Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Bài thuyết minh: Tour Sài Gòn - Vũng Tàu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.17 KB, 31 trang )

Tài liệu thuyết minh tuyến TPHCM_VŨNG TÀU By: Proguide
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Trên mảnh đất mà ngày nay có Tp.HCM ,từ đầu TK XVII đã có những người nông dân
Việt Nam đến và khai phá rừng mở mang đồng ruộng .Họ là những người nông dân
lao động không chịu đựng nổi sự áp bức ,bóc lột của bọn phong kiến Trịnh- Nguyễn
vì thế mà họ lần theo bờ biển Đông hoặc bằng những chiếc ghe bầu cưỡi đầu ngọn
sông đi tìm đất sống tự do.
Cái tên Đồng Nai –Bến Nghé phản ánh rất đúng hiện thực rất chân chất và thơ mộng
cũng ra đời từ đấy .
Mảnh đất Bến Nghé này trải qua gần 400 năm lịch sử đã mang rất nhiều tên khác
nhau để rồi ngày nay được mang tên Hồ Chí Minh –người anh hùng đẹp nhất trong
lịch sử Việt Nam.
Năm 1976 sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng ,Quốc Hội chính thức lấy tên là
TP.HCM
Thành phố Hồ Chí Minh trong địa giới hôm nay rộng hơn 2093,7 km2 ; dân số
5.554.850 người (năm 2003) .Là Thành phố lớn và đông nhất của đất nước ,có năng
lực về sản xuất kinh doanh và là một trong những thành phố đang phát triển khá
sầm uất của khu vực Đông Nam Á .Gồm 23 quận ,huyện :
+Quận :1 ,2 ,3 ,4 ,5 ,6 ,7 ,8 ,9 ,10 ,11 ,12 ,Phú Nhuận ,Gò Vấp ,Bình Thạnh ,Tân
Bình ,Tân Phú ,Bình Tân.
+Huyện :Nhà Bè ,Hóc Môn ,Củ Chi ,Bình Chánh ,Cần Giờ.
Toạ lạc trên vùng đất Đông Nam Bộ ,Sài Gòn ở vị trí có ưu thế lớn :
_Phía tây là bình nguyên bát ngát –vựa lúa cả nước ,với những kênh rạch đủ sâu cho
mọi thuyền .
_ Phía đông là cảng biển lý tưởng cho sự giao lưu thế giới .Khí hậu nóng ẩm ,song lại
ít thiên tai ,sản vật phong phú :lúa gạo ,trái cây bốn mùa ,sản phẩm vùng biển cùng
với sức lao động dồi dào và con người dũng cảm ,cần cù ,nhân hậu… Sài Gòn đã sớm
trở thành nơi giao lưu kinh tế và thương mại có sức cuốn hút lớn .
Khi bị ngoại xâm ,không cam chịu mất nước ,nhân dân Sài Gòn –Gia Định đã nhất tề
đứng lên .Lịch sử đã ghi nhận tinh thần yêu nước nồng nàn và ý thức trách nhiệm
cao cả của nhân dân Nam Bộ nói chung và Sài Gòn –Gia Định nói riêng trước vận


mệnh dân tộc
Sau thời gian dài trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ,cuộc
tổng tiến công nổi dậy Mùa Xuân 1975 đã đánh dấu bước ngoặt mới cho sự hòa bình
và ấm no của dân tộc Việt Nam.
Tên thành phố Sài Gòn được đổi thành tên thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1976
Sau hơn 10 năm cùng với cả nước thực hiện đường lối đổi mới kinh tế trên địa bàn
thành phố tăng trưởng khá cao và ổn định đóng góp 37,8% GDP cả nước.
Hiện nay ,Tp.HCM là trung tâm du lịch lớn nhất cả nước ,thu hút hàng năm 70%
lượng khách quốc tế đến Việt Nam.
Ngã Tư Hàng Xanh
Theo tài liệu của ông Vương Hồng Sển: Địa danh này có được là do xưa kia nơi đây
trồng rất nhiều loại cây Sanh ,đây là loại cây có lá màu xanh mọc um tùm cùng họ
với cây Si .Sau này người dân đọc trại ra là cây Xanh và ngã tư này gọi là ngã tư
Hàng Xanh.
Toàn bộ bùng binh Hàng Xanh được qui hoạch và xây dựng vào ngày 17.09.1994 và
hoàn thành ngày 30.04.1995 nhằm chào mừng kỷ niệm 20 năm ngày miền Nam
hoàn toàn giải phóng .Toàn bộ kinh phí giải toả đền bù là 63 tỉ đồng ,trong đó 15,6 tỉ
đồng dành cho xây dựng .Với mức kinh phí quá lớn này Chính Phủ đã quyết định do
công ty may mặc Huy Hoàng bỏ vốn ra xây dựng .Bù lại ,nhà nước phải chấp nhận
cắt đất ở quận 11 cho công ty Huy Hoàng khi công trình hoàn tất .Nó đã giải quyết
được tình trạng kẹt xe do lưu lượng xe qua lại nơi đây quá lớn thêm vào đó là gần
cảng biển cho nên nếu giải quyết được tình trạng kẹt xe thì sẽ là một động lực giúp
cho hàng hoá lưu thông tốt và kinh tế phát triển.
Hiện nay ,đoạn đường từ Hàng Xanh đến ngã tư Thủ Đức có 12 làn xe với tổng chiều
rộng là 120m
Cầu Văn Thánh
Chạy dọc theo đường Điện Biên phủ chúng ta sẽ gặp kế tiếp là cầu
Văn Thánh .Cầu này bắt qua con rạch Văn Thánh ,đổ ra rạch Thị Nghè và sau đó là
đổ ra sông Sài Gòn .Đứng trên cầu Văn Thánh nhìn về phía bên tay phải ta sẽ thấy
có một cù lao 7 mẫu .Nơi đây còn gọi là khu du lịch Văn Thánh được xây dựng vào

năm 1988 trên cù lao 7 ha. Theo sáng kiến của các nhà hoạt động văn hoá quận
Bình Thạnh ,cù lao 7 mẫu đã được đầu tư xây dựng thành khu du lịch Văn Thánh
.Hành năm vào ngày 5-1 âm lịch nơi đây thường tổ chức lễ hội mừng chiến thắng của
vua Quang Trung. và cuộc thi tuyển chọn diễn viên điện ảnh, người mẫu.
Tương truyền xưa kia :vào thời vua Minh Mạng thứ 5 (1824) ,nơi đây có một ngôi
miếu thờ đức Khổng Tử nên người ta gọi là Văn Thánh .Tuy nhiên ngôi miếu này hiện
nay không còn nữa do trong quá trình xâm lược ,Pháp đã cho phá bỏ toàn bộ ngôi
miếu này.
Bến Xe Văn Thánh
Là một trong những bến xe lớn có từ lâu đời ở khu vực này .Từ đây có thể đi Biên
Hoà –Vũng Tàu và một số tỉnh miền Trung .Khoảng cuối năm 1996 bến xe được dời
sang bến xe Miền Đông vì ở đây xây dựng hệ thống đường lớn và cao tốc ,nếu để
bến xe ở khu vực này dễ gây ách tắt giao thông.
Khu Tân Cảng
Khu Tân Cảng nằm ngay dưới chân cầu Sài Gòn phía hạ lưu quận Bình Thạnh. Cảng
này được Mỹ xây dựng vào năm 1965 ,được xem là hải cảng quân sự lớn của Mỹ –
Ngụy nhằm cung cấp vũ khí và đạn dược cho chiến trường miền Nam Việt Nam .Sau
giải phóng thì đây là khu vực do hải quân Việt Nam kiểm soát .Trong thời kinh tế thị
trường (1990) khu Tân Cảng được chia thành 2 khu vực :khu vực kinh tế (cho tàu
xuất nhập hàng hoá và kho để các Container) .Từ cầu Sài Gòn nhìn xuống chúng ta
có thể thấy rất nhiều Container xếp chồng lên nhau trong một khu vực lớn .Hiện
cảng là trung tâm sửa chữa và tiếp tế hàng hoá chính của nền quân sự Việt Nam.
Cảng Sài Gòn trực thuộc Cục hải quan Việt Nam ,là cảng lớn nhất của Việt Nam hiện
nay, đã trải qua trên 100 năm phát triển và là thành viên của Hiệp hội cảng quốc tế
từ năm 1992 .Hiện nay cảng còn tiếp tục thu hút đầu tư để phát triển và mở rộng
quan hệ hợp tác kinh tế .Điều kiện tự nhiên của cảng Sài Gòn khá thuận lợi cho một
cảng biển với tốc độ dốc luồng 85km từ Vũng Tàu với mức nước bình quân 11m ,thấp
nhất là 9,7m và cao nhất là 12,1m .Cảng có thể tiếp nhận tàu có tổng trọng tải
30.000 DWT ,dài 230 m trong khoảng thời gian 6->15 giờ/ngày .
Khu Thanh Đa

Cư xá Thanh Đa gồm 29 lô chiếm diện tích36ha được xây dựng 1973 làm khu nhà ở
cho công nhân viên chức .
Đặc sản của khu vực này là: bánh tráng phơi sương cuốn thịt luộc ,cháo vịt… ngoài
ra ở đây còn nổi tiếng với khu du lịch Bình Quới: gọi là khu du lịch dước nước với
nhiều hoạt động trên đoạn sông Sài Gòn .Đến đây chúng ta có thể tổ chức các hoạt
động dã ngoại như: lướt ván trên sông ,câu cá giải trí ,du thuyền trên sông … hàng
năm ở đây thường tổ chức trại hè cho thiếu nhi toàn thành phố.
Cầu Sài Gòn
Được xây dựng vào năm 1960 và hoàn thành vào năm 1964 ,cầu dài 987,2m ,rộng
16m ,dài 32 nhịp ,trọng tải 25 tấn .Đây là chiếc cầu quan trọng của cửa ngõ dẫn vào
thành phố .Cầu do hãng C.E.C (Capital Engineering Cooperetion) thiết kế và hãng
RMR (Mỹ) thi công xây dựng bắt qua sông Sài Gòn ,kinh phí do chính quyền Mỹ tài
trợ ,sông Sài Gòn bắt nguồn từ Sông Bé (sông Mê Kông) chảy qua Củ Chi ,Thanh
Đa ,Nhà Bè rồi đổ ra cửa biển Cần Giờ qua sông Soài Rạp.
Năm 1998 ,ta liên minh với Pháp xây dựng ,sửa chữa và nâng cấp lại phần chịu lực
thời mở rộng từ 16m thành 25m với tải trọng 45 tấn .Trong tương lai sẽ có thêm một
cây cầu nữa bắc song hành với cây cầu cũ nhằm giảm bớt áp lực cho cầu Sài Gòn.
Cầu Sài Gòn là ranh giới giữa đường Điện Biên Phủ và xa lộ Hà Nội .
Sông Sài Gòn dài 220km ,bắt nguồn từ cao nguyên Hớn Quảng .Một đoạn của con
sông này là ranh giới tự nhiên của tỉnh Tây Ninh và Bình Phước .Một phần đổ vào Hồ
Dầu Tiếng ,sau khi chảy qua Bến Cát sông lại nhập chung với sông Đồng Nai và đổ ra
cửa biển Gành Rái.
Xa Lộ Biên Hoà
Xa lộ Biên Hoà dài 31km ,rộng 21m được xây dựng từ năm 1956->1961 do Mỹ viện
trợ .Xa lộ Biên Hòa nối liền từ cầu Điện Biên Phủ (trước đây là cầu Phan Thanh Giản )
đến ngã ba Tam Hiệp (Hố Nai) theo dự định ban đầu xa lộ có 4 làn xe nhưng do thất
bại trong “chiến tranh đặc biệt” Hoa kỳ đã cắt giảm kinh phí nên năm 1964 xa lộ
được khánh thành chỉ với hai làn xe .Mỹ và chính quyền Sài Gòn sử dụng con đường
này như một đường bằng quân sự dã chiến phòng khi sân bay Tân Sơn Nhất gặp sự
cố . Đến năm 1971 chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cho rằng xa lộ sẽ là một đường

băng tuyệt vời cho quân giải phóng tấn công Sài Gòn nên đã cho xây dựng một con
lương chạy dọc theo xa lộ .Tuy vậy, xét về mặt giao thông vận tải thì đây là một điều
kiện tốt nhằm giúp cho giao thông trên xa lộ được an toàn hơn.
Ngày 10-10-1984 nhân kỷ niệm 30 năm giải phóng Hà Nội ,xa lộ Biên Hòa đổi tên
thành xa lộ Hà Nội .Năm 1998 ,cùng với dự án khôi phục lại QL 1A ,xa lộ Hà Nội cũng
khôi phục và mở rộng ,bàn giao lại cho chính phủ Việt Nam vào ngày 20-1-1998.
Đây là con đường quan trọng về kinh tế ,quân sự nối liền miền Bắc và Sài Gòn.
Parkland
Đây là khu nhà ở dành cho người nước ngoài thuê ,được xây dựng khoảng 1995 …
Là biệt thự đẹp được xây dựng trong vườn rộng ,thoáng ,nằm cạnh xa lộ quan trọng
Sài Gòn- Biên Hoà tạo thêm cảnh quan cho thành phố phía trên là khu nhà ở ,văn
phòng cho người nước ngoài thuê và tầng trệt là một siêu thị Mini bán hàng phục vụ
cho những người ở quanh khu vực.
Ngã Ba Cát Lái
Từ ngã ba Cát Lái đi khoảng 7,5km đến nhà máy lọc dầu đầu tiên tại Việt Nam đặt
tại TP.HCM là nhà máy lọc dầu Sài Gòn Petro .
Công suất thiết kế ban đầu của nhà máy 40.000 tấn dầu/năm .Năm 1993 Saigon
Petro đã nắm thời cơ cải tiến bằng công nghiệp lọc Condensate( lọc bằng Condensate
là công nghệ nhẹ tận dụng nước hoá chất thuộc dạng giữa dầu và khí) và dầu thô ít
Paraffin. Tổng số đầu tư là 8 triệu USD ,dựa vào hoạt động tháng 5-1995 .Đáp ứng
được một phần nhiên liệu cho các tỉnh phía Nam .Tổng sản lượng từ khi cải tiến tăng
lên 350.000 tấn/năm .Bên cạnh đó nhà máy triển khai xây dựng 2 cầu cảng có thể
tiếp nhận tàu dàu có tải trọng 25.000 tấn ,28 bồn chứa dầu khoảng 204.000 m3.
Nhà Máy Ciment Sao Mai
Đây là một nhà máy liên doanh giữa nhà máy Ciment Hà Tiên và tập đoàn Holder
Bank của Thụy Sĩ với vốn đầu tư 346 triệu USD (35% vốn Việt Nam) .Thời gian sử
dụng 50 năm.
Công suất thiết kế của nhà máy 1,8 triệu tấn/năm. Được xây dựng tháng 10-1994 và
hoàn thành vào đầu năm 1997 .Tháng 1-1997 ,nhà máy Ciment Sao Mai đã cho ra
những mẻ ciment đầu tiên.

