Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Hàn Mặc Tử và một số tác phẩm tiêu biểu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.17 KB, 18 trang )

HÀN MẶC TỬ - NHÀ THƠ LẠ NHẤT TRONG CÁC NHÀ THƠ MỚI
I. Vài nét về cuộc đời, sự nghiệp thơ ca Hàn Mặc Tử
1. Cuộc đời
- Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, tên thánh là
Pierre hay Francois.
- Sinh ở làng Lệ Mĩ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng Hới (nay là
Quảng Bình) trong một gia đình viên chức nghèo theo đạo Thiên Chúa. Cha là
Nguyễn Văn Toản từng là chủ sự Thương Chánh Nhật Lệ và mẹ là Nguyễn Thị
Duy, một người đàn bà xứ Huế hiền lành, trung hậu, chịu thương chịu khó. Sau khi
cha mất, gia đình Nguyễn Trọng Trí chuyển vào Quy Nhơn sống với người anh
đầu đang làm việc tại đây. Do muốn con theo đuổi sự nghiệp công danh nên mẹ
ông gửi ông ra Huế theo học tại trường dòng Pellerin, một trong những trường nổi
tiếng nhất tại Huế. Và tại đây Nguyễn Trọng Trí đã có hai năm học trung học
(1928 – 1930).
- Hồn cảnh kinh tế gia đình sa sút, Hàn Mặc Tử phải bỏ học. Ông làm viên
chức tại sở Đạc Điền Quy Nhơn (1932 - 1933), rồi vào Sài Gòn làm báo (1934 1935). Đến năm 1936, Hàn Mặc Tử mắc bệnh phong, ông về hẳn Quy Nhơn chữa
bệnh và mất tại trại phong Quy Hòa (11/11/1940).
=> Mảnh đất miền Trung đầy nắng gió, non nước hữu tình, nơi quy tụ nhiều nhân
tài cùng với gia đình có truyền thống Nho học đã ảnh hưởng và khai mở hồn thơ
Trọng Trí để sau này ông trở thành nhà thơ thiên tài.
2. Sự nghiệp
- Nguyễn Trọng Trí mở đầu sự nghiệp thơ văn của mình với bút hiệu Minh
Duệ Thị bằng thể thơ Đường luật ngay khi tuổi đời chỉ mới 16. Trong khoảng thời
gian này, cụ Phan Bội Châu mở thi xã Mộng Du, lên tiếng kêu gọi các thức giả
xướng họa thơ văn. Nguyễn Trọng Trí cũng gởi bài đi với bút danh Phong Trần
được cụ họa lại và hết lời khen ngợi.
- Tháng 10/1935, ông bỏ sở Đạc điền cùng với một số người bạn thơ văn vào
Sài Gòn làm báo. Tại đây Nguyễn Trọng Trí lấy bút hiệu là Lệ Thanh (tên làng Lệ
Mĩ, chánh quán Tân Thanh ghép lại), ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ của một câu
lạc bộ thơ, bút hiệu Lệ Thanh cũng nổi tiếng từ đó. Nguyễn Trọng Trí cộng tác với
báo Trong Kh Phịng, Đơng Dương tuần báo, báo Người Mới. Năm 1936, khi


phụ trách trang văn chương báo Sài Gòn, Nguyễn Trọng Trí mới đổi hiệu là Hàn


Mạc Tử và sau này thành Hàn Mặc Tử nghĩa là “khách văn chương” theo lời
khuyên của một vài người bạn.
- Tuy cuộc đời nhiều bi thương nhưng Hàn Mặc Tử là một trong những nhà
thơ có sức sáng tạo nhất trong phong trào Thơ mới. Bắt đầu bằng thơ cổ điển
Đường luật rồi chuyển sang sáng tác với khuynh hướng Thơ mới lãng mạn và sau
này tiến xa hơn là dòng thơ tượng trưng siêu thực. Hàn Mặc Tử là hồn thơ hết sức
phức tạp và bí ẩn nhưng người ta vẫn thấy rõ một tình yêu đau đớn hướng về cuộc
đời trần thế.
- Hàn Mặc Tử đã để lại cho nền văn học nhiều tác phẩm có giá trị: Lệ Thanh
thi tập (gồm toàn bộ các bài thơ Đường luật), Gái Quê (1936, tập thơ duy nhất
được xuất bản lúc tác giả chưa qua đời), Thơ Điên (hay Đau Thương, 1938), Xuân
như ý, Thượng Thanh Khí (thơ), Cẩm Châu Duyên, Duyên kỳ ngộ (kịch thơ 1939), Quần tiên hội (kịch thơ, viết dở dang-1940), Chơi Giữa Mùa Trăng (tập thơ
- văn xuôi)…
3. Quan niệm về thơ
- Nếu như các nhà thơ trong phong trào Thơ mới đều tìm đến với một bậc thi
nhân, một hồn thơ phương Tây nào đó để học hỏi: Xn Diệu thích Rimbaud và
Verlaine, Chế Lan Viên mê Edgar Poe… thì Hàn Mặc Tử lại khác. Chàng tun bố
mình khơng thích một nhà thơ phương Tây nào cả, chàng tiếp thu tất cả cái hay, cái
đặc biệt để xây dựng cho mình một lối thơ riêng.
- Hồn thơ Hàn Mặc Tử như cơn lốc xốy, ào ạt, hịa trộn tất cả nào là đau
khổ và hạnh phúc, khát vọng và tình yêu, tình đời và người đời… Đối với Hàn, thơ
như người bạn để gửi gắm những gì đẹp nhất, hay nhất, khối cảm nhất và những
yêu thương si mê cuồng dại nhất:
“Thơ phải là sự ham muốn vơ biên nguồn khối lạc trong trắng của một cõi
trời tách biệt”
“Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn thơ trong trẻo”
Thơ cũng có lúc như cứu cánh giúp Hàn bớt đau đớn trong những cơn hành

