Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở việt nam trong thời kỳ đổi mới (1986 2005)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.66 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC G IA HÀ N Ộ I
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, B ồ i DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

ĐỂ TÀI KHCN CẤP ĐẠI HỌC QUỐC GIA DO TRUNG TÂM QUẢN LÝ
MÃ SO: QTCT.07.10

Q TRÌNH CƠNG NGHIỆP HỐ, HIỆN ĐẠI HOÁ
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ Đ ổ i MỚI (1986-2005)

Chủ nhiệm đề tài: ThS. Lã Thanh Bình

Cơ quan chủ trì: Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị

Cán bộ phối họp:
1. Chuyên viền: Phơn Thị Hiệp
2. Chuyên viên: Vũ Trường Giang
ĐẠI HỌC Q U Õ C G IA HẢ NỘI
TRUNG TẨM THÔNG TIN THƯ VIỆN
■ f)T

/

HÀ NỘ I 7 - 2008

_


MỤC LỤC
Trang
Mở đầu


2

Chương 1. Q trình đổi mói quan điểm, chủ trương cơng nghiệp hố,
hiện đại hố của Đảng từ năm 1986 đến năm 2005
1.1.

6

Q trình đổi mới tồn diện quan điểm, chủ trương của Đảng về
cơng nghiệp hố (1986-1994)

1.2.

6

Q trình bổ sung những nội dung mới của cơng nghiệp

hố

(1994-2005)

14

Chương 2. Thực trạng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam từ
năm 1986 đến năm 2005

35

2.1.


35

Thời kỳ ổn định kinh tế xã hội và tạo lập các tiền đề cơng nghiệp
hố (1986-1994).

2.2.

Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (1995 - 2005)

Chương 3. Phương hướng và giải pháp chủ yếu

đẩymạnh cơng

46
74

nghiệp hóa, hiện đaị hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
3.1.

Phương hướng

74

3.2.

Một số giải pháp

78

Kết luận


103

Tài liệu tham khảo

105

1


BẢ N G Q U Y ƯỚC CÁC C H Ữ V IẾ T T R O N G ĐỂ

KHXH:

K hoa học Xã hội

CNH:

Cơng nghiệp hóa

CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

CN:

Cồng nghiệp

CT:


Chỉ thị

HĐH:

Hiện đại hóa

HĐTB:

Hội đồng bộ trưởng

QHSX:

Quan hệ sản xuất

LLSX:

Lực lượng sản xuất

TW:

Trung ương

TBCN:

Tư bản chủ nghĩa

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


tài


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đổi mới và phát triển là quy luật vận động tất yếu của mọi sự vât, hiện
tượng nói chung và q trình cơng nghiệp, hiện đại hố nói riêng. Năm 2006
cơng cuộc đổi mói do Đảng khởi xưóng và lãnh đạo trịn 20 năm. Kể từ Đại
hội Đảng VI năm 1986 đến nay, tư duy lý luận của Đảng đã được đổi mới
từng bước và có những tiến bộ đáng kể. Thực hiện Chỉ thị 24-CT/TW ngày 155-2003 của Ban Bí thư về tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20
năm đổi mới, những thành tựu tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận đã cung
cấp nhiều luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách của
Đảng. Tuy vậy, việc tổng kết thực tiễn 20 năm đổi mới trong thời gian qua
mới chỉ dừng lại ở những vấn đề tổng quát. Để tiếp tục đưa công cuộc đổi mới
của nước ta tiến lên, chúng ta cần tiếp tục đi sâu tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn từ đó đề xuất những luận điểm mới có căn cứ khoa học và những giải
pháp mới.
Trong các đường lối chính sách của Đảng, cơng nghiệp hố, hiện đại
hố là nội dung vô cùng quan trọng liên quan tới sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đất nước. Những nãm qua,
cùng vói sự đổi mới về lý luận, thực tiễn cơng nghiệp hoá, hịên đại hoá ở nước
ta đã thu được một số kết quả đáng kể: cơ sở vật chất - kỹ thuật đã từng bước
được xây dựng, hình thành; bộ mặt nhiều ngành, nhiều vùng kinh tế đã có
nhiều đổi thay; tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao, liên tục; cơ cấu kinh tế
có chuyển biến theo hướng tích cực, kết cấu hạ tầng kỹ thuật phát triển nhanh,
nền kinh tê có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất... Tuy nhiên, Việt
nam hiện nay vẫn là nước có nền kinh tê kém phát triển, chất lượng phát triển
kinh tế - xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn kém, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế chậm, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển, công nghiệp hố cịn ở giai đoạn sơ khai, phát triển khá theo chiều rộng,
nhưng cịn kém chiều sâu. Để có thể đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố

gắn với phát triển kinh tế tri thức theo tinh thầnh Đại hội Đảng X đề ra việc

2


nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước
ta là nhiệm vụ vơ cùng cần thiết và cấp bách.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài.

Nhũng năm qua cơng nghiệp hố là đề tài thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu kinh tế. Những nội dung của cơng nghiệp hố đã được
nghiên cứu theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Nhóm các cơng trình chun
khảo về mơ hình, con đường cơng nghiệp hoá gồm:
- Võ Đại Lược: Những xu hướng phát triển của thế giới và sự lựa chọn
mơ hình cơng nghiệp hoá của nước ta, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1999.
- Nguyễn Xuân Dũng, Một số định hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá ở Việt nam giai đoạn 2001-2010, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội
2002.
- Trần Đình Thiên (Chủ biên): Cơng nghiệp hố ở Việt nam lộ trình và
phác thảo, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội 2003.
- Đỗ Hồi Nam (Chủ biên): Một số vấn đề cơng nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở Việt nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2003.
- Đỗ Đức Định: Kinh tế học phát triển về cơng nghiệp hố và cải cách
nền kinh tế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
- Trần Văn Thọ: Biến động kinh tế Đông Á và con đường cơng nghiệp
hố Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
Bên cạnh những cơng trình chun khảo, thời gian qua, những nội dung
cụ thể và bài học về cơng nghiệp hố, hiện đại hố như: Phát triển nguồn lực

đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao; mối quan hệ giữa tồn cầu hố và
cơng nghiệp hố; mối quan hộ giữa phát triển kinh tế thị trường và cơng
nghiệp hố, bước chuyển sang kinh tế tri thức và việc đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, kinh nghiệm cơng nghiệp hố của Nhật Bản, của các nền kinh tế mới phát
triển... cũng được nghiên tỉ mỉ và sâu sắc,
Mặc dù, thời gian qua, nghiên cứu về cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đã
mở rộng về đối tượng và chi tiết về nội dung, nhưng đến nay, chúng ta chưa có
cơng trình khoa học chuyên khảo tổng kết kinh nghiệm công nghiệp hoá, hiện

3


đại hố đất nước trong thịi kỳ đổi mới. Do vậy, đây là đề tài độc lập không
trùng với các cơng trình khoa học nghiên cứu về cơng nghiệp hố khác.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. M ục tiêu
Làm rõ đường lối cơng nghiệp hố hiện đại hố của Đảng từ đó phân
tích những thành công và hạn chế và đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh
q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
Trên cơ sở phân tích thực trạng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam qua 20 năm đổi mới (1986 - 2005), đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
3.2. N hiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nêu trên đề tài đã tập trung giải quyết một số
nhiệm vụ sau:
- Tổng hợp, phân tích chủ trương, đường lối cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa của Đảng từ năm 1986 đến năm 2005.
- Phân tích thực trạng cổng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam từ năm
1986 đến năm 2005.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đôi tượng nghiên cứu
Chủ trương và thực tiễn q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiếp cận nội dung cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam từ
góc độ Kinh tế Chính trị.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở của phương pháp duy vật biện chứng, tác giả đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: Phương pháp trừu tượng hoá khoa học,
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp logic và lịch sử, phương
pháp điều tra thống k ê ...

4


6. Đóng góp của đề tài
+ Đề tài góp phần hệ thống hoá đường lối cồng nghiệp hoá, hiện đại
hữá của Đảng.
+ Tổng kết thực tiễn 20 năm công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại
hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm
3 chương, 8 tiết.

5


Chương 1
Q TRÌNH ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CƠNG NGHIỆP

HOÁ, HĨỆN ĐẠI HOÁ CỦA ĐẢNG T Ừ N Ả M 1986 ĐẾN NĂM 2005

Cơng nghiệp hóa là con đường duy nhất mà các quốc gia có thể
chọn trên bước đường đi từ nền kinh tế nông nghiệp, lạc hậu tới nền kinh
tế công nghiệp phát triển. Từ sau cuộc cách mạng công nghiệp diễn ở
nước Anh, các cuộc cách mạng cơng nghiệp khơng cịn là q trình mang
tính tự thân và kết quả phụ thuộc rất lớn vào chiến lược cơng nghiệp hóa
của mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam chiến lược cơng nghiệp hóa, về mặt lý luận, được thể
hiện thông qua các quan điểm, chủ trương của Đảng. Các quan điểm, chủ
trương này có ý nghĩa quyết định tới kết quả của q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.1. Q trình đổi mới tồn diện quan điểm , chủ trương của
Đảng về cơng nghiệp hố (1986-1994)
1.1.1. K hái q uát quan điểm , chủ trương của Đ ảng vê cơng nghiệp
hóa trước n ă m l9 8 6
Ngay sau khi giải phóng miền Bắc và cơng cuộc khôi phục kinh tế sau
chiến tranh giành được một số thành tựu, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
III của Đảng (9/1960) đã quyết định tiến hành công nghiệp hố xã hội chủ
nghĩa, coi cơng nghiệp hố là nhiệm vụ trung tâm của cả thòfi kỳ quá độ. Chủ
trương được Đảng đưa ra tại kỳ Đại hội này là: “Xây dựng một nền kinh tế xã
hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nồng nghiệp một
cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ,
nhằm biến nước ta thành một nước công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện
đại”. Quan điểm của Đảng về cơng nghiệp hố là: “Ưu tiên phát triển cống
nghiệp nặng trên cơ sở phát triển nồng nghiệp và công nghiệp nhẹ”.

6



Do điều kiện đất nước vừa tiến hành công nghiệp hoá vừa phải chiến
đấu chống lại đế quốc Mỹ xâm lược, nên q trình cơng nghiệp hố của chúng
ta đã bị gián đoạn, không đạt được mục tiêu mong muốn. Cho tới năm 1975,
sau khi hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước, Đại hội Đảng lần IV (1976)
đã tái khảng định mơ hình cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa được xây dựng
từ Đại hội m , trên phạm vi cả nước.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (1982), Đảng có chủ trương thay
đổi cơ cấu đầu tư “Tập trung phát triển mạnh nống nghiệp, coi nông nghiệp là
mặt trận hàng đầu, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây
dựng một số ngành cơng nghiệp nặng then chốt”, nhưng nhìn chung mơ hình
cơng nghiệp hố ở nước ta trước thời kỳ đổi mới (1986), là mơ hình cơng
nghiệp hố xã hội chủ nghĩa hướng nội, theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung,
quan liêu, bao cấp. Mơ hình này được xây dựng theo mơ hình cơng nghiệp hố
của các nước xã hội chủ nghĩa. Thực tế cho thấy, mơ hình này đã từng có giá
trị lớn đối với Liên Xồ trong thời kỳ chiến tranh, bị bao vây cô lập, nhưng về
cơ bản, nó khơng phù hợp với thực trạng kinh tế xã hội của nước ta. Vì trong
khi nền kinh tế cịn manh mún, trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất
còn yếu kém, mà lại áp đặt trên đó một quan hệ sản xuất quá cao- quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa. Do sự mâu thuẫn này, các quan hệ sản xuất đã khơng
những khơng kích thích, mà ngược lại nó cịn kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Vì thế, các nội dung khác của cơng nghiệp hố cũng khơng
thực hiện được.
Đến năm 1986, nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng
trầm trọng, đời sống người dân sút kém. Tiêu cực xã hội lan rộng, lịng dân
khơng n, mất lịng tin vào Đảng vào Nhà nước. Đứng trước thực trạng này,
Đảng đã tìm tịi, khám phá mong muốn tìm ra con đường để đưa đất nước
thoát khỏi khủng hoảng.
1.1.2.