Giống như nhà máy ciment Hà Tiên ,nhà máy ciment Sao Mai cũng có nhà máy
ciment ở Hòn Chông ,Hà Tiên để cung cấp nguyên liệu Linke cho sản xuất.
Cầu Rạch Chiếc
Đoạn đường từ cầu Sài gòn đến cầu Rạch Chiếc là địa bàn thuộc quận 2 ,cầu Rạch
Chiếc đến cầu Đồng Nai thuộc quận 9 và quận Thủ Đức .Cầu Rạch Chiếc được xây
dựng từ năm 1960 .Đây là cửa ngõ quan trọng về quân sự của chính quyền Sài
Gòn ,cầu dài 184m ,rộng 8,5m .Vào 27-04-1975 tại chân cầu đã xảy ra 5 cuộc giao
tranh ác liệt giữa quân giải phóng và quân Việt Nam Cộng Hòa ,sở dĩ cầu có tên Rạch
Chiếc là do khi làm cầu này ở sông có loại rau chiếc nên được gọi là cầu Rạch Chiếc.
Quận Thủ Đức –Lâm Viên Thủ Đức
Trước kia Thủ Đức là một huyện ngoại thành có diện tích 20.000ha .Vào ngày 4-4-
1997 để mở rộng trung tâm nội thành ra ,UBND thành phố quyết định thành lập 5
quận mới .Trong đó Thủ Đức được tách ra thành 3 quận ngoại thành :quận 2 ,quận 9
và quận Thủ Đức .Xét về tiềm năng kinh tế tại khu vực Thủ Đức này phát triển cơ sở
đầu tư của nước ngoài ;món ăn đặc sản ở đây là nem Thủ Đức.
Lâm viên Thủ Đức :vào ngày 22-4-1992 được phép của Uy Ban Hợp Tác Đầu Tư Nhà
Nước bởi 4 công ty :Lâm Viên Thủ Đức ,Du Lịch Thành Phố ,Liksin và công ty Đài
Loan liên doanh xây dựng tại đây sân Golf 36 lỗ đạt tiêu chuẩn quốc tế và một khách
sạn 120 phòng đạt tiêu chuẩn 3 sao và những công trình phụ như :sân quần vợt ,hồ
bơi ,sân chơi trẻ em… với tổng kinh phí 7 triệu USD hoàn thành năm 1996 .Khi bắt
đầu xây dựng thì có nhiều nguồn dư luận nhưng sau đó có kết luận của Thủ Tướng
Chính Phủ sân Golf mới đi vào xây dựng yên ổn. Hiện nay sân tập đánh Golf đã hình
thành và thẻ hội viên thường trực của Golf là 5.000 USD/người.
Nhà Máy Xi Măng Hà Tiên
Nhà máy xi măng Hà Tiên được người Pháp xây dựng từ năm 1959 đến 1964 nhằm
cung cấp xi măng cho các tỉnh thành phố .Vị trí nhà máy rất thuận lợi cho việc
chuyển nguyên liệu từ nhà máy xi măng Kiên Lương ở Hà Tiên về đây bằng đường bộ
lẫn đường thủy. Do nguồn nguyên liệu chủ yếu được khai thác từ Hà Tiên nên gọi là
xi măng Hà Tiên .Đến cuối năm 1994 nhà máy Hà Tiên đổi thành công ty xi măng Hà
Tiên 1 .Sản lượng hiện nay hơn 2 triệu tấn/năm.

Nhà Máy Nhiệt Điện Thủ Đức (hai ống khói đỏ trắng phía bên trái)
Nhà máy nhiệt điện Thủ Đức được xây dựng năm 1964 ,công suất 165 MW .Sau đó
nâng lên 242 MW (do nhận thêm 2 turbin khí từ Hải Phòng công suất 77 MW)
Công Ty Truyền Tải Điện 4 Trạm Thủ Đức
Để có thể nhận điện từ thủy điện Đa Nhim (1961-1964) và phân phối điện cho thành
phố ,nên ở đây xây dựng thêm một trạm biến điện (các năm 1964) do các công ty
của Nhật xây dựng bằng bêtông cốt thép và mang dáng dấp nhà máy hiện đại .
Năm 1964 : gọi là nhà truyền tải và phân phối điện ,đến năm 1976 đổi tên thành sở
truyền tải điện Thủ Đức .Hiện nay gọi là công ty truyền tải điện 4 Trạm Thủ Đức.
Hiện nay ở đây tập trung 2 nguồn điện : nhiệt điện Thủ Đức và Thủy điện Đanhim
(còn thủy điện Trị An hạ thế ở trạm Hóc Môn) hạ thế cung cấp điện cho thành phố và
khu vực xung quanh.
Ngã Tư Bình Thái
Rẽ phải đi vào có một số nhà máy lớn :Vietronics ,thép Posvina ,dệt Phước Long.
Rẽ trái vào chùa một cột ,trường Đoàn Lý Tự Trọng và chợ Thủ Đức
Làng Đại Học
Được xây dựng từ năm 1961 hơn 200 ngôi biệt thự dành cho 200 giáo sư ở và làm
việc .Đây là một dự án lớn cây làng đại học ở cây số 12 ,cạnh xa lộ Biên Hòa cũ do
kiến trúc sư Ngô Viết Thụ đưa ra phương án qui hoạch tổng thể khu làng Đại Học này
.
Công trình xây dựng khu biệt thự này với sự tham gia thiết kế của hầu hết các kiến
trúc sư tiếng tăm thời bấy giờ :Huỳnh Kim Mảng ,Nguyễn Gia Đức ,Tô Công Văn ,Lê
Công Lắm ,Trần Văn Tải ,Nguyễn Quang Nhạc ,Phạm Văn Thông .Biệt thự được thiết
kế đa dạng đầy đủ tiện nghi nằm trên các lô đất thoáng mát .
Ngã Tư Thủ Đức
Đi phía phải :vào chợ nhỏ ,bệnh viện ,quân đội 7A ,trường công an Phước Sơn Học
Viện chính trị Quốc Gia Hồ Chí Minh –phân viện TP.HCM ,Đại học giao thông
Đi phía trái :Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật Thủ Đức và vào 2km đến chợ Thủ
Đức ,nếu đi thẳng sẽ qua Water Park và về đường cầu Bình Triệu .
Tìm Hiểu Về Thủ Đức

Vừa qua viện khoa học xã hội thành phố ,cùng với nhà truyền thống Huyện tìm hiểu
thực tế :tại tổ 3 ấp 10 thị trấn Thủ Đức còn ngôi mộ cổ kiến trúc theo hình voi phục
có tấm bia đá Granit khắc chữ Hán nội dung như sau: Mộ ông Tạ Huy ,hiệu Thủ Đức
tiền hiền thôn Linh Chiểu Đông nước Đại Nam .Ông chết ngày 19-6 .Hương chức lập
mộ bia vào tháng 2-1890.
Như vậy đã rõ tên hiệu của ông Tạ Huy .Tìm hiểu thêm ông Tạ Huy hay Tạ Dương
Minh là thủ lãnh của người Hoa bài Thanh phục Minh sang cư ngụ tại vùng Linh Chiểu
,có công trong việc khai khẩn đất hoang ,lập ấp nên người ta gọi địa danh này là Thủ
Đức.
Nhà Máy Nước Thủ Đức
Được xây dựng năm 1959 ,với công suất 4500m3 nước/ngày .Hiện nay :công suất:
650.000m3 nước/ngày.
Đây là nhà máy nước quan trọng cung cấp nước cho toàn thành phố .Nước ở đây
được bơm từ trạm bơm Hoá An ,lấy nước sông Đồng Nai về đây .
Nhu cầu tiêu dùng nước ở thành phố Hồ Chí Minh hiện tại là : 1.000.000m3
nước/ngày .(Nhà máy nước Thủ Đức cung cấp m3 nước/ngày +nhà máy nước Hóc
Môn 200.000m3 nước/ngày ,thiếu khoảng 150.000m3 nước/ngày.)
Ngân hàng Á Châu cho vay khoảng 62,3 tỉ USD để nâng công suất nhà máy nước
Thủ Đức đủ cho nhu cầu tiêu dùng ,thay hệ thống ống chính lên 2,4m (ống cũ 1,8m)
Bên trái chúng ta có 2 ống cao nhô lên là:
Cột thủy áp lực (giống cầu Điện Biên Phủ) nhằm điều hòa các lực trong các đường
ống nước .Ví dụ,vào ban đêm tất cả các van nước của các gia đình đều đóng lại thì
áp lực nước trong ống rất lớn ,nên 2 trụ này có nhiệm vụ giảm áp suất tránh các
đường ống bị phá vỡ.
Công Ty Nước Giải Khát Coca-cola
Nhà máy nước ngọt Coca-cola :trước đây là công ty liên doanh giữa công ty nước giải
khát Chương Dương và công ty Indochina chi nhánh PCB ( Paciffic Beverga
Company) đặt tại Singapore. Chính thức ký hợp đồng vào tháng 7-1993 với tổng vốn
đầu tư là 24 triệu USD. Nhà máy PCB nằm trên một lô đất khoảng 2ha tại Thủ Đức.
Nhà máy có 3 dây chuyền sản xuất 3.5000 két/ngày và công suất tối đa là 40 triệu

lít/năm .Hiện nay là doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài.
Trước đây thị trường nước ngọt giải khát ở TP.HCM là Tribêcô –tiếp Pepsi –hiện nay
Coca-cola chiếm lĩnh thị trường nước ngọt ở TP.HCM và cả nước.
Hiện nay Coca-cola là một trong những đơn vị tài trợ cho nhiều hoạt động thể thao
thành phố và cả nước.
Xa Lộ Đại Hàn
Đến ngã ba trạm 2 hía trái là xa lộ Đại Hàn.
Sau tổng tấn công vào tết nổi dậy năm Mậu Thân 1968 ,Mỹ hoảng sợ và cho xây
dựng hệ thống đường vành đai để bảo vệ sân bay Tân Sơn Nhất và Sài Gòn ,để
ngănm cách giữa Sài Gòn và quân cách mạng ở Hóc Môn –Củ Chi.
Xa lộ Đại Hàn được xây dựng 1960-1970 ,do công ty Mỹ thiết kế và do công binh Đại
Hàn xây dựng (nên có tên gọi là xa lộ Đại Hàn)
Xa lộ Đại Hàn dài 40km, rộng 16m bắt đầu từ ngã 3 trạm 2 đến ngã 3 An Lạc. Hiện
nay đoạn đường này là quốc lộ 1A (trên đoạn này từ Trạm 2 đến ngã 2 Bình Phước
gọi là đường Trường Sơn).
Xa lộ Đại Hàn là một hệ thống đường giao thông hết sức quan trọng là cầu nối 2 khu
vực kinh tế :vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long và vùng Đồng Bằng Nam Bộ. Đa số
những xe đi từ các tỉnh miền Tây lên miền Đông không phải vào TP.HCM mà đi qua
xa lộ Đại Hàn.
Đường Xuyên Á
Khoảng năm 1996 chính phủ đã có quyết định xây dựng đường Xuyên Á từ
(Bangkok) Thái Lan qua Campuchia (Nông Pênh) qua cửa khẩu Mộc Bài (Bến Cầu –
Tây Ninh) qua thị trấn Gò Dầu đến quốc lộ 22A đến Ngã 4 An Sương quẹo trái qua xa
lộ Đại Hàn đến ngã 3 trạm 2 và đi Vũng Tàu.
Đoạn đường từ Bangkok –Nông Pênh –TP.HCM –Vũng Tàu là côn trình đầu tiên Liên Á
được “hội nghị kỹ thuật vùng” của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) đầu năm
1996 ưu tiên chọn lựa. Theo tính toán các chuyên gia, cảng Bến Đình –Sao Mai –Thị
Vải nối thông mạng ôtô Xuyên Á ,sẽ làm cho các sức sản xuất khu vực tăng gấp 2
đến 2,5 lần (Có các tỉnh như: Tây Ninh ,Bình Dương ,TP.HCM ,Đồng Nai ,Vũng Tàu).
Đường Xuyên Á trên địa phận Việt Nam từ cửa khẩu Mộc Bài đến Vũng Tàu dài