hạ của bệnh tật:
“Ta muốn hồn ta trào ra đầu ngọn bút
Mỗi hồn thơ đều dính não cân ta”
(Rớm máu)


Dù để kí thác tình u hay nỗi đau, thì Hàn Mặc Tử cũng làm thơ bằng tất cả
linh hồn mình: “Tơi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng
máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cảm giác của tình u. Tơi đã vui,
buồn, giận, hờn đến gần đứt cả sự sống” (Tựa Đau thương). Đây dường như là
cường độ sống, cường độ làm thơ của một thì sĩ biết trước cái chết và đã chuyển
hóa tất cả ý nghĩa sự tồn tại của mình thành nghệ thuật. Thế giới nghệ thuật của
Hàn Mặc Tử chính là kinh nghiệm đau thương được hiển thị bằng ngôn từ, bằng
nhạc, bằng hương.
II. Một thế giới nghệ thuật “lạ nhất” trong Thơ mới
1. Cái tôi trữ tình vừa lãng mạn, ngọt ngào, vừa kì dị, đau thương
Trong khoảng 12 năm hiện diện trên bầu trời văn học, nhà thơ Hàn Mặc Tử
đã in đậm dấu ấn của mình từ thơ Đường đến thơ lãng mạn rồi tượng trưng siêu
thực. Cái “tơi” trữ tình vì thế cũng biến hóa theo, khi gần gũi với con người qua
những hình ảnh mộc mạc, giản dị; khi hịa nhập với thế giới trăng sao, khi chìm
đắm trong nỗi buồn và có lúc hồn thơ đau đớn muốn vượt mình ra ngoài vũ trụ
bằng những vần thơ ghê gớm.
1.1. Lãng mạn, ngọt ngào
Ở cái tuổi “Hai mươi mốt tuổi, tuổi như hoa” Hàn Mặc Tử đã từng làm
những vần thơ lâng lâng trong trẻo, chứa đựng bao hi vọng:
“Ra đời thấy vui làm sao
Đầy cả say sưa với ngọt ngào…
Lúc ấy hồn ta như rạo rực
Bâng khuâng thèm uống rượu Quỳnh Dao”
(Chạy theo hạnh phúc)

Hàn Mặc Tử là một dân thành thị - lại có sống và làm báo ở Sài Gịn, nhưng
hồn thơ Hàn lại ln hướng về nơng thôn và lời thơ viết về con người nơi đây lúc
nào cũng nhẹ nhàng, trong sáng gần như một lời ca dân gian:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đơi mái nhà tranh lấm tấm vàng”


(Mùa xn chín)
Hay:
“Chị ấy năm nay cịn gánh thóc
Dọc bờ sơng trắng nắng chang chang?”
(Mùa xn chín)
Hình ảnh thơ mộng của sông Hương, cầu Tràng Tiền, những cô gái áo tím
thướt tha, những thơn xóm ven bờ sơng như Vĩ Dạ, nổi tiếng bởi những cây trái
xanh tươi bốn mùa, những ngôi nhà duyên dáng, vườn tược, sông nước chảy tràn
trong thơ Hàn:
“Sao anh khơng về chơi thơn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
(Đây thôn Vĩ Dạ)
Chữ “mướt” gợi ra vẻ mượt mà, tươi non, óng chuốt của cả một vùng cây lá
cịn lóng lánh sương mai. Trong thơ Hàn Mặc Tử cũng như trong tư duy phương
Đông “ngọc” bao giờ cũng dùng để miêu tả những thứ quý giá nhất, đẹp nhất. Nhà
thơ từng yêu trăng tới mức gọi trăng là “trăng vàng trăng ngọc”, “từng khao khát
được chết “trong khe giếng ngọc”. So sánh “xanh như ngọc” vừa gợi màu xanh
trong trẻo lấp lánh, quý phái của “vườn ai”, vừa gợi nên cả sự trong trẻo, ngọt
ngào, đắm say của tâm hồn người thi sĩ.
Viết về phong cảnh của những miền quê, nếu như Anh Thơ giống một tao
nhân mặc khách miêu tả cái tĩnh lặng, bình n, Đồn Văn Cừ thành nhà văn hóa