Quan điểm, chủ trương cơng nghiệp hố của Đảng từ năm 1986


đêln năm 1994
Tháng 12/1986, Đảng Cộng sản Việt Nam họp Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI. Sau khi kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết Đại

7

í


hội IV và Đại hội V, Đại hội VI của Đảng khẳng định tiếp tục thực hiện
đường lối chung của cách mạng x ã hội chủ nghĩa và đường lối xảy dựng
kinh t ế x ã hội chủ nghĩa do các Đại hội Đảng lần thứ IV, V xác định.
Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là m ột nội dung cơ bản của
đường lối cách m ạng của Đảng với những nội dung, bước đi, phương thức
thực hiện như sau:
M ột là, quá trình CNH phải được tiến hành từng bước phù hợp với
yêu cầu phát triển của nền kinh tế và lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá
độ lên CNXH.
Quá độ từ m ột nước nông nghiệp lạc hậu tiến lên CNXH phải trải
qua một quá trình CNH. Đó là tất yếu khách quan. Q trình đó tuỳ tình
hình, điều kiện cụ thể của mỗi nước mà có những bước đi thích hợp, phải
tập trung giải quyết "những nhiệm vụ đặc thù của từng bước quá độ đó"
[53, tr.120]. Với quan điểm trên, Đại hội VI khẳng định, nước ta ở chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ. Đó là bước quá độ nhỏ trong bước quá
độ lớn, thực hiện mục tiêu nhỏ trong mục tiêu lớn.
Hai là, nhiệm vụ của chặng đường đầu tiên là khơi phục, ổn định
tình hình kinh tế - xã hội, qua đó tạo tiền đề cần thiết để đẩy mạnh cơng
nghiệp hố.
Đại hội IV với "tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội muốn bỏ qua

những bước đi cần thiết" [19, tr. 19] đã chủ trương đẩy mạnh CNH đất
nước để nhanh chóng đưa nền kinh tế từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn
XHCN. Chủ trương trên đã không thực hiện được vì thiếu n h ữ n g tiên đề,
điểu kiện n h ấ t định. Đại hội VI chỉ ra rằng, nhiệm vụ chặng đường đầu
tiên là nhằm ổn định mọi mạt tình hình kinh tế xã hội, tạo tiền đề cần thiết
cho việc đẩy mạnh CNH ở chặng đường tiếp theo. Như vậy, so với Đại hội
IV. chủ trương CNH của Đại hội VI tựa hồ như là một "bước lùi" nhưng
"lùi" để đưa công cuộc CNH tiến lên với những bước đi vững chắc.
Bơ là, phải xuất phát từ nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế, chú trọng
tính khả thi và tính hiệu quả của các chương trình cơng nghiệp hố.

8


Sai lầm trước đây là đã xác định nội dung và chỉ tiêu CNH không
thật sát với nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế, ít chú trọng đến hiệu quả
sản xuất kinh doanh. Do vậy, sau nhiều năm đầu tư cho CNH giá trị tài
sản cố định của nền kinh tế có tăng lên, song vẫn khơng tạo ra được sự
tăng trưởng, và càng CNH nền kinh tế càng mất cân đối nghiêm trọng. Đại
hội VI chỉ ra tính chất "lâu dài và rất khó khăn" của cơng cuộc CNH đất
nước. Cho nên, trong từng bước phát triển phải tính tốn, cân nhắc kỹ
lưỡng; các mục tiêu, giải pháp phải " phù hợp với điều kiện thực tế, không
"vượt quá điều kiện và khả năng thực tế, phải xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi
của nền kinh tế m à bố trí kế hoạch phát triển. Sự thay đổi về lượng phải
hướng tới sự biến đổi về chất một cách tương ứng, tao ra thế cân đối mới
cho nền kinh tế phát triển ổn định vững chắc. Đại hội quyết định bố trí lại
cơ cấu kinh tế, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung thực
hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất lương thực - thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu, trong đó nông nghiệp ưu tiên về vốn, vật tư và lao
động kỹ thuật, thứ đến là công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng. Phương

hướng phát triển công nghiệp nhẹ chủ yếu tổ chức lại sản xuất, đầu tư
chiều sâu, tận dụng công suất thiết bị của các cơ sở sản xuất hiện có. Đối
với cổng nghiệp nặng, Đại hội chủ trương sắp xếp, điều chỉnh xây dựng
những cồng trình thật cấp thết theo khả năng thực tế, điều chỉnh, xây dựng
những cơng trình thật cấp thiết theo khả năng thực tế, chuẩn bị tiêu đề cho
việc đẩy mạnh CNH trong chặng đường tiếp theo. Quan điểm của Đại hội
là sản xuất phải có hiệu quảm phải gắn chặt với thị trường, phải đáp ứng
nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng.
Trong xây dựng cơ bản, ưu tiên cho những cơng trình tốn ít vốn, đưa
vào sử dụng nhanh, tạo ra nhiều việc làm; kiên quyết giãn tiến độ hoặc
đình hỗn việc xây dựng những cơng trình chưa thật cấp bách, hoặc làm
xong mà khơng có đủ điều kiện để hoạt động một cách hiệu quả. Phương
châm xây dựng cơ bản là; quy mơ nhỏ và vừa là chính, tranh thủ kỹ thuật
tiến bộ, bảo đảm xây dựng nhanh, đưa vào sử dụng kịp thời từng phần
cơng trình.

9


Bốn là, cơ cấu kinh tế của chặng đường đầu tiên không phải là công
- nông nghiệp m à là nông - công nghiệp và dịch vụ.
Từ Đại hội III (9/1960) cho đến Đại hội IV (13/1976), với chính
sách"ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý", Đảng ta luồn
xác định phải hướng tới xây dựng một nền kinh tế có cơng nghiệp hiện đại
và nồng nghiệp hiện đại hay công - nông nhiệp hiện đại. Nhưng mục tiêu
đó đã khơng được cụ thể hố thành những bước đi thích hợp. Đại hội lần
thứ V của Đảng (3/1982) quyết định tập trung phát triển mạnh nông
nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Đây là chủ trương rất đúng
đắn nhưng chưa thật quán triệt, trong chỉ đạo thực tiễn, vẫn chưa có sự
chuyển đổi m ạnh mẽ về cơ cấu kinh tế.