173km.
Kinh phí toàn tuyến Bangkok –Nông Pênh –Vũng Tàu là 306 tr USD .Trên địa phận
Việt Nam là 120 tr USD.
Từ trạm 2 vào phía trái khoảng 2km (rẽ phải) vào trường Đại Học Đại Cương –Đại
Học Dược, TDTT, … Nếu đi tới khoảng 500m (phía trái) là khu điện tử Nam Triều Tiên
VINASAMSUNG ,tiếp tục đi tới phía trái là khu chế xuất Linh Trung.
Suối Tiên Thủ Đức
Lâm trại Suối Tiên cách trung tâm TP. Hồ Chí Minh 19km thuc xã Tân Phú huyện Thủ
Đức cách xa lộ Hà Nội 100m ,nơi đây có một dòng suối thiên nhi6n lâu đời uốn lượn
qua những cụm rừng nguyên sinh và đổ dòng qua 6 ngọn đồi ,tạo thành 6 ngọn thác
nhỏ. Suối chảy qua các tỉnh Đồng Nai ,Sông Bé và hạ nguồn chảy qua Lâm Trại dài
1.200m ,như một dải lụa trắng .Mùa xuân hoa mai vàng nở rộ dọc theo triền suối
.Trước vẻ đẹp thơ mộng và quyến rũ ấy người dân ở đây không ngầnngại đặt tên là
Suối Tiên. Tháng 6-1993 đồ án quy hoạch được văn phòng kiến trúc sư trưởng phê
duyệt và UBND thành phố cho phép thực hiện theo quy hoạch Lâm Trại Suối Tiên
trên diện tích 120ha với vốn đầu tư bước đầu là 50 tỉ đồng cho các công trình vui
chơi tham quan trên diện tích 20ha.
Đến với Suối Tiên quý khách sẽ tận hưởng những giây phút thoải mái không khí
trong lành cùng với thiên nhiên và đặ biệt được chiêm ngưỡng hình ảnh một con rồng
được xây dựng theo truyền thuyết “con rồng cháu tiên” lớn nhất Việt Nam ,dài 400m
được đúc bằng bêtông .Trong tương lai một phần của sở thú sẽ được chuyển ra đây.
Dự An Thảo Cầm Viên Mới
UBND TP chấp nhận cho địa điểm xây dựng Thảo Cầm Viên mới tại khu vực đồi Lâm
Viên gần sân golf quận 9 .Thảo Cầm Viên mới có diện tích 200ha với các khu vui chơi
,giải trí ,mô hình tiến hoá các loại động vật và thực vật .Dự kiến kinh phí xây dựng
khoảng 50tr USD
Khu Lâm Viên Thủ Đức được quyết định thành lập ngày 6-8-1984 cách xa lộ Hà Nội
2km phía phải với diện tích là 1200ha (trong đó phủ 350ha cây điều và 200ha cây
xanh) .
Nghĩa Trang Liệt Sĩ TP

Nằm trên ngọn đồi không tên :nơi yên nghỉ của các chiến sĩ hy sinh trong cuộc kháng
chiến chống Pháp ,Mỹ và Campuchia .Diện tích 3ha –được xây dựng 1984 -4.1987 ,ở
giữa là tượng đài Bà Mẹ Việt Nam với hơn 12.000 ngôi mộ anh hùng liệt sĩ ôm lấy
tượng đài Bà Mẹ Việt Nam anh hùng.
Tượng đài Bà Mẹ Việt Nam anh hùng được nhà điêu khắc Nguyễn Hải tạc nên
Núi Châu Thới
Còn gọi là núi Châu Thái ,cao 73m ,trên núi có chùa Hội Sơn .Trụ trì Khánh hưng
Thiền Sư .Vào thế kỷ 18 ở đây từng là nơi đóng quân của Nguyễn Anh .
Trước đây ở núi Châu Thới là nơi khai thác đá để cung cấp cho ngành xây dựng và
cầu đường.
Phía trái :khu du lịch Bình An
Nằm cách xa lộ Hà nội 500m phía trái là khu du lịch hồ Bình An ,khu nghỉ ngơi vào
cuối tuần cho dân thành phố ,với khung cảnh thoáng mát hữu tình có hồ nước, nhiều
khu vui chơi .
Đường vào Tân Vạn ,(ngã 3 Tân Vạn) :vào núi Châu Thới du lịch suối Lồ Ô.
Cầu Đồng Nai
Cầu Đồng Nai được xây dựng vào năm 1959-1961 do hãng C.E.C thiết kế và hãng
Joushin Deake thi công ,cầu dài 454m ,rộng 16m ,trọng tải 25 tấn ,gồm 27 nhịp
được bắt qua con sông Đồng Nai ,con sông quan trọng của tỉnh Đa Nhim-Đa dung có
nguồn gốc từ cao nguyên Lâm Viên (Lang Bian) ở độ cao 1776m đổ về ,chảy qua địa
phận tỉng Đồng Nai sau đó kết hợp với sông Sài Gòn đổ ra vịnh Gành Rái.
Sông Đồng Nai :hệ thống sông Đồng Nai –Vàm Cỏ là hệ thống sông kép vì hai con
sông này chỉ gặp nhau ở ngoài cửa Soài Rạp và được kết nối với nhau bằng những
con kênh nhân tạo .Đây là hệ thống sông lớn thư` ba trong nước sau hệ thống sông
Hồng và sông Cửu Long .Chiều dài sông chính là 635km ,diện tích toàn khu vực là
44100km2 phát triển chủ yếu ở Nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ ,một phần ở Tây
Nam Bộ và Campuchia. Hệ thống sông Đồng Nai và Vàm Cỏ có tổng lượng nước vào
khoảng 32,8 tỉ m3/ năm .Thủy chế tương đối đơn giản vì chỉ có một mùa mưa và
một mùa cạn .Sông Đồng Nai có giá trị cả về giao thông ,sinh hoạt ,nông nghiệp và
thủy điện.

Từ trên cầu ,ở ngã ba sông về phía thượng lưu là Cù Lao Phố .Ngược dòng lịch sử
,năm 1679 ,khi triều Minh Mạng ở Trung Hoa bị nhà Thanh lật đổ có khoảng 3000
binh sĩ và gia đình trong nhóm bài Thanh phục Minh đã đến nước ta và xin Chúa
Nguyễn cho làm dân Việt .Trong đó có một nhóm do Trần Thượng Xuyên làm thủ lĩnh
đến cư trú tại đây và lập nên một cảng có hoạt động thương mại sầm uất gọi là Nông
Nại Đại Phố .Năm 1698 ,thừa lệnh của Chúa Nguyễn ,Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam
kinh lý ,ông thấy vùng đất này trù phú và yên bình nên đã dừng chân tại đây .Ông
đã chia đặt các đơn vị hành chính và thành lập chính quyền Nam Bộ ,hai huyện đầu
tiên là Phước Long và Tân Bình .Sông Đồng Nai là ranh giới tự nhiên giữa thành phố
Hồ Chí Minh và tỉnh Đồng Nai.
Tỉnh Đồng Nai
Đồng Nai là tỉnh thuộc Miền Đông Nam Bộ nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
,có diện tích 5,862,73km2 ,chi61m 17,6% diện tích tự nhiên của vùng Đông Nam
Bộ .Dân số toàn tỉnh theo số liệu thống kê năm 2003 là 2.149.030 người ,mật độ dân
số :365 người /km2 .Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của toàn tỉnh năm 2004 là 1,22%
.Tỉnh có 11 đơn vị hành chính trực thuộc gồm :thành phố Biên Hoà –là trung tâm
chính trị kinh tế văn hoá của tỉnh :thị xã Long Khánh và 9 huyện :Long Thành ;Nhơn
Trach; Trảng Bom ;Thống Nhất ;Cẩm Mỹ ;Vĩnh Cửu ,Xuân Lộc ;Định Quán ;Tân Phú.
Là một tỉnh nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm phía Nam Đồng Nai tiếp
giáp với các vùng sau:
+ Phía Đông giáp tỉnh Bình Thuận.
+ Phía Đông Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng.
+ Phía Tây Bắc giáp tỉnh Bình Dương và Bình Phước
+ Phía Nam giáp tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu
+ Phía Tây giáp Thành phố Hồ Chí Minh
Là một tỉnh có hệ thống giao thông thuận tiện với nhiều đường huyết mạch quốc gia
đi qua như quốc lộ 1A, quốc lộ 20 ,quốc lộ 51 ;tuyến đường sắt Bắc –Nam ;gần cảng
Sài Gòn ,sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh
tế trong vùng cũng như giao thương với cả nước đồng thời có vai trò gắn kết vùng
Đông Nam Bộ với Tây Nguyên.

Lịch Sử Hình Thành
Cuối thế kỷ XVI ,vùng đất Đồng Nai vẫn còn hoang dã chưa được khai phá ,người
dân bản địa gồm các dân tộc ,Stiêng ,Mạ ,Kơ ho, Mnông ,Chơ ro và một vài sóc người
Khơme sing sống. Dân ít ,sống thưa thớt ,kỹ thuật sản xuất thô sơ ,trình độ xã hội
còn thấp .Cuộc chiến trang của họ Trịnh và họ Nguyễn ở miền Trang và Bắc Việt
Nam làm cho dan chúng khổ sở ,điêu đứng và tạo ra một làn sóng di cư của người
dân miền Thuận Quảng vào Đồng Nai tìm đất sống .Bản tính cần cù ,chịu khó ,lưu
dân người việt đã cùng với người bản địa chung sức khai phá đất đai để sản xuất
nông nghiệp. Dần dà ,rừng rậm hoang vu đã trở thành những cánh đồng lúa và hoa
màu tươi tốt.
Năm 1679 ,nhà Minh ở Trung Quốc sụp đổ ,Tổng binh Trần Thượng Xuyên trấn thủ
các châu Cao ,Lôi ,Liêm không khuất phục nhà Thanh đã đem 50 chiền thuyền ,3.000
binh lính than tín và gia quyến đến xin thuần phục Chúa Nguyễn ở Thuận Hoá. Chúa
Nguyễn Phúc Chu đã thu nhận họ và cho vào khai khẩn ,mở mang vùng đất Đông
Phố (Cù lao phố ngày nay).
Năm Mậu Dần 1698 ,chúa Nguyễn sai Thống Suất Chưởng cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn
Hữu Cảng vào kinh lược vùng đất Đồng Nai (là cả Nam Bộ bây giờ), đặt vùng đất mới
thành phủ Gia Định ,chia làm 2 huyện :huyện Phước Long (Đồng Nai) dựng dinh Trấn
Biên ,huyện Tân Bình (Sài Gòn) dựng dinh Phiên Trấn. Ngoài ra ,Nguyễn Hữu Cảnh
còn cho lập bộ đinh ,bộ điền ,chiêu mộ những người có vật lực từ các vùng khác vào
lập nghiệp và phát triển kinh tế .Người Hoa theo Trần Thượng Xuyên đầu tiên định cư
ở Bến Gỗ ,nhưng thấy Cù lao phố có vị trí thuận lợi cho việc kinh doanh buôn bán ,họ
đã quyết định di chuyển đến đây sinh sống .Từ đây ,Cù lao phố phát triển ngày càng
phồn thịnh và nhanh chóng trở thành trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế của
cả vùng Gia Định (Nam Bộ ngày nay).
Theo ông Vương Hồng Sển ,thời chúa Nguyễn một số người Trung Quốc không theo
nhà Thanh mà di dân sang Việt Nam ,xuống đây khai khẩn đất hoang để sinh
sống .Họ lập ra Nông Nại Đại Phố ,về sau đọc trại thành Đồng Nai.
Đồng Nai là vùng đất con người cư trú rất sớm, nhưng di chỉ khảo cỏ ở Hang Gòn,
Cầu Sắc có các công cụ bằng đá của người tiền sử, ở dốc chuà có những khuôn đúc

đồng cách dây 3000 năm. Vùng Bà Riạ của tỉnh Đồng Nai cũng là nơi người Việt vào
khai phá đất hoang sớm nhất trong cả Nam Bộ.
Năm 1679, một nhóm người Hoa đã đến cư trú cùng người Việt tại vùng Biên Hoà và
lập nên khu vực chợ búa quan trọng nhất Nam Bộ trong thế klhỉ 18-Cù Lao phố. Sử
sách ghi lại, nơi đây là một khu chơ sầm uất với phố xá mái ngói tường vôi, lầu cao,
qoán rộng dọc theo suốt bờ sông. Thuyền buôn của các nước đến đây buôn bán tấp
nập. Dến khoảng1776-1777 trong cuộc chiến giữa Tây Sơn và họ Nguyễn, Cù Lao
phố bị tàn phá suy sụp hẳn. Thương gia ở đây về vùng Sài Gòn lập nên Chợ Lớn ngày
nay. Cù Lao Phố nay thuộc điạ phận của xã Hiệp Hòa trong thành phố Biên Hòa.
Tỉnh lỵ là thành phố Biên Hòa, Người Kinh chiếm vị thế ưu thế, bên cạnh đó còn các
dân tộc khác như Mạ, Khơ-Mú,Tày, Nùng, Thái… Ưu thế là cây công nghiệp ngắn
ngày, cây ăn qủa, mía, đậu phộng,đậu tương, thuốc lá, Dặc sản nơi đây là bưởi: bưởi
Tân Triều, bưởi Đường Núm, bươi thanh, bưởi Xiêm…nhưng thường gọi chung là bưởi
Biên Hòa. Diện tích cây cao su đứng thứ hai cả nước sau Bình Phước. Tiểu thủ công
ngiệp cnổi tiếng với nghề làm gốm, tạc tượng. Sau hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và Mỹ, nhân dân Đồng Nai đã cố gắng tập trung khôi phục laị nhưng gì chiến tranh
đã lấy đi, đồng thời xây dựng và phát triển nhưng cái mới mẻ sánh vai kịp cùng với
thành phố Hồ Chí Minh.
Khu Căn Cứ Long Bình
Khu căn cứ Long Bình nằm phía phải( góc đông bắc ngã 3 xa lộ), được xây dựng
1964 với diện tích ban đầu là 6km2 ,dùng làm kho chứa đạn và dụng cụ chiến tranh
đầu tiên gọi là kho Long Bình .
Tháng 4-1965 sau khi kiểm tra tình hình miền Nam Việt Nam ,phái đoàn quân sự do
Mac Namara và Taylor cầm đầu đã quyết định xây dựng lại kho Long Bình năm
1986 ,ở rộng gấp 4 lần so với trước là 24km2 và gọi là tổng kho Long Bình .Tổng kho
Long Bình lấy hàng từ cảng Sài Gòn ,cảng Vũng Tàu ,sân bay Biên Hoà và trở thành
trung tâm cung cấp vũ khí cho quân đội Mỹ và chư hầu .Tổng kho Long Bình có 6
hầm ngầm đủ chứa 150.000 tấn bom ,đạn. Có 7 lớp rào bao bọc 72 tháp canh
Quá Trình Hình Thành và Phát triễn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Năm 1867, sau khi chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ, người Pháp chia 6 tỉnh thành

