Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Mâu thuẫn biện chứng và biểu hiện của nó trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.81 KB, 24 trang )

Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT

A. ĐẶT VẤN ĐỀ.....................................................................................................1
B. NỘI DUNG..........................................................................................................2
1. KHÁI NIỆM VỀ MÂU THUẪN...........................................................................2
2. QUI LUẬT MÂU THUẪN LÀ NGUỒN GỐC, ĐỘNG LỰC CỦA MỌI VẬN
ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN.........................................................................................2
2.1. Nội dung của qui luật :..................................................................................2
2.2. Vai trò của qui luật mâu thuẫn trong hoạt động thực tiễn của con người.............4
3. TÍNH TẤT YẾU PHẢI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM...................................................5
4. NHỮNG MÂU THUẪN TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT
TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HÔI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM..........................................................................................................7
4.1. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mâu thuẫn cơ bản
trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.. . .8
4.2. Cơ chế thị trường và những mâu thuẫn xung quanh nó..........................10
4.3. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích xã hội.............12
4.4. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội
chủ nghĩa.............................................................................................................. 14
4.5. Thực trạng và những mâu thuẫn nảy sinh giữa các thành phần kinh tế ở
nước ta................................................................................................................. 16
4.6. Tính tự phát và tính tự giác là hai mặt đối lập trong quá trình phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.......................................19
4.7. Mâu thuẫn giữa lợi ích của người lao động và lợi ích của người thuê mướn
lao động................................................................................................................ 20
C. KẾT LUẬN.......................................................................................................22
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................23




Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Công cuộc đổi mới của Việt Nam thời gian qua đã thực sự đem lại nhiều kết
quả to lớn, làm thay đổi bộ mặt đất nước và cuộc sống nhân dân, củng cố vững chắc
vị thế đất nước và dân tộc ta trên trường quốc tế. Nhân tố quan trọng nhất quyết
định thành cơng của sự nghiệp đổi mới đó là chiến lược phát triển kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, được khởi xướng từ sau đại hội Đảng lần thứ VI.
Ăng Ghen nói: “ Sự phát triển của chính trị, luật pháp, triết học, tơn giáo, văn
học, nghệ thuật đều dựa trên cơ sở phát triển kinh tế ”. Kinh tế là nền tảng vững
chắc cho mọi hoạt động vật chất của con người, là yếu tố quan trọng nhất của đời
sống xã hội. So với thế giới, nước ta vẫn là một nước đang phát triển, nền kinh tế
cịn gặp rất nhiều khó khăn, những tàn dư của chế độ tập trung quan liêu bao cấp
vẫn còn tồn tại khá nhiều. Khi chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, thì ngồi những khó khăn về kinh tế, cịn tồn tại những mâu thuẫn giữa cái cũ
và cái mới, kìm hãm sự phát triển. Chính vì thế mà việc nghiên cứu tìm ra hướng đi
đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp với
khu vực, thế giới và thời đại là hết sức cần thiết.
Nghiên cứu tiểu luận: “Mâu thuẫn biện chứng và biểu hiện của nó trong
q trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” dưới góc độ triết học,
trong tổng thể các mối quan hệ biện chứng, sẽ giúp chúng ta hiểu một cách sâu sắc
hơn, bản chất hơn những vấn đề xung quanh việc phát triển kinh tế.

1



Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi

B. NỘI DUNG
1. KHÁI NIỆM VỀ MÂU THUẪN

Mâu thuẫn của sự vật, của thế giới đã được rất nhiều nhà triết học trong lịch
sử bàn đến. Chẳng hạn, thuyết âm dương ngũ hành của Trung Hoa đã đề cập tới các
mâu thuẫn Âm – Dương, mâu thuẫn giữa các yếu tố bản nguyên Kim, Mộc, Thuỷ,
Hoả và Thổ. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Hêraclít cũng nhẫn mạnh mâu thuẫn của
các hiện tượng, quá trình khách quan. Hêghen đề cập tới mâu thuẫn của tư duy. Nói
chung, các quan niệm trên đều đã mô tả mâu thuẫn khách quan nhưng chưa làm rõ
được sự chuyển hoá biện chứng của các mặt đối lập. Vì thế, khái niệm mâu thuẫn
cịn nặng về hình thức mà chưa đi sâu vào nội dung biện chứng của các mặt đối lập.
Đến triết học Mác - Lênin đã đưa ra một khái niệm khoa học về mâu thuẫn:
Mâu thuẫn là sự thống nhất của các mặt đối lập.
Như vậy, có hai điều kiện để xác định một mâu thuẫn biện chứng: Thứ nhất là, các
xu hướng đối lập nhau. Thứ hai là, các xu hướng là điều kiện tồn tại và phát triển
của nhau.
Tuy nhiên, theo cách hiểu biện chứng, cần lưu ý không phải mọi cái đối lập
đều tạo nên mâu thuẫn mà chỉ có những xu hướng đối lập nào là tiền đề tồn tại của
nhau mới tạo thành mâu thuẫn.
2. QUI LUẬT MÂU THUẪN LÀ NGUỒN GỐC, ĐỘNG LỰC CỦA MỌI VẬN ĐỘNG VÀ
PHÁT TRIỂN

2.1. Nội dung của qui luật :
Qui luật mâu thuẫn còn được gọi là qui luật thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập, là một trong ba qui luật của phép biện chứng. Nghiên cứu qui luật này
để thấy rõ được nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển

Trong thế giới vô vàn sự vật hiện tượng, mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại được
đều là một thể thống nhất được tạo thành bởi các mặt, các thuộc tính, các khuynh
hướng đối lập nhau và phát triển ngược chiều nhau, tạo thành mâu thuẫn tồn tại
trong lịng sự vật hiện tượng đó.

2


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi

Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện cho đến sự vật kết thúc. Trong cùng
một sự vật, hiện tượng không chỉ có một mâu thuẫn mà có thể có rất nhiều mâu
thuẫn, khi mâu thuẫn này được giải quyết thì mâu thuẫn khác lại hình thành... và cứ
như vậy thế giới vật chất luôn vận động, biến đổi không ngừng.
a) Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến.
Trong quan điểm của triết học Mác thì rõ ràng vật chất tự thân vận động, nó
hồn tồn khơng phụ thuộc vào một lực lượng siêu nhiên nào, kể cả con người.
Chính vì vậy mà khi thừa nhận mâu thuẫn là nguồn gốc của vận động thì nó đã bao
hàm mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan, nó khơng những không lệ thuộc vào
ý thức của con người mà còn chi phối, qui định cả hoạt động thực tiễn của con
người.
Mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy con
người. Trong xã hội, có những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng...
b) Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Đối lập là sự khái quát những mặt, những thuộc tính, khuynh hướng phát
triển ngược chiều nhau, cùng tồn tại bên trong sự vật, hiện tượng và tạo nên sự vật
hiện tượng đó.

