Tải bản đầy đủ (.doc) (202 trang)

Thơ nôm tứ tuyệt từ hồ xuân hương đến trần tế xương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 202 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NÔNG VĂN MƯU

THƠ NÔM TỨ TUYỆT TỪ HỒ XUÂN HƯƠNG
ĐẾN TRẦN TẾ XƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên, năm 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NÔNG VĂN MƯU

THƠ NÔM TỨ TUYỆT TỪ HỒ XUÂN HƯƠNG
ĐẾN TRẦN TẾ XƯƠNG

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Gia Võ

Thái Nguyên, năm 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết
quả nghiên cứu là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2017
Tác giả luận văn

Nông Văn Mưu

i


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin gửi lời cảm ơn trân trọng Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau
Đại học, các giảng viên Khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên
cùng gia đình, bạn bè đã động viên, tạo điều kiện cho tôi trong thời gian
học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và cảm ơn sâu sắc đến TS. Ngô
Gia Võ, người đã hết sức tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2017
Tác giả

Nông Văn Mưu

ii


MỤC LỤC

Trang

TRANG BÌA PHỤ

LỜI CAM ĐOAN................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................
ii

MỤC

LỤC

......................................................................................................... iii PHẦN
MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề đề tài ..........................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề...................................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................11
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .....................................................................................11
5.
Đối
tượng,
phạm
......................................................................11

vi

6.
Phương
pháp
................................................................................12


nghiên
nghiên

cứu
cứu

7. Dự kiến đóng góp của luận văn ......................................................................12
8.
Cấu
trúc
luận
............................................................................................13

văn

PHẦN NỘI DUNG...........................................................................................
14
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .......................................................... 14
1.1.
Quan
niệm
về
...........................................................................14

thơ

tứ

tuyệt


1.1.1. Về thuật ngữ tứ tuyệt ...............................................................................
14
1.1.2. Hình thức của một bài tứ tuyệt ................................................................
17
1.2.
Thơ
Nôm
tứ
tuyệt
...................................................18

trước

Hồ

Xuân

Hương

1.2.1. Thơ Nôm tứ tuyệt trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi ....................
iii


19
1.2.2. Thơ Nôm tứ tuyệt trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh
Khiêm... 22
1.3. Hoàn cảnh lịch sử - văn hóa - xã hội, thời đại Hồ Xuân Hương và Trần
Tế Xương..................................................................................................23
1.3.1. Hoàn cảnh lịch sử - văn hóa – xã hội, thời đại Hồ Xuân Hương ............ 23

1.3.2. Hoàn cảnh lịch sử - văn hóa – xã hội, thời đại Trần Tế Xương .............. 25
*
Tiểu
kết
chương
............................................................................................26

iii

1


Chương 2 SỰ VẬN ĐỘNG VỀ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG TƯ TƯỞNG
TRONG THƠ NÔM TỨ TUYỆT TỪ HỒ XUÂN HƯƠNG ĐẾN TRẦN TẾ
XƯƠNG ................................................................................ 28
2.1. Quy mô số lượng .........................................................................................28
2.1.1. Quy mô số lượng thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương ............................. 28
2.1.2. Quy mô số lượng thơ Nôm tứ tuyệt Trần Tế Xương............................... 29
2.2. Hệ thống đề tài chủ đề .................................................................................31
2.2.1. Hệ thống đề tài, chủ đề trong thơ Hồ Xuân Hương ................................ 31
2.2.2. Hệ thống đề tài chủ đề trong thơ Trần Tế Xương ................................... 33
2.3. Giá trị nội dung tư tưởng .............................................................................37
2.3.1. Giá trị nội dung tư tưởng trong thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương ....... 37
2.3.2. Giá trị nội dung tư tưởng trong thơ Nôm tứ tuyệt Trần Tế Xương ......... 47
* Tiểu kết chương 2 ............................................................................................63
Chương 3 SỰ VẬN ĐỘNG VỀ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ NÔM
TỨ TUYỆT TỪ HỒ XUÂN HƯƠNG ĐẾN TRẦN TẾ XƯƠNG
............................................................................................................ 64
3.1. Cấu trúc bài thơ, các vấn đề về niêm, vần, luật, nhịp trong thơ Nôm tứ
tuyệt Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương .............................................. 64