24 hạt Thanh tra. Đến năm 1869 đổi hạt Thanh tra thành khu Tham biện. Theo
thống kê năm 1876, khu Tham biện Bà Rịa có 7 tổng và 64 làng như năm 1862. Đến
thập niên 1900, các khu Tham biện đều đổi gọi là tỉnh. Do đó khu Tham biện Bà Rịa
gọi là tỉnh Bà Rịa
Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu cử Thống suất Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh
vào kinh lý vùng Đồng Nai - Gia Định, lập ra phủ Gia Định gồm hai huyện Phước
Long và Tân Bình
Huyện Phước Long được chia làm 4 tổng trong đó có Phước An là phần đất ngày nay
của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và hai huyện Xuân Lộc và Long Khánh của tỉnh Đồng Nai.
Năm Gia Long thứ 7 (1808) một cuộc sắp xếp lớn các đơn vị hành chánh được thực
hiện tại miền Nam, theo đó dinh Trấn Biên được đổi thành trấn Biên Hòa, huyện
Phước Long nâng lên thành phủ Phước Long, các tổng được nâng lên thành huyện,
trong đó tổng Phước An được nâng lên thành huyện Phước An gồm hai tổng là Phước
Hưng và An Phú.
Năm Minh Mạng thứ 2 (1821) do dân số và diện tích khai phá tăng lên, nên số tổng
của huyện Phước An được tăng lên 4 tổng. Tên các tổng mới do tên 2 tổng cũ, thêm
vào sau 2 chữ Thượng và Hạ. Đó là các tổng Phước Hưng Thượng, Phước Hưng Hạ,
An Phú Thượng, An Phú Hạ.
Năm Minh Mạng thứ 18 (1837) tách hai huyện Long Thành và Phước An của phủ
Phục Long đặt thuộc phủ Phước Tuy mới lập trực thuộc tỉnh Biên Hòa, đồng thời tách
phần đất phía bắc hai huyện này lập thành huyện mới Long Khánh với 6 tổng là Long
Xương, Long Cơ, An Trạch, An Viễn, Tập Phước và Khánh Nhơn. Năm Tự Đức thứ 4
(1851) bỏ huyện nha huyện Long Khánh, giao về cho phủ Phước Tuy kiêm lý. Đến
năm Tự Đức thứ 8 (1855) nghĩa là trước khi người Pháp xâm chiếm 4 năm, địa bàn
phủ Phước Tuy gồm có: huyện Phước An có 4 tổng; huyện Long Thành có 4 tổng;
huyện Long Khánh có 6 tổng (1).
Hòa ước Nhâm Tuất 1862 nhường tỉnh Biên Hòa cho người Pháp làm thuộc địa. Về
mặt hành chánh, người Pháp dùng chính sách trực trị, bỏ hết cấp phủ, huyện và tỉnh
cũ, chia ba tỉnh miền Đông Nam kỳ thành 13 hạt thanh tra, trong đó chúng tách
phần đất của huyện Phước An lập thành hạt Thanh tra Bà Rịa, ly sở đặt tại thị trấn

Bà Rịa thuộc làng Phước Lễ. Đối với cấp tổng và xã thôn vẫn được giữ nguyên. Bấy
giờ hạt Thanh tra Bà Rịa gồm có 7 tổng 64 thôn.
Năm 1867, sau khi chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ, người Pháp chia 6 tỉnh thành
24 hạt Thanh tra. Đến năm 1869 đổi hạt Thanh tra thành khu Tham biện. Theo
thống kê năm 1876, khu Tham biện Bà Rịa có 7 tổng và 64 làng như năm 1862. Đến
thập niên 1900, các khu Tham biện đều đổi gọi là tỉnh. Do đó khu Tham biện Bà Rịa
gọi là tỉnh Bà Rịa, tách một số làng của tổng An Phú Hạ để thành lập tổng mới An
Phú Tân. Ngày 7-11-1905 Toàn quyền Đông Dương ra nghị định sáp nhập phần đất
gọi là Khánh Sơn và 3 làng của người thiểu số là Hưng Nhơn, Nhu Lâm và Thừa Tích
nguyên của tỉnh Bình Thuận vào tỉnh Bà Rịa. Sau khi nhập các làng trên đây, ba tổng
cũ của người thiểu số được điều chỉnh lại còn hai tổng là Cơ Trạch (An Trạch và Tân
Cơ) và Nhơn Xương.
Sau một thời gian thi hành chính sách trực trị không thành công, người Pháp cho
thành lập lại cấp hành chánh trung gian giữa tỉnh và tổng, làng gọi chung là "quận".
Trên địa bàn tỉnh Bà Rịa, ngày 7-5-1919 Thống đốc Nam kỳ ra nghị định thành lập
quận Xuyên Mộc, nhưng đến ngày 16-12-1921 lại xóa bỏ. Đến ngày 11-12-1927 cho
lập lại, nhưng đến ngày 22-1-1934 lại xóa bỏ, đổi thành Đại lý hành chính. Ngày 5-
7-1838 Thống đốc Nam kỳ cho thành lập quận Phước Lễ, nhưng lại xóa bỏ cùng ngày
với quận Xuyên Mộc, để thành lập một quận chung cho toàn địa hạt lấy tên là quận
Long Điền, đồng thời tách một số làng của tổng Phước Hưng Hạ để thành lập tổng
mới Phước Hưng Trung. Năm 1939, tỉnh Bà Rịa có các quận, tổng như sau: Quận
Long Điền có 8 tổng như sau: Tổng An Phú Hạ; Tổng An Phú Tân; Tổng An Phú
Thượng; Tổng Phước Hưng Hạ; Tổng Phước Hưng Trung; Tổng Phước Hưng Thượng;
Tổng Cơ Trạch, Tổng Nhơn Xương(2).
Như trên ta đã thấy, dưới thời các vua nhà Nguyễn, phần đất Vũng Tàu mà tên chữ
là Thuyền Úc thuộc tổng An Phú Thượng với 3 thuyền Thắng Nhứt, Thắng Nhì, Thắng
Tam sau thành ba thôn. Sau khi người Pháp lập hạt Thanh tra, rồi khu Tham biện Bà
Rịa, phần đất này lại đổi thuộc tổng An Phú Thượng. Đến ngày 1-5-1895, Thống đốc
Nam kỳ ra nghị định tách phần đất Vũng Tàu mà người Pháp gọi là Cap Saint Jacques
khỏi địa bàn khu tham biện Bà Rịa để thành lập thành phố tự trị. Đến ngày 20-1-

1898 lại nhập về Bà Rịa như cũ và gọi là khu Cap Saint Jacques. Ngày 14-1-1899
khu Cap Saint Jacques được thành lập tổng gọi là tổng Vũng Tàu có 7 làng. Đến ngày
11-11-1899 lại tách Bà Rịa và Cap Saint Jacques thành hai đơn vị hành chánh độc
lập
Ngày 1-4-1905 Toàn quyền Đông Dương ra nghị định bãi bỏ thành phố Cap Saint
Jacques, nhập địa bàn vào tỉnh Bà Rịa, đổi thành đại lý hành chánh. Ngày 30-4-
1929, Thống đốc Nam kỳ ra nghị định tách phần đất tổng Vũng Tàu gồm 3 làng
Thắng Nhứt, Thắng Nhì, Thắng Tam của Đại lý Cap Saint Jacques, làng Sơn Long(sau
đổi thành Long Sơn) và quận Cần Giờ của tỉnh Gia Định gồm các làng Cần Thạnh,
Long Thạnh, Đồng Hòa, Thạnh An, Tân Thạnh để thành lập tỉnh Cap Saint Jacques.
Đến năm 1934 lại bỏ tỉnh, hạ xuống thành phố cho đến năm 1945.
Về Côn Đảo thì theo Phủ biên Tạp lục của Lê Quý Đôn đã thuộc chủ quyền nước Đại
Việt xứ Đàng Trong từ thời chúa Nguyễn, đặt thuộc quyền dinh Trấn Biên. Vì vậy
năm 1702 người Anh chiếm đóng đảo Côn Lôn đã bị Trấn thủ Trương Phước Phan lập
mưu đánh đuổi. Từ triều Gia Long thuộc tỉnh Hà Tiên gọi là Coóc Tầm Lai, đến triều
Minh Mạng gọi là đảo Côn Lôn thuộc đạo Cần Giờ tỉnh Gia Định. Từ năm Minh Mạng
thứ 20 (1839) lại đổi thuộc huyện Trà Vinh tỉnh Vĩnh Long. Năm 1861 thực dân Pháp
chiếm đóng, biến thành nhà tù giam giữ các nhà yêu nước Việt Nam. Khi đó Côn Đảo
thuộc tỉnh Hà Tiên. Ngày 16-5-1882, Thống đốc Nam kỳ ra nghị định đặt Côn Đảo
một quận trực thuộc Nam kỳ, đứng đầu là Giám đốc quần đảo và nhà tù Côn Đảo.
Từ sau Cách mạng tháng 8 cho đến hiệp định Genève, trên đia bàn tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu có một số thay đổi. Ngày 14-11-1946 "Chính phủ lâm thời Cộng hòa Nam
kỳ" ban hành chỉ thị số 153-C/Cir-Sài Gòn thành lập các quận hành chánh quân sự
(Délégation administrative et militaire) Xuyên Mộc và Phú Mỹ. Đến ngày 28-7-1947
thì giải thể quận Xuyên Mộc và ngày 23-9-1947 giải thể quận Phú Mỹ đều do quyết
định của Tỉnh trưởng Bà Rịa.
Ngày 10-3-1947 do nghị định của "Chính phủ lâm thời Cộng hòa Nam kỳ" tỉnh Cap
Saint Jacques (Vũng Tàu) được thành lập. Đến ngày 3-5-1947 quận Cần Giờ được
thành lập đặt thuộc tỉnh Vũng Tàu gồm các làng thuộc tổng Cần Giờ và tổng An Thịt.
Trụ sở đặt tại làng Cần Thạnh. Nghị định số 807-Cab/MI của Chính phủ Lâm thời

Quốc gia Việt Nam ngày 29-12-1952, cải biến thị trấn Vũng Tàu thành thị xã hỗn hợp
(Commune mixte).
Nghị định số 2235-Cab/DAA ngày 16-6-1954 của Thủ hiến Nam Việt tạm sáp nhập
vào làng Phước Hải hai làng Hội Mỹ và Long Mỹ và tạm sáp nhập làng Phước Lợi vào
làng Phước Thọ. Nhưng đến ngày 2-11-1954 nghị định này bị thu hồi. Nghị định số
3517-HCSV ngày 29-11-1954 của Đại biểu chính phủ tại Nam Việt thành lập quận
Xuyên Mộc, trụ sở đặt tại Xuyên Mộc.
Thời gian này, về phía cách mạng hoạt động chủ yếu về quân sự, có một số sắp xếp
cho phù hợp với tình hình và nhu cầu tác chiến. Các xã vùng cao hợp lại thành quận
Cơ Trạch, các quận miền Trung thành lập quận Long Điền, và quận Đất Đỏ, các xã
dọc theo lộ 15 thành quận Vũng Tàu. Tỉnh Bà Rịa thuộc quân khu 7. Từ tháng 5-
1951 thuộc Phân liên khu miền Đông Nam Bộ. Sau đó tỉnh Bà Rịa hợp với tỉnh Chợ
Lớn thành tỉnh Bà Chợ. Danh xưng này tồn tại cho đến năm 1954.
Từ năm 1956 chính quyền Sài Gòn thục hiện cuộc cải cách hành chánh khắp toàn
miền Nam. Tỉnh Bà Rịa và tỉnh Vũng Tàu hợp nhất thành tỉnh Phước Tuy. Nghị định
ngày 3-1-1957 sắp xếp lại các đơn vị hành chánh tỉnh Phước Tuy, tỉnh lỵ tại Phước
Lễ, gồm quận Châu Thành, quận lỵ tại Phước Lễ với tổng An Phú Hạ có 3 xã, tổng An
Phú Tân có 4 xã, tổng Cơ Trạch có 4 xã; quận Xuyên Mộc với tổng Nhơn Xương có 5
xã; quận Long Điền với tổng An Phú Thượng có 6 xã; quận Đất Đỗ với tổng Phước
Hưng Thượng có 3 xã, tổng Phước Hưng Hạ có 3 xã, tổng Phước Hưng Trung có 2 xã;
quận Vũng Tàu với 5 xã, không có tổng; quận Cần Giờ với 6 xã, không có tổng.
__________________
Nghị định ngày 20-3-1958 bãi bỏ quận Đất Đỏ, nhập phần đất vào quận Long Điền.
Nghị định ngày 16-4-1958 xóa bỏ xã Thới Bình của quận Cần Giờ. Sắc lệnh ngày 29-
1-1959 cắt phần đất phía bắc quận Cần Giờ đề thành lập quận Quảng Xuyên thuộc
tỉnh Phước Tuy, quận lỵ tại xã Bình Khánh. Sắc lệnh ngày 9-9-1960 tách hai quận
Cần Giờ và Quảng Xuyên khỏi tỉnh Phước Tuy để sáp nhập vào tỉnh Biên Hòa. Nghị
định ngày 14-10-1960 tái lập quận Đất Đỏ gồm 3 tổng a8 xã. Nghị định ngày 24-12-
1961 trích 4 xã Ngãi Giao, Bình Giã, Bình Ba, Hắc Dịch từ quận Châu Thành để thành
lập quận mới Đức Thạnh. Nghị định ngày 10-10-1962 đổi tên quận hâu Thành thành