Khơng phải bất kì hai mặt đối lập nào cũng hình thành nên mâu thuẫn. Bởi
chính bên trong sự vật đã có rất nhiều mặt đối lập, chỉ có những mặt đối lập nào
thống nhất với nhau như một chỉnh thể mới tạo thành mâu thuẫn.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau là điều kiện tồn
tại của nhau. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì khơng
tồn tại sự vật đó. Bởi vậy, sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện khơng thể
thiếu trong bất kì sự vật hiện tượng nào.
Đấu tranh giưã các mặt đối lập là điều tất yếu trong cùng một sự vật, đó là
động lực phát triển của bản thân sự vật hiện tượng ấy. Chính vì vậy mà Lênin khẳng
định: “Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Đấu tranh diễn ra
trong một thể thống nhất, từ đó sẽ sự phá vỡ thể thống nhất cũ và thiết lập một thể
thống nhất mới và làm cho sự vật vận động và phát triển. Bản chất của quá trình đấu

3


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi

tranh đó là sự triển khai của các mặt đối lập, diễn ra vô cùng phức tạp và được chia
làm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn thể hiện một đặc điểm riêng.
Khi bàn luận về mối quan hệ thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập,
Lênin khẳng định rõ: “ Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện tồn tại của sự vật, hiện
tượng, và thơng qua nó chúng ta nhận biết được sự vật hiện tượng tồn tại trong thế
giới khách quan. Song bản thân sự thống nhất chỉ tương đối tạm thời. Đấu tranh
giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra trong suốt q trình tồn tại của
mình”. Như vậy thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập luôn diễn ra liên tục, và
đó chính là cơ sở để giải thích vì sao vật chất tự thân vận động.
c) Sự chuyển hoá của các mặt đối lập

Như chúng ta đã biết, không phải bất kì sự đấu tranh nào của các mặt đều
dẫn đến sự chuyển hố giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát
triển đến một mức độ nhất định, hội tụ tất cả các điều kiện cần thiết thì mới dẫn đến
sự chuyển hố, bài trừ phủ định lẫn nhau.
Khi có sự chuyển hố của các mặt đối lập, thì lúc đó mâu thuẫn được giải
quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Quá trình này diễn ra hết sức phức tạp,
phong phú nhiều vẻ.
Nói tóm lại, trong thế giới vơ vàn sự vật, hiện tượng, sự vật hiện tượng nào cũng
chứa đựng mâu thuẫn được thể hiện ở những mặt, những thuộc tính, khuynh hướng
phát triển trái ngược nhau. Khi mâu thuẫn này được giải quyết thì sự vật mới ra đời kéo
theo mâu thuẫn mới tồn tại trong sự vật đó...Cứ như vậy thế giới vật chất của chúng ta
luôn vận động biến đổi. Với câu nói nổi tiếng của Hêracrít càng minh chứng rõ điều
này: “Khơng ai có thể tắm trên cùng một dịng sơng” .
2.2. Vai trị của qui luật mâu thuẫn trong hoạt động thực tiễn của con người
Mâu thuẫn là hiện tượng phổ biến, nó tồn tại trong mọi mặt của đời sống xã
hội dưới nhiều hình thức khác nhau: mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngồi,
mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn khơng cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ
yếu, mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Trong hoạt động thực tiễn, mâu thuẫn tồn tại dưới nhiều hình thức khác
nhau, việc phân tích mâu thuẫn có ý nghĩa rất quan trọng. Như chúng ta đã biết,
trong mỗi một sự vật, hiện tượng, khơng chỉ có một mâu thuẫn mà cùng một lúc có

4


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi

thể có rất nhiều mâu thuẫn. Việc giải quyết mâu thuẫn là điều tất yếu, nhưng không

thể cùng một lúc chúng ta giải quyết được tất cả các mâu thuẫn. Chính vì thế mà
phải xác định xem mâu thuẫn nào cần phải giải quyết trước. Chủ tịch Hồ Chí Minh
nói: “Bất cứ địa phương nào, cơ quan nào, thường trong một lúc có nhiều cơng việc
trọng yếu. Trong một thời gian đó, lại có một cơng việc trọng yếu nhất và vài ba
việc trọng yếu vừa. Người lãnh đạo trong địa phương hoặc cơ quan đó phải xem xét
kĩ hồn cảnh mà sắp đặt cơng việc cho đúng. Việc chính, việc gấp thì làm trước.
Khơng nên luộm thuộm, khơng có kế hoặch, gặp việc nào làm việc ấy, thành thử
việc nào cũng là việc chính, lộn xộn, khơng có ngăn nắp “
Ví dụ: Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội
hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu là: Tiến hành cải tổ không theo một trình tự rõ
ràng, đã có sự phê phán đối với “sự trì trệ” nhưng khơng xác định được mâu thuẫn
nào cần được giải quyết trước, và chúng được thực hiện theo sự nhất quán nào, vào
thời gian nào,trong điều kiện nào. Từ đó dẫn đến hiện tượng luống cuống, hỗn độn,
mất ổn định của Nhà nước và xã hội.
Trong hoạt động thực tiễn, phát hiện và nhận thức mâu thuẫn là rất quan
trọng, không nên lảng tránh và che dấu mâu thuẫn. Hơn nữa, mâu thuẫn được giải
quyết bằng quá trình đấu tranh theo qui luật khách quan. Cho nên trong đời sống xã
hội chúng ta phải coi hành vi đấu tranh là chân chính.
3. TÍNH TẤT YẾU PHẢI XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Đại hội Đảng lần thứ VI có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu bước ngoặt chuyển đất
nước ta sang thời kì mới, thay thế nền kinh tế hiện vật với cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp, sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế
vừa dựa trên những nguyên tắc và qui luật của KTTT, vừa dựa trên nguyên tắc và
bản chất của CNXH. Do đó, KTTT định hướng XHCN có hai nhóm nhân tố cơ bản
tồn tại trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là nhóm nhân tố đóng
vai trị như là “động lực” thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển nhanh và nhóm


5


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi

nhân tố của xã hội XHCN, đóng vai trị hướng dẫn, chỉ định sự vân động của nền
kinh tế theo những mục tiêu đã xác định.
Vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hết sức quan trọng.
Sự quản lý của Nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu
quả, đặc biệt là sự đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội. Không có ai ngồi Nhà
nước lại có thể giảm bớt được sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và
nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa các vùng của đất nước...Chính vì
vậy mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đặc trưng cơ bản
của nước ta, nó hồn tồn khác với mơ hình kinh tế thị trường của các nước trên thế
giới.
Mơ hình kinh tế hiện vật chỉ phù hợp trong thời chiến, lúc đó chúng ta cần
tập trung tồn bộ sức người, sức của để phục vụ cho tiền tuyến. Nhưng trong thời
bình, mơ hình đó tỏ ra khơng phù hợp và thực chất đó là mơ hình phi kinh tế. Hơn
thế, đất nước ta sau chiến tranh rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội: sản
xuất đình đốn, lạm phát tăng vọt, đất nước bị bao vây kinh tế, đời sống nhân dân hết
sức khó khăn ... Duy trì mơ hình hiện vật, khơng những khơng giải quyết được vấn
đề hiện có mà nó cịn cho thấy rõ khuyết tật bên trong kìm hãm sự phát triển: nền
kinh tế khơng có động lực, khơng có sức đua cạnh tranh, khơng phát huy được tính
chủ động sáng tạo của người lao động, của các chủ thể sản xuất kinh doanh, sản
xuất không gắn với nhu cầu, ý chí chủ quan đã lấn áp ý chí khách quan và triệt tiêu
mọi động lực và sức mạnh nội sinh của bản thân nền kinh tế, làm cho nền kinh tế
suy thoái, thiếu hụt hiệu quả thấp, nhiếu mục tiêu của chủ nghĩa xã hội không được
thực hiện.