3.1.1. Cấu trúc bài thơ, các vấn đề về niêm, vần, luật, nhịp trong thơ Nôm tứ
tuyệt Hồ Xuân Hương ............................................................................. 64
3.1.2. Cấu trúc bài thơ, các vấn đề về niêm, vần, luật, nhịp, kết cấu trong thơ
Nôm tứ tuyệt Trần Tế Xương .................................................................. 68
3.2. Nghệ thuật ngôn ngữ trong thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương và Trần
Tế Xương ................................................................................................. 72
3.2.1. Nghệ thuật ngôn ngữ trong thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương ............. 72
3.2.2. Nghệ thuật ngôn ngữ trong thơ Nôm tứ tuyệt Trần Tế Xương ............... 76
3.3. Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương và Trần
Tế Xương..................................................................................................82

iv


3.3.1. Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương ...........
82
3.3.2. Nghệ thuật trào phúng trong thơ Nôm tứ tuyệt Trần Tế Xương .............
86
* Tiểu kết chương 3 ............................................................................................93
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................. 100

v


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề đề tài
Diện mạo thơ tứ tuyệt từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX có một quá trình phát
triển lâu dài và tồn tại ở cả hai bộ phận chữ Hán và chữ Nôm. Ở chặng đường
đầu, thơ tứ tuyệt chỉ được viết bằng chữ Hán, đến chặng sau mới xuất
hiện thơ tứ tuyệt chữ Nôm, nội dung cũng chuyển dần từ cảm quan Phật

giáo sang các vấn đề khác như chính trị, triết học và đời sống thế tục...
Khác biệt với thơ chữ Hán, bộ phận thơ tứ tuyệt chữ Nôm đã tạo nên
bảng màu sắc rực rỡ, mới mẻ cả về nội dung và hình thức nghệ thuật. Trong
tến trình phát triển, hai tác giả tiêu biểu cho thể thơ tứ tuyệt viết bằng chữ
Nôm không thể không nhắc đến là Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương. Đây là
hai tác giả có số lượng thơ Nôm tứ tuyệt vào loại nhiều nhất trong lịch sử văn
học thời kỳ Trung đại, chứng tỏ họ đã dành nhiều tâm huyết và tài năng sáng
tạo cho thể thơ này và họ đã rất thành công khi dùng thể thơ tứ tuyệt để trào
phúng.
Từ những đặc điểm nội dung và hình thức đặc thù của thể thơ tứ
tuyệt, qua việc sử dụng hiệu quả từ ngữ giản dị nhưng hàm súc của phép lặp
từ, lặp cấu trúc trong đối liên và tiểu đối, của thủ pháp tỉnh lược, các yếu tố
chỉ chủ thể, các động từ, hư từ, câu thơ tứ tuyệt có thể đạt được yêu cầu
nén chặt thông tn, để mỗi chữ đều có sức nặng tư tưởng, sức ám ảnh,
góp phần tạo nên thành công của các bài tứ tuyệt. Chính sự giản dị của lời
thơ, sự chân thành của tình cảm và tài năng nghệ thuật của các nhà thơ đã
góp phần quan trọng làm cho các bài thơ tứ tuyệt có được sức sống lâu bền
trong tâm hồn người đọc. Bởi vậy, thể thơ này đã được nhiều thế hệ người
đọc đón nhận và yêu thích.
Thơ tứ tuyệt là một thể thơ được coi là “cao diệu” trong thơ
Đường đồng thời cũng là mảng thơ thành công nhất của Hồ Xuân Hương và
1


Trần Tế Xương. Những sáng tác của Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương về
thơ Nôm tứ tuyệt đã đánh dấu quá trình phát triển rực rỡ của thể loại thơ
Nôm Đường