Đại hội VI chỉ ra rằng: "Yêu cầu cấp bách về lương thực, thực
phẩm, về nguyên liệu sản xuất hàng tiêu dùng, về hàng xuất khẩu quyết
định vị trí hàng đẩu của nơng nghiệp" [ 18, tr.48], theo đó, cơ cấu kinh
tế trong chặng đường đầu tiên của nước ta cũng được chuyển dịch theo
hướng nông - công nghiệp và dịch vụ.
Năm là, thừa nhận sự tổn tại lâu dài nhiều hình thức sở hữu và nhiều
thành phần kinh tế q trình cơng nghiệp hố.
Thật ra, ngay từ Hội nghị TW 6 (khoá IV) năm 1979 đã đặt vấn đề,
bên cạnh thành phần kinh tế XHCN (quốc doanh và tập thể) phải tận dụng
các thành phần kinh tế khác như công tư hợp doanh, cá thể, kể cả tư bản tư
nhân được kinh doanh hợp pháp và mở rộng chừng mực sự tự do giao lưu
hàng hố. Nhưng lúc ấy có tư tưởng coi đây là bước lùi tạm thời, một giải
pháp "tình thế" để cứu vãn tính hình kinh tế - xã hội đang lúc khó khăn
hơn là m ột chủ trương có tính nhất quán. Đại hội VI đã coi công tác cải
tạo XHCN là nhiệm vụ thường xuyên liên tục trong suốt thời kỳ quá độ
lên CNXH và khẳng định các thành phần kinh tế được bình đẳng trước
pháp luật. Tuy vậy, phải đến Hội nghị TW 6 (khoá IV) mới khẳng định
nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi
năng lực sản xuất và coi đây là nhiệm vụ chiến lược lâu dài có tính quy
luật từ sản xuất nhỏ lên XHCN.

10


Sáu là, xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung, bao cấp thực hiện cơ chế
quản lý mới: Cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh
XHCN, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Cơ chế quản lý tập trung, bao cấp là đặc trưng của CNH kiểu cũ.
Đặc điểm của cơ chế này là quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành
chính là chủ yếu, với hệ thống chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh chi tiết từ trên

giao xuống các cơ quan quản lý hành chính - kinh tế can thiệp sâu vào
hoạt động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị cơ sở, nhưng lại khơng chịu
trách nhiệm gì về vật chất đối với các quyết định của mình; các đơn vị
kinh tế cơ sở vừa khơng có quyền tự chủ, vừa khơng bị ràng buộc trách
nhiệm với kết quả sản xuất kinh doanh. Cơ chế đó đã khơng tạo ra được
động lực phát triển, làm hạn chế việc sử dụng các thành phần kinh tế khác,
kìm hãm sản xuất, gây rối ren trong phân phối lưu thông... Đại hội IV chỉ
ra rằng, việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đơi với đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế. Thực chất của cơ chế mới về quản lý kinh tế là cơ chế kế hoạch
hoá theo phương thức hoạch toán kinh doanh XHCN, đúng ngun tắc tập
trung dân chủ, trong đó, tính kế hoạch là đặc trưng số một; sử dụng đúng
đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ là đặc trưng thứ hai; thực hiện quản lý nền
kinh tế bằng phương pháp kinh tế là chủ yếu, kết hợp hài hoà lợi ích của
tồn xã hội, lợi ích của tập thể là lợi ích riêng của người lao động; phân
cấp quản lý theo hướng đảm bảo quyền quyết định của Trung ương, quyền
chủ động của địa phương và quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn
vị kinh tế cơ sở; gắn trách nhiệm với quyền hạn, nghĩa vụ và lợi ích.
Bdy là, bước đầu chuyển sang thực hiện nền kinh tế mở.
Cùng với thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, phương
châm của Đại hội VI trong việc thực hiện chương trình hàng xuất khẩu là
"Kết hợp sức m ạnh dân tộc với sức mạnh thời đại", tính toán hiệu quả kinh
tế của từng mặt hàng để lựa chọn sản phẩm có lợi thế, đầu tư đồng bộ cho
xuất khẩu; hoạt động xuất khẩu chuyển sang kinh doanh; vận dụng nhiều
hình thức đa dạng để phát triển kinh tế đối ngoại, khuyến khích nước
ngồi đầu tư vào nước ta, vận động Việt Kiều đầu tư xây dựng đất nước.

11


Với những quan điểm đổi mới nói trên, Đại hội VI bước đầu định

hướng cho việc chuyển mơ hình CNH theo kiểu cũ sang xây dựng mơ hình
CNH theo kiểu mới phù hợp với điều kiện của đất nước và xu thế phát
triển của thời đại.
Tháng 6/1991, Đảng cộng sản Việt Nam họp Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH. Cương lĩnh nhấn mạnh: "Để thực hiện mục tiêu dân
giàu nước m ạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa, điều quan trọng nhất
phải cải biến về căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém phát triển, chiến
thắng những lực lượng cản trở việc thực hiện mục tiêu đó". Phải "phát
triển lực lượng sản xuất, cơng nghiệp hố đất nước theo hướng hiện đại,
gắn liền với m ột nền kinh tế nông nghiệp phát triển toàn diện là nhiệm vụ
trung tâm nhàm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải
thiện đời sống nhân dân" [14, tr.9] Đại hội VII còn chỉ ra rằng, trong kế
hoạch 5 năm 1991 - 1995 phải tập trung mọi nỗ lực giải quyết các vấn đề
cấp bách về kinh tế xã hội, trên cơ sở, thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế
của kế hoạch 5 năm 1991 trên cơ sở đó, thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh
tế của kế hoạch 5 năm 1991 - 1995; đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát,
ổn định, phát triển và nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội, ổn định và
từng bước cải thiện đời sống nhân dân bắt đầu có tích Iuỹ từ nội bộ nền
kinh tế. Đại hội chủ trương phải phát huy tiềm năng của các thành phần
kinh tế; đẩy mạnh ba chương trình kinh tế với những nội đung cao hơn
trước và từng bước xây dựng cơ cấu kinh tế mới theo yêu cầu CNH; đẩy
nhanh nhịp độ ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, hình thành về cơ bản
và vận hành tương đối thống suốt cơ chế quản lý mới.
Mục tiêu phấn đấu trong kế hoạch 5 năm (1991 - 1995) Đại hội đề
ra như sau:
-

Tiếp tục kiểm chế và đẩy lùi làm phát, giữ vững và phát triển sản


xuất, bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế.

