Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

cuộc thi tiềm hiểu về thân thế, sự nghiệp và tấm gương đạo đức hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.72 KB, 21 trang )

CUỘC THI TIỀM HIỂU VỀ THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP VÀ TẤM
GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH”
NỘI DUNG CÂU HỎI :
Câu 1 : Hãy chó biết thân thế và khái quát những móc sự kiện lịch sử
chính trong cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh ?
Câu 2 : Đồng chí hãy cho biết những nội dung chủ yếu về tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh ?
Câu 3 : Những quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người ?
Câu 4 : Nêu những giá trị của tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh ?
Câu 5 : Đồng chí hãy cho biết nội dung học tập và làm theo tư tưởng,
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của cán bộ, Đảng viên, công chức, viên
chức, và người lao động trong giai đoạn cách mạng hiện nay ?
Câu 6 : Ý nghĩa của việc học tập, nghiên cứu tư tưởng tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay ?
NỘI DUNG TRẢ LỜI
Câu 1 :
Hồ Chí Minh
Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta
Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi
học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng trước đây
lấy tên là Nguyễn Ái Quốc), sinh ngày 19-5-1890 ở làng Kim Liên, xã
Nam Liên (nay là xã Kim Liên), huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và mất
ngày 2-9-1969 tại Hà Nội.
Người sinh ra trong một gia đình: Bố là tên Nguyễn Sinh Sắc một
nhà nho yêu nước, nguồn gốc nông dân; mẹ tên Hoàng Thị Loan là nông
dân, chị là Nguyễn Thị Thanh và anh là Nguyễn Sinh Khiêm, em là
Nguyễn Sinh Xin đều tham gia chống Pháp và Bị tù đày.
Ngày 3-6-1911, Người ra nước
ngoài, làm nhiều nghề, tham gia cuộc


vận động cách mạng của nhân dân
nhiều nước, đồng thời không ngừng
đấu tranh cho độc lập, tự do của dân
tộc mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh là
người Việt Nam đầu tiên ủng hộ Cách
mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và tìm
thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin con
đường giải phóng của giai cấp công
nhân và nhân dân các nước thuộc địa.
Năm 1920, Người tham gia thành lập
Đảng Cộng sản Pháp tại Đại hội Tua.
Năm 1921, người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc
địa Pháp; xuất bản tờ báo Người cùng khổ ở Pháp (1922). Năm 1923,
Người được bầu vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người
tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản và được chỉ định là Uỷ
viên thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam.
Năm 1925, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức
châu á, Xuất bản hai cuốn sách nổi tiếng : bản án chế độ thực dân Pháp
(1925)và Đường cách mệnh (1927).
Năm 1925, Người thành lập Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng
chí Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) và tổ chức "Cộng sản đoàn" làm nòng
cốt cho Hội đó, đào tạo cán bộ Cộng sản để lãnh đạo Hội và truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin vào ViệtNam
Ngày 3-2-1930, Người chủ tọa Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu
Long (gần Hương Cảng). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Điều lệ Đảng do chính Người soạn thảo. Người ra lời kêu gọi
nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đổi là Đảng Cộng sản
Đông Dương, rồi Đảng Lao động Việt Nam
nay là Đảng cộng sản Việt Nam ).
Từ năm 1930 đến 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động

cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam của các dân tộc bị áp bức
khác trong những điều kiện vô Gian khổ và khó khăn.
Năm 1941, Người về nước, triệu tập Hội nghị lần thứ 8 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, quyết định đường lối
cứu nước, thành lập Việt Nam độc lập đồng minh Hội (Việt Minh), tổ chức
lực lượng vũ trang giải phóng, chính sách căn cứ địa, lãnh đạo nhân dân
khởi nghĩa từng phần và chuẩn bị tổng khởi
nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Sau Cách mạng Tháng Tám (1945) thắng lợi, ngày 2-9-1945, tại
Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc
lập tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tổ chức Tổng
tuyển cử tự do trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân
chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I đã bầu Người àm Chủ tịch
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946).
Cùng với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân Việt Nam phá tan âm mưu của đế quốc, giữ vững và
củng cố chính quyền cách m ạng.
Ngày 19-12-1946, người kêu gọi cả nước kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, bảo vệ và phát triển
những thành quả của cách mạng Thán tám. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng
(1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm
lược đã giành được thắng lợi to lớn, kết thúc bằng chiến thắng vĩ đại Điện
Biên Phu (1954).
Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1955) Trung ương
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời đấu tranh giải phóng miền Nam, thực
hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

