Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Luận văn đề tài khoa cử trong thơ cao bá quát và trần tế xương từ góc nhìn so sánh (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.26 KB, 24 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Về khoa học
Chế độ khoa cử Việt Nam gắn liền với sự phát triển của lịch sử dân
tộc trong hơn một nghìn năm qua. Khoa cử có vai trị rất quan trọng đối
với vận mệnh của đất nước. Con đường tiến thân của kẻ sĩ trong nền
giáo dục Hán học khơng ngồi con đường dùi mài kinh sử, lều chõng đi
thi để mong có ngày vinh quy bái tổ, làm rạng danh gia đình, dịng họ.
Chính vì vậy, viết về khoa cử là một trong những đề tài khá phổ biến
trong thơ của nhiều tác giả thời trung đại.
Trong thơ Cao Bá Quát và thơ Trần Tế Xương, đề tài khoa cử là một
đề tài lớn, nổi bật. Viết về khoa cử, giữa Cao Bá Quát và Trần Tế
Xương có những điểm tương đồng và những điểm khác biệt. Tìm hiểu
đề tài này ở hai tác giả sẽ rút ra được nhiều vấn đề có ý nghĩa về xã hội
đương thời cũng như về về tính cách, về con người, con đường cơng
danh, phong cách nghệ thuật… của Cao Bá Quát và Trần Tế Xương.
Đồng thời đề tài giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn về con đường
khoa cử của xã hội Việt Nam thế kỉ XIX
1.2. Về thực tiễn
Cao Bá Quát và Trần Tế Xương là hai tác giả lớn được đưa vào giảng
dạy thành chương riêng trong chương trình Ngữ văn ở các trường đại
học và cao đẳng. Trong chương trình Ngữ văn trung học phổ thơng, có
những bài thơ viết về khoa cử hoặc liên quan tới khoa cử cũng được đưa
vào giảng dạy.
Đề tài được nghiên cứu thành cơng sẽ góp phần vào việc nâng cao
chất lượng giảng dạy và học tập thơ Cao Bá Quát và Trần Tế Xương cho
học sinh trung học phổ và có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên
các trường đại học và cao đẳng có giảng dạy chương trình Ngữ văn.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu


2.1. Lịch sử nghiên cứu về đề tài khoa cử trong thơ Cao Bá Quát
Cao Bá Quát là nhà Nho có nhân cách lớn vừa là một nhà thơ nổi
tiếng đầu thế kỷ XIX, với một sự nghiệp thơ văn đồ sộ. Chính vì lẽ đó,
ơng và những sáng tác của ơng đã được nhiều học giả quan tâm sưu tầm,
dịch thuật và nghiên cứu. Trong những bài viết, cơng trình nghiên cứu
ấy, có nhiều bài viết đề cập đến việc nghiên cứu con đường khoa cử của
Cao Bá Quát. Có thể kể đến một số bài viết tiêu biểu như sau:


2
Cao Bá Quát của tác giả Nguyễn Lộc; Góp thêm tài liệu về năm sinh
và chỗ ở của Cao Bá Quát của tác giả Tảo Trang; Vấn đề văn bản tác
phẩm Cao Bá Quát từ quyển Thi văn bình chú của Ứng Hòe Nguyễn
Văn Tố; Cuộc đời và bước đường phát triển tư tưởng của Cao Bá Quát
của tác giả Nguyễn Tài Thư; bài viết Sứ thần Việt Nam Cao Bá Quát và
nhận thức của ông qua chuyến đi công cán “vùng Hạ Châu” của tác giả
Claudine Salmon và Tạ Trọng Hiệp in trong Cao Bá Quát tác gia và tác
phẩm; Nguyễn Đổng Chi với Cao Bá Quát trên văn đàn thế kỷ XIX; Cao
Bá Quát - những khoảng đời và thơ, tác giả Trương Chính; Nhà nghiên
cứu văn học Việt Nam người Nga N.I.Niculin có bài viết Cao Bá Quát dấu nối của hai giai đoạn văn học, in trong Cao Bá Quát về tác gia và
tác phẩm; Quan điểm sáng tác và nghệ thuật thơ ca Cao Bá Quát, của
tác giả Nguyễn Tài Thư; Cao Bá Quát in trong Cao Bá Quát về tác gia
và tác phẩm, Cao Bá Quát cuộc đời và thơ văn của tác giả Nguyễn Lộc
Nhìn chung, các bài viết đều tập trung lý giải nguyên nhân của việc
ông không thành công trên con đường khoa hoạn. Trong đó có nguyên
nhân chủ quan bởi Cao Bá Quát là một người tài năng hơn người, ông
lại có tư tưởng canh tân, vượt qua nhận thức của thời đại ông.
2.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề về đề tài khoa cử trong thơ Trần
Tế Xương
Cơng trình nghiên cứu về Trần Tế Xương, cho đến nay có thể nói là

rất phong phú. Từ những bài viết mang tính cảm nhận của các nhà thơ,
nhà văn đến các cơng trình nghiên cứu chun sâu, đều thể hiện sự thán
phục về một tài năng thơ trào phúng có một không hai trong lịch sử văn
học Việt Nam như Trần Tế Xương. Có thể kể đến những cơng trình
nghiên cứu như sau:
Bài viết Một thế kỷ tiếp nhận thơ Tú Xương của tác giả Nguyễn Hữu;
Nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại có bài nghiên cứu Trơng dịng sơng Vị;
Nhà văn Nguyễn Tuân có bài viết Thời và thơ Tú Xương; Nhà nghiên
cứu Đỗ Đức Hiểu có bài viết Thơ văn Tú Xương; Tính chất và giá trị
văn thơ trào phúng của Tú Xương in trong Trần Tế Xương về tác gia
và tác phẩm; Nhà thơ Tú Mỡ có bài viết Tính chất trào lộng trong thơ
Tú Xương; Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hồn có bài viết Nhà thơ
Trần Tế Xương; Tác giả Trần Lê Văn có bài viết Nhà thơ lớn trên bến
Vị Hoàng xưa,…
Qua khảo sát trên bốn mươi bài viết của các tác giả tập hợp trong
Trần Tế Xương về tác gia và tác phẩm và những bài viết khác đăng trên


3
các tạp chí chun ngành, chúng tơi cho rằng đề tài khoa cử trong sáng
tác của Trần Tế Xương đã được rất nhiều học giả quan tâm nghiên cứu.
Phần lớn các bài viết có đề cập đến q trình học tập và thi cử của Trần
Tế Xương. Trong đó có nhiều bài viết đi sâu phân tích giá trị nội dung
đề tài khoa cử trong sáng tác của Trần Tế Xương và khẳng định ơng là
một nhà thơ có chỗ đứng riêng trong làng thơ Việt Nam nói chung, và
được xem là đỉnh cao của nghệ thuật trào phúng Việt Nam nói riêng.
2.3. Kết luận chung về lịch sử vấn đề nghiên cứu
Có thể nói, các bài viết dù ít nhiều có đề cập tới những bài thơ viết về
đề tài khoa cử của Cao Bá Quát và Trần Tế Xương nhưng mới dừng lại
ở cái nhìn cụ thể, riêng biệt. Hầu như chưa có cơng trình nghiên cứu

nào quan tâm một cách đầy đủ dưới góc độ so sánh giữa hai tác giả
trên cùng một đề tài. Từ những tài liệu đã có, chúng tơi lựa chọn vấn
đề Đề tài khoa cử trong thơ Cao Bá Quát và Trần Tế Xương từ góc
nhìn so sánh làm đề tài nghiên cứu. Chúng tơi mong muốn qua đề tài
luận văn góp thêm một cái nhìn về những đóng góp của hai nhà thơ
này trong tiến trình phát triển của văn học trung đại nói riêng, văn học
Việt Nam nói chung.
3. Đối tƣợng và mục đích nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài khoa cử trong thơ của Cao Bá Quát và Trần Tế Xương.
3.2. Mục đích nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu những bài thơ viết về khoa cử trong sáng tác
của Cao Bá Quát và thơ Trần Tế Xương, từ đó hiểu sâu hơn tư tưởng
của hai nhà thơ về xã hội đương thời.
- So sánh và chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt của thơ viết về
đề tài khoa cử trong thơ của Cao Bá Quát và Trần Tế Xương. Đồng thời
lý giải nguyên nhân dẫn đến những tương đồng và khác biệt đó.
- Khẳng định vai trị vị trí, đóng góp nghệ thuật của hai nhà thơ trong
tiến trình thơ ca trung đại nói riêng, thơ Việt Nam nói chung.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, luận văn đặt ra những nhiệm vụ chính sau:
- Thống kê, phân loại, miêu tả, phân tích đề tài khoa cử trong thơ Cao
Bá Quát và Trần Tế Xương.
- So sánh nét tương đồng và khác biệt trong thơ Cao Bá Quát và Trần
Tế Xương về đề tài khoa cử nhằm làm rõ ý nghĩa nghĩa đề tài này trong