quận Long Lễ. Nghị định ngày 13-8-1964 sáp nhập xã Hội Bài quận Long Lễ vào xã
Phước Hòa cùng quận. Sắc lệnh ngày 8-9-1964 cải biến quận Vũng Tàu thành thị xã
Vũng Tàu. Sắc lệnh ngày 30-3-1965 và nghị định ngày 13-4-1965 chia các xã thuộc
thị xã Vũng Tàu thành 5 khu phố. Nghị định ngày 21-6-1965 nhập xã Nhu Lâm quận
Xuyên Mộc vào xã Xuyên Mộc.
Nghị định ngày 3-8-1972 trích một phần đất xã Bình Ba và xã Hắc Dịch để thành lập
xã mới Quảng Phước, thuộc quận Đức Thạnh. Nghị định ngày 6-9-1973 sáp nhập một
số đảo vào xã Phước Hải quận Đất Đỏ gồm có đảo Trường Sa, An Bang, Thái Bình,
Song Tử Đông, Song Tử Tây, Loại Ta, Thị Tứ, Nam Ai, Sinh Tồn và các đảo phụ cận.
Nghị định ngày 22-8-1974 trích các khóm Bình Lợi, Bình Hải, Sao Mai của phường
Thắng Nhì để lập phường mới Phước Hải thuộc thị xã Vũng Tàu.
Về phía Côn Đảo, sắc lệnh ngày 22-10-1956 của chính quyền Sài Gòn thành lập tỉnh
Côn Sơn, nhưng đến ngày 21-4-1965 thì bãi bỏ và thiết lập trên quần đảo này một
cơ sở hành chánh trực thuộc chính quyền trung ương, đặt dưới quyền một đặc phái
viên hành chánh kiêm quản đốc trung tâm cải huấn Côn Sơn.
Về phía chính quyền cách mạng, năm 1963 hai tỉnh Biên Hòa và Bà Rịa hợp nhất gọi
là tỉnh Bà Biên, nhưng cuối năm lại tách ra như cũ. Sau đó tỉnh Bà Rịa hợp với tỉnh
Long Khánh thành tỉnh Bà Rịa - Long Khánh. Tháng 5-1971 tỉnh này bị giải thể và
thành lập phân khu Bà Rịa gồm 3 thị xã Long Khánh, Bà Rịa, Vũng Tàu và 9 huyện.
Tháng 8-1972 phân khu giải thể, tỉnh Bà Rịa - Long Khánh được tái lập cho đến ngày
30-4-1975.
Sau 1975, tỉnh Bà Rịa hợp với tỉnh Biên Hòa, tỉnh Long Khánh và một phần đất tỉnh
Bình Tuy thành tỉnh Đồng Nai. Tỉnh lỵ tại Biên Hòa. Ngày 30-5-1979 Quốc hội nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thành lập đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo gồm thị
xã Vũng Tàu, xã Long Sơn thuộc tỉnh Đồng Nai và huyện Côn Đảo thuộc tỉnh Hậu
Giang. Quyết định ngày 13-1980 của Hội đồng Bộ trưởng nhập xã Tân Lập của huyện
Xuyên Mộc vào huyện Châu Thành tỉnh Đồng Nai. Quyết định ngày 8-12-1982 chia
xã Phú Mỹ huyện Châu Thành làm 2 xã Phú Mỹ và Mỹ Xuân, chia xã Phước Hòa làm
xã Phước Hòa và Hội Bài, lập thị trấn Bà Rịa trên cơ sở xã Phước Lễ, lập xã kinh tế
mới Châu Pha, nhập hai xã Kim Hải và Phước Hòa vào xã Long Hương, nhập xã Tân

Lập của quận Châu Thành vào huyện Xuân Lộc.
Quyết định ngày 9-12-1982 chia xã Phước Bử¬u thành hai xã Phước Bửu và Phước
Tân thuộc huyện Xuyên Mộc, giải thể xã Long Điền huyện Long Đất để lập thị trấn
Long Điền, giải thể xã Long Hải để thành lập thị trấn.
Quốc hội khóa VII kỳ họp thứ 9 ngày 12-8-1991 quyết định thành lập tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu trên cơ sở đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo và ba huyện Long Đất, Châu
Thành, Xuyên Mộc tách từ tỉnh Đồng Nai, gồm có thành phố Vũng Tàu với 11 phường
và 1 xã, huyện Châu Thành với 1 thị trấn và 18 xã, huyện Xuyên Mộc với 11 xã,
huyện Long Đất với 2 thị trấn và 11 xã, huyện Côn Đảo không có xã.
Nghị định ngày 2-6-1994 của Chính phủ thành lập thị xã Bà Rịa gồm có các phường
Phước Hưng, Phước Hiệp, Phước Nguyên, Long Toàn, Phước Trung và các xã Long
Phước, Hòa Long, Long Hương; tách một số xã và phần đất của huyện Châu Thành
để thành lập huyện Tân Thành gồm có thị trấn Phú Mỹ và các xã Sông Xoài, Hắc
Dịch, Châu Pha, Tóc Tiên, Hội Bài, Phước Hòa, Mỹ Xuân; thành lập huyện Châu Đức
trên cơ sở một số xã tách từ huyện Châu Thành, gôm có thị trấn Ngãi Giao và các xã
Bình Ba, Suối Nghệ, Xuân Sơn, Bình Giã, Xà Bang, Láng Lớn, Quảng Thành, Kim
Long, Suối Rao, Đá Bạc, Nghĩa Thành. Sau khi thành lập thị xã Bà Rịa và hai huyện
Tân Thành, Châu Đức, huyện Châu Thành bị giải thể.
Nghị định ngày 30-10-1995 của Chính phủ thành lập thị trấn Phước Bửu trên cơ sở
một phần đất tách từ xã Phước Bửu huyện Xuyên Mộc, đổi phần còn lại của xã Phước
Bửu thành xã Phước Thuận, thành lập xã mới Lộc An trên cơ sở một phần đất trích từ
xã Phước Hải xã Phước Long Hội và xã Láng Dài, đặt thuộc huyện Long Đất. Nghị
định ngày 16-9-1999 của Chính phủ xếp thành phố Vũng Tàu vào đô thị loại 2.
Năm 2000, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có một diện tích 2.006,70 km2 với một dân số
khoảng 74 vạn người phân bố trên địa bàn thành phố: Vũng Tàu có 11 phường và 1
xã, thị xã Bà Rịa có 5 phường và 3 xã, huyện Xuyên Mộc có 1 thị trấn và 11 xã,
huyện Long Đất có 2 thị trấn và 10 xã, huyện Châu Đức có 1 thị trấn và 11 xã,
huyện Tân Thành có 1 thị trấn và 7 xã, huyện Côn Đảo. Tổng cộng 1 thành phố, 1 thị
xã, 5 huyện, 16 phường, 5 thị trấn, 5 xã.
VỀ TÍN NGƯỠNG VÀ TÔN GIÁO

Bà Rịa - Vũng Tàu không những là một địa bàn du lịch được thiên nhiên ưu đãi với
nhiều tài nguyên đa dạng, phong phú, nhiều bãi biển đẹp và những khu rừng nguyên
sinh mà còn là nơi hội tụ giữa các nền văn hoá: phi vật thể bản địa (lễ hội, phong
tục, tập quán, tín ngưỡng) mang đậm màu sắc văn hóa biển với văn hoá của các tôn
giáo tạo nên nhiều công trình văn hoá, khu di tích nổi tiếng với những vẻ đẹp cổ
kính, thanh thoát…
TÍN NGƯỡNG
Cũng như các địa phương khác trong cả nước, Bà Rịa – Vũng Tàu vẫn mang đậm
màu sắc dân gian với các nền “văn hoá sinh tồn” (nghề nông, nghề cá, thủ công…),
“văn hoá ứng xử” (sự giao tiếp, tổ chức phường nghề, nghi lễ, hội hè…), “Văn hoá
đạo đức” (các mối quan hệ ông bà, cha mẹ, xóm giềng…), “văn hoá tín ngưỡng” (tín
ngưỡng dân gian, tín ngưỡng nguyên thuỷ…) “Văn hoá nghệ thuật” (ngôn ngữ, nghệ
thuật dân gian, ca dao, cổ tích hội hoạ, kiến trúc…). Đặc biệt, nền “Văn hoá tín
ngưỡng” được thể hiện đậm nét với các lễ hội “Nghinh ông” của cư dân vùng ven
biển như xã Phước Hải, Phước Tỉnh, Long Hải (huyện Long Ðất), Ðình Thắng Nhất,
Thắng Nhì, Thắng Tam (TP.Vũng Tàu) Trong đó tiêu biểu nhất là lễ hội Nghinh Ông
- đình Thắng Tam được tổ chức vào ngày 16, 17, 18 tháng 8 âm lịch hàng năm tôn
thờ linh vật đã phù hộ giúp đỡ ngư dân trong những tháng ngày lênh đênh trên biển.
Lễ hội Dinh cô (Long Hải) thể hiện lòng tin, sự tín ngưỡng vốn có lâu đời trong nhân
dân với người con gái giàu lòng nhân ái, bị tử nạn trong một trận bão được ngư dân
Long Hải chôn cất, tôn xưng là “Long Hải Thần Nữ”. Hàng năm, lễ hội thường mở
trong 3 ngày (10 - 11 - 12 tháng 2 âm lịch), suốt cả ngày cả đêm.
Lễ hội Trùng Cửu 9/9 âm lịch hàng năm, diễn ra tại Nhà Lớn Long Sơn đây là lễ cầu
an, là lễ hội cầu cho vạn dân bá tánh được mạnh khoẻ an lành, lễ hội diễn ra vào
đêm mồng 8 và ngày 9/9 âm lịch. Đêm 8/9 gọi là lễ Tiên Thường kỉnh mặn (cúng
mặn) chủ yếu là các sản vật do các bá tánh mang vào kỉnh (cúng), và ngày 9/9 gọi
là Chánh Giỗ kỉnh chay(cúng chay), lễ hội không tổ chức linh đình như nhiều lễ hội
khác chủ yếu là đi dâng hương, nguyện cầu khấn vái, và tưởng nhớ đến công đức
của ông Trần. Đạo Ông Trần mang đậm màu sắc dân gian, đạo thờ cúng ông bà tổ
tiên, đề cao hiếu nghĩa mà không có kết nạp tín đồ, không có kinh kệ, không có tổ

chức lãnh đạo đứng đầu tôn giáo.
Ngoài ra cư dân Bà Rịa – Vũng Tàu còn có những phong tục thờ cúng những người có
công dựng nước và giữ nước vị anh hùng cứu nước như Trần Hưng Đạo, Hùng Vương,
thờ cúng Thành Hoàng… Tất cả nền văn hoá trên đã tạo nên một quần thể kiến trúc
đầy màu sắc mang tính dân tộc của Dinh Cô, Đình Thần Thắng Tam, Nhà Lớn Long
Sơn.
Tôn giáo
Bà Rịa – Vũng Tàu là nơi hội tụ nhiều tôn giáo lớn trên thế giới với số lượng tín đồ
chiếm trên 50% dân số toàn tỉnh. Trong đó Phật Giáo, Công Giáo, Cao Đài, Tin Lành
được nhà nước cho phép hoạt động hợp pháp với tư cách là tổ chức xã hội cùng với
một số tôn giáo và hệ phái khác như Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Độ Việt Nam, Phật giáo Bửu
Sơn Kỳ Hương, Tin Lành Baptic, Cơ Đốc Phục lâm, Cơ Đốc Truyền Giáo.
+ Phật giáo
Theo tài liệu nghiên cứu được, Phật Giáo được truyền vào Bà Rịa – Vũng Tàu sớm
nhất cùng với lớp cư dân người Việt miền Bắc, miền Trung từ đầu thế kỷ 17. Khi đến
họ mang theo tôn giáo gốc của mình và xây dựng chùa chiền.
Phật Giáo Bà Rịa – Vũng Tàu vẫn mang đậm màu sắc nguyên thuỷ với các trung tâm
phật giáo lớn như chùa Đại Tùng Lâm (thị trấn Phú Mỹ - huyện Tân Thành), Khu vực
chùa ven núi Thị Vải (xã Hội Bài - huyện Tân Thành), Niết Bàn Tịnh Xá, Thiền Viện
Chơn không, Thích ca Phật Đài (Tp.Vũng Tàu), Các khu vực chùa núi Thiên Thai (xã
Tam An - huyện Long Đất), Chùa Hòn Một (xã Phước Hải - huyện Long Đất)… Một số
cơ sở là di tích lịch sừ - danh thắng: Thích Ca Phật Đài, Niết Bàn Tịnh Xá, Linh Sơn
Cổ Tự.
+ Công giáo
Là tôn giáo lớn thứ 2 của tỉnh, được truyền vào Bà Rịa – Vũng Tàu từ giữa thế kỷ 18
(theo sách Dư địa chí – 1947), nhưng chỉ thực sự phát triển nhanh và nhiều từ năm
1950 đến 1960.
Hiện nay có 14 nhà thờ lớn tập trung nhiều nhất ven quốc lộ 51 từ Tân Thành đến
Vũng Tàu. Ngoài ra còn các khu vực khác như: Khu vực Phước Tỉnh (huyện Long Đất,
khu vực Bình Giã (huyện Châu Đức). Một số nhà thờ xây dựng khá sớm trên 100

năm ở các khu vực Đất Đỏ (huyện Long Đất), thị xã Bà Rịa, Tp.Vũng Tàu. Các nơi
danh thắng: Nhà thờ Đức Mẹ, giáo họ Bãi dâu, tượng cúa Kitô.
+ Cao Đài
Có 3 hệ phái: Cao Đài tây Ninh, Cao Đài Ban chỉnh đạo Bến tre, Cao đài truyền giáo
miền Trung.
Cao Đài Tây Ninh được truyền vào Bà Rịa – Vũng Tàu năm 1940, chủ yếu tập trung ở
Đất Đỏ, Suối Nghệ, Vũng Tàu, Bà Rịa.
+Tin lành
Được truyền vào Việt Nam từ 1911, đến những năm 1930 – 1940 được truyền vào
Vũng Tàu, phát triển mạnh vào những năm 1950 – 1960, chủ yếu là hệ phái Tin lành
Việt Nam. Hiện nay khoảng 4.000 tín đồ.
Tín ngưỡng – tôn giáo Bà Rịa – Vũng Tàu vẫn luôn song hành với sự phát triển đa
dạng của tỉnh, hành đạo trong khuôn khổ của pháp luật và tuân thủ sự quản lý của
nhà nước. Đến với Bà Rịa – Vũng Tàu du khách không những chiêm ngưỡng những
vẽ đẹp thơ mộng của thiên nhiên sơn thuỷ hữu tình mà còn được dịp tiềm hiểu thêm
một vùng đất có nền văn hoá tâm linh lâu đời với quần thể kiến trúc đa dạng đặc
trưng của sự thanh bình.
__________________
Giới thiệu Khái quát về Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Bà Rịa-Vũng Tàu có diện tích 1.975,15 km2, tương đương với thành phố Hồ Chí Minh,
chiếm 0,6% diện tích cả nước. Bà Rịa-Vũng Tàu quản lý trên 100.000 km2 thềm lục
địa Nam biển Đông. Dân số 862.081 người, mật độ 463 người/km2 (năm 2002).
Cũng như các tỉnh Nam Bộ khác, Bà Rịa-Vũng Tàu là vùng đất mới được khai phá và
xây dựng hơn 300 năm nay.
Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu được thành lập theo Nghị quyết kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước
CHXHCN Việt Nam khóa VIII, ngày 12-8-1991, hiện nay gồm thành phố Vũng Tàu,
thị xã Bà Rịa và 6 huyện Long Điền, Đất Đỏ, Xuyên Mộc, Côn Đảo, Châu Đức và Tân
Thành.
Bà Rịa-Vũng Tàu là cửa ngõ phía Đông về cả đường thủy và đường bộ của thành phố
Hồ Chí Minh và của miền Đông Nam Bộ. Phần đất liền, Bà Rịa-Vũng Tàu được xác