học thích thú những cảnh sinh hoạt hội hè, hay Nguyễn Bính mang tâm hồn chàng
trai chân quê bày tỏ những nỗi niềm tương tư, dang dở, thì Hàn Mặc Tử hướng đến
thế giới ấy bằng những khoảnh khắc bừng sáng nhất của tâm hồn mình. Những


hình ảnh thơn q mộc mạc, gần gũi từ đám mây, dòng nước, đến lũy tre, bờ liễu,
ngàn lau… tất cả đi vào thơ Hàn một cách êm ái, đê mê:
“Mây chiều cịn phiêu bạt
Lang thang trên đồi q
Gió chiều qn dừng lại
Dịng nước ln trơi đi
Ngàn lau khơng tiếng nói
Lịng anh dường đê mê…”
(Tình q)
(Thế giới nghệ thuật: Xưa – Nay, Trong này – Ngồi kia
=> 2 cái Tơi: Tràn đầy tình yêu, ước muốn, mộng đẹp, ngọt ngào, dịu dàng (Cái tơi
mà chính thi sĩ thổ lộ, tự mình vẽ chân dung của mình)
Tràn đầy nỗi đau, tiếc nuối, kì dị, lạ thường)
1.2. Kì dị, lạ thường
Đang lúc sức sống của người thanh niên 24 dạt dào dâng lên với mộng ước
yêu đời, thì “định mệnh” tàn khốc bắt đầu vây lấy Hàn Mặc Tử. Bệnh phong đã
gây nên vết rạn nứt thứ nhất vào đời chàng, căn nguyên cho những đổ vỡ khác. Nỗi
đau chồng chất nỗi đau “Lòng thi sĩ chứa đầy trang máu lệ”, theo suốt cả đoạn đời
anh. Nỗi đau ấy trở thành bi kịch:
“Anh điên anh nói như người dại
Van lạy khơng gian xóa những ngày”
(Lưu luyến)
Nhưng khác với các nhà thơ cùng thời, anh ý thức được cái bi kịch ấy, anh
đương đầu với thảm kịch tâm trạng, sống với nó và hòa điệu thành thơ. Và trước
mắt chúng ta là một giọng thơ độc đáo không chia sẻ âm hưởng với ai. Khơng cịn

những lời thơ trong sáng ngọt ngào đầy ý vị như ngày nào. Một lối thơ bất bình
thường dần lộ ra:


“Thịt da tơi sượng sần và tê điếng
Tơi đau vì rùng rợn đến vô biên”
(Hồn là ai)
Trước mắt nhà thơ tồn hiện ra cái mùi của chết chóc, mùi của máu huyết:
“Ta trút linh hồn giữa lúc đây
Gió sầu vơ hạn nuối trong cây”
(Trút linh hồn)
“Cứ để ta ngất ngư trong vũng huyết
Trải niềm đau trên mảnh giấy mong manh”
(Biển hồn ta)
Theo quan niệm truyền thống Đông phương, thi sĩ bao giờ cũng hiện ra như
một người tinh tế, dịu dàng, chỉ sợ mỗi cử động mạnh của mình làm kinh động đất
trời, làm đứt sợi dây tơ:
“Tôi với người u qua nhè nhẹ
Im lìm khơng nói năng chi”
(Trăng – Xuân Diệu)
“Chân bên chân hồn bên hồn yên lặng”
(Đi giữa đường thơm – Huy Cận)
Đến Hàn Mặc Tử, thì cách nói, cách tiếp cận đời sống khác hẳn, người làm
thơ khơng có thì giờ nghĩ về mình nên cách bộc lộ có sỗ sàng, sống sượng thậm chí
bệnh hoạn cũng không quản ngại:
- Ta cắn lời thơ để máu trào
Ta há miệng cho hồn thơ trào vọt
- Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng
- Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra.



