Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Mâu thuẫn biện chứng trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.08 KB, 18 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
A. Giới thiệu đề tài
Trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, việc ứng dụng lí luận triết học Mác Lênin vào thực tiễn có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Nó đóng vai trò là kim chỉ nam, chỉ ra hớng đi đúng đắn
cho toàn bộ quá trình này.
Trong triết học duy vật biện chứng, bất kì sự vật nào cũng đều chứa đựng mâu
thuẫn. Đó là hiện tợng khách quan, phổ biến, hình thành từ những cấu trúc và
thuộc tính bên trong, vốn có của mỗi sự vật, hiện tợng. Triết học Mác Lênin đã
khẳng định, chính mâu thuẫn biện chứng là nguồn gốc, động lực cho sự vận động
và phát triển của mọi sự vật, hiện tờng trong thế giới khách quan.
Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc
ta là một hiện tợng trong đời sống kinh tế xã hội. Vì vậy, nó cũng không thể nằm
ngoài qui luật mâu thuẫn. Điều này có nghĩa là nó luôn chứa đựng mâu thuẫn, và
trong đó có mâu thuẫn biện chứng - nguồn gốc, động lực cho sự tồn tại, phát triển.
Muốn xây dựng thành công và đa nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ
nghĩa ở nớc ta đi lên, hoà nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới thì điều tất yếu
là phải nghiên cứu những mâu thuẫn biện chứng trong đó. Từ đó giúp chúng ta tìm
ra những phơng pháp có hiệu quả đối với điều kiện của đất nớc.
Chính vì những lí do trên đây, em đã chọn Mâu thuẫn biện chứng trong
công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam làm đề tài cho tiểu luận triết học đầu tiên của mình. Trong tiểu luận
này, em chỉ xin đề cập tới một số mâu thuẫn tiêu biểu:
- Mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu
- Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trờng và mục tiêu xây dựng con ngừơi xã hội
chủ nghĩa
- Mâu thuẫn giữa tăng trởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội
- Mâu thuẫn giữa tăng trởng kinh tế và bảo vệ môi trờng
Hoàn thành đợc bài tiểu luận này, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Đoàn
Quang Thọ đã hớng dẫn và truyền thụ kiến thức cho em. Do còn hạn chế về kiến


thức, kinh nghiệm và thời gian nghiên cứu, tiểu luận này không khỏi có thiếu sót
và sai lầm do chủ quan khi nhìn nhận vấn đề. Em rất mong nhận đợc sự đánh giá
và góp ý từ các thầy cô để em có thể thu đợc kết quả tốt hơn trong những lần
nghiên cứu sau.
Em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên
Nguyễn Quang Tuấn
1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
B. NộI DUNG chính của đề tài
I. Lí luận chung về mâu thuẫn biện chứng trong công cuộc xây dựng
nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1, Cơ sở lí luận
Để nghiên cứu những mâu thuẫn biện chứng trong công cuộc xây dựng
nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta, chúng ta trớc hết
cần hiểu rõ thế nào là mâu thuẫn biện chứng, thế nào là công cuộc xây dựng nền
kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa, rồi từ đó mới liên hệ, thấy đợc
những mâu thuẫn trong đó. Vì vậy phần cơ sở lí luận sẽ giúp chúng ta rõ hai mảng
kiến thức cơ bản trên.
a, Mâu thuẫn biện chứng, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập
Trong quan điểm triết học phi Macxít, sự tồn tại của các mâu thuẫn bị phủ
nhận, sự vật đợc cho là một thể thống nhất tuyệt đối. Hoặc nếu có thừa nhận có
mâu thuẫn thì lại cho rằng mâu thuẫn chỉ tồn tại trong t tởng của một số ít ngừơi,
và những t tởng đó là sai lầm.