định trên tọa độ địa lý từ 10020’ đến 10045’ vĩ Bắc và từ 1070 đến 107035’ kinh
Đông; phía Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, phía Nam là biển Đông, phía Đông giáp tỉnh Bình
Thuận và phía Tây giáp thành phố Hồ Chí Minh. Quần đảo Côn Lôn, với tên thường
gọi là Côn Đảo bao gồm 16 hòn đảo, cách Vũng Tàu 97 hải lý về phía Nam.
Ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Bà Rịa-Vũng Tàu cùng với
thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Đông Nam bộ là vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam của Tổ quốc. Bà Rịa-Vũng Tàu là trung tâm khai thác, chế biến dầu khí đầu
tiên và lớn nhất của cả nước.
Là vùng đất mới, nhưng Bà Rịa-Vũng Tàu bảo tồn trên 200 di tích lịch sử văn hóa và
nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Nói đến Bà Rịa-Vũng Tàu là nói đến biển với
những đặc sản nổi tiếng của đại dương. Không những thế, Bà Rịa-Vũng Tàu còn có
những ngọn núi hùng vĩ, những khu bảo tồn thiên nhiên nguyên sinh, vườn quốc gia
ven biển là nơi tham quan và nghỉ dưỡng lý tưởng. Rừng và biển Bà Rịa-Vũng Tàu là
sự phong phú và đa dạng mà thiên nhiên đã ban tặng cho vùng đất hứa…
Địa hình Bà Rịa-Vũng Tàu là sự chuyển tiếp giữa cao nguyên và đồng bằng cực Nam
Trung Bộ với đồng bằng sông Cửu Long nên địa hình không cao lắm và có xu hướng
thấp dần theo quá trình chuyển tiếp từ Bắc xuống Nam, phân biệt qua ba dạng: vùng
đồi núi thấp, bậc thềm phù sa cổ và đồng bằng ven biển. Bà Rịa-Vũng Tàu có các
ngọn núi tương đối cao, như Mây Tào (700m), núi An Hải (Côn Đảo, cao 577m), núi
Dinh-Bà Rịa (504m), núi Thị Vải-Tân Thành (470m) và hai khu vườn quốc gia Côn
Đảo và Bình Châu thuộc hệ sinh thái rừng nguyên sinh ven biển và hải đảo, vốn rất
hiếm ở Việt Nam.
Bà Rịa-Vũng Tàu là cửa ngõ của những con sông lớn như sông Đồng Nai và sông Sài
Gòn; có bờ biển dài trên 100 km, với nhiều vũng, vịnh và bãi cát đẹp, lý tưởng với
nhiều cơ sở dịch vụ phục vụ tắm biển và nghỉ mát. Khí hậu Bà Rịa-Vũng Tàu ổn định
và thấp so với khu vực, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26-290C.
Tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản của Bà Rịa-Vũng Tàu không phong phú về chủng
loại nhưng tập trung và có giá trị kinh tế cao, như dầu mỏ và khí đốt ở thềm lục địa
có trữ lượng lớn; nước khoáng Bình Châu, suối Nghệ; cát trắng sản xuất pha lê (Bình
Châu); đá hoa cương khu vực núi Dinh, Thị Vải, Minh Đạm

Mục tiêu trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu là
tích cực khai thác lợi thế và tiềm năng, xây dựng Bà Rịa-Vũng Tàu thành một trung
tâm công nghiệp; du lịch và khai thác hải sản lớn, một thương cảng quốc gia và quốc
tế.
Về cơ cấu kinh tế, Bà Rịa-Vũng Tàu có lợi thế về phát triển công nghiệp, dịch vụ và
nông nghiệp. Do đó, cơ cấu kinh tế của tỉnh được xác định là Công nghiệp-Dịch vụ-
Nông nghiệp. Từ ngày thành lập tỉnh đến nay cơ cấu kinh tế đó tiếp tục được giữ
vững và ngày càng khẳng định sự đúng hướng, tính hiệu quả và tích cực. Cơ cấu kinh
tế Bà Rịa-Vũng Tàu đã và đang tiếp tục chuyển dịch tích cực theo hướng tiên tiến-
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ không ngừng tăng lên,
tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm.
So với nhiều địa phương trong toàn quốc, Bà Rịa-Vũng Tàu là tỉnh có tổng sản phẩm
xã hội GDP khá cao và tăng trưởng liên tục trong suốt 10 năm qua. GDP bình quân
hàng năm tăng 15,4%-sau 5 năm tăng gần 2 lần. Thu nhập bình quân đầu người cao
và ổn định: năm 1993 là 2.611,8 USD; năm 1995 là 1.482 USD; năm 2000 là 3.522
USD; 2001 là 3.185 USD; năm 2002 tiếp tục duy trì sự tăng trưởng, đạt 57,68 triệu
đồng (tương đương 3700USD). GDP bình quân đầu người năm 2000 so với năm 1992
tăng 2,6 lần (không tính dầu khí tăng 4,2 lần); so với cả nước tăng gần 7,4 lần. Bà
Rịa-Vũng Tàu là tỉnh đóng góp ngân sách lớn trong vùng trọng điểm kinh tế phía
Nam.
Trong quá khứ, Bà Rịa-Vũng Tàu giữ vị thế quan trọng đối với miền Đông Nam Bộ về
kinh tế, lịch sử và văn hóa. Trong hiện tại và tương lai, Bà Rịa-Vũng Tàu có tiềm
năng lớn về phát triển kinh tế, về du lịch sinh thái và du lịch nhân văn. Bà Rịa-Vũng
Tàu là địa chỉ hấp dẫn, tin cậy đối với khách du lịch trong và ngoài nước. Bà Rịa-
Vũng Tàu là vùng đất giàu tiềm năng và nhiều hứa hẹn đối với các nhà đầu tư. Nhân
dân Bà Rịa-Vũng Tàu hiếu khách, rộng mở chào đón doanh nhân và du khách đến với
Bà Rịa-Vũng Tàu.
Các lễ hội của tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu chủ yếu liên quan đến các hoạt động tôn giáo,
tín ngưỡng như: Lễ hội Dinh Cô (Long Hải) diễn ra từ ngày 10 đến 12/2 Âm lịch hàng
năm, lễ Trùng Cửu 9/9 Âm lịch (Long Sơn), lễ cầu Ngư (rước cá Ông) được tổ chức ở

Lăng Cá Ông, đình Thắng Tam (Vũng Tàu) vào ngày 16/8 âm lịch hàng năm lễ hội
Miếu Bà diễn ra các ngày 16,17,18 tháng 10 âm lịch. Ðây là những ngày hội thu hút
rất nhiều du khách từ các tỉnh Miền Ðông Nam Bộ và các tỉnh lân cận như Tp.Hồ Chí
Minh, Tâaây Ninh, Bình Thuận, Bình Dương, Bình Phước về dự hội lễ và kết hợp du
lịch tắm biển, nghỉ dưỡng.
Hệ thống dịch vụ ăn, nghỉ phù hợp nhất từ dịch vụ cao cấp cho đến các dịch vụ bình
dân với 72 khách sạn, 40 biệt thự với gần 3000 phòng nghỉ, trong đó có gần 1.300
phòng đạt tiêu chuẩn đón khách quốc tế. Đặc biệt vào các tối thứ 7 hàng tuần du
khách sẽ được xem đua chó tại sân vận động Lam Sơn (Vũng Tàu)
Một số công trình du lịch đã và sắp đầu tư: Cải tạo một số đoạn bãi tắm Thùy Vân,
dự án cáo treo du lịch Núi Lớn – Núi Nhỏ, dự án tháp truyền hình trên Núi Lớn, dự án
câu cá – du thuyền tham quan – thuê xe du lịch, khu xem biểu diễn cá heo, đua
thuyền bãi trước.
Các dự án kêu gọi đầu tư: Phát triển khu vui chơi giải trí ở trên bờ, dưới nước, trên
núi, dưới biển, các khu du lịch sinh thái; đầu tư, nâng cấp môi trường các bãi tắm
biển, các khu di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh. Trước mắt tỉnh kêu gọi đầu tư vào
một số dự án sau đây:
- Góp vốn cùng đầu tư dự án cáp treo Núi Lớn – Núi Nhỏ
- Đầu tư khu du lịch sinh thái Hồ Cốc (Xuyên Mộc)
- Đầu tư một số khu vui chơi, giải trí trên Núi Lớn, Núi Nhỏ, Núi Dinh, Núi Minh Đạm
- Đầu tư khu du lịch và biệt thự vườn Bến Cát – Hồ Tràm (Xuyên Mộc)
- Đầu tư khu du lịch sinh thái tại Côn Đảo.
TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
Bà Rịa – Vũng Tàu có một vị trí thuận lợi cho việc phát triển du lịch, là nơi có nguồn
tài nguyên du lịch và khả năng đáp ứng du lịch cao, được đánh giá là một trong
những điểm du lịch trọng tâm của đất nước. Đến nơi đây, du khách được tắm biển
thoải mái với nhiều bãi tắm khác nhau, bãi nào cũng đẹp, cũng phẳng, nắng ấm,
nước trong xanh quanh năm, có những bãi tắm uốn lượn theo những ngọn núi với
những rừng cây xanh, cây cảnh và hoa, có những bãi tắm chạy dọc theo các khu
rừng nguyên sinh thiên nhiên hầu như còn nguyên vẹn rất phù hợp cho loại hình du

lịch sinh thái. Tại thành phố Vũng Tàu có bãi tắm Thùy Vân, Chí Linh, Bãi Dứa, Bãi
Dâu, Bãi Trước. Tại Long Hải có bãi tắm Thùy Dương; tại Xuyên Mộc có bãi tắm Hồ
Tràm, Hồ Cốc; ra Côn Đảo có bãi tắm Đất Dốc, Bãi Cạnh, Bãi Đầm Trầu, Bãi Hòn
Cau, Bãi Hòn Tre
Đến tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, không chỉ có tắm biển, du khách có thể du lịch leo núi
như: Núi Lớn, Núi Nhỏ, tham quan Hải Đăng có bề dày lịch sử hàng trăm năm nay,
tượng Chúa giang tay, khu di tích Bạch Dinh. Nếu cần tăng cường sức khỏe, nghỉ
ngơi, chữa bệnh, thư giãn sau khi tắm biển xong, du khách có thể đến Suối nước
nóng Bình Châu (Xuyên Mộc) và thăm khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu – Phước
Bửu rộng gần 12.000ha. Chưa có nơi nào ở Việt Nam như nơi đây, suối nước nóng
bắt nguồn và chảy uốn lượn giữa khu rừng nguyên sinh, chỗ nóng nhất đến 820C,
chỗ bình thường từ 40 – 500C, dòng nước bốc hơi tạo thành vùng sương khói quyện
lẫn với cây cỏ mở ảo của khu rừng nguyên sinh gợi lên cho du khách cảm giác đang
đi dạo trong cõi tiên. Đến đây bạn có thể ngâm chân, tắm trong các bồn nước nóng,
luộc trừng gà hoặc đi dạo trong rừng để tìm cảm giác thư thái, thật là một loại
hình du lịch an dưỡng, chữa bệnh, sinh thái không thể thiếu được.
Bà Rịa - Vũng Tàu còn có rất nhiều danh lam thắng cảnh và các di lích lịch sử, là nơi
hấp dẫn các du khách đến tham quan, chiêm ngưỡng Thành phố Vũng Tàu có ngọn
Hải Đăng, tượng Chúa Kitô, Niết Bàn Tịnh Xá trên núi Tao Phùng cao 170 thước (còn
gọi là núi Nhỏ), Thích Ca Phật Đài trên núi Tương Kỳ cao 249 thước (còn gọi là núi
Lớn), Nhà Lớn Long Sơn, Đình Thắng Tam Thị xã Bà Rịa có Địa đạo Long Phước,
Nhà tròn lịch sử. Huyện Long Đất có khu căn cứ cách mạng Minh Đạm, đình cổ Long
Phượng, chùa Long Bàn có từ đầu thế kỷ 19. Huyện Tân Thành có thắng cảnh Suối
Tiên. Huyện Châu Đức có khu du lịch Bàu Sen. Huyện Xuyên Mộc có thắng cảnh Hồ
Tràm, Hồ Cốc, có khu rừng nguyên sinh Bình Châu – Phước Bửu. Đặc biệt huyện Côn
Đảo với 14 hòn đảo lớn nhỏ vừa là khu du lịch sinh thái biển, với Vườn quốc gia Côn
Đảo rộng gần 6.000ha chưa kể vùng đệm dưới nước với nhiều loại cây và thú quý
hiếm hấp dẫn du khách, đồng thời là nơi có di tích lịch sử lớn nhất cả nước với hệ
thống nhà tù, trại giam do Pháp, Mỹ để lại.
Giao Thông Vận Tải