4
thơ của hai tác giả. Đồng thời, luân văn đi sâu lý giải những nguyên
nhân dẫn đến sự tương đồng và khác biệt ấy.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:
5.1. Phương pháp thống kê - phân loại
5.2. Phương pháp miêu tả - phân tích
5.3. Phương pháp so sánh đối chiếu
6. Đóng góp mới của đề tài
6.1. Lập được bảng thống kê, phân loại những bài thơ viết về khoa cử
trong thơ của Cao Bá Quát và Trần Tế Xương.
6.2. Phân tích những nội dung viết về đề tài khoa cử trong thơ của
hai tác giả.
6.3. Nêu lên những điểm tương đồng và khác biệt trong thơ ca viết
về đề tài khoa cử ở hai tác giả, từ đó rút ra những kết luận có ý nghĩa
khoa học về tư tưởng của Cao Bá Quát và Trần Tế Xương về xã hội
đương thời.
6.4. Phân tích những nguyên nhân dẫn đến sự tương đồng và khác
biệt ở đề tài khoa cử trong thơ Cao Bá Quát và Trần Tế Xương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung luận
văn được triển khai trong 3 chương:
Chương 1. Đề tài khoa cử trong thơ Cao Bá Quát
Chương 2. Đề tài khoa cử trong thơ Trần Tế Xương
Chương 3. Những điểm tương đồng và khác biệt trong thơ viết về đề
tài khoa cử giữa Cao Bá Quát và Trần Tế Xương

Chƣơng 1. ĐỀ TÀI KHOA CỬ TRONG THƠ CAO BÁ QUÁT
1.1. Khái niệm về khoa cử
Khoa cử về nghĩa, bao gồm nghĩa của hai từ khoa và cử; khoa nghĩa
là cách phân chia theo chuyên ngành để học, để tuyển chọn người làm
việc. Cử là chọn, cất nhắc. Khoa cử là chế độ lựa chọn nhân tài thời xưa
bằng cách khảo thí. Tồn bộ thể chế của khoa cử như hệ thống khoa thi,

cách tổ chức thi, hệ thống bài thi, xếp hạng người đỗ, học vị... đều là chế
độ khoa cử.
1.2. Khái quát về khoa cử trong xã hội phong kiến Việt Nam
Khoa cử Việt Nam có lịch sử gần 10 thế kỉ (từ thế kỉ XI đến đầu thế
kỉ XIX), với chiều dài lịch sử như vậy khoa cử Việt Nam đã có những


5
tác động sâu sắc, tạo nên những giá trị lớn trong giáo dục, văn hóa, văn
học Việt Nam.
Kể từ thời Lý (1009 - 1225), Nho học nước ta đã phát triển và dần
dần đóng vai trị quan trọng trong đời sống xã hội. Khoa thi nho học đầu
tiên được tổ chức ở Quốc Tử Giám Thăng Long, đây là khoa Minh kinh
bác học mở đầu cho truyền thống khoa cử ở Việt Nam (1075).
Thay thế nhà Lý, nhà Trần (1225 - 1400), thúc đẩy công cuộc xây
dựng đất nước trên quy mô rộng lớn hơn, với tốc độ nhanh hơn so với
thời Lý. Khoa thi Nho học đầu tiên của triều Trần được tổ chức vào năm
Kiến Trung thứ 8 (1232) đời Trần Thánh Tông. Cũng bắt đầu từ khoa thi
này mới định lệ trúng tuyển ra Tam giáp (Đệ nhất giáp, Đệ nhị giáp, Đệ
tam giáp) và quy định 10 năm mở một khoa
Đầu thế kỉ XV triều Hồ thay thế triều Trần. Hồ Quý Ly có nhiều cải
cách, trong đó có cải cách về giáo dục và khoa cử. Số trường học của thời
Hồ tăng lên nhiều, phép thi cũng được đổi lại, thời gian thi cũng chỉ ba
năm một khoa. Điều đặc biệt triều Hồ còn yêu cầu các sỹ tử dự tuyển kỳ
thi đại khoa có cả thi toán và chữ viết - đây là một nét đặc sắc của khoa cử
Việt Nam vì nó đã đem lại cho khoa cử một lĩnh vực tri thức mới.
Từ năm đầu của vua Lê Thái Tổ Thuận Thiên thứ nhất, năm Mậu
Thân (1428) nhà Lê đã dành cho giáo dục sự ưu tiên đặc biệt, khôi phục
và mở mang trường thi từ Kinh kỳ về tới địa phương. Điều đặc biệt nhà
vua (Lê Thái Tổ) đích thân tổ chức thi và đích thân ra văn sách để chọn

người tài. Chính vì vậy, các khoa thi này đã chọn đươc những người nổi
tiếng cả về chính trị, ngoại giao và văn chương,...
Năm Đinh Hợi (1527) Mạc Đăng Dung giành ngôi nhà Lê lập nên
nhà Mạc. Việc tổ chức khoa cử, nhà Mạc tiếp tục tổ chức theo mơ hình
của nhà Lê.
Về thể lệ thi, buổi đầu chưa ổn định, ở thời nhà Lý (1009 - 1225),
Nho học nước ta phát triển đóng vai trị quan trọng trong đời sống xã hội.
khoảng cách giữa những khoa thi thường là 12 năm. Đến khoa thi Kỷ
Hợi mới được qui định 7 năm một kỳ. Sang nhà Lê, năm Thiệu Bình thứ
2 (1435) đời Thái Tông sửa lại là 6 năm 1 kỳ. Nhưng đến năm Quang
Thuận thứ 7 (1466) Lê Thái Tông lại đổi lại là 3 năm 1 kỳ. Lệ thi này
được chấp nhận suốt cả thời kỳ Hậu Lê cho tới cuối Nguyễn.
Tổng cộng 185 khoa thi, 2.906 lần người đỗ, trong đó có 56 Trạng
nguyên. Trừ những người thi đỗ 2 lần, nên thực tế có 2.875 người. Riêng
nhà Nguyễn không lấy đỗ Trạng nguyên.