Có thể nói đó là cả một cuộc nổi loạn trong cảm giác của thi ca, một cái tơi
trữ tình chưa từng có – trữ tình, gợi cảm trong điên cuồng, đau thương. Nằm ở giữa
ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết, nên thơ Hàn Mặc Tử thường ánh
lên vẻ đẹp lạnh, quằn quại, ma quái mà cũng rất quyến rũ. Vẫn còn sống, vẫn tỉnh
táo, vẫn làm thơ nhưng lại biết mình sắp chết, bị thế gian xa lánh, trốn tránh, đau
đớn làm sao. Càng đau về thể xác, cô đơn về tinh thần, Hàn Mặc Tử càng như
người điên người dại. Cái tơi trữ tình biến thành một người hành khất rối rít cầu
xin cuộc đời, cầu xin thượng đế cứu giúp:
“Bây giờ tôi dại tôi điên
Chắp tay tôi lạy cả miền không gian”
(Một miệng trăng)
Đúng như giáo sư Lê Đình Kỵ đã nói: “Thơ mới không thiếu nỗi đau, nhưng
nỗi đau từ tâm hồn đến thể xác, như ứa ra, như vọt ra thành thơ thì chỉ thấy ở Hàn
Mặc Tử”. Quả thật, Hàn Mặc Tử đã trải hết niềm đau của mình trên trang giấy, đã
trút linh hồn trên từng câu thơ.
2. Trăng – một hình tượng độc lạ của thơ Hàn
Có thể nói Nguyễn Trọng Trí đã gắn bó với trăng trong cuộc đời thực như
gắn bó với một người bạn tri âm tri kỷ. Cho nên điều dễ nhận thấy là trong tồn bộ
sự nghiệp thơ ca của ơng, đề tài trăng chiếm một số lượng lớn. Có tới 15 bài thơ
tiêu đề trăng, hàng chục bài viết về trăng và đặc biệt là cảm xúc dâng trào của nhà
thơ khi đứng trước vẻ đẹp thơ mộng của trăng: “Trăng là ánh sáng? Nhất là trăng
giữa mùa thu, ánh sáng càng thêm kì ảo, thơm thơm…” (Chơi giữa mùa trăng).
Nhờ trí tưởng tượng phi thường, Hàn Mặc Tử đã hư ảo hóa thực tại, tạo ra
những ánh trăng khác thường, khơng giống bất cứ một thứ trăng nào có trước.
Chúng ta từng yêu tha thiết những vần thơ trong sáng trau chuốt như ngọc ngà của
Nguyễn Trãi khi ông viết về trăng:
“Nước biếc non xanh thuyền gối bãi



Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu”
Càng trân trọng những sáng tạo của thi hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều,
trăng hiện lên như một đối ảnh của con người, biết yêu mãnh liệt, biết nhớ da diết:
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song”
Hay:
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”
Trăng trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du cho dù mang ít nhiều cái tơi riêng
nhưng nói chung vẫn nằm trong phạm trù ý thức hệ phong kiến trung đại, chưa đi
vào cõi hư ảo. Và đó cũng là tính chất chung của thơ cổ điển, bởi trong nghệ thuật
cổ điển, tưởng tượng chưa đóng một vai trị quan trọng.
Thơ mới cũng nhìn trăng trong vị trí cố định như chúng ta, nhưng nhà thơ
chiếu những cái nhìn khác nhau vào vầng trăng để tìm ra những khía cạnh mới,
những lối nói mới:
“Trong vườn đêm ấy nhiều trăng q
Ánh sáng tn đầy các lối đi”
(Trăng – Xuân Diệu)
Xuân Diệu đã nhân trăng lên nhiều lần: nhiều trăng quá. Song, trăng vẫn là
trăng, cảnh vẫn là cảnh thật trước mắt, rất nên thơ nhưng chưa hư ảo.
Cịn Hàn Mặc Tử thì khơng nhìn trăng như những nhà thơ cổ điển, và cũng
khơng nhìn trăng như những nhà Thơ mới. Trong thơ chàng, trăng khơng cịn là
trăng nữa. Hàn Mặc Tử đã người hóa, vật hóa trăng, biến cái tĩnh, lạnh, xa lạ của
trăng trở nên nồng nàn, rạo rực:
“Trăng nằm sóng sỗi trên cành liễu,
Đợi gió đơng về để lả lơi.
Ơ kìa bóng nguyệt trần truồng tắm,



Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe”
(Bẽn lẽn)
Dưới con mắt của nhà thơ, trăng xuất hiện như một cô gái xinh đẹp và lả lơi.
Nàng trăng thật là gợi cảm và táo bạo. Các động từ: “Nằm”, “tắm” lại đi kèm với
cái tính từ “sóng sỗi”, “lả lơi”, “trần truồng” đã làm cho trăng hiện lên thật ma
quái. Đầu đề của bài thơ là “Bẽn lẽn” nhưng trăng lại đầy khêu gợi. Đâu cịn nữa
hình ảnh những cơ gái q ngoan ngỗn, nhu mì, nàng trăng đang rạo rực, xơn xao,
khát khao ái tình. Phải chăng đó là hình ảnh của những con người hiện đại đang
muốn bứt tung khỏi vòng cương tỏa, khỏi những ràng buộc khắt khe, cổ hủ. Cách
nói của Hàn Mặc Tử đã vượt qua cách nói theo thói quen thơng thường. Trăng
trong thơ Hàn khơng cịn là trăng của sự thực khách quan nữa, nó thực sự đã trở
thành một con người tràn trề sức sống mãnh liệt, đầy nhục cảm. Chính vì lẽ đó
Hồi Thanh - Hoài Chân trong “Thi nhân Việt Nam” đã nhận xét: “Tình ở đây
khơng có cái vẻ mơ màng thanh sạch như mối tình ta vẫn quen đặt vào khung cảnh
của những vườn tre, những đồi thông. Ấy là một thứ tình nồng nàn, lơi lả, rạo rực,
đầy hình ảnh khêu gợi”.
Giữa trăng và người có sự giao thoa, hịa hợp:
“Tiên đưa tơi bay lên cung trăng
Tơi phiêu diêu cùng ngàn sao băng
A ha! Lịng tơi trăng là trăng!
A ha! Trăng tràn đầy châu thân!”
(Tiêu sầu)
Hơn thế, nhà thơ cịn hóa thân vào trăng, biến thành trăng:
“Khơng gian dày đặc tồn trăng cả
Tơi cũng trăng mà nàng cũng trăng.”
(Huyền ảo)
Thi nhân đã kí thác vào trăng tất cả sự vật vã, đau đớn của mình:


“Bỗng đêm nay, trước cửa bóng trăng quỳ,

Sấp mặt xuống cúi mình theo dáng liễu.
Lời nguyện gẫm xanh như màu huyền diệu,
Não nề lòng viễn khách giữa lúc mơ”
(Hãy nhập hồn em)
“Trăng quỳ”, “sấp mặt xuống”, “cúi mình”, trăng đang ở trong tư thế cầu
nguyện. Lời cầu nguyện của trăng hay chính là lời cầu nguyện của nhà thơ đối với
cuộc đời, đối với tình u.
“Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa,
Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô.
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy,
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra”
(Say trăng)
Không chỉ cùng cầu nguyện, sinh mệnh của trăng và của Hàn dường như
cũng gắn chặt với nhau. Tứ thơ thật quái lạ, đem đến cho người đọc một cảm giác
rờn rợn. Nhưng đó chính là Hàn Mặc Tử. Trong giây phút say mê nhà thơ lại tưởng
tượng ra cảnh gió rít trên tầng cao làm trăng vỡ tan tành. Cùng với sự tan vỡ của
trăng, nhà thơ như lên cơn điên dại. Cái điên, cái dại ấy chính là biểu hiện lòng yêu
mến thiết tha, của sự say mê cuồng nhiệt. Yêu trăng tha thiết thi sĩ lúc nào cũng sợ
vắng trăng, sợ trăng chết. Một tiếng gà gáy báo hiệu trời sắp sáng cũng làm cho
nhà thơ hoảng hốt, giận dữ. Nếu trời sáng trăng sẽ khơng cịn nữa, lấy ai để gửi
gắm tâm tình và nỗi niềm thương nhớ đây:
“Tiếng gà gáy rụng trăng đầu hạ,
Tôi hoảng hồn lên giận sững sờ”
(Một miệng trăng)
=> Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử không phải là một thực thể cố định trên bầu trời,
mà Hàn đã cho trăng một nội dung, một ngoại hình khác hẳn. Trí tưởng tượng đã


giúp Hàn thốt khỏi hình ảnh đầu tiên tiếp nhận được về trăng. Vì vậy, trăng của
Hàn ln thay đổi hình hài, ln ln di chuyển, hành động chứ khơng bất động

như trăng thật; trăng không vô tri mà cũng là một linh hồn chơi vơi hư ảo giống
như Hàn.
Chỉ qua đề tài trăng trong thơ Hàn Mặc Tử có thể thấy rõ sự phát triển tư
duy nghệ thuật của nhà thơ đầy tài năng nhưng bất hạnh này. Trong “đau thương”
mà sáng tạo, Hàn Mặc Tử chàng trai trẻ đa sầu, đa cảm mượn ánh trăng huyền ảo
để thỏa sức thổ lộ, nói lên nỗi lịng mình: Cơ đơn, lẻ loi trước cảnh đời nhộn nhịp,
yên vui. Thế giới của Hàn Mặc Từ chỉ đầy máu, đầy hồn, và đầy Trăng. “Nghĩ thế
ta lại thương con người cô độc. Đã cơ độc kiếp này và cịn cơ độc đến muôn kiếp”
(Thi nhân Việt Nam).
3. Thơ siêu thực
Hàn Mặc Tử đã sáng tạo một thế giới thơ kỳ lạ, bí hiểm, thơ ông vừa lãng
mạn, vừa tượng trưng - siêu thực, vừa có chất cổ điển, lại vừa hết sức tân kỳ. Cho
đến nay, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng chưa thể khám phá hết thơ Hàn Mặc Tử một thế giới vô cùng huyền nhiệm. Thế giới thơ Hàn Mặc Tử rộng rinh khơng bờ
bến như ơng đã trình bày trong Thơ điên: “Tôi sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống
bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn, tơi đã phát triển hết các cảm
giác của tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận, hờn đến gần đứt sự sống. Thôi mời cô cứ
vào… Ánh sáng lạ trong thơ tơi sẽ làm cho gị má cơ đỏ gấc. Và một khi cô đã vào
là cô sẽ lạc, vườn thơ tôi rộng rinh không bờ bến. Càng đi xa, càng ớn lạnh”.
Mắc phải trọng bệnh khi còn rất trẻ, Hàn Mặc Tử hoàn toàn tuyệt vọng; trên
đỉnh đau thương tột cùng, thơ ông viết ra như người đến từ một cõi khác, Thơ điên,
một hiện tượng thơ khác lạ trong dòng chảy thơ Việt đến hồi bấy giờ, “lối viết tự
động” thốt ra từ bản năng vơ thức đã làm thơ ơng ít nhiều mang sắc thái của
trường thơ siêu thực.