2



luật, khẳng định một bước tiến quan trọng của thơ ca dân tộc. Đồng thời,
đây cũng là mảng thơ quan trọng trong việc khẳng định cá tính sáng tạo và vị
thế của “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương cũng như tài năng nghệ thuật
độc đáo của Trần Tế Xương. Vì vậy, chúng tôi nhận thấy đây là một đề tài
thú vị có thể có những đóng góp nhất định để góp phần khám phá những đặc
điểm độc đáo trong sự nghiệp sáng tác của cả hai nhà thơ.
Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy bộ phận thơ Nôm
tứ tuyệt đã xuất hiện từ thời Nguyễn Trãi và kéo dài đến hết thời kỳ trung
đại, với các tác giả lớn như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, tạo
thành một dòng chảy riêng biệt và có những đóng góp độc đáo về phương
diện nội dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật. Qua quan sát và
khảo sát bước đầu, kết quả cho thấy hai tác giả Hồ Xuân Hương và Trần Tế
Xương có số lượng thơ Nôm tứ tuyệt nhiều nhất. Bên cạnh việc dùng thơ
Nôm tứ tuyệt sáng tác theo các đề tài, chủ đề truyền thống, hai tác giả
này còn dùng thơ Nôm tứ tuyệt để trào phúng, mở ra nhữngphương diện
mới về khả năng chiếm lĩnh và phản ánh hiện thực của thơ Nôm tứ tuyệt.
Đặc biệt, giá trị trào phúng trong thơ Nôm tứ tuyệt của Hồ Xuân Hương và
Trần Tế Xương, được hình thành từ những điều kiện lịch sử - văn hoá - xã
hội đặc thù cũng như thân thế và cá tính sáng tạo của hai tác giả. Đi tìm
hiểu hành trình thơ Nôm tứ tuyệt từ Hồ Xuân Hương đến Trần Tế Xương,
rất có thể ta phát hiện ra những quy luật vận động, phát triển của thể thơ
này trong giai đoạn từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX. Tuy vậy, cho đến
nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu về thơ Nôm tứ tuyệt
của hai nhà thơ Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương, để từ đó có cái nhìn tổng
quát hơn và chỉ ra được những điểm tương đồng, điểm khác biệt giữa hai tác
giả, cũng như những đóng góp của họ trong tến trình phát triển của thơ



Việt Nam thời kỳ Trung đại. Mặc dù vấn đề nghiên cứu thơ Hồ Xuân
Hương và Trần Tế Xương không còn là điều mới


mẻ, những sáng tác của họ đã có rất nhiều tác giả, nhiều công trình đề cập
đến nhưng tiến trình phát triển của thơ Nôm tứ tuyệt từ Hồ Xuân Hương
đến thơ Nôm tứ tuyệt Trần Tế Xương vẫn chưa trở thành đối tượng nghiên
cứu chính của bất cứ công trình nào. Do vậy, đề tài luận văn Thơ Nôm tứ
tuyệt từ Hồ Xuân Hương đến Trần Tế Xương sẽ tổng hợp và đánh giá
toàn diện tến trình phát triển của thơ Nôm tứ tuyệt từ Hồ Xuân Hương đến
Trần Tế Xương, khẳng định thành tựu nghệ thuật đặc sắc của hai tác giả
quan trọng này. Người viết hi vọng luận văn này sẽ là tài liệu tham khảo hữu
ích cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập văn học Trung đại nói chung và
thơ văn Hồ Xuân Hương cũng như Trần Tế Xương nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương là hai nhà thơ lớn của dân tộc bởi
vậy việc sưu tầm, dịch thuật, nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp thơ văn
của họ là vấn đề được quan tâm chú ý nhiều năm qua. Do đó, từ đầu thế kỷ
XX đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về hai tác giả này.
2.1. Tác gia Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương nổi tếng với những sáng tác bằng chữ Nôm. Đã có
nhiều công trình và nhiều bài viết về thơ Hồ Xuân Hương ngay từ trước Cách
mạng, có thể kể đến những tác giả như Tản Đà, Nguyễn Hữu Tiến, Trương
Tửu, Nguyễn Văn Hanh…
Sau cách mạng tháng Tám, rất nhiều công trình nghiên cứu công
phu về Hồ Xuân Hương đã xuất hiện. Nhà nghiên cứu Trương Tửu cho rằng:
“Hồ Xuân Hương là một thiên tài đặc biệt của Việt Nam và bình dân. Thiên
tài ấy phát hiện ra ở ba đặc tính là trữ tình, trào phúng, huê nguyệt”[52,
tr.78]. Theo Trương Tửu, “Trong ba đặc tính ấy cái dâm là căn bản não trạng
Hồ Xuân Hương. Hai đặc tính kia cũng nảy nở dưới ánh sáng của cái dâm đó.