6
1.3. Thống kê, phân loại thơ viết về đề tài khoa cử của Cao Bá Quát
1.3.1. Tiêu chí thống kê phân loại
Thực hiện mục đích nghiên cứu, chúng tơi tiến hành “định lượng”
nội dung chủ đạo về khoa cử trên cơ sở khảo sát, thống kê cụ thể. Thao
tác này kéo theo việc phải xác định rõ khái niệm cả trong qua trình
nghiên cứu.
1.3.2. Kết quả phân loại
Tìm hiểu về sự nghiệp sáng tác của Cao Bá Quát về phương diện nội
dung của thơ khoa cử, chúng tôi tiến hành khảo sát trong cuốn Thơ văn
Cao Bá Quát Nxb Văn học, Hà Nội 2010
Bảng thống kê các bài thơ khoa cử của Cao Bá Quát (Dựa theo
Thơ văn Cao Bá Quát, Nxb Văn học, Hà Nội - 2010) có 51/151 bài thơ

có nội dung liên quan đến vấn đề khoa cử (Có bảng thống kê trong bản
chính văn).
1.4. Những nội dung viết về khoa cử trong thơ Cao Bá Quát
1.4.1. Con đường khoa cử của Cao Bá Quát
Cao Bá Quát (1808 - 1855) không chỉ là một nhân vật lịch sử mà
còn là một tác gia văn học lớn. Cùng với “Thần Siêu” (Nguyễn Văn
Siêu), Chu Thần Cao Bá Quát được mệnh danh là “Thánh Quát” và
được đánh giá là một hiện tượng có lẽ “chỉ xuất hiện một lần trong văn
học Việt Nam”.
Do văn chương vượt ra ngồi khn phép của triều đình nên mãi đến
năm 1831, khi ấy đã 22 tuổi Cao Bá Quát mới đỗ cử nhân. Mặc dù bị
đánh tụt xuống cuối bảng nhưng ông vẫn “vui vẻ”: “May được trúng vào
hàng tú sĩ, tuy có sự đè nén nhưng không phải là ruồng bỏ".
Tư tưởng của Cao Bá Quát vượt lên thời đại nhưng ông vẫn phải
sống trong xã hội ấy, vẫn phải chịu sự chi phối của nó. Đi thi một lần
chưa đỗ, ơng lại đợi khoa sau đi thi nữa. Thi đỗ nhưng chưa được làm
quan, ông về nhà mở trường dạy học, triều đình vời ra làm quan thì ơng
ra làm quan. Nhưng dù làm gì đi nữa, Cao Bá Quát cũng không bao giờ
chấp thuận cái xã hội mà ông đang sống.
Những ngày trong tù ngục, ngẫm nghĩ lại những việc đã làm, Cao
Chu Thần chẳng những không tỏ ra hối hận, mà càng càng lên án gay
gắt hơn sự tra tấn tàn ác của ngục quan. Trước sau ông vẫn ln khẳng
định việc mình làm là đúng, cũng có nghĩa là ơng phản đối chế độ khoa
cử của triều đình nhà Nguyễn. Đến khi có dịp ra nước ngồi, tiếp cận
với thế giới văn minh, tầm nhìn được rộng mở nhà thơ còn nhận thức


7
sâu sắc hơn, không phải chỉ chuyện thi cử, mà tồn bộ nền văn học lúc
bấy giờ đều vơ nghĩa, đều là chuyện “nhai văn nhá chữ” kiểu trẻ con,

không ích lợi gì. Nhân khi đọc cuốn Yên Đài anh ngữ của Bùi Ngọc
Quỹ, Cao Bá Quát cho rằng cần phải quan niệm lại đối với việc học
hành và khoa cử:
Cao Chu Thần khơng khỏi băn khoăn trước tình trạng tồi tệ của văn
chương đương thời, lại càng đau xót hơn khi nhận ra rằng tình trạng ấy
là do “đường lối” văn chương “mờ tối”, do tục học gây nên. Với ý thức
của một nhà thơ, Cao Bá Quát băn khoăn lo lắng, đồng thời cũng nhận
thức rõ trách nhiệm của bản thân.
Cao Bá Quát là nhà thơ xuất thân Nho học, tham dự những kỳ thi
Nho học. Tất nhiên, họ Cao khơng bao giờ gị ép mình theo những
khn phép có sẵn, giáo điều. Trong cuộc đời học tập và đi thi, ơng đã
sớm nhận ra sự gị bó của trường thi đối với việc sáng tác thơ ca, thì khi
bước chân vào cuộc đời, khi đã làm chủ được cây bút của mình, Cao Bá
Quát lại càng thấm thía hậu quả tai hại cái sự học và khoa cử. Ơng cho
rằng, cách học theo lối khoa cử khơng những gây tổn hại cho sự sáng tác
của một số người mà còn mang lại sự tổn thất cho cả nên văn học của
dân tộc trong một thời gian dài.
1.4.2. Con đường làm quan
Trên con đường công danh sự nghiệp, Cao Bá Quát đã sống đúng với
tinh thần Nho giáo đầy trách nhiệm. Trong quan niệm của các nhà Nho,
công danh khơng chỉ là ước nguyện tầm thường về hình ảnh “mũ cao áo
dài”, “vinh thân phì gia”, mà cịn là trách nhiệm, bổn phận, là “nợ công
danh” của trang nam tử. Cao Chu Thần là người sống có trách nhiệm với
bản thân. Ơng ln hướng đến lẽ sống chính thiện, trong sạch, không
chịu luồn cúi, hám danh.
Cao Bá Quát đã hăng hái nhập cuộc, thi thố tài năng mong được công
danh sự nghiệp nhưng thất bại liên tiếp. Cuối đời, nghiệp khoa cử cũng
chỉ đạt đến cử nhân, chức quan cũng chỉ là Hành tẩu Bộ Lễ sau được
thăng lên chức Chủ sự. So với tài năng và chí khí của họ Cao như thế là
bất đắc ý. Nhưng rõ ràng, cuộc đời Cao Bá Quát bị ràng buộc vào cơng

danh. Thơ ơng có nhiều lần nhắc đến chữ danh. Trong 19 lần nhắc đến
chữ danh, có 16 lần ơng cảm thấy đau xót vì chữ danh ràng buộc: Dĩ vi
phù danh ngộ (Đã lầm vì chút phù danh); Dư sinh phù danh ngộ (Đời ta
chót lầm lỡ vì cái danh hờ); Dư sinh cơ bạn chỉ vi danh (Đời ta bị ràng
buộc chỉ vì chút danh nhỏ). Ơng cũng đã 5 lần nhắc đến cái danh ảo, gọi


8
nó bằng những khái niệm “danh hờ”, “phù danh”, “chút danh hờ”, “một
chút danh”.
Cuộc đời Cao Bá Quát coi như đã khốn đốn vì chữ danh, nhưng
khơng vì thế mà ông trở nên quỵ lụy, cúi đầu trước uy quyền hay tài lợi.
Có lẽ ơng là người duy nhất miệt thị cơng danh, xem nó như “cái chõ rơi
bị vỡ”, nhìn về phía nào cũng thấy cái danh ràng buộc, khi tuổi già sức
yếu mà danh chẳng giúp ích gì, nhất là khi ơng nhận ra nó chỉ là cái
“danh hờ”. Khơng những thế, ơng cịn có nhiều dấu hiệu chứng tỏ sự bất
mãn chung với thực trạng của xã hội ấy, cũng chính là bất bình với
chính triều đại nhà Nguyễn.
1.4.3. Những hệ lụy và bước ngoặt của cuộc đời
Năm 1841, vua Thiệu Trị có chiếu chỉ mở ân khoa, Cao Bá Quát
được cử làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên. Nhưng do mến tài thí sinh,
ơng đã cùng Phan Nhạ dùng muội đèn chữa quyển của 24 thí sinh. Sự
việc bại lộ, ông bị viên giám sát trường thi Hồ Trọng Tuấn tố cáo, triều
đình sai bắt ơng giam vào ngục.
Ngày rằm tháng 9 năm đó, ơng bị tra khảo bằng roi song. Ngày 17
tháng 10 lại bị Bộ Lễ tra tấn đến mê man bất tỉnh. Trận địn khiến ơng
ốm nặng, phải có người đỡ mới ngồi dậy được. Tuy khơng tra khảo
được gì ở ơng, triều đình vẫn cứ khép ơng vào tội chết. Nhưng đến khi
án dâng lên vua, Thiệu Trị lại cho rằng Cao Bá Quát chỉ là kẻ ngông
cuồng mà làm bậy chứ khơng có ý thiên vị ai, nên giảm tội xuống “giảo

giam hậu”.
Sau chuyến hải trình hiệu lực, triều đình thải ông về quê. Ông về
Thăng Long sống với vợ con trong ngôi nhà bên hồ Trúc Bạch. Suốt
mấy năm về sau, ông sống cuộc sống nghèo ở đất cố đô, có dịp gần gũi
những người nghèo khổ trong xã hội, thông cảm với đời sống, vận mệnh
của họ. Trong thời gian này, ơng sáng tác nhiều thơ văn mang tính hiện
thực sâu sắc.
1.5. Tƣ tƣởng Cao Bá Quát qua những bài thơ viết về đề tài
khoa cử
1.5.1. Bất bình với hiện trạng xã hội
Sâu xa trong tâm sự của Cao Bá Quát là sự cảm nhận về tài năng của
mình đã không được người đời chú ý, không được kẻ “mắt xanh” biết
đến. Ơng thấy những con sóng như dữ dội hơn, mái tóc như nhuốm bạc
cùng sóng trắng. Tất cả ngoại cảnh và hiện thực biến chuyển sôi động,
gấp gáp như thế dường như lại trớ trêu mâu thuẫn với tâm trạng nhà thơ