Nhng khi triết học duy vật biện chứng ra đời, sự tồn tại của mâu thuẫn
trong mọi sự vật, hiện tợng đã đợc khẳng định. Vậy mâu thuẫn biện chứng là gì mà
có thể tồn tại trong mọi sự vật, hiện tợng của thế giới khách quan? Đó chính là mối
liên hệ, tác động qua lại giữa các mặt đối lập. Hay nói cách khác, mâu thuẫn biện
chứng là mối liên hệ, tác động qua lại của những yếu tố, lực lợng, thuộc tính,

khuynh hớng phát triển trái ngợc nhau trong cùng một sự vật, hiện tợng, đồng thời
chúng phải có khả năng chuyển hoá lẫn nhau, tạo nên sự vật, hiện tợng đó.
Ví dụ: sự liên hệ, tác động qua lại giữa sản xuất và tiêu dùng tạo nên một
mâu thuẫn trong quá trình tái sản xuất; hoặc đồng hóa và dị hóa là hai mặt đối lập
hình thành nên một mâu thuẫn biện chứng trong cơ thể sống.
Tuy nhiên cần phải phân biệt rõ, không phải bất kì hai thuộc tính trái ngợc
nhau nào cũng tạo nên mâu thuẫn. Bởi trong một sự vật, hiện tợng của thế giới
khách quan, không chỉ tồn tại duy nhất hai xu hớng ngợc chiều nhau, mà cùng một
lúc tồn tại nhiều khuynh hớng phát triển ngợc nhau. Chỉ có những mặt nào cùng
tồn tại trong cùng một sự vật nh một chỉnh thể, phát triển trái ngợc nhau, có khả
năng bài trừ, phủ định, và đặc biệt là chuyển hóa cho nhau, thì mới là hai mặt đối
lập để tạo nên mâu thuẫn.
Ví dụ nh đối với một liên doanh, việc sản xuất vào hai ca: ca sáng và ca
chiều không tạo nên mâu thuẫn, chỉ có quá trình mua nguyên liệu vào và sản xuất
ra sản phẩm rồi từ đó bán đi thu tiền về mới tạo nên một mâu thuẫn. Nó tựa nh hai
quá trình đồng hóa, dị hóa diễn ra trong một cơ thể sống.
2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
a1, Trên cơ sở khái niệm về mâu thuẫn vừa nêu, triết học duy vật biện chứng
đã tìm ra các đặc điểm của mâu thuẫn: tính khách quan và tính phổ biến.
Tính khách quan đợc thể hiện ở chỗ bất kì sự vật, hiện tợng nào tồn tại
trong thực tại khách quan đều chứa đựng mâu thuẫn. Sự hình thành và phát triển
mâu thuẫn là do cấu trúc tự thân vốn có bên trong của sự vật hiện tợng quy định,
không phụ thuộc hay bị một lực lợng siêu nhiên nào, kể cả ý chí của con ngời chi
phối. Điều đó chứng tỏ cho dù trình độ khoa học, nhận thức của con ngừơi có phát
triển tới mức độ nào chăng nữa thì cũng không thể tạo ra hay xóa bỏ mâu thuẫn.