trong cả nước
Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) đã nhất trí bầu lại Chủ tịch Hồ
Chí Minh làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam. Quốc hội khóa II, khóa III đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh
đạo cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân Việt Nam chống chiến tranh
xâm lược của đế quốc Mỹ; lãnh đạo sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn đưa cách
mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người sáng lập ra
Đảng Mácxít-Lêninnít ở Việt Nam, sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất
Việt Nam, sáng lập ra các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng
lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, góp phần tăng cường đoàn kết
quốc tế. Người là tấm gương sáng của tinh thần tập thể, ý thức tổ chức và
đạo đức cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt
Nam, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam,
một chiến sĩ xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản
quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc.
Câu 2 :
Những nội dung chủ yếu về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh :
Một là, tấm gương trọn đời phấn dấu, hy sinh vì sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và nhân loại.
-Hồ Chí Minh đã lựa chọn một cách rọ ràng mục tiêu phấn đấu cho
cuộc đời mình là vì nước, vì dân. Trên con đường thực hiện mục tiêu đó,
Người đã chấp nhận hy sinh, không quản gian nguy, kiên định, dũng cảm
và sáng suốt để vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện bằng được
mục tiêu đó.

-Sự kiện định mục tiêu phấn đấu trong suốt cuộc đời của Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã được nhân dân thế giới thừa nhận và kính phục.
Hai là, tấm gương ý của ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua
mọi thử thách, khó khăn để đạt mục đích cách mạng.
Cuộc đời Người là một chuỗi năm tháng đấu tranh vô cùng gian khổ.
Vượt qua bao khó khăn, Người kiên trì mục đích của cuộc sống, bảo vệ
chân lý, giữ vững quan điểm, khí phách; bình tĩnh, chủ động vượt qua mọi
thử thách. Người tự răn mình :
“Muốn nên sự nghiệp lớn
Tinh thần càng phảo cao”
Ba là, tấm gương tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân,
kính trọng nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân.
Hồ Chí Minh có tình thương yêu bao la với tất cả mọi kiếp người.
Người luôn tin tưởng ở con người, tin tưởng vào trí tuệ và sức mạnh của
nhân dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc, nguyện làm “người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân”; “người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra
trước mặt trận”.
Bốn là, tấm gương của một người nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân
hậu hết mực vì con người.
Với tinh thần yêu thương bao la, Người dành tình thương yêu cho tất
cả, chia sẻ với mọi người những nỗi đau. Người nói “Mỗi người, mỗi gia
đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của
mỗi người, mỗi gia đình lại thành một nỗi đau khổ của tôi”
Với dân tộc ta, nhân dân ta, công
đức và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ
Chí Minh là vô cùng to lớn. có rất
nhiều bài văn, bài báo, bài thơ, bài
hát, bài ca dao, vở kịch, tấm ảnh và
cả những bài luận văn có tầm cỡ
ngợi ca đức tính tốt đẹp, công lao vĩ

đại của Người. Có thể tóm tắt
những lời ngợi ca ấy bằng bốn chữ “đức lớn, tâm đầy”.
Một đời lo việc nước, việc dân, Bác sống gương mẫu, nêu một lối sống
"nhân văn cộng sản" cho mọi người trông vào và có thể noi theo. "Chúng
tôi hiểu và nhận ra rằng: chính cái giản dị ấy, cái khả năng hòa mình vào
nhân dân ấy là cơ sở cho sự thành công của Bác. Địa vị càng cao, Bác càng
giản dị, trong sạch hơn. Hình như Bác luôn luôn giữ được giá trị vĩnh viễn
của người Việt Nam". (Nhà báo DaviSten, Australia).
Năm là, tấm gương cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng
trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường. Hồ Chí Minh
sống thật sự cần, kiệm, giản dị, coi kinh sự sa hoa, không ưa chuộng
những nghi thức trang trọng. Suốt đời Người sống trong sạch, vì dân vì
nước, vì con người, không gợn chút riêng. Người đã đề ra tư cách người
cách mạng cho cán bộ, đảng viên phấn đấu và tự mình gương mậu thực
hiện.
Bấy nhiêu đức tính cao cả chung đúc lại trong một con người đã làm
cho tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trở nên cao thượng tuyệt vời. Nhưng
cũng chính từ sự kết hợp của những đức tính đó, Người là tấm gương cụ
thể, gần gũi mà mọi người đều có thể noi theo.
Câu 3 :
1-Quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh vế cách mạng giải
phóng dân tộc :
Một là, Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo
con đường của cách mạng vô sản.
-Đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng chủ nghỉa Mác – Lênin
vào thực tiễn Việt Nam qua các chặng đường gian nan thử thách, Hồ Chí
Minh luôn khẳng định một chân lý là : muốn cứu nước và giải phóng dân
tộc không có con đường nào khác là cách mạng vô sản.
-Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải kết hợp cách mạng vô sản ở
chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách

mạng thuộc địa như là “một trong những cái cách cửa của cách mạng vô
sản”, phát triển nhịp nhàng với cách mạng vô sản.
Hai là, Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng
của giai cấp công nhân lãnh đạo.
-Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định : muốn sự nghiệp giải phóng dân
tộc thành công “Trước hết phải có Đảng cách mệnh . . . Đảng có vững cách
mệnh mới thành công”
-Hồ Chí Minh đã khẳng định nguyên tắc xây dựng Đảng : Đảng của
giai cấp công nhân phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới
của c Lênin.
Ba là, Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn
dân, trên cơ sở liên minh công – nông.
-Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh chủ trương cần
vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước,
đang bị làm nô lệ, trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy
động sức mạnh của toàn dân tộc, đấu tranh giành độc lập, tự do.
-Đảng cần có chủ trương, chính sách tranh thủ vận động các tầng lớp
nhân dân vì mục tiêu chung. Trong Sách lược vắn tắt, Người viết : “Đảng
phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân
Việt . . . để kéo họ đi về phe vô sản giai cấp.
Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa
lộ rõ bộ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng chúng, ít ra làm cho học bị
cô lập . . .”
-Trong chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc
chống đế quốc, Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm giai
cấp : “công – nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ
nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công – nông; 3 hạng
ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công – nông thôi” Và trong khi liên lạc
với giai cấp phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì
của công – nông mà đi vào con đường thỏa hiệp.

Bốn là, Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động,
sáng tạo.
-Luận điểm trên là sự phát triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác –
Le6nin trong thời đại đế quốc chủ nghĩa của Hồ Chủ Minh. Nó có giá trị lý
luận và thực tiễn rất to lớn và đã được thắng lợi của cách mạng giải phóng
dân tộc Việt Nam cũng như trên thế giới chứng minh là hoàn toàn đúng
đắn.
Năm là, Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con
đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng
vũ trang trong nhân dân.
-Theo Hồ Chí Minh cuộc khởi nghĩa vũ trang đó : phải có tính chất
một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn . . .
Luận điểm trên đây của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ sự phân tích vai trò của
quần chúng nhân dân.
-Tháng 5 – 1941, Hội nghị Trung ương 8 do Người chủ trì đã đưa ra
nhận định : Cuộc cách mạng Đông Dương được kết liễu bằng một cuộc
khởi nghĩa vũ trang, mở đầu có thể là một cuộc khởi nghĩa từng phần trong
từng địa phương . . . mà mở đường cho cuộc tổng khởi nghĩa to lớn.
-Để chuẩn bị tiến tới cuộc khởi nghĩa vũ trang, Hồ Chí Minh cùng
với Trung ương Đảng chỉ đạo xây dựng căn cứ địa, đào tạo, huấn luyện cán
bộ, xây dựng các tổ chức chính trị quần chúng, lập ra các đội du kích vũ
trang, chủ động đón thời cơ, chớp thời cơ, phát động Tổng khỏi nghĩa
Tháng Tám chỉ trong vòng 10 ngày đã giành được chính quyền trong cả
nước.
2-Quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng giai cấp
và giải phóng con người :
Một là, Không có già quý hơn độc lập, tự do.
-“Không có già quý hơn độc lậ, tự do” không chỉ là tư tưởng mà còn
là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Vì thế, Người không
chỉ đượ tôn vinh là “anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn

được thừa nhận là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các
dân tộc thuộc địa trong thế kỉ XX”.
Hai là, Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế.
Tóm lại, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển của học
thuyến của Lênin về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm
mới mẻ, sáng tạo, bao gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương
pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
-Thắng lợi cuộc cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và đế quốc Mỹ, những thành tựu to lớn và rất quan trọng của
sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã chứng minh tính khoa học đúng đắn, tính
cách mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đướng cách mạng
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Câu 4 :
Những giá trị của tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch
chủ nghĩa cá nhân” Theo tư tưởng Hồ Chí Minh là :
Một là, Đảng ta phải thực hiện khả năng trí tuệ của mình, đề ra được
đường lối đúng đắn, đưa cách mạng nước ta vượt qua khó khăn, thử thách,
tiếp tục tiến lên. Đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thể
hiện sứ đúng đắn bằng những thành tự to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong 20
năm qua. Những thành tựu đó cũng đạ chứng minh các quan điểm do Hồ
Chí Minh nêu lên từ năm 1960 : Đảng ta là đạo đức, là văn minh. Trong
giai đoạn phát triển mới, đất nước ta có nhiều cơ hội mới, đồng thời cũng
có nhiều khó khăn, thử thách. Đổi mới là sự nghiệp mới mẻ, chưa có tiền
lệ. Cần phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn
Việt Nam để tiếp tục cụ thể hóa hơn nữa đường lối đổi mới, phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công tác đổi mới, sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Đảng phải lãnh đạo sáng
suốt, đưa dân tộc ta tiến lên không ngừng, từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác, như Hồ Chí Minh đã khẳng định.

Hai là, Hồ Chí Minh luôn khẳng định cán bộ là gốc của mọi công
việc, đạo đức là gốc của người cán bộ, muốn việc thành công hay thất bại
là cán bộ tốt hay kém. Trong bài : “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch
chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh đánh giá, trong thực tế sản xuất và chiến
đấu xây dựng chủ nghĩa xã hội, chống Mỹ, cứu nước “rất nhiều cán bộ,
đảng viên ta tỏ ra anh dũng, gương mẫu, gian khổ đi trước, hưởng thụ đi
sau”. Thành tựu to lớn của 20 năm đổi mới chứng tỏ đa số cán bộ, đảng
viên, công chức nhà nước vẫn xứng đáng với lời khen của Hồ Chí Minh từ
năm 1969.
Văn kiện hội nghị lần thứ chín của Ban chấp hành Trung ương khóa
IX tháng 01/2004 khẳng định : Qua thực hiện cuộc vận động xây dựng,
chỉnh đốn Đảng cho thấy, phần lớn cán bộ, đảng viên hiện nay tin tưởng
vào công cuộc đổi mới và sự nghiệp lãnh đạo của Đảng. “Nhiều cán bộ,
đảng viên đã phát huy được vai trò gương mẫu trong thực hiện nhiệm vụ
chính trị, rèn luyện đạo đức, lối sống, năng động, sáng tạo, dám chịu trách
nhiệm; có phong cách làm việc, dân chủ, nói đi đôi với làm”. Quan điểm
trên tiếp tục được quán triệt trong văn kiện Đại hội X.
Trong giai đoạm cách mạng mới, đẩy nhanh sự phát triển của đất
nước, rất cần sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm, biết cách tổ chức quấn chúng thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Cán bộ nào, phong trào đó. Rõ ràng, trong giai đoạn hiện nay việc quan
tâm xây dựng, bồi dưỡng, giáo dục đội ngũ cán bộ có đầy đủ phẩm chất
đạo đức, có năng lực sáng tạo, vừa hồng, vừa chuyên theo tư tưởng Hồ Chí
Minh là rất quan trọng.
Ba là, Quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế không chỉ tạo ra cho chúng ta cơ hội để phát triển, mà cả những tác
động tiêu cực vào đạo đức, lối sống. Biểu hiện cụ thể là sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng

viên đã trở nên nghiêm trọng hơn, xuất hiện trong tất cả các lĩnh vực, từ
trung ương đến địa phương và cơ sở.
Bốn là, Phòng chống tham nhũng, tiêu cực trogn hệ thống chính trị,
trước hết là trong cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ, đảng viên có chức,
có quyền, công chức nhà nước phải bắt đầu từ phòng, chống chủ nghĩa cá
nhân. Đây là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt để nâng cao đạo đức cách
mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Những giải pháp từ phía các cơ quan đảng đến cán bộ, đảng viên,
được Hồ Chí Minh nêu ra trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân cách đây gần 40 năm vẫn còn nguyên giá trị,
vì đó là những giải pháp rất cơ bản và rất thiết thực, phải làm thường
xuyên. Thực hiện những giải pháp này, cần nhấn mạnh một luận điểm của
Hồ Chí Minh, đó là, để biến chủ trương, chính sách thành hiện thực không
chỉ cần giải pháp đúng mà cần hơn là quyết tâm và dũng khí thực hiện giải
pháp ấy. Các chuyên gia nghiên cứu chống tham nhũng trên thế giới đều
khẳng định, chống tham nhũng trước hết không phải bắt đầu bằng “đạo luật
sắc” mà phát bắt đầu từ quyết tâm chính trị cu3a người lãnh đạo ; không
chỉ bằng “bàn tay sắt” , mà trước hết bằng bàn tay sạch. Trong tổ chức lực
lượng và tiến trịnh thực hiện cần tuân theo lời dạy của Hồ Chí Minh : “Có
chỉ tiêu kế hoạch rồi chưa đủ mà phải có biện pháp cụ bie65, vững chắc,
phải có tinh thần cố gắng rất cao để thực hiện bằng được kế hoạch đã đề ra.
Chỉ tiêu kế hoạch một phần, biện pháp phải hai phần, cố gắng phải ba
phần.
Câu 5 :
Nội dung học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh của cán bộ, Đảng viên, công chức, viên chức và người lao động trong
gia đoạn cách mạng hiện nay là :
Một là, Thực hiện chuẩn mực đạo đức Hồ Chí Minh “Trung với
nước, hiếu với dân” cần quán triệt những nội dung của chủ nghĩa yêu nước
trong giai đoạn mới; phát huy sức mạng đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh

sự nghiệp đổi mới đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước
ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển.
-Mỗi người cần nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những hy sinh to
lớn của ông cha chúng ta có non sông, Tổ quốc Việt Nam độc lập, tự do,
thống nhất trọn vẹn hôm nay. Nâng cao tinh thần yêu nước, tự hào về
truyền thống anh hùng của dân tộc là lương tâm và trách nhiệm của mỗi
người Việt Nam chân chính. Trung với nước ngày nay là trung thành vô
hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hóa, bảo vệ Đảng, chế độ, nhân dân và sự
nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất nước.
-Trung với nước, hiếu với dân ngày nay là luôn luôn tôn trọng, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân thể hiện ý chí vươn lên quyết tâm vượt
qua nghèo nàn lạc hậu góp phần xây dựng đất nước phồn vinh và phát
triển. Trung với nước hiếu với dân là luôn luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết
toàn dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong cơ quan, đơn vị; kiên quyết đấu
tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ của các thế lực thù địch, cơ
hội hòng chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với
nhân dân. Đoàn kết là yêu nước, chia rẽ là làm hại cho đất nước.
-Trung với nước hiếu với dân phải có tinh thần trách nhiệm cao đối
với công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng; giải quyết đúng đắn
các mối quan hệ cá nhân – gia đình – tập thể – xã hội; quan hệ giữa nghĩa
vụ và quyền lợi. Làm việc gì trước hết phải vì tập thể, vì đất nước, vì nhân
dân, phải nêu cao trách nhiệm của người lãnh đạo, không tham lam, vụ lợi,
vun vén cá nhân. . .
Hai là, thực hiện đúng lời dạy : “Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô
tư” nêu cao phẩm giá con người Việt Nam trong thời kì mới.
-Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo,
có năng suất, chất lượng hiệu quả cao; biết quý trọng công sức lao động.
Thực hiện chí công, vô tư là kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống
thực dụng, loại bỏ thói chạy theo danh vọng, địa vị, giành giật lợi ích cho

mình, lạm dụng quyền hạn chức vụ chiếm đoạt của công, thu vén cho gia
đình cá nhân. Phải thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường
lối, quan điểm của đảng, bảo vệ người tốt ; chân thành khiêm tốn ; không
chạy theo chủ nghĩa thành tích, không bao che, giấu giếm khuyết điểm . . .
Thực hiện cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư phải kiên quyết
chống bệnh lười biếng, lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm,
nói nhiềm làm ít.
Ba là, Nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì
nhân dân phục vụ.
-Học tập và làm theo Người, trong tất cả chúng ta phải đặt mình
trong tổ chức và đúng hoàn cảnh phải tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, kỷ
cương. Tất cả vì nhân dân, mội cán bộ, Đảng viên, công chức, viên chức và
nhân dân lao động dù bất cứ ở cương vị nào phải gần dân, học dân, có
trách nhiệm với nhân dân.
-Phải coi trọng tự phê bình và phê bình, không sợ khuyết điểm,
không sợ phê bình, mà chỉ sợ không nhận ra khuyết điểm, sai lầm và không
quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, sẽ dẫn đến khuyết điểm ngày càng to và
hư hỏng. Tự phê bình phải được coi trọng, phải đặt lên hàng đầu phải
nghiêm khắc với chính mình.
Bốn là, phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ nghĩa quốc tế
trong sáng, đoàn kết, hựu nghị giữa các dân tộc trong điều kiện toàn cầu
hóa, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
-Ngày nay trong điều kiện toàn cầu hóa, việc mở rộng tình đoàn kết
quốc tế, hợp tác cùng có lợi, chủ động tích cực hội nhập là nguồn lực quan
trọng để xây dựng và phát triển đất nước. Đoàn kết quốc tế trong sáng là
thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạnh hóa với
tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy với các quốc gia trên thế
giới, phấn đấu vì độc lập, hòa bình, hợp tác và phát triển .
-Đoàn kết theo Hồ Chí Minh là phát huy tinh thần độc lập , tự chủ,
tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác, mở rộng hợp tác cùng có