9
đang sống trong tù túng của một kẻ “nông nỗi chậm chạp” (Trì mộ ý);
có nghĩa ơng mong muốn hối thúc cái gì đó chuyển động nhanh hơn, chí
ít cũng được ông gửi gắm vào ngọn bút.
Gắn với mỗi chặng đường đời, với mỗi chặng đường thơ, ông vẫn
băn khoăn đi tìm câu trả lời. Cuộc khởi loạn bất thành nhưng nó như
một câu trả lời, một lần trả lời với đời về thái độ bất bình với xã hội, để
khơng cịn băn khoăn vương vấn nữa.
1.5.2. Trung thành với Nho giáo chính thống nhưng có những
biểu hiện phá cách
Cao Bá Quát là một nhà Nho chân chính, nhà Nho từ cội nguồn.
Trước sau, từ tư tưởng đến hành động, ông vẫn không vượt ra ngoài
cương tỏa của Nho giáo. Ông từng sống qua bốn đời vua: Gia Long

(1802-1819), Minh Mạng (1820-1840), Thiệu Trị (1842-1847) và một
số năm đầu đời của Tự Đức (1848-1883).
Là con người sống với lý tưởng Nho giáo, thậm chí được xem là nhà
Nho hành đạo điển hình, thế nhưng Cao Bá Qt lại khơng mấy khi tuân
thủ triệt để quy phạm Nho giáo. Ông sống với tư tưởng chung của Nho
giáo nhưng cá tính con người cá nhân trong ông lại luôn muốn rời xa,
luôn tỏ thái độ hồi nghi, ln vượt lên bộc lộ cảm xúc riêng tư, luôn
phá cách để tự khẳng định mình. Cũng có thể coi ơng là đứa con ngỗ
nghịch của chế độ phong kiến đương thời.
Cao Bá Quát là đứa con ngỗ nghịch của Nho giáo, dám chống lại
chính quyền phong kiến đương thời song ông vẫn là nhà Nho chính
thống, vẫn mong cầu lập thân và hành đạo theo chí hướng nhà Nho.
Chính vì điều đó mà những cảm quan về Phật giáo trong thơ Cao Bá
Quát căn bản vẫn đứng trên lập trường Nho giáo, thể hiện cách cảm,
cách nghĩ kiểu nhà Nho vào khoảng giai đoạn giữa thế kỷ XIX.
Cao Bá Quát nổi lên như một tài năng đầy cá tính, một nhân cách
lịch sử có một khơng hai buổi đương thời. Ơng sớm đi thi và từng được
nhà Nguyễn tin dùng, ít nhiều vẫn có cơ tham dự triều chính nếu biết
khép mình theo khn thước. Vậy mà ơng cứ tự “làm khó” cho mình,
ln đóng vai đứa con ngỗ nghịch của triều đại đến mức tham dự cuộc
khởi loạn ở Sơn Tây, bị giết và tru di tam tộc.
Cuộc đời Cao Bá Quát từng trải qua khơng ít thăng trầm, nhưng bất
kỳ trong hồn cảnh nào ơng vẫn giữ được ý chí cứng cỏi và tinh thần
tích cực. Là người tài cao, chức nhỏ nhưng ơng khơng có thái độ dửng
dưng. Bị giai cấp thống trị làm cho điêu đứng, ơng vẫn một lịng khảng


10
khái, ngay thẳng. Con đường công danh đã làm cho ông thấy chán ngán
và mệt mỏi trong cảnh chen chúc nhưng không muốn cáo quan về nhà.

Ngang nhiên vượt cả khn phép của nhà vua, của triều đình mà dám
nói “tìm điều nhân” thì chắc rằng những khn phép kia hẳn đã “phi
nhân” và trái đạo rồi. Thực ra, tình hình lúc bấy giờ mới cho phép Cao
Bá Quát phê phán cái phần hình thức bề ngồi, phần quy chế cổ hủ của
trường thi. Khi có điều kiện tiếp xúc với nước ngồi, ơng mới thấm thía
những câu văn cử tử của nước nhà đã trở nên vô giá trị như thế nào:
1.5.3. Tư tưởng canh tân đất nước, đổi mới giáo dục, khoa cử,...
Cao Bá Quát thấy được nền học thuật nước nhà suy đốn, văn chương
chỉ là trò “nhá chữ” thì ơng cũng buồn cho bước đường đã qua của
mình. Nhưng với ơng, càng buồn hơn khi nhìn thấy bao nhiêu thế hệ sau
mình vẫn cứ cịn dấn thân vào con đường ấy. Với Cao Bá Quát, cuộc đời
làm quan trước mắt cũng có tốt đẹp đâu? Bao nhiêu người thành danh và
bao nhiêu kẻ bị cách chức trở về, mấy người lành lặn ? Ơng từng nói ra
rằng một chút hư danh đã làm lụy người ta lắm rồi.
Cao Bá Qt là người có cái nhìn khắt khe với cái cảnh khuôn lồng
của chế độ phong kiến. Bắt ông phục tùng các quan trên, nhưng ông
không chịu nổi cái cảnh áo giới lân trùm dưới phu cơ, mỏi gối mịn sân
trước phủ. Buồn của ơng cũng chính là cái buồn sâu sắc của cả tầng lớp
sĩ phu lúc bấy giờ.
Có thể nói, trong văn học trung đại nói chung, thơ trung đại nói
riêng, thơ nói chí đã trở thành một truyền thống. Cốt cách Cao Bá Quát
vẫn được người đời ca tụng bởi ông từng khảng khái khẳng định phẩm
chất của mình qua hai câu thơ nổi tiếng.
Tiểu kết
Qua nghiên cứu, chúng tôi cho rằng, Cao Bá Quát là một người có
tài, có tư tưởng canh tân đất nước, con đường khoa cử không thành,
công danh lận đận, bị bức ngục và bị giết nhưng ông đã để lại cho đời
sau nhiều suy ngẫm thông qua những vần thơ viết về khoa cử. Cao Bá
Quát đã đi thi từ rất sớm, chỉ đỗ đến cử nhân và chỉ được triều đình giao
cho một chức quan nhỏ. Nhưng ông lại là người của tư tưởng tiến bộ,

ông sớm nhận ra những hạn chế của thứ văn chương “nhai lại”, của nền
khoa cử “giết chết” hết người tài giỏi. Cuộc đời Cao Bá Quát là một
chuỗi những bi kịch. Từ một nhà Nho chính thống, ơng trở thành kẻ
chống lại những quy phạm, là giám khảo trường thi, ông dám chữa
quyển cho thí sinh (vì mến tài), là một quan lại của triều đình ơng dám