"Sẽ khơng thể giải thích được đầy đủ hiện tượng Hàn Mặc Tử nếu chỉ vận
dụng thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn và ảnh hưởng của Kinh thánh. Chúng ta cần
nghiên cứu thêm lý luận của chủ nghĩa tượng trưng và chủ nghĩa siêu thực. Trong
những bài thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử, người ta không phân biệt được hư và
thực, sắc và không, thế gian và xuất thế gian, cái hữu hình và cái vơ hình, nội tâm

và ngoại giới, chủ thể và khách thể, thế giới cảm xúc và phi cảm xúc. Mọi giác
quan bị trộn lẫn, mọi lơgic bình thường trong tư duy và ngơn ngữ, trong ngữ pháp
và thi pháp bị đảo lộn bất ngờ. Nhà thơ đã có những so sánh ví von, những đối
chiếu kết hợp lạ kỳ, tạo nên sự độc đáo đầy kinh ngạc và kinh dị đối với người
đọc". (Nhà phê bình văn học Phan Cự Đệ).
Thật chẳng quá lời khi có người nói rằng, Hàn Mặc Tử đã thực sự đưa
thơ ca Việt Nam sang một giai đoạn mới, phá tung xiềng xích của lễ
giáo cũ kỹ, chật cứng trong xã hội cổ, để mở ra một không gian mới,
một hành trình khám phá mới cho nghệ thuật chỉ với hai câu thơ:
“Bóng nguyệt leo song rờ rẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn”
(Đêm khơng ngủ)
Ở thời điểm đó, đã làm gì có ai dám “điên” như Hàn Mặc Tử, “leo song”
rồi “rờ rẫm” đều là những động từ nhạy cảm và có tính gợi cảm cực kỳ
cao độ, mùi xác thịt nằm cả ở gió trăng.
Trong nhiều bản in, bạn đọc sẽ bắt gặp “sờ sẫm gối” thay vì “rờ rẫm
gối”, em trai Hàn Mặc Tử là Nguyễn Bá Tín cho rằng có thể do người
bạn thân Quách Tấn đã sửa, để câu thơ trở nên lịch sự hơn nhưng vơ
tình lại làm mờ đi ý đồ của tác giả khi muốn mang lại cảm giác ram ráp,
rạo rực cho người đọc hơn là sự nhẵn bóng, trơn tru của âm “s” trong
từ miêu tả.
Nhờ có cái chất trung đại từ thủơ ban đầu ấy, mà sau này khi Hàn Mặc
Tử chuyển sang thơ mới, ông lập tức định vị được cái vẻ trữ tình riêng
biệt cho mình thật khác với các thi nhân cùng thời. Chính bởi căn cốt
phương Đơng đã ăn sâu mà sự tượng trưng của thơ ông mang dáng vẻ


Đường thi, rõ hơn nữa là tính siêu thực đậm chất liêu trai “điên cuồng”
với trăng, hồn và máu.
Đọc thơ của Hàn Mặc Tử, có khi người ta cảm thấy bứt rứt kinh khủng