Không chỉ dừng lại ở việc khẳng định sự tồn tại khách quan của mâu thuẫn trong
mỗi một sự vật, hiện tợng mà còn chỉ ra rằng mâu thuẫn và sự chuyển hóa của các
mặt đối lập là nguyên nhân sâu sa nhất, là động lực bên trong cho mọi quá trình
vận động và phát triển khách quan của sự vật hiện tợng


Bên cạnh tính chất khách quan, mâu thuẫn biện chứng còn mang tính
chất phổ biến, tức là nó có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội, t duy của con
ngừơi. Trong lĩnh vực tự nhiên, khoa học đã chứng minh rằng thế giới vi mô là sự
thống nhất giữa những thực thể có điện tích trái dấu, giữa hạt và trờng, giữa hạt và
phản hat. Trong sinh học, sự sống đợc diễn ra theo các quá trình đối lập nhau: di
truyền và biến dị, đồng hóa và dị hóa. Nếu xét các mâu thuẫn trong xã hội thì còn
nhiều và phức tạp hơn. Đó là mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lợng sản
xuất, giữa ý thức xã hội và tồn tại xã hội, giữa kiến trúc thợng tầng và cơ sở hạ
tầng,...trong xã hội đối kháng thì mâu thuẫn cơ bản, điểm xuất phát của các mâu
thuẫn khác là mâu thuẫn giai cấp: mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô và nô lệ trong xã
hội chiếm hữu nô lệ, giữa giai cấp địa chủ và dân cày trong xã hội phong kiến,
giữa giai cấp t sản và giai cấp vô sản trong xã hội t bản. Trong kinh tế, mâu thuẫn
còn phổ biến hơn: cung và cầu, tích lũy và tiêu dùng...Trong nền kinh tế hàng hóa
còn có mâu thuẫn giữa tính kế hoạch hoá của từng công ty với tính tự phát vô
chính phủ,...hay có những mâu thuẫn thuộc cả hai lĩnh vực xã hội và kinh tế nh sự
tăng trởng kinh tế và việc tạo ra công bằng xã hội trong thời kì xây dựng nền kinh
tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa, sự tăng trởng kinh tế với vấn đề ô
nhiễm, bảo vệ môi trờng sinh thái. Không dừng lại ở tự nhiên, xã hội, mâu thuẫn
còn tồn tại trong t duy con ngừơi. Đó là mâu thuẫn giữa chân lí và sai lầm, giữa lí
trí và tình cảm, giữa bản chất sinh học và bản chất xã hội trong con ngừơi, ...
Điểm đáng chú ý ở đây là không phải ứng với mỗi một sự vật hiện tợng
trong thế giới khách quan chỉ có một mâu thuẫn mà nó bao gồm nhiểu mâu thuẫn.
Mâu thuẫn này mất đi, mâu thuẫn khác hình thành. Các sự vật khác nhau thì các
mâu thuẫn cũng khác nhau. Điều đó tạo nên các tính chất riêng, các đặc trng riêng
cho mỗi sự vật hiện tợng khác nhau. Khi vật chất tồn tại ở hình thức vận động càng
cao thì những mâu thuẫn của nó thể hiện càng rõ.
Ví dụ trong xã hội chiếm hữu nô lệ, mâu thuẫn giai cấp thể hiện không rõ,
không quyết liệt nh trong xã hội phong kiến hay xã hội t bản chủ nghĩa.
Tóm lại, mâu thuẫn vừa mang tính khách quan, vừa mang tính phổ biến,

luôn gắn liền với tồn tại và phát triển của sự vật hiện tợng từ khi xuất hiện tới khi
kết thúc.
3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
a2, Nh đã nói ở trên, mâu thuẫn biện chứng là mối liên hệ giữa các mặt đối
lập. Mối liên hệ này đợc thực hiện theo hai chiều: thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập.
Sự thống nhất của các mặt đối lập chính là sự ràng buộc, nơng tựa lẫn
nhau, tạo điều kiện tiền đề cho nhau, ảnh hởng nhau của các mặt đối lập. Các mặt
đối lập tồn tại trong cùng một sự vật hiện tợng không phải ở trạng thái đứng cạnh
nhau mà phụ thuộc vào nhau, tạo sự phù hợp, cân bằng cho nhau trong sự vật, hiện
tợng đó. Nếu thiếu một trong hai mặt thì sự vật sẽ không tồn tại.