Thực tế cho thấy, sự phát triển của thị trường tự do chen lẫn thị trường có tổ
chức, sự lẳng lặng vi phạm các qui tắc, các chuẩn mực lúc bấy giờ là những phản
ánh sự bất lực của một cơ chế quản lý cứng nhắc. Đứng trước tình hình đó, Đảng đã
kịp thời có những chuyển biến, bắt đầu uốn nắn những lệch lạch trong phong trào
hợp tác hố, cơng nghiệp hố đến việc thay đổi thể chế chính sách. Nghị quyết
Trung ương lần thứ VI được đánh dấu như một cái mốc trong quá trình chuyển đổi
cơ chế quản lý kinh tế: cho sản xuất bung ra, thừa nhận quan hệ hàng hố - tiền tệ,
cho tự do lưu thơng. Và như thế nền kimh tế hàng hoá nhiều thành phần ra đời, tạo

6


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi

tiền đề cần thiết để chuyển sang nền kinh tế thị trường. Đó là một hệ quả tất yếu, là
bước phát triển không thể thiếu trong nền kinh tế
Trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta chủ trương
thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, đó chính là nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát
triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại
gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý
và phân phối.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa Quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đó chính là mơ hình kinh tế

tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
4. NHỮNG MÂU THUẪN TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HÔI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT
NAM.

Sau đại hội Đảng lần thứ IV, đất nước ta bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới
toàn diện, và cho đến nay đã thực sự đem lại kết quả to lớn trong mọi mặt của đời
sống xã hội: Thu nhập của người dân tăng cao, chất lượng y tế, giáo dục không
ngừng được cải thiện….Tuy vậy, bên cạnh những kết quả mà ta đạt đượcchúng ta
cũng gặp rất nhiều những khó khăn. Trước hết phải nói đến điểm xuất phát của ta
khi chuyển dịch cơ chế, từ nền kinh tế yếu kém, mang đậm tính tự cung, tự cấp sang
nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường địi hỏi phải có sự tích luỹ dồi
dào, khoa học cơng nghệ phát triển và một nền kinh tế vững mạnh ...Tiếp theo đó là
cơ chế quản lý của Nhà nước, mặc dù đường lối của Đảng đặt ra là đúng đắn, nhưng
việc thực hiện nó khơng đồng bộ. Ý thức hệ cịn chưa được rõ ràng, tác phong cá
nhân yếu kém... Chính những khó khăn trong quá trình xây dựng và phát triển kinh
tế thị trường, đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn kìm hãm bước phát triển.

7


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi

4.1. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mâu thuẫn cơ bản
trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, thì vấn đề lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp. xét trên phương

diện triết học, thì lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là ý thức, lực
lượng sản xuất là yếu tố động, luôn luôn thay đổi, và là yếu tố quyết định quan hệ
sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ
sản xuất lúc này tỏ ra khơng cịn phù hợp nữa và trở thành yếu tố kìm hãm. Để mở
đường cho lực lượng sản xuất phát triển thì cần thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng
quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau,
nó là thước đo để đánh giá sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, mặc
dù Nhà nước đã có rất nhiều chính sách để cân đối sao cho LLSX – QHSX phát
triển song song đồng bộ. Nhưng thực tế cho thấy, khi bắt tay vào xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường thì LLSX ln tỏ ra mâu thuẫn với QHSX.
Tính cạnh tranh và năng động là một trong những đặc điểm cơ bản của nền
kinh tế thị trường, thì ngược lại chúng ta lại chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế,
chính sách để tạo động lực và điều kiện cho doanh nghiệp Nhà nước nâng cao hiệu
quả hoạt động, phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Việc thí điểm
cổ phần hố doanh nghiệp Nhà nước cịn làm chậm. Chưa quan tâm tổng kết thực
tiễn, kịp thời chỉ ra phương hướng, biện pháp đổi mới kinh tế hợp tác, để hợp tác xã
nhiều nơi tan rã hoặc chỉ còn là hình thức, cản trở sản xuất phát triển, chưa kịp thời
đúc kết kinh nghiêm, giúp đỡ các hình thức kinh tế hợp tác mới phát triển. Chưa
giải quyết tốt một số chính sách để khuyến khích kinh tế tư nhân phát huy tiềm
năng, đồng thời chưa quản lý tốt thành phần kimh tế này. Quản lý kinh tế hợp tác
liên doanh với nước ngồi cịn nhiều sơ hở. Kinh tế vĩ mơ cịn những yếu tố thiếu
vững chắc. Cơng tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hố, qui hoạch xây
dựng, quản lý đất đai còn yếu kém, thủ tục đổi mới hành chính chậm. Thương
nghiệp Nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ
đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu cực, một số

8



Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi

trường hợp gây ra tác động xấu với sản xuất. Chế độ phân phối thu nhập còn bất
hợp lý, bội chi ngân sách và nhập siêu cịn lớn ... Đó là một số hạn chế của QHSX
kìm hãm LLSX phát triển và điều đó làm cho q trình xây dựng đất nước của ta
gặp nhiều khó khăn.
Một trong những vấn đề bức xúc đối với chúng ta hiện nay đó là việc làm,
tình trạng thất nghiệp là một biểu hiện rõ ràng để chứng tỏ được rằng giữa LLSX –
QHSX có sự mất cân đối.
Khi QHSX phù hợp, nó khơng những giải phóng được sức sản xuất mà còn
tạo tiền đề để thúc đẩy bước phát triển của LLSX. Vì vậy vấn đề đặt ra cần đặt ra là
làm thế nào để giải quyết được mâu thuẫn này?
Cần đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế,
chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới
cho phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở
hữu khác nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo hình
thức do luật định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình
thức sở hữu khác nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển lâu
dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và
vừa, nâng cao năng lực của các tập đoàn kinh tế chủ yếu.
Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế Nhà nước để thức hiện tốt vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế. Phát triển doanh nghiệp Nhà nước trong những sản xuất và dịch vụ
quan trọng: Xây dựng các tổng công ty Nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong
những tập đồn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc
tế.
Thực hiện chủ trương cổ phần hố những doanh nghiệp mà Nhà nước khơng
nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng

động thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.
Phát triển kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác đa dạng, phát triển hợp
tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngànhđể sản xuất kinh doanh,
dịch vụ, tạo điều kiện mở rộng qui mô sản xuất, kinh doanh phù hợp với nền kinh tế
thị trường

9


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi

Hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển, hoàn thiện các loại thị trường đi
đôi với việc xây dựng khuôn khổ pháp lý thể chế, để thị trường hoạt động năng
động, có hiệu quả, có trật tự, kỉ cương trong mơi trường cạnh tranh lành mạnh, công
khai minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.
Phát triển thị trường vốn và tiền tệ, tổ chức và vận hành an toàn, hiệu quả thị
trường chứng khốn, thị trường bảo hiểm. Hình thành và phát triển thị trường bất
động sản, thị trường lao động. Tạo điều kiện công ăn việc làm cho người dân, từ đó
nâng cao đời sống xã hội.
Và điều cuối cùng là việc đổi mới chế độ sở hữu, đó là mấu chốt quan trọng
nhất trong việc cân bằng mối quan hệ giữa LLSX và QHSX. Hiện nay ở nước ta,
một số hình thức sở hữu đã được hình thành, một số hình thức khác đang được khơi
phục hoặc mới bắt đầu hình thành. Chế độ nhiều hình thức sở hữu trong nền kinh tế
là hồn tồn có cơ sở khách quan. Đó là những thay đổi diễn ra trong suốt quá trình
phát triển kinh tế. Trình độ phát triển LLSX và xã hội hoá sản xuất trong các khu
vực kinh tế quốc dân khơng giống nhau. Có những khoảng cách đáng kể trong phát
triển kỹ thuật ở các xí nghiệp, các ngành, các vùng khác nhau. Chính vì vậy mà cần
điều chỉnh lại cơ cấu quan hệ sở hữu.

Trong việc đổi mới các quan hệ sở hữu, xác lập nhiều hình thức sở hữu, cần
phải xem xét, đánh giá đúng, tăng cường vai trò chủ đạo của các hình thức sở hữu
Nhà nước, bằng cách cải tổ khu vực này: những xí nghiệp nào cần được duy trì,
những xí nghiệp nào cần được giải thể và việc giải thể đó ra sao, là những vấn đề
hết sức phức tạp. Chính vì thế trong q trình phát triển kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa càng địi hỏi phải có sự điều hành hợp lý của Nhà nước.
4.2. Cơ chế thị trường và những mâu thuẫn xung quanh nó
Thị trường là điều kiện tồn tại của nền sản xuất hàng hoá, do vậy kinh tế
hàng hoá càng phát triển thì thị trường càng được mở rộng, ngược lại, thị trường
càng được mở rộng thì càng thúc đẩy kinh tế hàng hố phát triển, đó là mối quan hệ
biện chứng gắn bó hữu cơ với nhau. Và xung quanh mối quan hệ biện chứng đó là
những mâu thuẫn khách quan, tồn tại trong cơ chế thị trường.
Các bộ phận hợp thành cơ chế thị trường là :

10


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi

- Giá cả thị trường: là thứ giá cả hình thành trên thị trường bởi sự tác động của các
lực thị trường. Trên mỗi thị trường, mỗi hàng hố, dịch vụ đều có một giá nhất định
và tồn bộ những giá cả đó tạo thành hệ thống giá cả thị trường
- Cầu hàng hoá: là số lượng hàng hoá mà người mua mong muốn mua và có khả
năng mua theo mức giá nhất định. Như vậy, để có cầu hàng hố phải có ba điều
kiện: mong muốn mua, có khẳ năng mua và mức giá.
- Cung hàng hoá: là số lượng mà người sản xuất hàng hố mong muốn sản xuất và
có khả năng bán trên thị trường với giá nhất định. Để có cung hàng hố cũng phải
có ba điều kiện: mong nuốn sản xuất, có khả năng sản xuất và mức giá. Khi cung

hàng hóa nào đó trên thị trường vừa bằng cầu về hàng hố đó, thì mức giá cả là bình
quân.
- Cạnh tranh trên thị trường: cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá với
nhau theo ba hướng; giá cả, chất lượng và dịch vụ tương ứng. Cạnh trang giữa
những người mua với nhau. cạnh tranh giữa một bên là người bán và một bên là
người mua. Trên thị trường khơng bao giừo có chuyện “đơn phương độc mã” mà là
“bn có bạn, bán có phường”.
Bốn bộ phận hợp thành cơ chế thị trường kể trên có quan hệ mật thiết với
nhau, như là những khâu trong một guồng máy. Giá cả là cái nhân của thị trường,
cung – cầu là trung tâm và cạnh tranh là linh hồn, là sức sống của thị trường.
Trong nền KTTT, tồn tại một số loại thị trường sau đây:
- Thị trường độc quyền đơn phương; là loại thị trường chỉ có một người, nói đúng
hơn là một chủ thể bán (người sản xuất duy nhất) khơng có sản phẩm nào khác có
thể thay thế. Đó là hình thái thị trường độc quyền của một chủ thể duy nhất bán
hàng hay còn gọi là độc quyền tự nhiên. Ơ các nước trên thế giới cũng như nước ta,
hình thái thị trường này chỉ tồn tại trong một số ngành sản xuất nhất định như : điện
nước, bưu điện, hàng không ... Trong hình thái thị trường này, nhu cầu về sản phẩm
ít co dãn, nên người bán có thể kiểm sốt hồn tồn khối lượng hàng hố, dịch vụ
bán trên thị trường và tự quyết định giá cả. Để bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng,
Nhà nước phải tham gia quản lý vĩ mô đối với loại thị trường này bằng những biện
pháp chống độc quyền như : thuế, kiểm soát giá cả, kiểm soát tồn kho hàng hoá, quy
định luật lệ cấm liên kết để hình thành độc quyền, bảo vệ tự do cạnh tranh.