12


Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giảm nhanh nhịp độ
tăng dân số.
- On định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân. Bảo đảm tiền lương tối thiểu, đáp ứng được nhu cầu thiết yếu
của ngưòi lao động, ngăn chặn thu nhập phi pháp và bất công .
- Bảo đảm quốc phòng an ninh.
Phấn đấu kết thúc kế hoạch 5 năm đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình
trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Nếu như Đại hội VI tập trung tháo gỡ những vướng mắc trong hoạt
động kinh tế nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, thì Đại hội
VII chủ trương tập trung đầu tư cả chiều rộng lẫn chiều sâu nhằm tạo
chuyển biến rõ nét về cơ cấu kinh tế, trước hết đối với từng vùng và ngành
trọng điểm, đem lại hiệu quả cao. Đại hội chủ trương đi đôi với việc tập
trung phát triển ba chương trình kinh tế phải phát triển tồn diện kinh tế
nông thôn và xây dựng nông thôn mới; trong sản xuất hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu phải chú trọng tính đa dạng và chất lượng sản phẩm; phát
triển du lịch; phát triển một số ngành công nghiệp nặng phục vụ cho ba
chương trình kinh tế, coi trọng khai thác tài nguyên, đặc biệt là dầu khí;
phát triển kết cấu hạ tầng theo hướng vừa chống xuống cấp, vừa hiện đại
hố có trọng điểm, phát triển giao thơng nơng thôn, miền núi; xây dựng và
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế vùng, mở rộng quan hệ phân công,
hợp tác, liên kết giữa các vùng trong nước và với bên ngoài.
Đại hội đã định hướng cho việc phải tiếp tục hồn thiện một số chủ
trương, chính sách theo hướng xây dựng nền kinh tế mở.

- Đối với trong nước, coi trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, lấy cơ chế thị trường vận hành nền kinh tế dưới sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Trong cơ chế đó, các đơn vị
kinh tế có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, quan hệ bình đảng, cạnh
tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện; thị trường có vai trị trực
tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương

13


án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả; Nhà nước quản lý nền kinh tế
nhằm định hướng, dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo môi trường và điều
kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh, kiểm soát chặt chẽ và
xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh tế, bảo đảm hài hoà giữa
phát triển và tiến bộ xã hội.
- Đối với ngoài nước, cần đa dạng hoá, đa phương hoá và nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại, huy động mọi tiềm năng kinh tế,
phát huy lợi thế tương đối nhu cầu sản xuất và đời sống trong nước, vừa
hướng mạnh về xuất khẩu, gắn thị trường trong nước với thị trường ngồi
nước.
- Thành lập các xí nghiệp, cống ty cổ phần, hình thành và mở rộng
đổng bộ các thị trường như thị trường hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất dịch
vụ, thị trường vốn là tiền tệ, thị trường ngoại hối, thị trường sức lao động
tiến tới xây đựng thí điểm thị trường chứng khốn..., đồng thời chuẩn bị
mọi điều kiện cần thiết để nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế thê
giới.
1.2.

Quá trình bổ sung những nội dung mới của cồng nghiệp hố


(1994-2005)
1.2.1. C ơng nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá
Với những thành tựu đạt được trong những năm đổi mới, cơ sở vật
chất kỹ thuật của nền kinh tế tuy có được tăng cường đáng kể nhưng nhìn
chung cịn nhỏ bé. Hội nghị giữa nhiệm kỳ (khoá VII) tháng 1/1994, chỉ ra
bốn nguy cơ đối với nước ta, trong đó nguy cơ nổi bật là sự tụt hậu xa hơn
về kinh tế so với nhiều nước trên thế giới và khu vực. Nguy cơ này phản
ánh thực trạng nền kinh tế nước ta.
Hội nghị giữa nhiệm kỳ (khoá VII) tiếp tục cụ thể hoá, bổ sung nghị
quyết Đại hội VII, bước đầu xây dựng chiến lược CNH, HĐH đất nước với
các quan điểm lớn sau:
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đối với mở rộng hợp tác quốc tế, xây
dựng một nền kinh tế mở cả trong và ngoài nước, đa phương hoá và đa

14


dạng hố quan hệ với nước ngồi, kết hợp kinh tế với quốc phòng - an
ninh, gắn tăng trưởng với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hố,
bảo vệ mơi trường.
Kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế
nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả, phát huy lợi
thế so sánh của cả nước cũng như từng vùng, từng ngành, từng lĩnh vực
trong từng thời kỳ, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường
trong nước, thị trường khu vực và thị trường quốc tế.
- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định
phương hướng phát triển, lựa chọn các dự án đầu tư và công nghệ.
- Khai thác nhanh thế mạnh của cả nước, của mỗi vùng, mỗi ngành,
tập trung thích đáng nguồn lực cho các vùng địa bàn trọng điểm sớm đưa
ra hiệu quả cao. Đồng thời quan tâm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu, có

chính sách cơ chế, giải pháp thiết thực đối với những nơi khó khăn, đẩy
mạnh hợp tác phát triển, bảo đảm cho các vùng vàc các thành phần dân cư
đều có lợi ích và được hưởng những thành quả của sự tăng trưởng.
- Chú trọng quy mô nhỏ và vừa, vốn đầu tư ít, thu hồi nhanh, theo
phương châm "lấy ngắn nuôi dài", xây dựng một số cơng trình quy mơ lớn
cần thiết và có hiệu quả.
- Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất và công
nghệ hiện có, tập trung vào những khâu quyết định khả năng cạnh tranh
của sản phẩm. Kết hợp công nghệ truyền thống với cơng nghệ hiện đại,
bảo đảm tính tiên tiến của thiết bị và công nghệ nhập khẩu, ưu tiên cho
loại cổng nghệ ít vốn, tạo nhiều việc làm trực tiếp hoặc gián tiếp.
Tiếp đó, Hội nghị TW 7 (khố VII) đã cụ thể Nghị quyết Hội nghị
giữa nhiệm kỳ, đề ra chủ trương phát triển công nghiệp, công nghệ đến
năm 2000 theo hướng CNH, HĐH đất nước và xây dựng giai cấp công
nhân trong giai đoạn mới. Tại Hội nghị này, Đảng ta tiếp tục làm rõ những
vấn đề CNH, HĐH ở nước ta.

