy hình thành những giọng điệu chính: kể chuyện
tâm tình, hài hước và triết lí suy tư. Ta nhận thấy, giọng tâm tình có âm
điệu tha thiết. Bởi sự hiện diện trực tiếp của cái tơi trữ tình bày tỏ nhiều
cung bậc cảm xúc trước quê hương trong quá khứ và hiện tại. Giọng hài
hước được hình thành từ nhận thức táo bạo, chạm đến những tồn đọng
dai dẳng, những vấn đề bức thiết của quê hương nói riêng và đất nước

nói chung. Giọng triết lí đúc kết nhiều vấn đề của quê hương, đất nước
mà nhà thơ đã trải nghiệm. Ở đó lắng đọng trăn trở, băn khoăn của nhà
thơ giầu tâm huyết trước thân phận con người. Những giọng điệu này tồn


24
tại đan xen trong hành trình thơ của Nguyễn Duy nhưng giọng chủ đạo
để nhà thơ thể hiện cảm hứng quê hương vẫn là giọng trữ tình tha thiết.
Thành quả của mấy chục năm miệt mài làm thơ của Nguyễn Duy là
những tập thơ hay. Nhưng những bài thơ hay nhất đã được đóng đinh
trong trí nhớ của nhiều thế hệ người đọc là những bài thơ về quê hương.
Từ đó, ta thấy điều đọng lại rất xúc động là tấm lòng thương mến mà nhà
thơ giành cho quê nhà, đất nước, nhân dân. Ơng ln tâm niệm mình chỉ
có hạnh phúc được bao bọc, che chở bởi quê hương, Tổ quốc. Bằng tình
cảm đó, thơ Nguyễn Duy có những tác động mãnh liệt đến trái tim người
đọc, khơi dậy và hun đúc ở họ sự tha thiết với giá trị văn hóa của dân tộc,
ý thức giữ gìn vẻ đẹp, bản sắc của dân tộc mình.
Cảm hứng quê hương là cảm hứng sáng tác muôn thuở của người
nghệ sĩ. Mỗi một nhà thơ có cách khám phá thể hiện vẻ đẹp của quê
hương ở nhiều phương diện khác nhau. Bắt nguồn từ cảm hứng này,
Nguyễn Duy có những đóng góp đáng kể cho nền thơ ca hiện đại Việt
Nam. Ấn tượng về nhà thơ trong lòng người đọc là một tâm hồn thuần
Việt, một cái tơi trữ tình ln hướng về giá trị cội nguồn của dân tộc.



×