11


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi


- Thị trường độc quyền đa phương: là loại thị trường, trong đó số người bán vừa
đủ để cho những hoạt động của một người có ảnh hưởng đến lượng cung và giá cả
của những doanh nghiệp khác ( ví dụ : sản phẩm xi măng, sắt thép ...). Do tên thị
trường độc quyền đa phương cịn có cạnh tranh, nên giá cả cũng luôn biến đổi.
- Thị trường cạnh tranh độc quyền: là thị trường, trong đó, có nhiều người bán
hàng cùng một sản phẩm, nhưng sản phẩm của mỗi người có ít nhiều khác nhau về
chất lượng, mẫu mã và giá cả ( ví dụ thị trường sản phẩm ngành dệt, thị trường sản
phẩm ngành giày dép...).
Thực tế trong nền KTTT, thì cạnh tranh mang tính mâu thuẫn, nó vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, vừa là yếu tố kìm hãm, sự phá sản, tình
trạng thất nghiệp, sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng và các bộ phận dân cư,
và nhất là không thể tránh khỏi những tệ nạn xã hội do mặt trái của KTTT gây
ra.
Thực tế cho thấy, sản phẩm hàng ngoại tràn lan trên thị trường Việt Nam, lấn
áp hồn tồn hàng hố trong nước. Nguyên nhân chủ yếu, đó là do sức cạnh tranh
của nước ta còn yếu, tâm lý người dân muốn dùng hàng ngoại. Mặc dù hàng ngoại
bán trên thị trường có thể đắt hơn so với giá trị thực của nó, song những người mua
hàng ln có suy nghĩ rằng giữa hàng ngoại và hàng trong nước ln có sự khác
nhau cả về chất lượng lẫn mẫu mã của sản phẩm. Một số doanh nghiệp Nhà nước bị
phá sản, phải đóng cửa vì khơng đủ sức để có thể cạnh tranh được trên thị trường.
Hàng hố trong nước khơng được ưa chuộng, do mẫu mã cũng như chất lượng sản
phẩm không thể cạnh tranh được với hàng ngoại được sản xuất với dây truyền công
nghệ hiện đại.
4.3. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích xã hội
Trong hoạt động kinh tế, lợi ích là mục tiêu hàng đầu, vì vậy để thực hiện
tăng trưởng kinh tế cần phải coi trọng mọi lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và
lợi ích xã hội. Trong nền KTTT, mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
chẳng những khơng bị mất đi mà cịn có những diễn biến phức tạp hơn. Trước hết là
phải nói đến ưu điểm của nền KTTT, nó tạo điều kiện cho mọi cá nhân phát huy
năng lực, trí tuệ, thị trường được tạo ra là một thị trường tự do, tự do giao dịch...

KTTT có sự quản lý của Nhà nước, một mặt nó đảm bảo tính ổn định của thị

12


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi

trường, mặt khác nó lại tạo điều kiện tốt cho hoạt động tham nhũng, buôn lậu... của
một số người lạm dụng chức trách của mình. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội nếu khơng được giải quyết đúng đắn sẽ biểu hiện thành những hiện tượng
bất công bằng xã hội. Trong mối quan hệ này, nếu lợi ích cá nhân bị vi phạm thì xã
hội sẽ mất đi một động lực to lớn của sự phát triển xã hội. Cịn ngược lại, nếu các
nhân có lợi, nhưng lợi ích xã hội bị vi phạm, thì nạn nhân của sự bất cơng lại là
cộng đồng xã hội.
Ví dụ: Vì lợi ích cá nhân mà trong hoạt động sản xuất kinh doanh, người ta
có thể phá hoại mơi trường sống, có thể làm những việc phi pháp, phi đạo đức, phi
nhân tính, để có lợi cho bản thân, làm thất thốt tài sản của Nhà nước... Trong
trường hợp này hậu quả do cá nhân đó tạo ra làm ảnh hưởng đến cộng đồng xã hội.
Chúng ta cần biệt lợi ích chính đáng với lợi ích ích kỉ cá nhân. Lợi ích chính
đánh của cá nhân là động lực phát triển của xã hội, là cái mà xã hội phải tôn trọng
và phát huy, cịn lợi ích ích kỉ của cá nhân là nguồn gốc của chủ nghĩa cá nhân, là
nguyên nhân dân đến sự thoái hoá, biến chất, trộm cắp, tham nhũng của một số cá
nhân trong bộ máy của Nhà nước. Nếu xã hội khơng có những biện pháp tích cực và
có hiệu quả thì những tệ nạn này chẳng những khơng giảm đi, mà trái lại càng gia
tăng, vì cùng với sự phát triển kinh tế, của cải xã hội, phúc lợi tập thể sẽ tăng lên và
những thứ này lại được giao cho cá nhân trực tiếp quản lý.
Thực tế cho thấy rằng ở Việt Nam, trong quá trình xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì tình trạng tham nhũng, suy

thối về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ
đảng viên là rất nghiêm trọng. Sở dĩ có tình trạng trên là do nguyên nhân chủ quan
trong quá trình thực hiện đường lối của Đảng:
Việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa
tốt, kỉ luật, kỉ cương chưa nghiêm. Tình trạng tuỳ tiện, thiếu ý thức tổ chức, kỉ luật
và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị, nghị qyuết của Đảng, pháp luật,
chính sách của Nhà nước, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho đường lối
của Đảng khó đi vào cuộc sống. Công tác chỉ đạo, điều hành ở các cấp, các ngành
cịn bất cập, thiếu kiểm tra, đơn đốc và chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu lực và

13


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi

hiệu quả chưa cao. Nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật và Điều lệ của Đảng
còn chưa được xử lý thật kiên quyết.
Trên đây là những tiêu cực của một số cá nhân có chức quyền và lạm dụng
nó để tiến hành mưu lợi riêng cho mình, gây tổn thất nặng nề cho nền kinh tế quốc
dân. Còn đối với các chủ thể sản xuất kinh doanh bất chấp pháp luật để chạy theo
lợi nhuận. Hiện tượng làm hàng giả, hàng lậu vẫn tiếp tục phát triển làm ảnh hưởng
đến chất lượng sản phẩm.
Như vậy, chính mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nảy sinh
trong nền kinh tế thị trường, càng cho thấy rõ được tầm quan trọng trong vai trò
quản lý của Nhà nước đối với việc phát triển kinh tế. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
những tiêu cực trong xã hội đó là sự quản lý yếu kém, khơng đồng bộ của Nhà
nước. Chính vì vậy mà trong nghị quyết trung ương Đảng lần thứ IX, chủ trương
chỉnh đốn Đảng, tạo ra sự thống nhất về quan điểm, ý chí và hành động trong toàn

Đảng, lãnh đạo tổ chức thực hiện, xây dựng và kiện toàn bộ máy Nhà nước trong
sạch, vững mạnh. Cần nhận thức rằng: “Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố
quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới”.
4.4. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ
nghĩa
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết
phải có con người XHCN. Yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong sự
nghiệp cách mạng, bởi con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của
cải vật chất và văn hoá. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể
chất, phung phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây
dựng xã hội mới, là mục tiêu của CNXH. Chúng ta phải bắt đầu từ con người làm
điểm xuất phát”.
Kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ kinh
tế giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thơng
qua việc mua bán, trao đổi hàng hố tiền tệ trên thị trường. Trong kinh tế thị trường,
các quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển, mở rộng, bao quát trên mọi lĩnh vực, có ý
nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và người tiêu dùng. KTTT phản ánh đầy đủ
trình độ văn minh và phát triển xã hội, là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng

14


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi

trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hôi tiến lên. tuy nhiên KTTT cũng có những khuyết tật
như: sự cạnh tranh lạnh lùng, tính tự phát mù quáng dẫn đến phá sản, thất nghiệp,
khủng hoảng chu kỳ...
Xuất phát từ sự phân tích trên đây, chúng ta đã thấy rằng đổi mới ở nước ta

hiện nay, không thể xây dựng con người nếu thiếu yếu tố KTTT. Do hậu quả của
nhiều năm chiến tranh, nền kinh tế kém phát triển, mơ hình kinh tế khơng phù hợp,
nước ta đã bị tụt hậu nghiêm trọng so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Trong bối cảnh đó, KTTT là điều kiện rất quan trọng đưa nền kinh tế nước ta ra
khỏi khủng hoảng và đi vào phục hồi, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, bắt kịp bước
tiến của thời đại.
Trong những năm qua, KTTT ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng rộng
rãi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, làm cho nền kinh tế sôi động hơn. Đây là
kết quả đáng mừng và cần được phát huy, nó thể hiện sự vận dụng đúng đắn các
quy luật khách quan của xã hội. Quá trình biện chứng đi lên CNXH từ khách quan
đang trở thành nhận thức chủ quan trên qui mô tồn xã hội.
Bên cạnh đó, có một khía cạnh khác cũng cần được đề cập đến: KTTT ở
nước ta hiện nay không chỉ tạo điều kiện vật chất để xây dựng và phát huy nguồn
lực của con người mà còn tạo ra mơi trường thích hợp cho con người phát triển toàn
diện cả về thể chất lẫn tinh thần. KTTT tạo ra sự cạnh tranh và chạy đua quyết liệt.
Điều đó buộc con người phải năng động sáng tạo, linh hoạt, có tác phong nhanh...
Từ đó nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của con người.
Tuy nhiên, cần phải thấy rõ rằng không phải cứ xây dựng được KTTT là
những phẩm chất tốt đẹp đó tự hình thành trong con người. Có những lúc KTTT
khơng những khơng làm cho con người ta năng động hơn, tốt đẹp hơn mà ngược lại,
cịn làm tha hố bản chất con người, biến con người thành kẻ sùng bái đồng tiền
hoặc kẻ đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức mạnh và lơị ích cá nhân, sẵn sàng trà đạp
lên nhân phẩm, đạo đức ... Bên cạnh những tác động tích cực, KTTT cịn có nhiều
khuyết tật, gây ra những tác động xấu. Quan hệ hàng hố, tiền tệ làm sơi động thị
trường, nhưng cũng làm sói mịn nhân cách và phẩm chất con người. Ngoài ra đi
kèm với nền kinh tế thị trường là hàng loạt các tệ nạn xã hội: cờ bạc, rượu chè, ma

15



Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi

tuý, buôn lậu, hối lộ, tham nhũng... đó là những vấn đề nổi cộm nhất trong nền
KTTT mà không dễ ràng khắc phục.
Những phân tích trên đây cho thấy, KTTT là mục tiêu con người XHCN, là
một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây thực chất là hai
mặt đối lập của mâu thuẫn xã hội. Giữa KTTT và q trình xây dựng con người vừa
có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh. KTTT vừa tạo ra những điều kiện để xây
dựng và phát huy con người, vừa tạo ra những độc tố để huỷ hoại con người. Việc
giải quyết mâu thuẫn này là một việc không hề đơn giản. Đối với nước ta, mâu
thuẫn giữa KTTT và quá trình xây dựng con người được giải quyết bằng vai trò
lãnh đạo của Đảng, bằng sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đảng ta
xác định “ Sản xuất hàng hố khơng đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển
nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây XHCN và
cả khi CNXH được xây dựng”. Như vậy, Đảng vạch rõ sự thống nhất giữa KTTT và
mục tiêu xây dựng con người của CNXH. Việc áp dụng cơ chế thị trường đòi hỏi
phải nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của Nhà nước, đồng thời xác nhận đầy đủ
chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt vấn đề này sẽ phát
huy được những tác động tích cực to lớn, cũng như ngăn ngừa hạn chế khắc phục
những tiêu cực, khiếm khuyết của nền KTTT. Các hoạt động sản xuất kinh doanh
phải hướng vào phục vụ công cuộc xây dựng nguồn lực con người. Cần phải tiến
hành các hoạt động văn hoá, giáo dục nhằm loại bỏ tâm lý sùng bái đồng tiền, bất
chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn, phải ra sức phát huy các giá trị tinh
thần nhân đạo, thẩm mỹ, các di sản văn hoá nghệ thuật của dân tộc. Đây chính là
cơng cụ, phương tiện quan trọng để tác động góp phần giải quyết những mâu thuẫn
nêu trên.
4.5. Thực trạng và những mâu thuẫn nảy sinh giữa các thành phần kinh tế ở
nước ta

a) Thực trạng các thành phần kinh tế của nước ta hiện nay.
Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng, một mặt tạo điều
kiện cho QHSX phát triển, giải phóng sức sản xuất, tạo cơng ăn việc làm cho nhân
dân, mặt khác, nó tạo ra mơi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy q trình cơng

16


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi

ngiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Sau đây là năm thành phần kinh tế cơ bản mà
Nhà nước chủ trương phát triển:
- Kinh tế tư bản Nhà nước: Hiện nay việc nhận thức thành phần kinh tế còn rất hạn
hẹp và rất đơn giản, mặc dù nó chiếm một vị trí rất quan trọng trong cơ cấu kinh tế
của nước ta. Thành phần kinh tế này rất phát triển, nó bao gồm các loại hình doanh
nghiệp thuộc hình thức sở hữu hỗn hợp. Sau đổi mới cơ cấu thành phần kinh tế và
cơ chế quản lý kinh tế, đã có một số chuyển biến bước đầu, một số xí nghiệp đã
vượt qua được khó khăn tạo nên thế ổn định, bắt đầu phục hồi và đi lên. Song
những nhân tố đó chưa nhiều và những chuyển biến đó chưa có cơ sở vững chắc và
lâu dài.
- Kinh tế tập thể: dựa trên sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất. Đây là thành phần
kinh tế tuy trình độ xã hội hoá tư liệu sản xuất, tổ chức và quản lý sản xuất còn thấp
hơn kinh tế quốc dân, nhưng sản xuất với lượng hàng hoá cung ứng cho sản xuất và
tiêu dùng đời sống xã hội. Trước biến động có tính bước ngoặt của nền kinh tế
chuyển sang kinh tế thị trường, kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác
đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ,
ứng dụng khoa học cônng nghệ, nắm bắt thông tin mở rộng thị trường, xây dựng các
quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, giải quyết nợ tồn đọng. Khuyến khích việc tích luỹ,

phát triển có hiệu quả vốn tập thể trong hợp tác xã. Tiếp tục đổi mới và kiện toàn
kinh tế tập thể theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng phát huy và kết hợp
hài hoà sức mạnh của tập thể và của xã viên. Phát triển các hình thức hợp tác, đa
dạng và mở rộng các hình thức kinh tế tập thể nơng nghiệp, tiểu thủ cơng nghiệp,
mua bán, tín dụng ở những nơi cần thiết và có điều kiện.
- Thành phần kinh tế tư nhân: Trên thực tế thành phần kinh tế tư nhân ở nước ta
bao gồm: các xí nghiệp tư nhân, hộ tư nhân và cá thể, tuy nhiên việc phân loại này
chưa có sự thống nhất. Mặc dù thành phần kinh tế này mới được hồi sinh và mở
rộng, nhưng cho đến nay đã thực sự phát triển mạnh. Đặc biệt Nhà nước lại tạo môi
trường thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh cả về chính sách và pháp lý.
Các doanh nghiệp có thể liên doanh, liên kết với nhau, kể cả đầu tư ra nước ngoài,
chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động...