Ví dụ: sự thống nhất giữa sản xuất và tiêu dùng trong nền sản xuất hàng
hóa. Nếu sản xuất ra mà không có tiêu dùng thì hàng hóa sẽ ế thừa. Không có tiêu
dùng sẽ không có các nhu cầu đợc đặt ra, dẫn tới sản xuất sẽ không thể tiếp tục
hoạt động. Ngợc lại, nếu chỉ có tiêu dùng mà không có sản xuất thì sẽ không có
hàng hóa để tiêu dùng, nhu cầu tiêu dùng không đợc thỏa mãn. Nh vậy,tiêu dùng
và sản xuất đều cùng tồn tại, ràng buộc nhau, cái này làm tiền đề tồn tại và phát
triển cho cái kia và ngợc lại. Hai quá trình này tạo nên sự ổn định tơng đối cho nền
sản xuất hàng hóa.
Ngay từ khái niệm thống nhất của các mặt đối lập, ta đã thấy có sự tơng đổi
trong đó, bởi trong thống nhất lại chứa cái đối lập. Vì vậy ta chỉ nên hiểu khái
niệm này một cách tơng đối, nó chỉ ra sự cùng tồn tại, ràng buộc, qui định lẫn
nhau của các mặt đối lập.
Đã nói tới đối lập là nói tới những xu hớng phát triển ngợc chiều nhau.
Chúng không chỉ dừng lại ở sự ràng buộc nhau mà giữa chúng luôn có sự đấu
tranh, khi có điều kiện sẽ đa tới sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập. Đây chính là
động lực phát triển của bản thân sự vật hiện tợng. Sự đấu tranh giữa các mặt đối
lập là sự phủ định, bài trừ, gạt bỏ lẫn nhau của các mặt đối lập. Sự đấu tranh này đ-
ợc thể hiện dới nhiều hình thức khác nhau.

Ví dụ: mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất thể hiện ở sự
kìm hãm sự phát triển lực lợng sản xuất tiên tiến của quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc
hậu. Cuối thời phong kiến,lực lợng sản xuất đã phát triển rất mạnh mẽ, mang nhiều
yếu tố, đặc điểm tiến bộ của chủ nghĩa t bản. Xong quan hệ sản xuất phong kiến
lại lạc hậu, ngăn cản những mặt tích cực, tiến bộ đó. Khi đó mâu thuẫn giữa lực l-
ợng sản xuất và quan hệ sản xuất trở nên gay gắt. Muốn giải quyết mâu thuẫn, hay
nói cách khác, muốn QHSX phù hợp với LLSX thì cần tiến hành các cuộc cách
mạng dứơi nhiều hình thức khác nhau, trong đó có cả bạo lực vũ trang. Để chuyển
từ QHSX phong kiến lên QHSX t bản chủ nghĩa thì cần có cách mạng t sản mà mở
đầu là cuộc cách mạng t sản Pháp (1779).
Nhng sự đấu tranh giữa sản xuất và tiêu dùng lại diễn ra theo phơng thức
khác. Đó là sự phá huỷ sản phẩm của nhau. Sản xuất tạo ra sản phẩm thì tiêu dùng
sử dụng chúng, làm mất đi giá trị của chúng do sản xuất tạo ra. Còn sản xuất tạo ra
sản phẩm, làm mất đi các đòi hỏi, nhu cầu do tiêu dùng đặt ra.
Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập đợc diễn ra theo nhiều giai đoạn, tơng ứng
với quá trình hình thành, phát triển và giải quyết mâu thuẫn.
Với giai đoạn hình thành mâu thuẫn, đây là giai đoạn mà các mặt đối lập
4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
cha thể hiện rõ sự xung khắc gay gắt. Ban đầu, các mặt đối lập mới chỉ tồn tại với
t cách là sự khác nhau. Cùng với sự phát triển của từng mặt, sự khác nhau này đợc
nâng cao dần và chuyển thành sự khác biệt. Rồi sự khác biệt lại tăng dần và
chuyển thành hai xu hớng trái ngợc nhau. Lúc đó các mặt đối lập đợc hình thành.
Các mặt đối lập này liên hệ, tác động với nhau để tạo nên sự vật, qua đó tạo nên
mâu thuẫn.