a. Đường bộ
Tổng chiều dài hệ thống giao thông đường bộ trên địa bàn Tỉnh khoảng 1660 km,
trong đó quốc lộ 131,6 km, tỉnh lộ 146,4 km, đường huyện thị 1382 km. Nếu phân
loại theo kết cấu mặt đường có : 494 km đường nhựa (chiếm 29,8%), 663 đường đá
(chiếm 33,9%), 503,4 km đường đất (chiếm 30,3%); mật độ giao thông của Tỉnh đạt
khoảng 0,82 km đường/1 km2.
b. Đường thủy
Giao thông đường thủy của Tỉnh rất thuận lợi, có nhiều tiềm năng lớn để phát triển.
Trên địa bànTỉnh có hơn 20 sông rạch với chiều dài khoảng 200 km, trong đó có 17
sông rạch với chiều dài 167 km có thể khai thác vận tải thủy, có một số sông và một
số vùng bờ biển của Tỉnh rất thích hợp cho việc phát triển cảng sông, cảng biển
như ; sông Thị Vải, sông Dinh, vùng biển Sao Mai - Bến Đình, Phước Tỉnh, Lộc An,
Bến Đầm Côn Đảo, Long Sơn.
c. Đường hàng không
Có 2 sân bay dùng cho máy bay trực thăng lên xuống phục vụ cho việc thăm dò,
khai thác dầu khí,vận chuyển hành khách từ Vũng Tàu đi Côn Đảo, thành phố Hồ Chí
Minh ngược lại.
Sân bay Vũng Tàu với đường băng dài 1.800m
Sân bay Cỏ Ống (Côn Đảo) với đường băng dài 1.200 m
Những Định hướng Phát triển Ngành Du Lịch 2008 -2010
1. Hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng cơ bản cho ngành du lịch bằng nguồn vốn ngân sách
Nhà nước, phấn đấu đạt tốc độ tăng doanh thu bình quân 10,9 - 12%/năm.
2. Từ bước xây dựng 10 khu du lịch trọng điểm trong đó có 2 khu du lịch quốc gia:
Khu du lịch Hoa Anh Đào, Khu Du lịch sinh thái và di tích lịch sử Côn Đảo.
3. Hoàn chỉnh qui hoạch du lịch trên toàn tỉnh theo 5 cụm du lịch trọng điểm: Thành
phố Vũng Tàu và vùng lân cận; Long Hải - Phước Hải; Núi Dinh; Bình Châu - Hồ
Tràm - Hồ Cốc và Côn Đảo.
4. Phát triển các loại hình du lịch, tập trung vào ba loại chủ: Du lịch sinh thái - cảnh
quan; Du lịch nghỉ dưỡng cuối tuần; Du lịch văn hoá kết hợp thể thao.
5. Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về du lịch trong các công trình đầu tư, qui

hoạch.
6. Xây dựng đội ngũ đội ngũ cán bộ và nhân viên làm du lịch có trình độ và kỹ năng
nghiệp vụ.
7. Duy trì môi trường tự nhiên và xã hội, chú trọng tôn tạo, bảo vệ, sử dụng hợp lý
các nguồn tài nguyên.
8. Đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá du lịch, kế hoạch hoá các hoạt động xúc tiến
đầu tư du lịch.
Truyền Thuyết Về Bà Rịa
Theo Trịnh Hoài Đức ,một học giả hàng đầu nghiên cứu về lục tỉnh Nam Kì thì địa
danh Bà Rịa bắt nguồn từ tên của vương quốc Bà Lỵ ,Bà Lịa ,Bà Lợi xưa .Ông cho
rằng Bà Rịa tức là nước Bà Lợi thuở xưa tồn tại khoảng trước thế kỷ thứ 7 ,sau khi
quân Chân Lạp thôn tính tên nước này đã được thư tịch cũ của đời đường ghi lại.
Truyền thuyết thứ nhất: có một truyền thuyết khác của nhân dân trong vùng giải
thích nguồn gốc địa danh Bà Rịa là để tưởng nhớ công đức của bà Nguyễn Thị Rịa. Bà
Rịa người gốc Phú Yên theo gia đình vào Nam tìm đất sinh sống từ năm 1680 tại làng
Mỹ Khê huyện Long Đất .Bà Rịa cùng nhân dân khai phá rừng lập ruộng vườn, xây
dựng xóm làng. Năm 1698 ,Trưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý đất phía Nam
,khi quân đổ bộ lên nơi đây bị một trận lũ lớn các cấu đều bị trôi ,đường đi lại bị hư
hỏng . Bà Rịa đã vận động nhân dân trong vùng tu sửa đường xá ,bắt lại các cây cầu
để đưa quân Chúa Nguyễn qua sông . Cảm kích về công trạng này ,Chúa Nguyễn đã
ra sắc phong cho Bà Rịa “Hàm Nghè” danh dự và cho Bà được mang họ Chúa Nguyễn
. Năm 1759 Bà Rịa qua đời vì không có con cái nên tất cả của Bà đều chia cho dân
nghèo .Dân làng đã nhớ ơn đã góp công sức lập miếu Bà bên đường nay thuộc địa
phận Tam Phước huyện Long Đất.
Truyền thuyết thứ hai: theo tác giảa người Pháp trong “Monographie de Baria” viết
năm 1902 cho rằng địa danh Bà Rịa xuất phát từ tên người đàn bà là Nguyễn Thị
Rịa ,đã khai phá đất hoang lập làng Phước Liêu vào năm 1789 tức là khoảng thế kỷ
18 .Nhưng có lẽ cách giải thích địa danh Bà Rịa xuất phát từ tên người đàn bà
Nguyễn Thị Rịa được nhiều người đồng tình nhất .
Theo phó tiến sĩ sử học Đinh Văn Hạnh đã dẫn tài liệu của nhà khảo cổ người Pháp

(Ông Mallaret ) cho rằng địa danh Bà Rịa bắt nguồn từ tên gọi Khơme của một cái
bàu ở Long Điền là Bà Rày hay Bà Ray ,chuyển sang âm Việt đọc chệch đi thành Bà
Rịa.
Tóm lại Bà Rịa vốn là tên đất (Bà Rày ,Bà Ray) tên một vương quốc (Bà Lỵ ,Bà Lịa
,Bà Lợi) ,và rất có thể trùng tên với một người có công xuất hiện sau này là Bà
Nguyễn Thị Rịa .Tuy những truyền thuyết này có thể đúng cũng có thể sai nhưng vẫn
là những truyền thuyết đẹp được nhân dân Bà Rịa Vũng Tàu nói chung và thị xã Bà
Rịa nói riêng lưu truyền cho các thế hệ sau này.
__________________
Di Tích Danh Thắng Niết Bàn Tịnh Xá
Niết Bàn Tịnh Xá nằm ở trung điểm Bãi Dứa, tọa lạc trên triền núi, hướng mặt ra
biển. Ở vào vị trí nên thơ đó, Niết Bàn Tịnh Xá có sức hấp dẫn lớn đối với du khách.
Niết Bàn Tịnh Xá được khởi công xây dựng năm 1969, năm năm sau (1974) mới
hoàn thành. Đây là một công trình đồ sộ gồm nhiều phần, nhiều cấp, toạ lạc trên
diện tích gần 10.000cm2.
Lối lên Niết Bàn Tịnh Xá rộng rãi, dọc theo triền dốc. Cổng chính nổi bật với bốn chữ
Hán : Niết Bàn Tịnh Xá. Hai trụ cổng được khắc đôi câu đối đầy ý nghĩa :
Niết Bàn Thị Hiện, độ chúng niệm phật tâm thông, chân giải thoát.
Tịnh Xá quang minh, vô lậu giác ngộ chánh pháp, hiến như lai.
Phía trong là hai pho tượng ông Thiện và ông Ác cao lớn đứng trông cửa. Bên phải
cổng có một bức phù điêu, rộng 2m, cao 4m chạm hình long mã, đầu rồng, chân
ngựa bước trên sóng nước, phía trên hạc bay múa trong mây. Phù điêu thực hiện
bằng kỹ thuật ốp mãnh sứ men trắng vẽ lam, một kỹ thuật khá thịnh hành ở các
chùa miếu, lăng tẩm Việt Nam cuối thế XIX đầu thế kỷ XX. Sắc hoa văn mảnh sứ tạo
nên sự rực rỡ, trang nhã và sống động cho bức phù điêu. Đối diện với bức phù điêu
và phía trước chính điện Niết Bàn Tịnh Xá là trụ phướn thanh thoát, cao vút 21m,
gồm 42 não. Trụ phướn được đúc bê tông, dưới to, trên nhỏ dần, xung quanh ốp
gạch men màu vàng đỏ, trên có ba nhánh búp sen toả đều ra ba hướng là một nét
độc đáo của Niết Bàn Tịnh Xá…
Đường lên chính diện Niết Bàn Tịnh Xá là hệ thống 37 bậc tam cấp có lối rộng chừng

2m. Bên phải chính diện, ngay lối lên là hòn non bộ và lầu trống có Phật Di Lặc ngồi
trên cao. Chính giữa là tượng hộ pháp Di Đà. Chiếc lư đồng Tứ Linh (Long, Lân, Quy,
Phụng) của Niết Bàn Tịnh Xá có kích thước lớn, được trang trí khéo léo, công phu là
báu vật của Chùa. Chính điện Niết Bàn thể hiện một bức tường Phật nhập Niết Bàn
rất lớn – có lẽ vì vậy mà ngôi chùa có danh xưng Niết Bàn Tịnh Xá ? Tượng Phật
nhập Niết Bàn, màu nâu hồng tạo khắc đánh bóng công phu, khéo léo nằm nghiêng
nhìn về hướng Tây, đầu gối lên tay phải, dài 12m nổi bật giữa chính diện. Vị thế của
bức tượng, đầu quay về hướng bắc, chân duỗi thẳng hướng nam, theo truyền thuyết
là tư thế của Đức Phật khi nhập Niết Bàn trên tảng đá tại Kusinara, lòng bàn chân
Phật được khắc 52 điểm ấn.
Bức tượng Phật nhập Niết Bàn càng trở nên sinh động, cuốn hút vì được đặt trong
không gian có nhiều công trình Phật giáo mang tính nghệ thuật cao : Phía trên đầu
và sau lưng Đức Phật Nhập Niết Bàn là quang cảnh thiên nhiên xanh tươi nổi bật với
hai cây Long Thọ đắp nổi nhiều lớp. Những con sông, con hạc danh rộng cánh ẩn
hiện trong mây. Những con sư tử, con hổ, con khỉ phủ phục chầu Đức Phật viên tịnh
nhập Niết Bàn… Tất cả đều được đắp nổi, chạm khắc công phu với màu sắc hài hoà,
thanh khiết tạo nên khung cảnh vừa trang nghiêm vừa sâu lắng chốn cửa Phật…
Trên bức tường bên phải chính điện treo một bức tranh sơm mài lớn thể hiện cảnh
Phật ngồi thiên. Bên cạnh là một bức tranh khác thể hiện vườn Lộc dã, nơi Phật Thích
Ca thuyết pháp lần đầu tiên…
Nhìn chung, chính diện Niết Bàn Tịnh Xá không lớn, ngoài những pháp khí nhà chùa,
chính diện bài trí nhiều tích Phật, trong đó nổi bật là tượng Đức Phật nhập Niết Bàn,
một tác phẩm điêu khắc lớn, niềm tự hào của tăng ni, tu sĩ Phật giáo Vũng Tàu.
Phía sau chính điện là “Trai Đường” của Chư Tăng. Trong phòng có treo 34 bức ảnh
diễn tả lại cuộc đời Đức Phật, từ khi sinh ra đến khi các đệ tử chia nhau Xá lợi. Trong
phòng còn bài trí nhiều tranh tượng khác, như tranh Di Lặc Lục Trần … kết thúc bằng
lối đi tam cấp dẫn lên tầng trên. Dựa vào thế núi, Niết Bàn Tịnh Xá toạ lạc trên nhiều
độ cao khác nhau. Phía trên và sau chính điện thờ Phật Tổ. Điện thời Phật Tổ bài trí
ba bức tượng Phật Thích Ca ngồi thiền rất lớn, theo thế đối xứng. Ba bức tượng được
sơn sơn thếp vàng, hoà trong ánh nắng tự nhiên sáng lên màu sắc rực rỡ toàn khu