11
đứng lên dựng cờ khở nghĩa chống lại thể chế mình đang phụng sự. Với
những tội danh trên, ơng bị cách chức, bị giáng ngục rồi bị tru di tam
tộc. Cả cuộc đời Cao Bá Quát là một bài ca bi tráng của một nhân cách
cao đẹp, của một hoài bão lớn lao trong một xã hội trì trệ và mục nát.
Nhân cách cao đẹp ấy, hồi bỗi lớn lao ấy được thể hiện một phần qua
thơ viết về đề tài khoa cử của Cao Chu Thần

Chƣơng 2. ĐỀ TÀI KHOA CỬ TRONG THƠ TRẦN TẾ XƢƠNG
2.1. Thống kê, phân loại thơ viết về đề tài khoa cử của Trần Tế
Xƣơng
2.1.1. Tiêu chí thống kê, phân loại
Trong luận văn này, căn cứ trên nguồn tư liệu có được về Trần Tế
Xương, chúng tôi lựa chọn những bài thơ, câu thơ có nội dung liên quan
đến đề tài khoa cử trong thơ Trần Tế Xương. Chúng tôi tạm chia thơ
Trần Tế Xương viết về đề tài khoa cử thành hai nhóm chính: những bài
thơ, câu thơ viết về khoa cử, văn chương và những bài thơ, câu thơ viết
về công danh cùng những hệ lụy của công danh liên quan tới khoa cử.
Có nhiều bài thơ viết về hiện trạng xã hội nhưng vẫn có ý tứ bàn đến
chuyện khoa cử hoặc hàm chứa cả nội dung khoa cử và văn chương,
danh vọng cùng các vấn đề xã hội.
2.1.2. Kết quả thống kê, phân loại
Có tổng cộng 61/172 bài thơ (kể cả phần Tồn nghi – chưa chắc chắn

là sáng tác của Trần Tế Xương) phản ánh trực tiếp hoặc liên quan đến đề
tài khoa cử. Có 01 bài phú và 02 bài văn tế cũng được chúng tôi lựa
chọn, đưa vào hệ thống khảo sát, nghiên cứu như một sự tham khảo.
2.2. Những nội dung viết về khoa cử
2.2.1. Hiện trạng khoa cử trong đời sống xã hội thời Trần Tế
Xương
Trần Tế Xương (1870 - 1907) là nhà thơ lớn của văn học Việt Nam
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Ông là đại biểu xuất sắc của làng thơ
trào phúng Việt Nam.
Trong thơ Trần Tế Xương, bức tranh xã hội trước hết là bức tranh
thành Nam những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Có thể nói, vào
thời điểm đó, cuộc sống thực dân đã bắt đầu cắm rễ ở đây. Có hai mảng
đề tài nổi bật trong những “vần thơ hiện thực” của Trần Tế Xương. Đó
là những bài thơ viết về con người và sinh hoạt của xã hội phong kiến cũ


12
đã “thực dân hóa” và những nhân vật mới, sinh hoạt mới nghĩa một xã
hội mới thực dân nửa phong kiến.
Chuyện quan tham thì thời nào cũng có. Nhưng chuyện quan dốt nát
thì có lẽ thời Trần Xương mới bị phơi bày mạnh mẽ như vậy. Đây cũng
chính là cái gốc của sự suy đồi của nền khoa cử nước nhà. Trong thơ ơng,
hình ảnh viên triết học huyện dốt chứ nghĩa, viên đốc học chỉ biết ăn chơi,
cờ bạc, những cậu ấm, ông hàn trở nên “quen thuộc” hơn bao giờ hết.
Trong bức tranh chung về xã hội, hình ảnh con người và sinh hoạt
của xã hội phong kiến cũ thời Trần Tế Xương cịn có những những Nho
sĩ lều chõng đi thi, những ông cử, ông tú, thầy Nho và hình ảnh trường
thi, những hình ảnh cuối cùng của một nền Nho học cũng được ông mô
tả hết sức sinh động.
Trong những bài thơ viết về khoa cử, về cảnh trường thi, Trần Tế

Xương đã ghi lại được nhiều chi tiết sinh động về các kỳ thi năm Tân
Mão, năm Đinh Dậu với sự hiện diện của các nhà cầm quyền thuộc địa.
Đó là thái độ đả kích mạnh mẽ, không khoan nhượng của nhà thơ.
2.2.2. Con đường khoa cử của Trần Tế Xương qua thơ
Là nhân chứng của buổi giao thời, tận mắt chứng kiến xã hội Việt
Nam chuyển từ xã hội phong kiến sang xã hội phong kiến nửa thực dân,
thơ Trần Tế Xương trở thành hiện tượng độc đáo trong lịch sử văn học
Việt Nam.
Đời tư của Trần Tế Xương là “lịch sử” một thất bại, suốt cả một đời
long đong lận đận vì thi cử mà không bao giờ đạt được sở nguyện. Khi
15 tuổi, giữa bối cảnh nước mất nhà tan, ngay đến Nguyễn Khuyến đã
thể hiện thái độ bất mãn với thời cuộc, cáo quan về nhà ở ẩn, thì cậu học
trị Trần Tế Xương lại bắt đầu lều chõng đi thi.
Tú Xương lận đận trong thi cử. Ơng chính là sản phẩm bất thành của
chế độ khoa cử đương thời. Có tám lần đi thi và đến năm 24 tuổi ông
mới đỗ Tú tài mà lại là “đỗ rốt bảng”. Và như vậy, suốt đời chỉ ôm bằng
Tú tài. Tuy nhiên, về sự nghiệp văn chương, Tú Xương đã để lại cho đời
là một sự nghiệp thơ có một khơng hai trong nền thơ ca dân tộc.
2.3. Tƣ tƣởng Trần Tế Xƣơng qua những bài thơ viết về khoa cử
2.3.1. Cái nhìn cảm thán trước tình trạng Nho học buổi cuối mùa
Trong con mắt tinh tường của Trần Tế Xương, tình trạng Nho học buổi
cuối mùa thật thảm hại. Không chỉ ông mà trước đó Cao Bá Quát cùng
Nguyễn Khuyến cũng đã nhận ra sự rệu rã của nền Nho học, của chuyện
khoa cử cuối mùa. Trong cái nhìn của Nguyễn Khuyến vẫn cịn chút gì đó


13
“khoan dung nhẹ nhàng”. Nhưng đối với Trần Tế Xương, Nho học thời
đại của ông đã thực sự là sự cáo chung khơng thể cưỡng lại.
Trước hết, đó là người và cảnh của trường thi hồi bấy giờ. Đây là

những khoa thi đầu tiên của triều đình tay sai nhà Nguyễn cùng với
chính quyền thực dân tổ chức. Hình thức và cách thức trường thi cũng
chưa có nhiều đổi khác, chỉ có thêm lính canh là Pháp và sự xuật hiện của
những người đứng đầu chính quyền thực dân trên cõi thuộc địa An Nam.
Hình ảnh “bà đầm” trên ghế cao của lễ xướng danh là một hình ảnh
rất mới mẻ trong lịch sử khoa cử của nước Nam đến thời hiện tại. Nó
cũng cho thấy sự thật cay đắng của một đất nước mất chủ quyền, của
nền Nho học đã đến hồi suy vong.
Chuyện thi cử muôn đời đều có chuyện gian dối. Chốn trường thi
được xem là cái chợ mua quan bán tước. Trong buổi giao thời nhố
nhăng, hỗn quân hỗn quan ấy, kỷ cương trường thi lại càng lỏng lẻo và
hỗn độn hơn bao giờ hết.
Với một trường thi láo nháo, gian dối, quan trường thi dốt nát, quan
chủ khảo dễ dãi, thì thí sinh đỗ đạt phần đông cũng chẳng xứng đáng
hoặc chẳng mấy tự hào.
Không chỉ tiến sĩ, mà cả cử nhân, tú tài cũng chẳng khác nhau là bao,
cũng đều là những kẻ dốt nát. Trong lời Than sự thi, ông đã liệt kê
những con người cụ thể với học vị cụ thể mà ông chắc rằng những con
người kia không xứng đáng.
Ông không chỉ luận về chuyện “đỗ, hỏng” mà chủ yếu tập trung vào
phê phán tình trạng bất cơng, thối nát của trường thi phong kiến, nói lên
nỗi nhục nhã của sĩ tử Nho học trong bối cảnh thực dân Pháp đã bình
định xong tồn cõi Đơng Dương và ban hành những chính sách mới về
khoa cử.
2.3.2. Cái nhìn trào phúng về khoa cử trước ảnh hưởng của văn
hóa phương Tây
Hình ảnh trào phúng về khoa cử trước sự ảnh hưởng của văn hóa
phương Tây chính là sự xuất hiện của những “người Tây”, “bà đầm”.
Hình ảnh “quan sứ” và “mụ đầm” là một hình ảnh lạ lẫm trong con mắt
của sĩ tử Nho học.