bởi lối nói đậm vẻ phương Đơng vừa lộ liễu vừa kín đáo. Thơ ơng khơng
áp đặt người đọc phải cảm nhận những gì ơng cảm nhận, những con
chữ chỉ đóng vai trị địn bẩy, là phương tiện mở ra những liên tưởng
độc đáo, làm bật lên cảm xúc riêng biệt trong mỗi người, từ đó mà ta
đón nhận những mỹ cảm một cách trịn đầy hơn, đã đời hơn mà reo lên
thích thú:
“Trăng nằm sõng sồi trên cành liễu
Đợi gió đơng về để lả lơi Hoa lá ngây tình khơng muốn động Lịng em
hồi hộp chị Hằng ơi”
(Bẽn Lẽn)
Chúng ta đều biết, Hàn Mặc Tử mắc bệnh phong, những ngày tháng
cuối đời trong trại phong Quy Hịa – Bình Định cũng là lúc chất trữ tình
siêu thực trong đau thương, điên cuồng trở nên rõ rệt nhất.
Cái thực – cái ảo vốn đã nằm sẵn trong ông, và nay khi căn bệnh nan y
xuất hiện làm chấn động tâm lý, kéo thi nhân vào nỗi đau cùng cực của
cả tinh thần lẫn thể xác, thì những ẩn sâu đó được phát lộ mạnh mẽ
hơn bao giờ hết.
Ơng tan biến vào thế giới của riêng mình ở các bài thơ, nhìn vạn vật
đẹp mà đầy “đau thương”, “sao bơng phượng nở trong màu huyết/ Nhỏ
xuống lịng tơi những giọt châu?”. Có những lúc, người đọc khơng khỏi
rùng mình ám ảnh bởi những vần “thơ điên”, thơ hay nhưng xót xa quá,
xót cho con người cuồng loạn mê man trong miền không gian hư ảo:
“Thưa, tôi không dám say mê
Một mai tôi chết bên khe ngọc tuyền Bây giờ tôi dại tôi điên Chắp tay
tôi lậy cả miền khơng gian…”
(Một miệng trăng)
Thật may mắn rằng, dù có mộng mị đến đâu, siêu thực nhường nào,
thơ của Hàn Mặc Tử vẫn có yếu tố lãng mạn níu kéo. Sự hịa hợp tài
tình này, đã khiến cho “đau thương” trong cuộc sống thường ngày của
ông trở nên lộng lẫy, kỳ ảo, huyền bí bằng phương tiện ngơn từ. Thơ

ơng quả thực có sức “gợi cảm” mạnh liệt tới tận đáy sâu tâm hồn của
tất cả những ai thưởng thức nó.


Trong các nhà thơ của phong trào thơ Mới (1932 - 1945), nếu như Xuân
Diệu được coi là mới nhất, Nguyễn Bính là quen nhất, thì Hàn Mặc Tử được biết
đến là nhà thơ lạ nhất. Dường như chất “lạ” ấy xuất phát từ một trong “Tứ chứng
nan y” – căn bệnh hủi đáng nguyền rủa! Cả thế giới như sụp đổ trước mắt chàng thi
sĩ 26 tuổi này. Tinh thần nhà thơ dao động mãnh liệt. Một con người yêu đời, yêu
người là thế, bỗng nhiên phải vướng vào căn bệnh mà người đời hầu như ghê tởm,
xa lánh, hắt hủi thì thử hỏi phải sống làm sao? Và phải chăng có qui luật bù trừ?
Càng đau đớn bao nhiêu thì thơ Hàn Mặc Tử trong giai đoạn này lại càng lạ lùng
bấy nhiêu, chàng đã đuổi theo lối thơ siêu thực.
Những tứ thơ bình dị, những câu thơ nhẹ nhàng, lãng mạn đậm chất trữ tình
khi miêu tả khung cảnh miền q êm ả khơng cịn nữa. Mà thay vào đó là những
vần thơ quằn quại, “rên xiết”, nhuốm màu huyền bí. Nào “Hương thơm”, “Mật
đắng”, nào “Máu cuồng” và “Hồn điên” vang vọng trong tâm hồn của một con
người ham sống đang phải đối diện với tử thần, với hư vô.
“Trời hỡi bao giờ tôi chết đi
Bao giờ tơi hết được u vì
Bao giờ mặt nhật tan thành máu
Và khối lịng tơi cứng tợ si”
(Những giọt lệ)
Thi nhân thấy bầu vũ trụ trước mắt mình khơng cịn cần thiết nữa, ông ước
ao “mặt nhật” tan thành máu và tất cả đều tan biến hết:
“Cứ nhắm mắt, cứ yêu nhau như chết
Cứ sảng sốt, tê mê và rũ liệt
Đừng nghe chi âm hưởng địa cầu đang
Vỡ toang ra từng mảnh, cả không gian…”



(Đơi ta)
Trong các nhà thơ mới có lẽ Hàn Mặc Tử ở vào tình thế ngột ngạt nhất.
Cũng vì thế mà tác giả ln mơ ước một điều gì mới mẻ, nguyên vẹn, chưa bị cuộc
đời chia sẻ. Trí tưởng tượng phong phú, đức tin ở Chúa Trời, thế giới linh thiêng
của tôn giáo đã tạo cho Hàn Mặc Tử những hình tượng thơ như thốt ra từ đời để
đến cõi xa xơi nào đó:
“Mai sáng mai, trời cao rộng qúa
Gió căng hơi và nhạc lên mây
Đơi lịng cũng ấm như xuân ấm
Chỉ có áo xuân trắng trẻo thay!”
(Xuân đầu tiên)
Cuộc đời chật chội gị bó khơng dung túng cho một tâm hồn đầy ước mơ và
ảo mộng nên hồn phải thốt xác:
“Anh đã thốt hồn ngồi xác thịt
Để chập chờn trong ánh sáng mơng lung”
(Rượt trăng)
Chính nhà thơ thừa nhận đã lấy hồn làm điểm tựa ở cõi hư linh với cuộc
sống cụ thể: “Tôi không thở bằng phổi nữa, tôi thở bằng hơi thơ tinh sạch của hồn
tôi…”.
Tâm hồn ấy còn thèm thuồng khao khát với những hiện tượng thiên nhiên
ngoài vũ trụ, đặc biệt là trăng, sao. Chúng nhập vào ngay chính bản thân tác giả:
-“Cả miệng ta là trăng là trăng
Cả lịng ta vơ số gái hồng nhan”
(Một miệng trăng)
-“A ha lịng tơi trăng là trăng”
Hàn Mặc Tử đã xáo trộn mọi quan hệ trong cuộc sống và thi ca. Lơgíc thơ ca
của chàng khơng tn theo một trật tự bình thường, một hiện thực quen thuộc mà