Ví dụ: khi chế độ t bản chủ nghĩa mới hình thành, giai cấp t sản và giai cấp
vô sản mới chỉ là hai giai cấp khác nhau trong xã hội. Họ khác nhau ở chỗ: giai
cấp t sản có nhiều t liệu sản xuất hơn giai cấp vô sản. Do có nhiều t liệu sản xuất,
giai cấp t sản tiến hành đầu t, thuê công nhân là những ngời có ít hoặc không có t
liệu sản xuất mà phần lớn thuộc giai cấp vô sản. Thông qua đó, giai cấp t sản đã t-

ớc đoạt phần giá trị thặng d mà ngừơi công nhân đã tạo ra thông qua lao động trừu
tợng của mình. Dần dần số vốn cũng nh lợng t liệu sản xuất của giai cấp t sản càng
ngày càng tăng, họ mở rộng thị trờng và bóp nghẹt những cơ sở sản xuất của
những ngừơi có ít t liệu sản xuất, buộc họ muốn tồn tại thì phải trở thành lao động
làm thuê. Nh vậy, đã xuất hiện sự khác biệt gữa hai giai cấp, một bên có t liệu sản
xuất, một bên hoàn toàn không có t liệu sản xuất. Trong quá trình sản xuất, ngừơi
công nhân tạo ra giá trị thặng d nhng không đựoc sở hữu nó mà quyền sở hữu
thuộc về nhà t bản. Điểu đó tạo nên mâu thuẫn giữa hai giai cấp trong xã hội t bản.
Hai giai cấp này chính là hai giai cấp cơ bản hình thành xã hội t bản hoàn chỉnh
theo đúng nghĩa của nó.
Sau khi mâu thuẫn hình thành, các mặt đối lập không đứng yên mà tiếp tục
vận động, phát triển theo các xu hớng ngợc chiều nhau, làm tăng thêm sự khác biệt
giữa chúng. Đây là biểu hiện của giai đoạn phát triển mâu thuẫn. Các mặt đối lập
đã đối lập hơn và chuyển dần sang các mặt đối địch. Khi đó, mâu thuẫn đã phát
triển tới đỉnh cao, nó đỏi hỏi cần đợc giải quyết. Ví dụ khi giai cấp t sản ngày càng
bóc lột phần giá trị thặng d do công nhân làm thuê tạo ra, nên họ càng trở nên giàu
có hơn. Trong khi đó, giai cấp vô sản ngày càng bị bần cùng hóa, phải bán sức lao
động, chịu thiệt thòi. Quyền lợi của hai giai cấp về kinh tế đã đối lập hẳn nhau,
mâu thuẫn càng tăng và tới lúc nào đó hai giai cấp trở thành hai giai cấp đối địch
trong xã hội t bản.
Khi mâu thuẫn đã phát triển tới đỉnh cao của nó, khi các điều kiện cần thiết
cho việc giải quyết mâu thuẫn đã chín muồi thì lúc đó mâu thuẫn đợc giải quyết.
Việc giải quyết mâu thuẫn đợc tiến hành bằng cách tạo nên sự chuyển hoá, bài trừ,
phủ định giữa các mặt đối lập, thay đổi các mặt đối lập, làm mâu thuẫn cũ mất đi,
mâu thuẫn mới hình thành. Trong giới tự nhiên, sự chuyển hóa thờng diễn ra một
cách tự phát theo các qui luật tự nhiên, còn trong xã hội, sự chuyển hóa lại diễn ra
thông qua hoạt động có ý thức của con ngừơi.
Ví dụ: trong tự nhiên, sự đấu tranh giữa biến dị và di truyền trong sinh vật
thế hệ trớc tạo ra loại sinh vật mới với những đặc điểm của thế hệ trớc và cả những
đặc điểm mới, thích nghi hơn với điều kiện môi trờng xung quanh. Sự đấu tranh

này theo quy luật tién hóa tự nhiên và tự diễn ra không cần sức mạnh hay sự chi
phối của bàn tay con ngời. Còn trong xã hội, mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX
muốn đợc giải quyết phải có các cuộc cách mạng, do con ngời tạo ra, bị chi phối
5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
dứơi ý thức tiến bộ của con ngừơi, hình thành QHSX mới, phù hợp với sự phát
triển của LLSX.