Ta cũng có thể nói như thế này: cái nhãn quan độc nhất của Hồ Xuân Hương


về sự vật là một nhãn quan dâm”[52, tr.78]. Sau đó, tác giả kết luận: “Cái
cười


của Hồ Xuân Hương cũng tết bằng hình tượng giao hợp. Cái cười, cái giận,
cái nhớ ở thi sỹ đều có tính cách tiếu lâm, câu đố, ca giao huê nguyệt và đều
chống đối tục lệ hay ý thức hệ cá nhân phong kiến”[52, tr.84]. Trong những
đánh giá trên, Trương Tửu đã gắn liền Hồ Xuân Hương và thơ Hồ Xuân
Hương với cái dâm. Tác giả cũng đánh giá rất cao thơ trào phúng của bà.
Tác giả Nguyễn Sĩ Tế thì cho rằng: “Khuynh hướng thi ca của Hồ Xuân
Hương là khuynh hướng tnh cảm trào phúng”[43, tr.90]. Cũng theo Nguyễn
Sĩ Tế thì ở Hồ Xuân Hương: “Thơ tình cảm và thơ trào phúng phối hợp chặt
chẽ đến nỗi nếu tách rời nhau thì thơ Hồ Xuân Hương đổi hẳn bộ dạng,
không còn là thơ Hồ Xuân Hương nữa”[43,tr.89]. Sau khi đã đưa ra những
dẫn chứng về thơ trào phúng trong cuộc sống, trong văn chương nói chung
và trong văn chương bác học nói riêng, ông đã khẳng định: “Thơ trào phúng
không còn là điều mới lạ. Cái mới lạ của nó trong câu chuyện này là nó đã
kết phát nhằm đúng một con người mà không ai ngờ tới, một người đàn
bà, vào một thời mà người đàn bà chỉ được xã hội giành cho một “chỗ ngồi”
nhỏ bé riêng trong gia đình Hồ Xuân Hương. Có thể nói Hồ Xuân Hương là
phần tử nữ giới đầu tiên đã làm thơ để chế giễu đời ở nước ta”[43, tr.101].
Tác giả Phạm Thế Ngũ lại bàn luận về những đặc sắc trong thơ Hồ
Xuân Hương, đề cập tới vấn đề “hình ảnh dâm tục” và viết: Đọc thơ Hồ Xuân
Hương, Tản Đà có phê một câu là: “Thi trung hữu quỷ”: “Thật vậy, trong hầu
hết nếu không phải là toàn thể các bài thơ của Hồ Xuân Hương, người đọc
đều có thể tm ra một cảnh tượng dâm tục gây ra sự quyến rũ ma quái.
Tác giả thường đem hình ảnh của cái giống (lesexe) hoặc cử động tính giao

(Iacte sexuel) mà gửi gắm bóng gió vào đó những bài tả đồ vật, vịnh sử việc
hay phong cảnh”[27, tr.112]. Phạm Thế Ngũ cũng một phần đồng ý với
quan niệm Trương Tửu khi gắn hình ảnh “dâm tục” là một trong những đặc
điểm


của thơ Hồ Xuân Hương.