là siêu thực. Cái siêu thực ấy nhiều lúc ta không hiểu. “Cho nên để hiểu thấu được
thơ anh, ta cố làm sao hiểu hết được lòng anh, hiểu thấu được con người anh trong
cái đau thương, vô hạn của anh, khơng phải vì anh là “lãng mạn, là siêu thực” mà
vì anh là một con người đau thương vơ hạn”. (Nguyễn Minh Vỹ)

PHẦN KẾT LUẬN
Cuộc đời 28 năm ngắn ngủi, nhưng so với những thi sĩ cùng thời, Hàn
Mặc Tử đã trở thành ngọn núi khổng lồ cao sừng sững trên bầu trời rực rỡ của thi
ca và để lại cho đời những kiệt tác rung động lòng người. Hàn như một ngôi sao đã
đi vào cõi vĩnh hằng nhưng ánh sáng của nó vẫn lung linh huyền ảo, và để lại sức
mê hoặc, quyến rũ kì lạ. Thơ ông đã vượt qua bao dư luận và lớp bụi thời gian để
hôm nay thế hệ trẻ chúng tôi được biết đến, để cảm thương mà tự hào về Người
biết bao.
Và chúng ta tin rằng hôm nay cũng như mai sau:
“Thơ anh sẽ như trầm hương ngào ngạt
Tỏa lên cao lồng lộng giữa trời xanh”
(Duyên kì ngộ)


Hàn Mặc Tử được biết đến với cuộc đời ngắn ngủi tràn ngập nước mắt và
đau thương. Con người ấy chỉ sống trên cõi đời vỏn vẹn 28 năm, ở cái tuổi cịn q
trẻ nhưng tuổi trẻ của chàng khơng tươi đẹp với những dự tính về tương lai rực rỡ
mà hiện tại chỉ là những chuỗi ngày đau đớn trong bệnh tật, trong sự xa lánh hắt
hủi của tình đời và người đời. Nhưng từ trong đau khổ tuyệt vọng, linh hồn ấy vẫn
khao khát được sống, được yêu, được sẻ chia và vẫn không thôi sáng tạo trước bờ
vực của cái chết.
Nhà thơ đã tạo cho riêng mình một khu vườn sáng tác với một thứ nghệ
thuật độc đáo, không lẫn vào ai:
Trần Tái Phùng: “Nghệ thuật chàng tựa vào một con sông dài đi xuyên qua
thế kỉ chúng ta và hai bờ sông dàn bày không biết bao nhiêu cảnh sắc khác nhau,

đẹp đẽ đến say ngợp, đến tê liệt cả lòng người”.
Nhà thơ Chế Lan Viên: “Thơ anh trước khơng ai có, sau khơng có ai. Hàn
Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đi chói lịa
rực rỡ của mình”.
Ngược lại với bài Trăng vàng , Trăng ngọc đến với bài thơ Những giọt lệ người
đọc lại nghe được ở đây nhạc điệu bi ai , buồn thảm của những ngày đau đớn : Bao
giờ mặt nhật tan thành máu, Và khối lịng tơi cứng tợ si . Tơi vẫn cịn đây hay ở
đâu? ai đem tơi bỏ dưới trời sâu ? Sao bông phượng nở trong màu huyết , Nhỏ
xuống lịng tơi những giọt châu ? Âm thanh của tiếng kêu " trời hỡi " mở đầu bài
thơ và tiếp theo là những điệp từ " bao giờ " lặp đi lặp lại ba lần cùng với các
nguyên âm khép , bổng của vần " i " hòa vào nhau để tạo nên một bản nhạc trầm ,
buồn . Nỗi buồn lắng sâu , nỗi buồn như nén chặt lại, như đông 105 cứng lại thành
tảng , thành khối . Và nỗi buồn đó như càng dày thêm và như càng sâu thêm khi ở
khổ cuối của bài thơ tác giả sử dụng hàng loạt nguyên âm " u " vừa khép lại vừa


trầm làm cho nhạc điệu của bài thơ thêm phần bi ai và sầu não hơn . Âm điệu ấy cứ
vang lên cho hết tập Đau thương



×