Quá trình chuyển hoá của các mặt đối lập diễn ra rất phức tạp với nhiều
hình thức phong phú. Thông thờng sự chuyển hóa có ba dạng:
Một mặt đối lập nào đó mất đi, mặt đối lập mới xuất hiện.
Các mặt đối lập thay đổi vị trí, tơng quan lực lợng. Ví dụ sự thay đổi
điện tích âm và dơng trong phản ứng hạt nhân để tạo ra hạt nhân mới.
Cả hai mặt đối lập cùng thay đổi lên một trình độ cao hơn xét về phơng
diện chất của sự vật. Ví dụ: địa chủ, quí tộc với nông dân là hai giai cấp tạo nên
mâu thuẫn trong xã hội phong kiến. Khi xã hội phong kiến sụp đổ, bị thay thế
bằng xã hội t bản chủ nghĩa thì hai giai cấp mâu thuẫn cơ bản trong xã hội cũ
đợc thay thế bằng hai giai cấp là t sản và vô sản. Hai giai cấp này đều có nhận
thức, hiểu biết cao hơn hai giai cấp trong thời phong kiến, tức là có sự phát
triển cao hơn về chất.

Nh vậy, sự đấu tranh giữa các mặt đối lập đã đa tới sự chuyển hóa giữa
chúng, làm các mặt đối lập thay đổi, tạo nên các mặt đối lập mới. Sự thống nhất
của các mặt đối lập cũ đợc thay thế bắng sự thống nhất của các mặt đối lập mới.
Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới hình thành. Cứ nh thế sự đấu tranh, chuyển
hóa giữa các mặt đối lập trong mâu thuẫn làm cho sự vật hiện tợng phát triển
không ngừng. Sự phát triển này diễn ra theo ba xu hớng: từ thấp tới cao, từ đơn
giản tới phức tạp, từ kém hoàn thiện tới hoàn thiện hơn. Hay nói cách khác, sự giải
quyết mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực cho sự vận động, phát triển của sự vật
và hiện tợng trong thế giới khách quan.
Có thể nói, thống nhất và đấu tranh là hai mặt của quá trình tồn tại của thế

giới khách quan. Lênin đã chỉ ra rằng: Mặc dù thống nhất là điều kiện để sự vật ,
hiện tợng tồn tại với ý nghĩa nó là nó, nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà
chúng ta nhận biết đợc các sự vật hiện tợng tồn tại trong thế giới khách quan. Song
bản thân sự thống nhất chỉ là tơng đối và tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập
mới là tuyệt đối. Nó thờng diễn ra liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật.
Kể cả trong trạng thái sự vật ổn định, cũng nh khi chuyển hóa nhảy vọt về chất.
Lênin viết: Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt
đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua tơng đối. Sự đấu tranh của các mặt đối
lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng nh sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối.
Trên đây ta đã phân tích quá trình tồn tại, hình thành, phát triển và giải
quyết mâu thuẫn biện chứng, cho thấy mâu thuẫn là một hiên tợng khách quan và
phổ biến. Dù muốn hay không muốn chúng vẫn tồn tại trong sự vật hiện tợng của
thế giới khách quan. Vì vậy chúng ta cần thẳng thắn nhìn nhận, và thừa nhận mâu
thuẫn. Khi nghiên cứu một sự vật hiên tợng nào thì cần nghiên cứu những mâu
thuẫn của đối tợng đó. Từ đó tìm ra những biện pháp, cách thức tác động tới sự vật
hiện tợng đó sao cho phù hợp với qui luật khách quan, phục vụ cho nhu cầu của
con ngừơi.