Có lẽ đây là lần đầu tiên bà đầm Tây được chứng kiến khung cảnh
trường thi và lễ xướng danh sĩ tử ở một xứ sở xa lạ mà chồng bà cai
quản. Tâm trạng háo hức, phấn khích trước sự kiện lạ lùng và khôi hài


14
này khiến bà nhấp nhổm không yên trên ghế cao, thành thử cứ loi nhoi
như “đít vịt”.
Trần Tế Xương cho rằng việc “vứt bút lơng, giắt bút chì” là một việc
làm phản bội lại Nho học, chối bỏ nền giáo dục truyền thống, là một sự
sỉ nhục với Nho sĩ. Nhưng xét một cách tồn diện thì đó là một xu thế
không thể cưỡng lại.
Cái nghèo nhiều phen khiến Tú Xương nghĩ đến việc kiếm một chân
trong bộ máy chính quyền thực dân: Biết thân thuở trước đi làm quách/
Chẳng ký, khơng thơng cũng cậu bồi! Thậm chí có lúc ông thốt lên: Muốn
bỏ văn chương, học võ biền. Nhưng chúng ta đều biết, Tú Xương đã
khơng có cơ hội làm việc ấy. Ông chỉ đùa giỡn cho vui chứ đâu có hạ
mình đi làm tay sai, làm nơ lệ cho thực dân. Ông đã sống cuộc sống nghèo
khổ nhưng vẫn ln giữ gìn phẩm chất của học trị cửa Khổng, sân Trình,
thà làm một ơng tú gàn cịn hơn là làm tay sai cho quân cướp nước.
Tiểu kết
Thơ Trần Tế Xương phản ánh hiện trạng khoa cử trong xã hội đương
thời. Đó là một xã hội mới nửa thực dân nửa phong kiến. Có thể nói, cái
xã hội mà Trần Tế Xương đang sống được vẽ lên với bộ mặt nham nhở,
lở loét, xa lạ và hài hước trong nét vẽ thần tình của chính nhà thơ. Một
bức tranh với đầy đủ những gương mặt của lũ quan tham dốt nát, của
những anh khóa thất nghiệp cùng đường, của lũ người hợm hĩnh theo
địi lối sống Tây hóa, của những kỳ thi được tổ chức theo lối truyền
thống nhưng lại xuất hiện của nhà cầm quyền Pháp thuộc và cả những
mụ đầm Tây. Là người lều chõng đi thi từ rất sớm nhưng chỉ giật được

mỗi học vị tú tài, con người tài năng như Trần Tế Xương đã kiên trì với
bao lần đi thi khác nữa. Và chuyện đi thi trở thành nghiêp chướng trong
cuộc đời Trần Tế Xương. Với ông, Nho học đã đến thời tàn lụi, sự tàn
lụi khơng có gì ngăn cản được trước sức tân cơng như vũ bão của văn
hóa phương Tây. Ơng đau đớn chứng kiến những sự chướng tai gai mặt,
bày tỏ sự căm phẫn, chửi và nguyền rủa cái sự nhố nhăng của xã hội,
nhưng rồi cũng cúi đầu chấp nhận bi kịch của kẻ sinh ra lỗi thời.
Khác với Cao Bá Qt, nhà thơ Trần Tế Xương ln nhìn chuyện
khoa cử bằng cái nhìn trào phúng của riêng ơng. Ông có tài trào lộng
trong tất cả mọi đề tài, nhưng trào lộng về khoa cử có lẽ Tú Xương là
người xuất sắc nhất. Chất bi và chất hài hòa quyện trong thơ Trần Tế
Xương đã làm nên nét riêng khơng hịa lẫn. Nó giúp cho người đời sau có
dịp hiểu hơn về một giai đoạn đau đớn của lịch sử giáo dục Việt Nam.


15

Chƣơng 3. NHỮNG BIỂU HIỆN TƢƠNG ĐỒNG
VÀ KHÁC BIỆT TRONG THƠ VIẾT VỀ ĐỀ TÀI KHOA CỬ
CỦA CAO BÁ QUÁT VÀ TRẦN TẾ XƢƠNG
3.1. Những điểm tƣơng đồng
3.1.1. Yếu tố thời đại
3.1.1.1. Thời suy thoái của chế độ phong kiến nói chung, Nho giáo
nói riêng
Cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, lịch sử Việt Nam có nhiều biến
chuyển: Ở Đàng ngoài, chúa Trịnh lộng quyền, mâu thuẫn gay gắt với
vua Lê, dẫn đến nội bộ nhà chúa tranh giành quyền hành lẫn nhau. Cuộc
khởi nghĩa của anh em nhà Nguyễn Huệ lập nên triều đại Tây Sơn tiến
bộ vào bậc nhất trong lịch sử phong kiến. Thành quả quý báu ấy lại
nhanh chóng bị hủy hoại trong tay vị vua trẻ Quang Toản ít tài lắm tật,

tin tưởng nịnh thần. Năm 1802, nhờ sự viện trợ của nhà Thanh, Nguyễn
Ánh đánh đổ nhà Tây Sơn thống nhất giang sơn, thành lập vương triều
Gia Long.
Đối nội là vậy, còn đối ngoại thì triều Nguyễn trước sau vẫn giữ thái
độ “thần phục” nhà Thành, “bế quan tỏa cảng” với phương Tây. Nhiều
chính sách, thiết chế chính trị, tư tưởng văn hóa xã hội của nhà Thanh
được các vua triều Nguyễn tiếp thu, vận dụng một cách rập khn, cứng
nhắc, xem nó như là “khuôn vàng thước ngọc” trong cai trị. Nguyễn Ánh
cũng có ước vọng xây dựng một triều đại vững mạnh, lâu bền như
Nghiêu, Thuấn nên đã thực hiện những cải cách về nơng nghiệp, kinh tế
cùng với chính sách thu hút nhân tài nhằm làm đổi mới tình hình, tạo thế
mạnh cho đất nước.
Chính sách văn trị, đề cao khoa cử, trọng vọng Nho sĩ, phục hưng
Hán học cũng chẳng ích nước lợi dân, chủ yếu nhằm lơi kéo sự ủng hộ
của tầng lớp Nho sĩ đối với vương triều mới. Chế độ học hành, thi cử,…
được chấn chỉnh. Nhà Nguyễn mong muốn có những con người mang lẽ
sống và tính cách của Nho giáo để có thể trung thành và tận tụy với sự
nghiệp của mình. Nhưng dù cố gắng đến đâu nữa, triều Nguyễn vẫn
không thể thực hiện được điều đó.
Những phong trào khởi nghĩa chống lại nhà Nguyễn đã làm cho tình
thế đất nước ngày một suy yếu. Triều Thiệu Trị, Tự Đức khủng hoảng, suy
sụp, nhanh chóng lụi tàn. Phương Tây đang lâm le dịm ngó. Các Nho sĩ
tan vỡ giấc mộng cơng danh. Họ gửi gắm nỗi niềm thất vọng vào văn thơ.
Trong bối cảnh thời đại có nhiều biến động lớn lao ấy, Cao Bá Quát