15


Nếu như trước đây, CNH được hiểu như quá trình phát triển cơng
nghiệp, nhất là cơng nghiệp nặng thì ngày nay, dưới ánh sáng đường lối
đổi mới của Đảng, CNH, HĐH có nội dung rộng lớn hơn và tồn diện hơn.
Đó là q trình chuyển đổi căn bản, tồn điện các hoạt động sản xuất kinh
doanh dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ cơng là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của
công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao động xã
hội cao.
Mục tiêu của CNH, HĐH là tiến tới xây dựng một cơ cấu kinh tế

công nông nghiệp và dịch vụ hiện đại. Trước đây, CNH thường bắt đầu từ
việc tập trung phát triển cơng nghiệp nặng nhằm nhanh chóng tình hình cơ
cấu nói trên mà ít chú trọng đến hiệu quả kinh tế - xã hội do đó tỷ lệ cơng
nghiệp nặng có tăng lên nhưng khơng tạo ra thay đổi lớn trong nền kinh

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là khái niệm mới của Hội nghị giữa
nhiệm kỳ (khố VII). Nó được hiểu như là quá trình từng bước làm biến
đổi nền kinh tế từ chỗ có cơ cấu chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu sang cơ
cấu kinh tế công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại. Quan điểm về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH ở nước ta như sau:
V ề cơ cấu ngành, chuyển từ cơ cấu công - nông nghiệp của CNH
kiểu cũ sang cơ cấu - công nghiệp phù hợp với bước đi của chặng đường
đầu tiên và tiến tới chuyển dịch sang cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp và
dịch vụ hiệu đại. Bước đi từ nay đến năm 2000 thực hiện chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH nơng nghiệp và nơng thơn; phát triển
tồn diện nơng, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm,
thuỷ sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu. Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu
hạ tầng kinh tế, trước hết ở những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản
trở sự phát triển. Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở cơng nghiệp nặng
trọng yếu và hết sức cấp thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường,

16


phát huy tác đụng nhanh và có hiệu quả cao. Mở rộng thương nghiệp, du
lịch, dịch vụ.
Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại. Hình thành dần một số
ngành mũi nhọn như chế biến nông, lâm, thuỷ sản, khai thác và chế biến
dầu khí, m ột số ngành cơ khí chế tạo, cơng nghiệp điện tử và cơng nghệ

thồng tin, du lịch. Phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ.
CNH, HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn là nhằm giảm bớt sự
cách biệt về trình độ phát triển kinh tế, văn hố, xã hội giữa thành thị và
nông thôn, hạn chế việc di chuyển dân cư từ nông thôn vào các đô thị,
khuyến khích nơng dân "rời ruộng khơng rời làng", phát triển ngành nghề
trên địa bàn, không làm nông nghiệp nhưng vẫn sinh sống ở nông thôn.
V ề cơ cấu thành phần kinh tế, trước đây cơ cấu chủ yếu một thành
phần kinh tế - kinh tế XHCN với 2 khu vực quốc doanh và tập thể, nay
chuyển sang thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần: kinh tế Nhà nước
đóng vai trị chủ đạo.
Vê cơ cấu kinh tế lãnh thổ từ chỗ dàn trải nay phát triển theo hướng
có trọng điểm, phát triển tổng hợp gắn với phát triển chun mơn hố,
triệt để khai thác các lợi thế, tiềm nãng của mỗi vùng, liên kết hỗ trợ nhau
làm cho tất cả các vùng đều phát triển.
v ề cơ cấu công nghệ, công nghệ nước ta sẽ bao gồm hai bộ phận
(hai tầng công nghệ), một bộ phận công nghệ xã hội, cơng nghệ truyền
thống được hiện đại hố và bộ phận công nghệ hiện đại bao gồm cả các
ngành mũi nhọn.
Công nghệ hiện đại được phát triển thông qua chuyển giao cơng
nghệ. Chuyển giao cơng nghệ có thể thực hiện bằng nhiều con đường khác
nhau và từ nay đến năm 2000 Đảng ta chủ trương nhập công nghệ tiên tiến
là chủ yếu để đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ cho các ngành sản
xuất dịch vụ, đồng thời hình thành một số ngành cơng nghiệp mới có

17

I

Đ A I H O C Q U Ố C G IA HA N Ộ I


Ị t r u n g Tâm t h ò n g t i n t h ư v i ệ n

i)T / ị?iq




nhiều triển vọng như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công
nghệ vật liệu mới...
Với những quan điểm, nội dung trên, Nghị quyết Hội nghị đại biểu
toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khoá VII) và Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy
BCH Trung ương (khoá VII) đánh dấu bước phát triển mới trong nhận thức
của Đảng về cồng nghiệp hoá phù hợp với đặc điểm của nước ta và xu thế
phát triển của thời đại.
1.2.2. Đẩy mạnh công nghiệp hố, hiện đại hố
Những thành tựu của cơng cuộc đổi mới đã và đang tạo ra thế và lực
mới, cả ở bên trong và bên ngoài để chúng ta bước vào một thời kỳ phát
triển mới. Nhiều tiền đề cần thiết cho CNH, HĐH đã được tạo ra, quan hệ
của nước ta với các nước trên thế giới được mở rộng hơn bao giờ hết. Khả
năng giữ vững độc lập tự chủ và hội nhập với cộng đồng thế giới tăng
thêm. Bên cạnh thời cơ lớn trên, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực vẫn là thách thức to lớn và gay gắt do điểm phát
của ta quá thấp.
Thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau. Đảng ta
chỉ ra rằng, phải chủ động nắm thời cơ vươn lên phát triển nhanh và vững
chắc, tạo ra thế và lực mới.
Trên tinh thần đó, Đại hội VIII (6-1996) quyết định đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước, phấn đấu đưa nước ta từ nay đến năm 2020 cơ bản trở
thành một nước cóng nghiệp. Lúc đó lực lượng sản xuất sẽ đạt đến trình

độ tương đối hiện đại, phần lớn lao động thủ công được thay thế bằng lao
động sử dụng máy móc, điện khí hố cơ bản được thực hiện thay thế bằng
lao động sử dụng dụng máy móc, điện khí hố cơ bản được thực hiện
trong cả nước, năng suất lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh
cao hơn nhiều lần so với hiện nay. GDP tăng từ 8 đến 10 lần so với năm
1990. Nhiệm vụ từ nay đến năm 2000 là ra sức đẩy mạnh CNH với nhịp độ
tăng trưởng cao, bền vững và có hiệu quả; ổn định vững chắc kinh tế vĩ
mơ; chuẩn bị tiền đề cho bước phát triển cao hơn sau năm 2000, trong đó