Bên cạnh những kiến thức về mâu thuẫn biện chứng, chúng ta sẽ tiếp tục
tìm hiểu một só đặc điểm của nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ
nghĩa.
6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
b, Nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa trớc hết phải mang
những tính chất của nền kinh tế thị trờng. Kinh tế thị trờng chính là hình thức phát
triển cao của kinh tế hàng hóa. Kinh tế hàng hóa phát triển nghĩa là phạm trù hàng
hóa, phàm trù tiền tệ và thị trờng đợc phát triển và đợc mở rộng. Dung lợng thị tr-
ờng và cơ cấu thị trờng đợc mở rộng và hoàn thiện. Mọi quan hệ kinh tế trong xã
hội đều đợc tiền tệ hóa. Khi đó ngừơi ta gọi kinh tế hàng hóa là kinh tế thị trờng.
Trên thế giới đã có nhiều quốc gia phát triển nền kinh tế của mình theo mô

hình kinh tế thị trờng. Chẳng hạn, mô hình kinh tế thị trờng-xã hội của Cộng hòa
Liên bang Đức, kinh tế thị trờng mang màu sắc Trung Quốc,...Nếu gác lại những
đặc điểm cá biệt của những mô hình trên, thì kinh tế thị trờng có những đặc điểm
chung nh sau:
Một là: Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự
bù đắp các chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất và kinh doanh
của mình. Các chủ thể kinh tế đợc tự do liên kết, liên doanh, tự do tổ chức quá
trình sản xuất theo luật định. Đây là đặc trng rất quan trọng của kinh tế thị trờng.
Hai là: Hàng hóa trên thị trờng rất phong phú, trong đó có sự xuất hiện của
loại hàng hóa đặc biệt là hàng hóa sức lao động. Loại hàng hóa này có u điểm là
sau khi mua ngừơi mua không bị lỗ mà còn thu đợc lãi. Lãi này đợc thể hiện ở
phần giá trị thặng d trong sản phẩm, đợc sinh ra do lao động trừu tợng của ngừơi
công nhân. Sự đa dạng và phong phú về số lợng và chủng loại những hàng hóa trên
thị trờng cho thấy trình độ phát triển cao của năng suất lao động, của quan hệ trao
đổi, phân công lao động xã hội và phát triển thị trờng.
Ba là: Giá cả đợc hình thành ngay trên thị trờng.Giá cả thị trờng vừa là sự
biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trờng, vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh
tranh, quan hệ cung cầu hàng hóa và dịch vụ.
Bốn là: Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trờng. Muốn có nhiều lợi
nhuận, các đơn vị sản xuất và kinh doanh phải đua nhau cải tiến kĩ thuật, nâng cao
năng suất lao động cá biệt, giảm chi phí lao động cá biệt nhằm thu lợi nhuận siêu
ngạch.Trong kinh tế thị trờng, cạnh tranh diễn ra trong tất cả các lĩnh vực sản xuất
và lu thông, trong nội bộ từng ngành và giữa các ngành với nhau.
Năm là: Kinh tế thị trờng là hệ thống kinh tế mở, đợc điều hành bởi hệ
thống tiền tệ và pháp luật của Nhà nớc.
Mỗi đặc trng trên đây phản ánh một khía cạnh của nền kinh tế thị trờng.
Tổng hợp cả năm đặc trng sẽ giúp ta hình dung đợc khái quát cấu trúc của mô hình
kinh tế này.
Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy
mô hình phát triển kinh tế theo xu hớng thị trờng có sự điều tiết vĩ mô từ trung

tâm, trong bối cảnh của thời đại ngày nay là mô hình hợp lý hơn cả. Mô hình này,
về đại thể, đáp ứng đợc những thách thức của sự phát triển.