16
xuất hiện như một hiện tượng lạ. Là một Nho sĩ, lý ra Cao Bá Quát phải
luôn lấy chữ “trung quân ái quốc” làm đầu. Thế nhưng, ông lại vùng lên
chống trả quyết liệt chế độ phong kiến. Hành động này xuất phát từ sự ý

thức về bản chất bạo tàn của triều Nguyễn, về xu thế tất yếu của lịch sử,
nhất là từ lương tâm và khí phách của ông.
Trần Tế Xương thường viết về sự biến đổi trong xã hội ơng đang
sống. Thời đó, có những thứ đã hồn tất, có thứ đang biến đổi. Những
câu thơ của ông chất chứa một tâm sự day dứt về sự biến đổi, đó cũng là
sự mất mát.
3.1.1.2. Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây trong đời sống xã hội
và trong giáo dục
Sự đổi thay căn bản từ trong cơ cấu xã hội thể hiện qua cái nhìn chân
thành mà sâu sắc của Trần Tế Xương. Cùng với sự xâm nhập của chủ
nghĩa thực dân, của văn hóa phương Tây, thì những thuần phong mỹ tục
của cộng đồng dân cư người Việt xây dựng từ bao đời đã bị phá vỡ, thay
thế vào đó những cái rởm đời, lai căng, nhố nhăng, thảm bại.
Nam Định hồi bấy giờ là nơi họp mặt những thói khoe khoang,
huênh hoang, lố bịch của lớp người mới. Những ông bồi, ông ký làm
việc cho Tây; những cậu ấm cơ chiêu con nhà giàu,... đều có dịp lên
mặt. Trong chùa có thêm những ơng “sư” hổ mang, đĩ già đi tu,…
Trần Tế Xương sống trong thời buổi, mà nếu không lựa chọn cách về
hưu, cáo quan ở ẩn như Nguyễn Khuyến, thì chỉ cịn cách làm tay sai
cho thực dân Pháp. Ông đặc biệt lên án bản chất tay sai của lũ quan lại.
Nếu Nguyễn Khuyến đả kích thói tham ơ của quan lại một cách thâm
thúy, kín đáo, thì Trần Tế Xương quyết liệt hơn. Ông vạch mặt chỉ tên
một cách thẳng thừng. Phê phán quan lại tham ô, ăn tiền của dân, thực tế
không có gì mới, cái mới là cách phê phán của Trần Tế Xương có cá
tính hơn, sắc sảo hơn, mang tính thời sự hơn.
Trần Tế Xương khơng giống những kẻ uốn mình theo chế độ mới.
Ơng bị xã hội bất lương gạt ra ngồi, nên nhìn cuộc đời xấu xa, giả dối
ấy bằng con mắt hằn học, thù ghét. Thơ Trần Tế Xương chính vì vậy có
nhiều nét hiện thực sâu sắc.
3.1.2. Yếu tố cá nhân

3.1.2.1. Những nhà Nho bất đắc chí trong khoa cử
Cả Cao Bá Quát và Trần Tế Xương đều là những người thuộc lớp
nhà Nho tài tử nhưng bất đắc chí. Họ đều là những nhà Nho hay chữ, có


17
khí phách, có tài nhưng đều khơng thành cơng trên con đường danh
vọng do khoa cử mang lại.
Do những hành động chống lại triều đình, Cao Bá Quát bị khép tội chết,
bị tru di tam tộc. Từng làm học trò, từng đi thi, từng làm quan, làm giám
khảo trường thi rồi “làm giặc” và cuối cùng là bị khép vào tội chết, nhưng
Cao Bá Quát vẫn mãi là một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc Việt Nam.
Trần Tế Xương đi học sớm và cũng sớm nổi tiếng thông minh, giỏi
thơ phú, có khẩu khí của một tài tử từ khi cịn rất nhỏ. Có tám lần đi thi
mà cũng chỉ đỗ đến tú tài, không được bổ làm quan. Thực ra, đó là sự
vênh nhau giữa con người nghệ sĩ tài hoa với những quy tắc cứng nhắc,
thủ tiêu tài năng của trường thi phong kiến.
Cao Bá Quát và Trần Tế Xương, kẻ trước, người sau, đều là lớp nhà
Nho cuối cùng của nền Nho học. Xét về tài năng cá nhân, mỗi người
một vẻ nhưng đều là những con người tài hoa nhưng không gặp thời.
Cuộc đời của mỗi người là một tấn bi kịch khác nhau, để lại cho hậu thế
nhiều suy ngẫm. Cao Bá Quát và Trần Tế Xương đều là những nhà Nho
bất đắc chí trong khoa cử. Cả hai ông đều là những người có tài năng
nhưng đều lận đận trên con đường khoa cử.
3.1.2.2. Những bi kịch của nhân tài
Những con người như Cao Bá Quát và Trần Tế Xương có thể được
coi là những nhân tài trong làng Nho học nước ta. Có thể sự nghiệp hoan
lộ khơng có gì đáng kể, nhưng sự nghiệp văn chương lại vô cùng đáng
giá. Hai nhà Nho này đều có chung một khát khao cháy bỏng, đó là học
hành, đi thi mong đỗ đạt để ra làm quan, giúp vua trị nước. Nhưng cả

hai đều có “thành tích” khoa cử rất khiêm tốn. Chính những lần hỏng thi
và hậu quả của nó đã dẫn dắt ngịi bút của các ơng đến với mảng đề tài
khoa cử và để lại cho hậu thế những vần thơ đặc biệt nhất.
Bi kịch của Cao Bá Quát chính là nỗi buồn về thân phận và cuộc đời.
Đó là bi kịch của một kẻ sĩ “chí khơng thành danh khơng toại”, muốn
đem chí lớn giúp đời mà khơng thực hiện được. Khơng những thế, ơng
cịn phải chứng kiến cảnh thối nát của vua chúa, quan lại, cảnh đói khổ
của nhân dân.
Cao Bá Quát đã năm lần nhắc đến cái danh hư ảo: “phù danh”, “danh
hờ”, “chút danh nhỏ”, “một chút danh”. Cuộc đời Cao Chu Thần đã
khốn đốn vì chữ danh. Chưa có nhà thơ nào miệt thị chữ danh như Cao
Bá Qt. Có lẽ ơng là người thấm thía bi kịch của con người khi bị ràng
buộc vào chữ danh.


18
Bi kịch của Trần Tế Xương cũng là bi kịch về cái nợ công danh.
Những hệ lụy từ khát vọng cơng danh đã làm cho bản thân nhà thơ
khơng thốt ra khỏi nỗi đau khổ ấy. Bi kịch cuộc đời bắt nguồn từ chỗ
hỏng hi. Ông chỉ thấy một con đường để tiến thân, giải thoát khỏi nghèo
khổ là con đường khoa cử, khơng thấy bất cứ cách gì khác để tự lập
cuộc đời:
Hỏng thi cũng là điều lâu nay vẫn được người đời cho là bi kịch lớn
của nhà thơ Trần Tế Xương. Ông lều chõng đi thi từ năm 15 tuổi và từ
đấy nghiệp thi cử gắn liền với cuộc đời ơng. Nó mang tới hy vọng, nó
như cứu cánh mở ra cho ông con đường duy nhất thăng tiến trên đời.
Với Tú Xương, học và thi đã thành cái nghề, nếu khơng có việc học
hành thi cử thì ơng cịn biết làm gì? Một cái nghề lạ lùng nhất, khơng
làm ra tiền mà cịn tốn kém. Ðiều duy nhất cái nghề học hành thi cử đem
lại là tạo cho nhà thơ danh tiếng cùng hy vọng. Việc thi cử với Tú