17


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi

- Kinh tế cá thể, tiểu thủ: thành phần kinh tế này có thể kinh doanh như các tác
nhân kinh tế độc lập, nhưng cũng có thể là các vệ tinh cho các doanh nghiệp Nhà
nước hay hợp tác xã. Ơ đây chúng ta cũng thấy chính sách kinh tế cũng đan xen với
nhau, về bản chất là kinh tế cá thể, tiểu chủ, nhưng biểu hiện ra là các cơ sở gia
công cho doanh nghiệp hoặc hợp tác xã. Kinh tế cá thể được khuyến khích phát
triển trong các ngành cả ở thành thị lẫn nông thôn, không bị hạn chế mở rộng kinh
doanh, có thể tồn tại độc lập, tham gia các loại hình hợp tác xã, liên kết với các
doanh nghiệp lớn bằng nhiều hình thức. Thành phần kinh tế này dựa trên sở hữu cá
nhân về tư liệu sản xuất và lao động trực tiếp của bản thân người lao động. Kinh tế
cá thể có đặc điểm kỹ thuật thủ công, năng suất lao động thấp, sản xuất nhỏ phân

tách, nhưng khi có chính sách kinh tế đúng, kinh tế cá thể có khả năng đóng góp
nhiều cho lợi ích xã hội như: tiền vốn, sức lao động, kinh nghiệm truyền thống. Tuy
nhiên Nhà nước cũng cần có những biện pháp quản lý thị trường chặt chẽ để hạn
chế khắc phục tính tự phát của nó.
- Kinh tế quốc doanh: Hàng năm thành phần kinh tế này tạo ra khoảng 35 – 40%
GDP và từ 22 – 30% thu nhập quốc dân, đóng góp vào ngân sách từ 60 – 80% số
thu của ngân sách Nhà nước. Thành phần kinh tế này nắm giữ tồn bộ cơng nghiệp
nặng, hàng tiêu dùng chiếm tỉ trọng phần lớn những sản phẩm chủ yếu. Trong tất cả
các thành phần kinh tế, thì thành phần kinh tế này đóng vai trị quan trọng nhất
trong nền kinh tế. Tuy đã đạt được một số thành tích, song khu vực kinh tế này chưa
đảm bảo được tái sản xuất giản đơn. Hiện nay, sau đổi mới cơ cấu thành phần kinh
tế và cơ chế quản lý kinh tế, tuy đã bước đầu có sự chuyển biến nhưng sự chuyển
biến đó chưa có cơ sở vững chắc và lâu dài.
- Ngoài các thành phần kinh tế nói trên, từ đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng ta cịn
chủ trương phát triển thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Thành phần kinh
tế bao gồm phần vốn đầu tư của nước ngoài vào các cơ sở sản xuất, kinh doanh ở
nước ta.
b) Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế
Mâu thuẫn trong các thành phần kinh tế của nước ta hiện nay được biểu hiện
giữa một bên là những lực lượng và khuynh hướng phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa với một bên là khuynh hướng tự phát và những lực lượng gây tổn hại

18


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi

cho quốc tế nhân sinh. Mâu thuẫn cơ bản này quyết định những mâu thuẫn kinh tế

xã hội khác cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong q trình xây dựng KTTT. Chính
sách phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đòi hỏi có sự khuyến khích kinh tế
tư nhân phát triển mạnh mẽ, vì hiện nay sự phát triển đó cịn thấp, chưa tương xứng
với tiềm năng hiện có. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, các thành phần kinh tế
bình đẳng trước pháp luật, nhưng khơng có vai trị như nhau trong quá trình hình
thành và xây dựng và phát triển kinh tế. Như vậy, bên cạnh mối quan hệ thống nhất,
có liên quan mật thiết đến nhau, cịn tồn tại các mâu thuẫn giữa các thành phần kinh
tế về lợi ích, những ngành độc quyền như cơng nghiệp quốc phịng, Ngân hàng Nhà
nước, Bưu chính viễn thơng ... cạnh tranh khốc liệt trên thị trường. Sự cạnh tranh đó
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển hơn về chất lượng và số lượng của sản
phẩm. Chuyển sang nền kinh tế thị trường tất yếu phải hoà nhập vào nền kinh tế thế
giới. Trong thời đại ngày nay, mọi nền kinh tế, nếu không hướng tới xuất khẩu,
không vươn ra ngồi hồ nhập thì khơng thể đưa đất nước đi lên theo kịp bước tiến
của nhân loại.
Để giải quyết được mâu thuẫn này, thì hệ thống quản lý của Nhà nước phải
đảm bảo được tính đồng bộ, quán triệt mọi hành vi vi phạm của tổ chức hay cá
nhân. Bên cạnh đó, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tổ chức kinh doanh
của các thành phần kinh tế,thúc đẩy tiến trình phát triển kinh tế.
4.6. Tính tự phát và tính tự giác là hai mặt đối lập trong quá trình phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường trong điều kiện sản xuất nhỏ là phổ biến, bởi thị
trường hàng hố ln ln biến động, địi hỏi phải có sự thay đổi nhanh chóng về
mẫu mã cũng như chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường tiêu
dùng. Đối với đất nước ta trong điều kiện kinh tế như vậy thì tất nhiên chưa thể
thốt khỏi tính tự phát TBCN. Ngay cả việc chuyển đổi nền kinh tế từ nền kinh tế
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường cũng không phải là sự phát
triển tự phát, mà là kết quả của sự nhận thức và vận dụng một cách tự giác xu
hướng và quy luật khách quan của sự phát triển xã hội trong thời đại ngày nay. Như
vậy, trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, tồn tại sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập đó là tính tự phát và tính tự giác.