Tác giả Nguyễn Hồng Phong cũng đã đánh giá rất cao thơ trào phúng
Hồ Xuân Hương : “Thi sĩ Xuân Hương là một thi sĩ châm biếm trào lộng và
trữ tình, mà châm biếm trào lộng là chủ yếu. Ngay những lúc trữ tnh tha
thiết nhất, nàng cũng vẫn cười cợt, mỉa mai. Với những cái vũ khí ấy, Xuân
Hương đánh cho đẳng cấp phong kiến những đòn tnh thần rất sâu cay độc
địa, cái độc địa của một thứ thuốc đắng. Tất cả những gì mà xã hội
phong kiến thường đề cao, thường cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm,
thường quét một lớp vàng son lộng lẫy bên ngoài thì trong thơ nó đều trở
thành những cái tầm thường, lố bịch, tục tĩu, những cái nhỏ bé đáng thương
hại” [33, tr.124]. Tác giả khẳng định tài năng nghệ thuật độc đáo của Hồ
Xuân Hương: “Xuân Hương chơi chữ là để trào lộng hoặc mỉa mai châm
biếm, làm cho câu thơ trở nên duyên dáng vô cùng. Xuân Hương là nhà thơ
thi sĩ độc nhất dùng những lời nói rất thông thường nôm na, giản dị vào
trong thơ mà dùng một cách rất khéo léo, rất táo bạo. Xuân Hương cũng
là nhà thi sĩ độc nhất có ngòi bút tả thực một cách sắc sảo, có một bút pháp
tả thực và trào lộng bậc thầy. Về bút pháp tả thực trừ Nguyễn Du, tất cả các
nhà thơ dưới thời phong kiến không ai có thể sánh với Hồ Xuân Hương”[33,
tr.134]. Tác giả Nguyễn Hồng Phong rất khâm phục tài thơ của Hồ Xuân
Hương đặc biệt là tài trào lộng mỉa mai và châm biếm vào “bậc thầy” và
“độc nhất” của văn học Việt Nam trung đại.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc nói về Hồ Xuân Hương: “Thơ Hồ Xuân

Hương một mặt thông cảm, bênh vực phụ nữ, đề cao ngời phụ nữ, mặt
khác đả kích tất cả những nhân vật tiêu biểu của xã hội phong kiến từ đám
sĩ tử, nhà sư, đến bọn quan lại, những hiền nhân quân tử và trên tất cả là
bọn vua chúa. Bà vạch trần lối sống đạo đức giả, trái tự nhiên của bọn
chúng. Hồ Xuân Hương kế thừa truyền thống của truyện tếu lâm dân gian
thường dùng cái tục làm phương tiện đả kích. Nghệ thuật đả kích của bà


sắc bén “đánh một cái chết tươi”[22, tr.28]. Tác giả dành một phần lớn
trong công trình của


mình để đi sâu tìm hiểu thơ trào phúng và khẳng định thơ Hồ Xuân Hương là
sản phẩm của một “đầu óc tỉnh táo, một lí trí lành mạnh”,“bà là một nghệ sĩ
chân chính”, “chứ không thể coi là một nhà thơ dâm đãng được”[22, tr.285286]. Có thể nói, Nguyễn Lộc là một trong những người đánh giá khá toàn
diện và đúng mực giá trị thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương.
Trong cuốn Ba thi hào dân tộc, nhà thơ Xuân Diệu đã xếp Hồ Xuân
Hương là một thi hào bên cạnh những tên tuổi lớn của dân tộc như Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du. Điều này cho thấy Xuân Diệu rất đề cao Hồ Xuân Hương.
Hơn nữa, với cách cảm nhận thơ và cách đánh giá của một thi sĩ, Xuân Diệu
đã tôn bà là “Bà chúa thơ Nôm” và viết “Chúa đây là một cách nói như „hoa
hồng là chúa hoa‟ chứ không phải là ông hoàng, bà chúa. Thơ Hồ Xuân
Hương đã làm cho chữ „nôm na‟ không đồng nghĩa với „mách qué‟ nữa, mà
nôm na là đồng nghĩa với thuần tuý, trong trẻo, tuyệt vời. Bà chúa thơ Nôm
là chúa cả nội dung và hình thức”[4, tr.486]. Xuân Diệu cũng đã phân tích rất
nhiều tác phẩm thơ Nôm Hồ Xuân Hương để khẳng định tài năng độc đáo
của bà, đặc biệt là tài năng sáng tác thơ Nôm trào phúng. Với năng lực bình
thơ tinh tế, Xuân Diệu đã để lại những trang viết tài hoa và đầy ấn tượng
về thơ Hồ Xuân Hương.
Tác giả Ngô Gia Võ tập trung công sức nghiên cứu và đã có rất nhiều

bài viết về thơ Hồ Xuân Hương. Tác giả khẳng định: “Hồ Xuân Hương đả
kích phê phán để mà ca ngợi, khẳng định và bênh vực. Đó là giá trị nhân đạo
quan trọng nhất trong tác phẩm của bà. Và giá trị này là ngọn nguồn quan
trọng nhất khiến cho thơ Hồ Xuân Hương tươi thắm với thời gian, vượt qua
biên giới, hấp dẫn cả những bạn bè xa gần trên thế giới”[56, tr.72]. Tác giả
còn góp phần lí giải hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương [89], và cho rằng: “hiện
tượng cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương có nguyên nhân tổng hợp từ nhiều
điều kiện cụ thể” trong đó có điều kiện “hoàn cảnh lịch sử- thời đại”, điều