ở nớc ta, việc thực hiện mô hình này, trên thực tế, chẳng những là nội dung
của công cuộc đổi mới mà hơn thế nữa, còn là công cụ, là phơng thức để nớc ta đi
tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là sự định hớng của một xã hội mà sự
hùng mạnh của nó nhờ vào sự giàu có và hạnh phúc của nhân dân. Xã hội không
7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
có chế độ ngừơi bóc lột ngừơi, dựa trên cơ sở nhân dân lao động làm chủ, con
ngừơi đợc giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hởng theo
lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện
cá nhân. Xã hội có nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở khoa học, công nghệ và
lực lợng sản xuất hiện đại.
Định hớng XHCN của nền kinh tế thị trờng ở nớc ta là cần thiết vầ có tính
khách quan. Nội dung định hớng XHCN của kinh tế thị trờng ở nớc ta đã đợc hội
thảo khoa học nhiều lần. Đã có nhiều ngừơi cho rằng thị trờng là cái của riêng của
chủ nghĩa t bản; thậm chí là không có thị trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa vì
kinh tế thị trờng và chủ nghĩa xã hội là hai thứ không thể dung hợp đợc. Họ cho
rằng: Cả về lí thuyết và thực tiễn, kinh tế thị trờng-điều kiện tất yếu để phát triển
kinh tế - không thể đi đôi với định hớng xã hội chủ nghĩa đụơc...Xong thực tế đã
chứng minh đờng lối đúng đắn của Đảng và Nhà nớc ta. Theo ý kiến của đa số các
nhà khoa học Việt Nam, có thể quan niệm định hớng xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế thị trờng ở nớc ta có những nội dung chính nh sau:
Một là: Hai mặt kinh tế và xã hội của nền kinh tế thị trờng nớc ta đợc chủ
động kết hợp với nhau ngay từ đầu thông qua pháp luật, chính sách kinh tế và
chính sách xã hội trên cả tầm quản lí vĩ mô và vi mô. Nếu ở tầm vi mô, các chủ
doanh nghiệp lấy lợi nhuận là mục tiêu xác định hiệu quả của hoạt động sản xuất
kinh doanh thì ở tầm vĩ mô, Nhà nớc dùng hiệu quả kinh tế-xã hội làm mục tiêu
quản lí nhằm thực hiện tăng trởng kinh tế và công bằng xã hội.
Hai là: cùng với sự tăng trởng và phát triển kinh tế, môi trờng sinh thái của

đất nớc đợc chủ động bảo vệ.
Ba là: Nền kinh tế thị trờng theo định hớng XHCN là nền kinh tế có trình độ
phát triển cao, có tích luỹ trong nội bộ nền kinh tế.
Bốn là: Kinh tế nhà nớc phải phát huy vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp
tác là nền tảng của nền kinh tế trong nớc. Ngoài ra, Nhà nớc đầu t, phát triển các
doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế khác nhằm tạo ra nhiều việc làm cho
dân và góp phần tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Các thành phần kinh tế đợc
phát triển một cách bình đẳng với nhau.
Năm là: Nhà nớc XHCN thực hiện vai trò bà đỡ, tạo điều kiện thuận lơi
cho kinh tế thị trờng phát triển đúng hớng. Vai trò đó đợc thể hiện bằng hệ thống
pháp luật.
Sáu là: Nền kinh tế thị trờng ở nớc ta là nền kinh tế dân tộc hòa nhập với
kinh tế quốc tế, tạo điều kiện tiếp thu những thành tựu mới của khoa học-kĩ thuật,
công nghệ thế giới, thực hiện công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nớc.
2, Cơ sở thực tiễn
a, Thực trạng nền kinh tế nớc ta khi chuyển sang kinh tế thị trờng theo định h-
ớng XHCN:
Khi chuyển sang kinh tế thị trờng, chúng ta đứng trớc một thực trạng là: đất
nớc đã và đang từng bớc quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội vốn là thuộc
địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất xã hội rất thấp.
Hơn nữa, nền kinh tế nớc ta chịu ảnh hởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu
8

×