lợi, phấn đấu vì hòa bình, phát triển, chống chiến tranh, đói nghèo, bất
công, cường quyền, áp đặt trong quan hệ quốc tế. Khép lại những vấn đề
của quá khứ lịch sự, xóa bỏ mặc cảm, hận thù, nhìn về tương lai, xây dựng
tình hữu nghị giữa các dân tộc.
-Cần nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, kiên quyết
đấu tranh chống tâm lý tự ty, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi; phê phán các biểu
hiện vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng trước chủ nghĩa tư bản.
Sự nghiệp đổi mới đất nước trong giai đoạn cách mạng hiện nay đặt
ra nhiều yêu cầu ngày càng cao đối với sự hình thành và phát triển những
phẩm chất đạo đức tốt đẹp của người Việt Nam đồng thời còn làm cho cán
bộ, Đảng viên, công chức, viên chức và người lao động học tập và làm
theo tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh, vì thế cần cân đo, xem xét lại
chính mình.
Câu 6 :
Việc học tập , nghiên cứu tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa :
Đảng ta xác định trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ
then chốt, xây dựng văn hoá, tinh thần là động lực của sự phát triển. Đảng
ta khẳng định vai trò quyết định đến sự ổn định phát triển là nhân tố con
người, trong đó đạo đức là gốc. Giáo dục đạo đức là một trong những biện
pháp nhằm bảo đảm sự thống nhất trong toàn Đảng, sự đồng thuận của xã
hội, tạo điều kiện phát triển nhanh, bền vững của đất nước.
-Việc học tập, nghiên cứu và làm theo tấm gương đạo đức cách
mạng của Người trở nên hết sức quan trọng. Bởi vì tư tưởng đạo đức của
Hồ Chí Minh luôn là bộ phận quan trọng của nền tảng tinh thần, là động
lực, nguồn sức mạnh to lớn để nhân dân ta phát huy nội lực, vượt qua thử
thách,kho khăn tiến lên phát triển đất nước.
-Học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người là một biện
pháp quan trọng để cán bộ, đảng viên sửa chữa, khắc phục tình trạng suy

thoái về đạo đức, lối sống; giữ vững niềm tin của nhân dân về sự lãnh đạo
của Đảng. Luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải ra sức tu dưỡng, rèn
luyện, nâng cao đạo đức cách mạng
-Nâng cao đạo đức cách mạng, nâng cao nhận thức và thực hành cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức trách
nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân. Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức,
thanh niên , cùng với những đức tính cần cù, tiết kiệm, chính trực, và
trong sạch.
-Học tập, nghiên cứu tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sẽ
bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau chính là sự nghiệp trồng người
của toàn Đảng, toàn dân ta: ''Vì lợi ích trăm năm'', trong đó sự nghiệp giáo
đục giữ vai trò trọng yếu. Bác đã coi giáo dục là khâu cơ bản để hình thành
nhân cách con người, phần nhiều do giáo dục mà nên''. Theo Người: xây
dựng kinh tế, không có cán bộ không làm được, không có giáo dục, không
có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế, văn hóa.
-Xây dựng đội ngũ người thầy ngang tầm, cơ sở vật chất để đào tạo
ngang tầm, quản lý và phương pháp giáo dục luôn đổi mới. Và điều quan
trọng hơn cả là phải thấy sự nghiệp trồng người là nhiệm vụ của toàn
Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị, của gia đình và các bậc phụ
huynh hướng tới đào tạo được các thế hệ kế tục sự nghiệp cách mạng vừa
''hồng'', vừa ''chuyên'', đưa đất nước phát triển và sánh vai với các cường
quốc năm châu.
Hết

×