kiện “cảnh đời và cá tính sáng tạo”, điều kiện “ảnh hưởng trực tiếp của văn


học dân gian”, điều kiện “sản phẩm của một trào lưu nhân văn” và điều kiện
“sản phẩm của tư duy trung đại”. Đặc biệt, tác giả đã có một công trình
nghiên cứu rất công phu về thơ Hồ Xuân Hương với nhan đề: Hồ Xuân
Hương với dòng thơ Nôm Đường luật trào phúng, trong đó tác giả đã đề
cập đến đối tượng trào phúng, nguồn gốc cảm hứng trong thơ trào phúng
chống phong kiến của Xuân Hương. Từ đó đưa ra nhận xét: “Thứ nhất Hồ
Xuân Hương đề cao tài năng, trí tuệ và đặc biệt là yêu cầu hạnh phúc tình
dục, chống lại sự phủ định nhu cầu tình dục và tình dục tự do. Thứ hai, bà
chống lại sự lí tưởng hoá đối với những quyền uy trung đại như cường quyền,
thần quyền và nam quyền trên các phương diện danh vị xã hội, thực chất khả
năng trí tuệ… Thứ ba Hồ Xuân Hương chống lại những tập tục phong kiến
khắc nghiệt, vô nhân đạo đối với người phụ nữ”[55, tr.125]. Tác giả còn cho
rằng: “Trong tiến trình văn học viết dân tộc, Hồ Xuân Hương đã sử dụng đầy
sáng tạo một phương tiện nghệ thuật “đặc dị” là cái “tục” để xây dựng tiếng
cười trào phúng độc đáo của mình. Đây là một phương tiên nghệ thuật
lớn bao hàm trong nó nhiều phương diện nghệ thuật khác ở cấp độ nhỏ hơn
như ngôn ngữ, kết cấu, hình ảnh…”[55, tr.133]. Sau đó, tác giả đi sâu khám

phá nghệ thuật trong thơ Nôm Đường luật của Hồ Xuân Hương, đặc biệt là
nghệ thuật cái tục trong thơ bà và đưa ra kết luận “Một lần nữa cần khẳng
định Hồ Xuân Hương là một tác giả trào phúng lớn đã kết tinh tổng hợp và
phát triển những thành tựu trào phúng đa dạng từ trước đó qua hai nguồn
văn học dân gian và văn học viết, đặc biệt là qua thơ Nôm Đường luật trào
phúng”[54, tr.188], và “Hồ Xuân Hương là một đỉnh cao của dòng thơ Nôm
Đường luật trào phúng Việt Nam”[55, tr.193].
2.2. Tác gia Trần Tế Xương
Tú Xương là người suốt đời lận đận trong con đường “hoạn lộ” mà vẫn
không thành danh, do đó văn chương của ông đương thời ít được ghi chép


lại. Vì thế, việc nghiên cứu thơ Tú Xương giai đoạn trước 1945 cũng chưa
được


đặt ra đúng mức. Tuy nhiên, nghiên cứu văn học giai đoạn này vẫn đạt được
những thành tựu nhất định. Cuốn Trông dòng sông Vị (Trần Thanh Mại 1935) đã khẳng định Tú Xương là nhà thơ trào phúng, trong đó những bài
thơ giả giọng phong lưu chiếm một phần quan trọng nhất trong cuộc đời
sáng tác của ông. Đó là những tiếng cười gàn “Cười ra nước mắt”. Có thể nói,
đây là tập phê bình văn học đầu tên về Tú Xương có tính công phu, hệ thống
nhất ở giai đoạn này.
Việc sưu tầm nghiên cứu, phê bình thơ văn Tú Xương còn có tác giả:
Vũ Đăng Văn với Thân thế và thơ văn Tú Xương (1951- NXB Cây Thông, Hà
Nội), tác giả Nguyễn Duy Diễn với Luận đề Trần Tế Xương (1953), ông đã đề
cao và coi Tú Xương là ông tổ trào phúng Việt Nam.
Việc nghiên cứu thơ Tú Xương thực sự phát triển mạnh mẽ kể từ sau
1954, đặc biệt từ lễ kỉ niệm 50 năm ngày mất của nhà thơ (29/1/1907
29/1/1957). Nhà nghiên cứu Trần Thanh Mại được xem là một trong những
người có công phát hiện và nghiên cứu sớm nhất về Tú Xương, người có