19


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi

Chúng ta thừa nhận rằng, trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay thì tính tự
phát vẫn cịn là cái cần thiết và không tránh khỏi trong việc điều chỉnh các mối quan
hệ giữa sản xuất và tiêu dùng, trong vấn đề giải quyết những khó khăn về việc làm,
trong lưu thơng hàng hoá... Tuy nhiên, nếu để nền kinh tế phát triển chủ yếu dựa
trên tính tự phát thì khơng thể thực hiện được mục tiêu của CNXH. Còn hoạt động
tự giác là hoạt động dựa trên sự nhận thức đúng đắn xu thế tất yếu và quy luật khách
quan của đời sống xã hội, nhưng nếu có sai lầm trong nhận thức và nhất là sai lầm
trên bình diện quốc gia thì hậu quả của nó thật khơn lường. Trong hoạt động kinh tế
cũng vậy, nếu nhận thức sai về quan điểm, đường lối phát triển thì rất dễ rơi vào
tình trạng phá sản, thất thoát tài sản quốc gia... Việc giải quyết mâu thuẫn giữa tính
tự giác và tính tự phát trong phát triển kinh tế – xã hội là hết sức khó khăn và phức
tạp. Khơng thể một lúc có thể xố bỏ hồn tồn tính tự phát, biến mọi hoạt động của
con người thành hoạt động tự giác. Phải phát huy ngày càng cao tính tự giác trên cơ
sở nâng cao năng lực nhận thức khoa học cũng như năng lực tổ chức, quản lý phối
hợp hoạt động trên bình diện xã hội, hạn chế dần tính tự phát trong mọi lĩnh vực
hoạt động của con người.
4.7. Mâu thuẫn giữa lợi ích của người lao động và lợi ích của người thuê mướn lao
động.
Chúng ta phát triển KTTT trong thời kỳ quá độ tức là chấp nhận tồn tại nhiều
thành phần kinh tế, trong đó có thành phần TBCN, chấp nhận các hình thức sở hữu
và kinh doanh có thuê mướn lao động và có bóc lột sức lao động. Trong khi đó,
mục tiêu lâu dài của cách mạng XHCN là xố bỏ bóc lột. Ở đây, một số mối quan

hệ có mâu thuẫn cần được nghiên cứu và giải quyết thoả đáng, đó là mối quan hệ
giữa các lợi ích: lợi ích của người lao động và lợi ích th mướn lao động.
Khơng có cơ sở để khẳng định rằng, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, hình
thức kinh doanh có th mướn lao động sẽ ngày càng giảm đi. Cũng là sai lầm nếu
cho rằng, chỉ có thành phần kinh tế Nhà nước và thành phần kinh tế hợp tác xã là phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và thay thế dần các thành phần kinh tế cịn lại.
Trên thức tế thì khơng phải vậy, tất cả các thành phần kinh tế đều phát triển theo một
định hướng duy nhất: định hướng XHCN. Cùng với sự trưởng thành của CNXH, các
thành phần có thuê mướn lao động sẽ giảm dần mức độ bóc lột của nó. Tất nhiên,

20


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi

điều này chỉ có thể hồn tồn được thực hiện được khi có sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước XHCN, sự chủ đạo của các thành phần kinh tế Nhà nước, sự
lớn mạnh của thành phần kinh tế hợp tác.
Trong việc giải quyết mối quan hệ có mâu thuẫn giữa lợi ích người thuê
mướn lao động và người lao động làm thuê cần phải có sự kết hợp hài hồ giữa các
lợi ích, nếu mâu thuẫn này khơng được giải quyết thoả đáng thì nó sẽ kìm hãm sự
tăng trưởng kinh tế.
Nhà nước, bằng hệ thống pháp luật và hệ thống chính sách về kinh tế, xã hội
của mình, vừa khuyến khích lợi ích chính đáng và tính tích cực, sáng tạo của những
Nhà kinh doanh, vừa hạn chế được sự bóc lột và những tiêu cực trong hoạt động
kinh doanh. Nhà nước thông qua nguồn thuế thu được và các khoản đóng góp khác
từ các cơ sở kinh doanh mà mở rộng, phát triển các chương trình xã hội. Tuy nhiên,
sự điều tiết thu nhập thông qua các chính sách thuế, nếu khơng được thực hiện một

cách hợp lý sẽ có tác động tiêu cực đến lợi ích đầu tư , gây ảnh hưởng không nhỏ
cho hoạt động kinh doanh.

21


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi
C. KẾT LUẬN

Qua nội dung ngắn gọn của bài tiểu luận, chắc hẳn cũng cho chúng ta thấy
phần nào thực trạng của nền kinh tế nước ta hiện nay. Mặc dù quá trình đổi mới từ
năm 1986 cho đến nay đã thu được nhiều thắng lợi to lớn. Nhưng đứng trước sự
phát triển của nhân loại, địi hỏi chúng ta phải khơng ngừng cố gắng phấn đấu phát
triển toàn diện hơn về mọi mặt của đời sống xã hội, nhất là về kinh tế. ĂngGhen
nói: “Sự phát triển của chính trị, luật pháp, triết học, tôn giáo, văn học nghệ thuật,
đều dựa trên cơ sở phát triển kinh tế ”.
Kinh tế thị trường - với mặt trái của nó là điều hồn tồn không thể tránh
khỏi. Tuy nhiên, để giảm bớt những tiêu cực, những mâu thuẫn xung quanh vấn đề
phát triển nền kinh tế thị trường, thì sự quản lý của Nhà nước đóng vai trị rất quan
trọng, sự điều tiết của Nhà nước thể hiện ở các mặt sau:
Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các cá nhân, các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động.
Nhà nước tạo môi trường kinh tế – xã hội ổn định bằng cách xây dựng kết
cấu hạ tầng sản xuất và kết cấu hạ tầng xã hội.
Nhà nước soạn thảo kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển kinh tế
- xã hội và ban hành các chính sách để hướng các chủ thể thị trường thực hiện các
kế hoạch, quy hoạch và chương trình ấy thơng qua các chính sách tài chính tiền tệ,
sử dụng các địn bẩy kinh tế như: ưu đãi về thuế, về lãi suất cho vay cho những ai

đầu tư vào lĩnh vực mà Nhà nước khuyến khích.
Như vậy, có thể nói rằng mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa là một đường lối đúng đắn thể hiện sự sáng suốt của Đảng.
Tuy nhiên cũng tồn tại một số mâu thuẫn và bất hợp lý, đòi hỏi chúng ta cần có
những giải pháp giải quyết hợp lý.

22


Tiểu luận Triết học

GVHD: TS. Mai Xuân Hợi
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. SÁCH:
- Nguyễn Sinh Cúc “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” - NXB
Chính trị quốc gia TP - HCM, năm 1996.
- Giáo trình “Triết học Mác - Lênin” - Tập II, NXB Chính trị quốc gia, 1997.
- Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII.
- Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII, IX, X
2. TẠP CHÍ:
- Nghiên cứu trao đổi số 11 tháng 6 năm 1998.
- Triết học số 4 (110) - tháng 8 - 1998.
- Những vấn đề kinh tế thế giới số 1 (45) năm 1997.
- Cộng sản số 4 (2-2000).
- Triết học số 2 (96) tháng 4 - 1997.
- Triết học số 2 (108) tháng 4 - 1999.
- Triết học số 2 - 2001
Và một số tạp chí khác.


23



×