diện. Trên đường bên phải điện là tranh Đức Phật ngồi dưới tán cây Bồ Đề với các nữ
thí chủ tới cúng dường vào giờ Ngọ. Gần đó là hai tượng Quan Thế Am Bồ Tát và
tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát. Bên trái điện là tranh thuyền chở ba vị thánh với dòng
chữ Hán : “Tây Phương tiếp dân Tam Thánh hoá hải thoàn” gần đó và đối xứng với
tượng Quan Thế Am bên phải là tượng Tổ sư Đạt Ma và tranh của Ngài. Tại phía này
có lối dẫn lên tầng trên. Gọi là tầng trên nhưng kỳ thực đây là độ cao lùi vào phía
sau của núi được tận dụng làm mặt bằng chứ không phải là lầu nhà.
Do đó, đây là một mặt bằng rộng, thoáng đạt, gió mát, du khách có thể dõi tầm mắt
ra xa phía biển khơi, hoặc dễ dàng quan sát ngắm cảnh bờ biển Bãi Dứa.
Khoảng sân thật sự là nơi văn cảnh của du khách. Ở đây người ta bày trí rất nhiều
bon sai, hoa cảnh. Thấp thoáng phía sau những chậu cảnh mỹ thuật là thuyền Bát
Nhã, một con đường rồng lớn cách điệu dày công trang trí và rất đẹp. Xung quan
thuyền được ốp mảnh sứ men lam, men màu. Trong thuyền chứa nước nuôi cá chép.
Với ý nghĩa “thuyền Phật độ chúng sinh qua giác nạn” (giúp chúng sinh tới bến bờ
hiểu biết). Thuyền Bát Nhã tượng trưng cho trí tuệ Phật Giáo.
Phía sau Bát Nhã là diện thờ Phật, mặt quay ra biển, chính diện rộng rãi dùng để
dựng lại cánh rừng phổ đà, nơi Hoàng Tử siddharta bắt đầu khoác chiếc áo vàng của
tu sĩ, bước vào cuộc đời tu hành khổ hạnh khi mới 29 tuổi. Cảnh cánh rừng phổ đà
được thể hiện công phu đến từng chi tiết, là một bức tranh nghệ thuật giàu tính hiện
thực. Hai bên phía ngoài có nhiều tượng voi, ngựa rất sống động. Chính giữa là tượng
Quan Thế Âm Bồ Tát cao 3m, Gần đó có tượng Quan Thế Âm Bồ Tát thứ hai được thể
hiện ở tư thế ngồi, bên cạnh có tượng Hồng Hài Nhi đứng trên toà sen. Bên trái có
Long Nữ đứng hầu, phía trên là cảnh hạc ngân tràng đang bay tới, bên phải có tượng
thần Dạ Lan với hai đệ tử đứng hầu hai bên. Cạnh đó là tượng Địa Tạng Vương cưỡi
kỳ lân. Cách bài trí điện thờ nổi bật với sự đối xứng mà ở đó không ràng buộc sự
tương đồng trong các điển tích Phật Giáo. Chính vì vậy, đối với du khách thưởng
ngoạn thuần tuý sẽ luôn luôn được hấp dẫn vì sự đa dạng, phong phú, không đơn
điệu như một số chùa chiền khác.
Nổi bật trên mặt bằng trang trí nhiều hoa cảnh của sân thuyền Bát Nhã là gác
chuông lớn nối liền với dãy nhà tĩnh nghỉ các tu sĩ. Gác chuông được xây theo hình

vuông. 4 mái uốn cong, đầu các đao đều đắp nổi tượng đồng, trong tháp có một cái
chuông lớn gọi là Đại Hồng Chung. Đại Hồng Chung được đúc bằng đồng, cao 2,8m,
chu vi 3,8m, nặng tới 3500 kg. Đại Hồng Chung không những là chiếc chuông lớn
nhất và nặng nhất mà còn có âm vang hay nhất trong các chuông chùa hiện có ở
Vũng Tàu. Muốn thỉnh chuông phải lao một thanh gỗ dài treo lơ lửng vào vú chuông,
âm thanh ngân dài và vang xa gieo một cảm giác lâng lâng khó tả khơi gợi sự đầm
ấm và niềm tin về những điều tốt đẹp của cuộc sống.
Từ gác chuông, tòan cảnh Niết Bàn như hiện ra trước mặt du khách. Đó là một công
trình kiến trúc hài hòa giữa thiên nhiên và biển trời, câyxanh và tiếng chuông ngân
tha thiết.
Hằng năm, vào dịp các lễ tết, chủ nhật hay ngày rằm, ngày đầu tháng, có hàng vạn
lượt khách đến Niết Bàn Tịnh Xá chiêm bái, văn cảnh. Với một phong cách kiến trúc
đặc biệt tọa lạc ở một vị trí tươi đẹp của Bãi Dứa, Niết Bàn Tịnh Xá được rất nhiều
người ở mọi miền đất nước mến mộ và ước mong được một lần văn cảnh, chiêm bái.
Di tích lịch sử - kiến trúc nghệ thuật Bạch Dinh
Bạch Dinh – một phác thảo của kiến trúc “Rô – măng cận đại”, một bức tranh hoành
tráng tọa lạc bên bờ biển, một di tích lịch sử và danh thắng nổi tiếng của Vũng Tàu.
Bạch Dinh nằm phía nam núi lớn, trên pháo đài Phước Thắng cổ xưa của triều
Nguyễn, cao 27,7m so với mục nước biển, cách bờ chỉ hơn 50m, Từ thế đứng trên
tiền sảnh nhìn xuống, ta cảm giác như ở tầng lầu của một cao ốc xây dựng trên mặt
nước biển, có thể dõi tầm mắt ra bao quatt cả trung tâm Vũng Tàu. Và biển vào
những ngày nắng đẹp, nhìn đến mút mắt vẫn không phân biệt được ranh giới trời và
nước. Trời – nước hoà trong một màu xanh ngát.
Đường Trần Phú, ranh giới của Núi Lớn và bờ biển phía Tây, nối liền Bãi trước với Bãi
Dâu. Đến mũi Hòn Ngưu có hai lối lên Bạch Dinh. Một đường chạy uốn quanh dưới
rừng tếch cao niên, dành cho xe hơi lên đến tiền sảnh. Một đường tam cấp cổ xưa,
xây dựng cùng thời với ngôi nhà, một trăm bốn mươi sáu bậc, kín đáo dưới vườn sứ
ngũ sắc thơm ngát – Vườn sứ Bạch Dinh vào loại lớn nhất và cao niên nhất trong
làng bông sứ Vũng Tàu.
Bạch Dinh cao 19 mét, có ba tầng. Tầng hầm dùng cho việc nấu nướng và hệ thống

khí chứa. Tầng trệt dùng làm khánh tiết. Tại đây còn bài trí những hiện vật cổ xưa
thuộc trang trí nội thất ngôi nhà, như song bình “Bách điểu châu phụng” (Sứ men
trắng vẽ lam, thể hiện 100 con chim các loại với nhiều tu thế), bình cao 135cm, được
làm vào cuối đời nhà Thanh, Trung Quốc, Bộ tràng kỷ Hoàng Gia ghi niên đại “Khải
Định Tân Dậu” (1921) : cặp ngà ngoi Châu Phi dài 170cm, nặng 43 kg, Bộ “Tam Đa”
ngũ thái “Phước – Lộc – Thọ” thanh thoát, sắc sảo đặt trên án thư …
Tầng lầu khoáng đạt dành cho việc nghỉ ngơi…
Dạo quanh Bạch Dinh, du khách không khỏi ngạc nhiên về tám bức tượng đá bán
thân gắn trên một đường thẳng bao quanh ba mặt tường chính của ngôi nhà. Có lẽ
đây là các bức tượng của ngôi nhà. Có lẽ đây là các bức tượng chân dung về những
danh nhân trong lịch sử. Hầu hết tượng đều mang phong cách của nghệ thuật Hy –
La cổ đại. Buổi sáng lúc mặt trời lên, hoặc khi trời chiều xế bóng, những đường viên
trang trí ốp phản quang sắc vàng sáng lên lấp lánh sau những bức tượng là ký họa
chân dung đối xứng trên nền chim công và sóng nước tráng lệ thật hấp dẫn và kỳ
diệu …
Trong một bài báo của người Pháp năm 1902 đã viết về Bạch Dinh ở Vũng Tàu như
sau : “Ở Chân ngọn núi phía bắc. Biệt thự của toàn quyền Đông Dương được xây
dựng trên độ cao hơn 20 mét mà xưa kia là một lực lượng An Nam bảo vệ, toạ lạc
giữa ghềnh biển và nổi bật trắng toát lên nền tối sẫm của khu rừng. Trên sườn núi
toàn là cây cối bao quanh, người ta chia cắt thành những lối đi từ khu vườn mà
nhánh đường cuối cùng mắt hút vào trong núi, trong khi mặt bằng ban đầu đã biến
thành những thảm cỏ xanh. Một dãy cầu thang mỹ thuật, từ trên vườn vịn xuống nối
liền dinh thự với ngôi nhà có dáng dấp nhí nhảnh là nơi đặt phòng làm việc của Toàn
quyền”. Được nói tới ấy có lẽ là văn phòng Bảo tàng Bà Rịa – Vũng Tàu hiện nay ? –
Đ.V.H).
Cho đến nay, người Vũng Tàu vẫn còn lưu giữ trong ký ức các tên gọi của Bạch Dinh
là Dinh ông Thượng, Biệt Thự Trắng, hoặc theo gốc Tây là Villa Blanche (ghi trên đá
cẩm thạch gắn ở cổng). Ngoài ra nó còn có tên Villa du Gouverneur (Dinh Toàn
quyền). Theo nhiều nguồn tài liệu, Bạch Dinh được khởi công xây dựng vào năm
1898 (cùng thời, với những kiến trúc tầm cỡ như Nhà hát lớn Hà Nội, Nhà thời Đức

Bà và Nhà hát lớn Sài Gòn). Như đoạn trích trên đã nói, Bạch Dinh được xây dựng
dùng làm nơi nghỉ ngơi cho Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer. Tên của biệt thự
Blanche – “Trắng”, là tên con gái yêu của ngài Toàn quyền. Để chuẩn bị cho một
Bạch Dinh – Vũng Tàu trở thành “đất cẩm”, trước đó Paul Doumer đã nhấn mạnh :
“Sự cần thiết nắm giữ Sài Gòn an toàn trong tầm tay buộc phải nâng cao việc phòng
thủ sơ yếu tại Vũng Tàu như một đôn canh hùng vĩ chắn trên cửa sông Sài Gòn, chỉ
huy từ xa biển và đồng bằng Nam Bộ. Bốn khẩu pháo lớn đã được thành lập… Chính
vì tổ chức sơ lược này mà Toàn quyền truyền lệnh bổ sung theo kế hoạch phải làm
cho Vũng Tàu trở thành một phòng luỹ vững mạnh nhất. Tất cả những chương trình
thực hiện ở Vũng Tàu đều vào năm 1897”. Rõ ràng, ngoài cái chung, Paul Doumer đã
lo riêng cho Bạch Dinh trước một bước.
Bạch Dinh không chỉ thoả mãn cho Paul Doumer mà các đời Toàn quyền Đông Dương
sau đó vẫn thích dùng Bạch Dinh sau đó vẫn thích dùng Bạch Dinh làm nơi nghỉ ngơi,
tĩnh dưỡng. Dưới thời Mỹ – Ngụy, Bạch Dinh cũng là nơi an nghỉ và hội họp của Tổng
thống và các tướng lĩnh Sài Gòn … Bạch Dinh còn là nơi an trí của Thái Thượng hoàng
Thành Thái, một nhà vua có tư tưởng yêu nước, chống lại ách đô hộ, bị thực hiện dân
Pháp phế truất vào tháng 9 – 1907. Sau khi đưa Nguyễn vĩnh San, con trai thứ 5 của
Vua Thành Thái lên ngôi (hiệu Duy Tân), thực dân Pháp đã đưa ông vào giam lỏng ở
Bạch Dinh một thời gian – cũng là một kiểu mị dân của thực dân Pháp. Có lẽ vì vậy
mà Bạch Dinh được nhân dân Vũng Tàu gọi là Dinh ông Thượng – dù Thái Thượng
Hoàng an trí ở đây không lâu.
Bạch Dinh – một thắng tích gắn liền với mảnh đất du lịch Vũng Tàu từ chối thế kỷ
XIX đến nay, đã chứng kiến biết bao thăng trầm của lịch sử quê hương. Với nét đẹp
kiểu diễm trước biển, nét đẹp của bàn tay khéo léo được làm ra từ mồ hôi, nước mắt
và cả máu của tù lao động khổ sai, Bạch Dinh xứng đáng với sự ngưỡng mộ và thừa
nhận của du khách – thắng tích nổi tiếng của đất du lịch Vũng Tàu.
Từ năm 1991, nhằm nâng cao hiệu quả, phát huy tác dụng di tích Bạch Dinh và giới
thiệu với đông đảo du khách đến Vũng Tàu, Bảo tàng tỉnh đã trưng bày các chuyên
đề cổ vật Hòn Ca ở tầng trệt, cổ vật Bà Rịa - Vũng Tàu ở tầng lầu và sưu tập súng cổ
tại sân vườn ngoài trời. Đây là những sưu tập cổ rất quý giá, có giá trị nhiều mặt,

được đông đảo du khách trong và ngoài nước quan tâm.
Hiện nay, mỗi năm Bạch Dinh đón hàng trăm ngàn lượt khách tham quan du lịch,
gần 1/5 trong số đó là khách nước ngoài. Đến Bạch Dinh, du khách được thực sự
thoải mái vì vẻ đẹp kiều diễm hoà lẫn trong thiên nhiên cây cỏ trong lành, tươi mát
và được tận mắt thưởng ngoại những cổ vật tiêu biểu, quý hiếm …
Di Tích Danh Thắng Thích Ca Phật Đài
Danh thắng Thích Ca Phật Đài nằm trên đường Trần Phú ,con đường vòng quanh ôm
nuí lớn ,khu Bến Đá và Bến Đình. Danh thắng Thích Ca Phật Đài gắn liền với vẽ đep5
của Bến Đá và cảnh quan thiên nhiên hướng Đông Bắc Núi Lớn .Nếu Bến Đá là bến
cá sần uất ,nhộn nhịp thì Thích Ca Phật Đài trái lại ,lại là nơi tịch liêu ,đượm vẻ
huyền dịu của chốn thiên thai.
Thích Ca Phật Đài là thắng tích nổi tiếng nhất trong những thắng tích nổi tiếng của
đất thắng cảnh Vũng Tàu .Hằng năm ,Thích Ca Phật Đài đón chào hàng vạn người từ
khắp nơi hành hương vãn cảnh ,thả mình trong không gian bồng lai tiên cảnh nơi
trấn thế.
Vùng núi Thích Ca Phật Đài trước đây cây cối tươi tốt ,không có người sinh sống.
Khoảng năm 1957 ,ông Quang Vinh ,một công chức thời Pháp tu hành gọi là Thiền
Lâm Tự .Năm 1962, Giáo Hội Phật giáo nhận thấy Thiền Lâm Tự tọa lạc ở một vị trí
có khung cảnh thiên nhiên đẹp đẽ ,là vùng đất địa tụ khí thiêng ,lại thuận tiện giao
thông đi lại cho chư tăng ,Phật tử hành hương nên đã lập đồ án xây dựng qui mô

×