18


chủ yếu là phát triển nguồn lực, khoa học và cơng nghệ, kết cấu hạ tầng,
hồn thiện thể ch ế..,
So với Hội nghị giữa nhiệm kỳ (khoá VII), các quan điểm về CNH,
HĐH của Đại hội VIII toàn diện hơn và có sự bổ sung quan trọng. Ngồi
các quan điểm đã nêu tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ, Đại hội nhấn mạnh:
CNH, HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước là chủ đạo; lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Tãng trưởng kinh tế
gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Đại hội khẳng định,
khoa học và công nghệ là động lực của CNH, HĐH. Phải kết hợp công
nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại
ở những khâu quyết định.
Đại hội đề ra các chủ trương chính sách vể phát triển LLSX và xây
dựng hệ thống QHSX mới, về tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, về
phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, về xây dựng nền
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, về mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại, về xây dựng hệ thống chính trị v.v... Tất cả nhằm thực hiện thắng

lợi cộng cuộc CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN. Có thể nói
chiến lược CNH, HĐH của Đại hội VIII là chiến lược phát huy sức mạnh
tổng hợp của nước ta trong điều kiện mới. Thể hiện ở những điểm sau:
Một, chuyển ĩừ cơng nghiệp hố phi thị trường sang cơng nghiệp
hố, hiện đại hố gắn với thị trường. N ói cụ th ể hơn, chuyển từ C N H theo
cơ c h ế k ế hoạch hoá tập trung sang C N H gắn với cơ c h ế thị trường, có sự
quản lý của N hà nước theo định hướng X H C N .
Đây là một vấn đề rất quan trọng vì nó quy định toàn bộ các hoạt
động kinh tế - xã hội và liên quan trực tiếp đến con đường đi lên CNXH.
Cho nên sự chuyển đổi trên là cả một q trình thể nghiêm, tìm tịi, đổi
mới của Đảng ta, trong đó tập trung giải quyết mối quan hệ cơ bản; giữa
kế hoạch nhà nước với thị trường, làm sao đảm bảo cho nền kinh tế hoạt

19


động thông suốt, đem lại hiệu quả cao đồng thời vẫn giữ được định hướng
CNXH.
Thật ra, trong cơ chế quản lý tập trung bao cấp trước đây cũng có
đặt vấn đề kết hợp k ế hoạch với thị trường, nhưng thị trường ở đây chỉ là
cái bổ sung cho k ế hoạch, giữ vai trò điều tiết một số hoạt động kinh tế
thứ yếu mà kế hoạch không thể bao quát hết được. Đại hội VI quyết định
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển từ cơ chế cũ sang cơ chế kế hoạch
hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh XHCN, đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ, đã coi trọng hơn vai trò của thị trường. Tuy vậy, vẫn cịn
nhấn mạnh "tính kế hoạch là đặc trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế
ngay từ buổi đầu của thời kỳ quá độ" [19, tr.63]. Hội nghị TW 3 (khố
VI), 1987 có sự điều chỉnh theo hướng "giảm bớt" phần kế hoạch tập trung
và "tăng lên" phần thị trường, cụ thể, giảm các chỉ tiêu pháp lệnh, cho
phép các xí nghiệp căn cứ vào nhiệm vụ và sự hướng dẫn của kế hoạch nhà

nước, và nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước mà chủ động xây
dựng phương án phát triển. Đến Hội nghị TW 6 (khoá VI) năm 1989 thừa
nhận thị trường vừa là căn cứ vừa là đối tượng của kế hoạch. Đại hội VII
(6/1991) kế thừa quan điểm đúng đắn nói trên và chỉ rõ, trong cơ chế kinh
tế mới, thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa
chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu
quả.
Trong cơng cuộc CNH, HĐH đất nước, Đảng ta chủ trương phải tạo
lập đồng bộ các yếu tố của thị trường, tạo điều kiện cần thiết cho cơ chế
thị trường hoạt động có hiệu quả theo hướng: bảo đảm quyền tự chủ của
các chủ thể kinh doanh, các tín hiệu thị trường là căn cứ rất quan trọng để
phân bổ nguồn lực cho các lãnh vực sản xuất kinh doanh; khuyến khích
cạnh tranh hợp pháp, lành mạnh, hạn chế độc quyền, mà kinh doanh được
tìm kiếm lợi nhuận một cách hợp pháp. Kế hoạch nhà nước, trên cơ sở
quán triệt đường lối chủ trương cửa Đảng, đưa ra một hệ thống các mục
tiêu vĩ mô, xác định tốc độ phát triển, cơ cấu và cấc cân đối lớn, các chính
sách, giải pháp để dẫn dắt nền kinh tế theo định hướng kế hoạch. Nhà

20


nước giữ vai trị quản lý vĩ mơ nhằm định hướng và chỉ đạo sự phát triển
của toàn bộ nền kinh tế - xã hội, tạo môi trường kinh tế và khuôn khổ
pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh, phát huy mặt tích cực, ngăn
ngừa và khống chế những tác động tự phát, tiêu cực, khắc phục những mặt
khuyết điểm vốn có của cơ chế thị trường, làm cho thị trường thật sự trở
thành công cụ quan trọng trong việc phân bổ và sử dụng có hiệu quả hơn
các nguồn lực, phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, bảo đảm
quan hệ tích luỹ tiêu dùng, điều tiết lợi ích giữa các thành phần kinh tế,
các tầng lớp dân cư, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nhanh hơn, ổn định vững

chắc hơn, công bằng xã hội nhiều hơn.
Như vậy trong cơ chế mới tính định hướng XHCN được thể hiện
ngay trong quá trình hoạch định kế hoạch và quản lý sử dụng cồng cụ thị
trường. Nhà nước giữ vai trị định hướng XHCN thơng qua kế hoạch và
các biện pháp quản lý vĩ mô, trên cơ sở quán triệt đường đường lối, chủ
trương chính sách của đảng, đảm bảo cho nền kinh tế- xã hội hoạt động
đúng định hướng và đem lại hiệu quả cao.
Việc chuyển từ một nền kinh tế phi thị trường sang một nền kinh tế
gắn với thị trường, là một bước ngoặt trong nhận thức về CNXH và con
đường đi lên CNXH của Đảng ta.
Hai, cơng nghiệp hố gắn liền với hiện đại hoá theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Trước đổi mới, trong nhận thức của ta lúc bấy giờ chỉ có hai loại
cơng nghiệp hố: cơng nghiệp hố TBCN và cơng nghiệp hố XHCN.
Cơng nghiệp hố TBCN gắn liền với q trình hình thành CNTB, cơng
nghiệp hố XHCN nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH.
Hai quá trình này đối lập nhau hồn tồn: một bên là tự phát, chạy theo lợi
nhuận, phục vụ lợi ích một nhóm nhỏ các nhà tư sản; một bên là tự giác,
tiến hành có kế hoạch, thực hiện phân phối cơng bằng theo kiểu bình
qn, tăng cường phúc lợi cơng cộng, quản lý tập trung mọi hoạt động
kinh tế. Một bên là chế độ tư hữu, bóc lột và bần cùng hố nhân dân lao
động, một bên là chế độ cơng hữu, xố bỏ mọi bóc lột, phát huy quyền