nhiều bài viết nhất về Tú Xương trong đó có bài tiểu luận Đấu tranh chống
lại quan điểm sai lầm về Tú Xương. Trong bài viết này, ông đã kiên quyết
bảo vệ nhà thơ trước những cách hiểu sai lạc và tiếp tục khẳng định
Tú Xương là một nhà thơ lớn. Cũng trong năm này, công trình nghiên cứu,
giới thiệu văn thơ Tú Xương do Hoàng Ngọc Phách - Lê Thước - Đỗ Đức
Hiểu biên soạn giới thiệu (NXB Bộ Giáo dục, HN, 1957) có tác động tích
cực trong việc nghiên cứu Trần Tế Xương. Vấn đề nghiên cứu thơ văn Tú
Xương càng được nhấn mạnh hơn khi các nhà nghiên cứu giảng dạy văn
học nhóm Lê Quý Đôn trong bộ giáo trình văn học sử đã xác định: “Tú
Xương là một tác gia văn học lớn, là nhà thơ có biệt tài là người vận dụng
ngôn ngữ một cách tài tình”, từ đó đi đến kết luận: “Sau Hồ Xuân Hương,


trong thời kì văn học cận đại, Tú Xương là nhà thơ kế nghiệp xứng đáng nhất
của văn thơ trào


phúng nhân dân cả về phương diện tư tưởng và nghệ thuật” (Đỗ Đức Hiểu,
thơ văn Tú Xương trong sách Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam tập 3,
NXB Xây dựng, HN 1957).
Đến năm 1958, nhà nghiên cứu Văn Tân trong bài: Tính chất và giá trị
nhân văn thơ trào phúng của Tú Xương trong sách Văn học trào phúng Việt
Nam quyển 3 NXB Văn Sử Địa, HN, [41, tr.5-66] đã đặt Tú Xương trong dòng
mạch thơ ca trào phúng dân tộc bên cạnh nhiều đại biểu ưu tú như: Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Mỡ…Trong bài viết này, ở phần tính chất và giá
trị thơ văn trào phúng Tú Xương, tác giả đã phân tích một cách sâu sắc các
nội dung: “Cá tính Tú Xương hay những nhân tố tạo thành, ý thức tư tưởng
Tú Xương”, “nội dung tư tưởng Tú Xương”, “Tú Xương với cái túng”, “Tú
Xương với cái tết”. Đặc biệt, tác giả rất chú ý các phương tiện nghệ
thuật: “Tạo ra những hiện tượng không thể có để có cớ mà mỉa mai

trào lộng”, hay “Vạch ra những mâu thuẫn sự vật để giễu cợt, châm biếm,
đưa lên mây xanh để nếm xuống bùn đen, không chửi mà hoá chửi, ít lời
nhiều ý, kết thúc đột ngột bất ngờ, hình ảnh trong thơ Tú Xương…”[41, tr.566].
Tiếp đó phải kể đến công trình: Tú xương - con người và thơ văn
(NXB Văn hoá, HN, 1961) của hai tác giả Trần Thanh Mại - Trần Tuấn Lộ là
công trình tếp tục nghiên cứu sâu hơn về Tú Xương. Ngoài ra, những nhà văn
nhà thơ quen thuộc với chúng ta như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân cũng
có những bài viết nghiên cứu về thơ Tú Xương; Nguyễn Công Hoan với bài
“Về việc nghiên cứu thơ Tú Xương”, (Tạp chí Văn học số 3) [14, tr.120-125];
Nguyễn Tuân với bài “Thời và thơ Tú Xương”( Tạp chí văn học số 11/1969)
[50, tr.18], là những bài viết sâu sắc góp phần khai mở cho người đọc hiểu
sâu hơn về thời đại và con người Tú Xương.
Sau khi nước nhà hoàn toàn độc lập thống nhất, việc nghiên cứu


×