Xương giống như người chơi xổ số: sáng mua, trưa hy vọng và chiều
vứt bỏ. Nhưng Trần Tế Xương đã khơng làm được như Cao Bá Qt.
Ơng không trở thành người anh hùng dám đứng lên chống lại triều đình
mà chỉ như con cuốc kêu thảm thương đến chết.
3.2. Những điểm khác biệt
3.2.1. Yếu tố thời đại
3.2.1.1. Thời đại Cao Bá Quát
Năm 1802, triều đình nhà Nguyễn được thành lập lấy niên hiệu là
Gia Long. Về chính trị, các thế hệ vua chúa nhà Nguyễn chuyên chế,
độc đoán và vị kỷ, mọi quyền hành đều đặt trong tay nhà vua. Triều đại
này có một số quy đinh khác thường: khơng đặt chức tể tướng, khơng
lập hồng hậu, khơng lấy đỗ trạng ngun trong kỳ thi Đình và khơng
phong tước vương cho người hồng tộc.
Về văn hóa – tư tưởng, nhà Nguyễn khôi phục và phát triển mạnh mẽ
hệ tư tưởng Nho giáo, nâng hệ tư tưởng này lên vị trí độc tơn, chế độ
học hành, thi cử được trấn chỉnh. Tuy nhiên những việc làm đó của nhà
Nguyễn vẫn không thể vực lại được nền Nho học, đồng nghĩa với việc
bất lực chứng kiến sự suy đồi, khủng hoảng của Nho giáo.
Đối tượng của văn học thay đổi. Theo đó, những khn vàng thước
ngọc trong văn học trước đây cũng bị phá vỡ. Những tác giả như
Nguyễn Gia Thiều, Đoàn Thi Điểm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du,
Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát,… lần lượt xuất hiện và đem lại cho
văn học một sự thay đổi lớn lao.


19
Trong bối cảnh thời đại có nhiều biến động lớn lao như vậy, Cao Bá
Quát xuất hiện như một nhân tố mới mẻ, lạ lẫm. Ơng khơng cịn tn
theo lý tưởng “trung quân” mù quáng, mà đứng lên chống lại triều đình.
3.2.1.2. Thời đại Trần Tế Xương

Nếu thời Cao Chu Thần mọi việc vẫn còn yên vị theo truyền thống
khoa cử Nho học thì đến thời Trần Tế Xương mọi việc đều có sự can
thiệp của chính quyền thực dân.
Chính quyền tham dự việc thi cử bằng cách thay đổi các môn thi,
nhằm tuyển chọn công chức biết cả Hán ngữ, quốc ngữ và tiếng Pháp.
Kiến thức để dự thi có thêm địa lý, tốn học, và lịch sử, khiến cho
những mơn sinh thuần Nho khó lịng đỗ đạt.
Triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ đã hoàn toàn quy phục và làm
tay sai cho thực dân Pháp, nền Nho học suy tàn, sĩ tử mất phương
hướng. Cảnh trường thi nhốn nháo, quan chủ khảo thì “Văn như hủ nút
chữ như mù”; ơng cử, ơng nghè tồn loại dốt nát, triết học phủ Xuân
Trường chỉ “quen phê một chữ tiền”.
Bị xã hội bất cơng gạt ra ngồi, Tú Xương nhìn cuộc đời bằng con
mắt hằn học, thù ghét. Chính điều đó tạo nên trong thơ ông nội dung
hiện thực sâu sắc. Có học giả phong cho ơng danh hiệu Tú Xương nhà
báo là vì vậy.
Có thể nói, Cao Bá Qt và Trần Tế Xương sống ở hai giai đoạn lịch
sử khác nhau. Chính thời đại đã trở thành nguyên nhân gây nên sự khác
biệt trong nội dung thơ của hai ông. Thời đại của Trần Tế Xương sôi
động và quyết liệt hơn thời đại của Cao Bá Quát, đồng thời cũng có
nhiều hiện thực mới mẻ mà thời của Cao Chu Thần chưa có.
3.2.2. Yếu tố cá nhân
3.2.2.1. Cao Bá Quát có tư tưởng cách tân về xã hội và giáo dục
Thời Cao Bá Quát bắt đầu tiếp xúc với phương Tây. Xã hội vẫn là xã
hội phong kiến. Khoa cử theo Nho học là con đường chính thống của kẻ
sĩ. Đến giữa thế kỷ XIX, nền kinh tế Việt Nam hết sức khủng hoảng, suy
đồi trì trệ. Thêm vào đó, sự tham nhũng, chiếm đoạt của các địa chủ,
quan lại, chế độ tô thuế, lao dịch, ôn dịch, nạn bão lụt, hạn hán, vỡ đê
xảy ra triền miên đã đẩy người dân lao động xuống tận đáy khốn cùng.
Do vậy, giữa thế kỷ XIX đã có hơn 40 cuộc nổi dậy chống nghèo đói

và áp bức, trong đó có cuộc nổi dậy của Cao Bá Quát (1854–1856) ở Hà
Tây là tiêu biểu nhất. Phẫn uất trước thời đại và thương cảnh tình của
người dân, Cao Bá Quát đã đứng lên tập hợp những người nghèo khổ,


20
các tầng lớp sĩ phu, thổ hào, thổ mục và bí mật chuẩn bị một cuộc nổi
dậy chống triều Nguyễn tại Hà Nội.
Sau chuyến đi dương trình hiệu lực đến Hạ Châu, được tiếp xúc với
nền văn hóa phương Tây, tư tưởng Cao Bá Quát đã có những thay đổi.
Trong chuyến đi dài 7 tháng này, nhà thơ đặc biệt ấn tượng với những
con tàu chạy bằng hơi nước của người Anh.
Đến vùng Hạ Châu, Cao Bá Quát gặp nhiều điều mới lạ, ấn tượng
nhất với nhà thơ là hình ảnh người phụ nữ Tây phương năng động,
cùng những tập tục sinh hoạt khác biệt với phụ nữ Việt Nam.
p

.
Sau chuyến đi dương trình hiệu lực năm 1844, Cao Bá Quát đã để lại
cho đời những bài thơ du ký chữ Hán khá đặc sắc. Hồng mao hỏa thuyền
ca (Bài thơ về chiếc tàu chạy bằng hơi nước của người Anh), Dương phụ
hành (Bài hành người phụ nữ Tây phương),... là những bài thơ có tư duy
đổi mới. Những bài thơ này đã mang lại cái nhìn mới, hiểu biết mới cho
dân ta thế kỷ XIX.
3.2.2.2. Trần Tế Xương xót xa trước sự suy tàn của Nho học
Thời của Trần Tế Xương là minh chứng cho sự suy tàn của Nho học,
Nho giáo bị coi khinh, sĩ tử bị xem thường với cái nhìn hài hước, nếu có
đõ đạt thì cũng chẳng được trọng dụng.
Trong xã hội thời Trần Tế Xương xuất hiện nhiều loại người mới như
me Tây, cậu bồi, thầy ký, thầy thơng và những ơng cị. Những người đỗ

trong các kỳ thi ấy cũng không chỉ là những người có tài mà cịn có góp mặt
của nhiều con cái nhà giàu hoặc con quan. Tài năng như Trần Tế Xương thì
khơng đỗ, những kẻ dốt nát lại đỗ. Đó là một bi kịch của Nho sĩ…
3.3. Nguyên nhân và ý nghĩa
3.3.1. Nguyên nhân của sự tương đồng và khác biệt
Cao Bá Quát và Trần Tế Xương đều là những nhà Nho tài hoa. Cả
hai ơng đều có một khắt vọng chung như những nhà Nho truyền thống,
muốn tiến thân bằng con đường học hành, đi thi, mong đỗ đạt để ra làm
quan giúp đời.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc cả hai nhà thơ đều quan
tâm đến vấn đề khoa cử chính là bởi hai ơng sống trong xã hội phong
kiến đã đến hồi suy vong.
Nền Nho học định sẵn con đường cho Nho sĩ: học hành, thi cử, đỗ
đạt. Nếu đỗ thi Hương thì mới được thi Hội, đỗ thi Hội mới được vào



×