21


làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Từ nhận thức trên dần đến việc
thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp cao độ, triệt để cải tạo
các thành phần kinh tế phi XHCN, bỏ qua những bước đi cần thiết trong
việc phát triển LLSX. Hội nghị TW 7 (khoá VII) tháng 7-1994 chỉ ra rằng:

"Xét về bản chất chính trị - kinh tế - xã hội, cơng nghiệp hố, hiện đại hố
ở nước ta khác về căn bản với cơng nghiệp hố, hiện đại hố từng diễn ra
ở nước tư bản với cơng nghiệp hố, hiện đại hoá từng diễn ra ở các nước tư
bản phát triển hoặc các nước công nghiệp mới. Song về phương pháp, bước
đi, các giải pháp khoa học - công nghệ, một sô' biện pháp kinh tế - xã hội,
chúng ta có thể, cần phải tham khảo và vận dụng sáng tạo kinh nghiệm
thành cơng của nước đó" [23, tr.44] .
Chủ trương Hội nghị giữa nhiệm kỳ (khoá VII) Đại hội VIII là
không tiến hành CNH theo kiểu cũ, tránh nóng vội, chủ quan mà Đại hội
VI đã phê phán, nói cách khác khơng tiến hành cơng nghiệp hố XHCN
như trước đây, cũng khơng tiến hành cơng nghiệp hố TBCN mà là CNH,
HĐH theo định hướng XHCN. Đây là loại hình CNH mang tính đặc thù
của Việt Nam xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội đất nước
trong điều kiện bùng nổ khoa học, công nghệ và xu hướng tồn cầu hố
kinh tế thế giới hiện nay. Khái niệm định hướng hàm chứa các hình thức
trung gian, quá độ trong quá trình CNH, là sự cụ thể hoá nhiệm vụ trung
tâm của cả thời kỳ quá độ lên CNXH mà Đảng ta luôn xác định, là CNH
đất nước.
Cơng nghiệp hố và HĐH ngun là hai q trình nối tiếp, đan xen
nhau. Lịch sử phát triển trên thế giới cho thấy, có thể được một lực lượng
sản xuất phát triển như hiện nay, các nước Âu - Mỹ đã có một thời kỳ
CNH khá lâu rồi sau đó đi vào HĐH. Q trình HĐH cịn đang tiếp tục.
Có thể hiểu HĐH như q trình chống lại sự tụt hậu trước sự bùng nổ của
khoa học và công nghệ thế giới. Theo tính tốn của giới chun mơn thì
ngày nay việc loại bỏ cơng nghệ cũ một mặt hàng chỉ mất từ 1 đến 3 năm,
một ngành công nghiệp từ 3 - 5 năm và từ 5 - 10 năm là thời gian có thể
đánh bại m ột nước công nghiệp trên một sản phẩm. Trong những nguyên

22



nhân dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và Đơng Âu là đã khơng tiếp tục q
trình HĐH sau khi đã hoàn thành CNH, nhất là từ đầu thập niên 70 trở đi.
Cho nên xét về mặt lịch sử thì quá trình CNH diễn ra trước quá trình
HĐH. CNH m ang tính lịch sử cịn HĐH mang tính thời sự. Tất nhiên, sự
phân chia trên mang ý nghĩa tương đối, thực tế có sự gối đầu, đan xen, tác
động qua lại của hai bên. Đồng chí Phạm Văn Đồng cũng nói: "Phải thấy
rằng q trình hiện đại hố chỉ có thể diễn ra trên cơ sở cơng nghiệp
hố"... [34]. Thực chất của q trình HĐH là khơng ngừng nâng cao trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất theo nhịp độ phát triển của khoa học
và công nghệ trên thế giới.
Điểm xuất phát CNH, HĐH của nước ta hiện nay là một nước tiền
công nghiệp. Các nước công nghiệp phát triển trên thế giới đang bước
sang một thời kỳ phát triển mới được gọi là hậu công nghiệp. Từ tiềm
công nghiệp đến hậu công nghiệp các nước trên phải mất hàng trăm năm,
nhanh nhất như Hàn Quốc cũng phải mất 28 - 30 năm. Đại hội VIII đề ra
mục tiêu phấn đấu đưa nước ta từ nay đến năm 2020 (trong khoảng thời
gian 25 năm) cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đây là con đường
phát triển ngắn nhất. Đảng ta chỉ ra rằng: "Cơng nghiệp hố phải đi đơi
với hiện đại hố, kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với việc
tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu hình thành những mũi nhọn phát
triển theo trình độ tiên tiến khoa của khoa học - công nghệ thế giới" [ 22,
tr.27], phải "kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh
thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định" [24, tr.28]. Như vậy,
quá trình CNH, HĐH ở nước ta phải thực hiện cùng một lúc hai nhiệm vụ:
Nhiệm vụ của một nước công nghiệp phải làm nhằm cải biến xã hội nông
nghiệp lạc hậu thành xã hội công nghiệp (CNH), đồng thời triển khai ngay
một số công việc m à một nước hậu công nghiệp đang làm (HĐH) gắn với
việc hiện đại hố cơng nghệ truyền thống. Hai nhiệm vụ trên thống nhất
với nhau, vừa là tiền đề, điều kiện thúc đẩy nhau phát triển, trong đó CNH

phải "phát huy tác dụng tích cực và tồn diện của nó đến hiện đại hoá, xoá
bỏ nghèo nàn lạc hậu, đem lại những đổi mới ngày càng rõ rệt trong mọi

23


×