Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

TÂM lý KHÁCH DU LỊCH NHẬT bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.89 KB, 19 trang )

TÂM LÝ KHÁCH DU LỊCH NHẬT BẢN
1. Phân đoạn thị trường khách du lịch Nhật Bản
1.1. Theo vùng lãnh thổ
Theo số liệu của Cơ quan du lịch Quốc gia Nhật Bản thì những thành
phố, khu vực tập trung dân số đông nhất Nhật Bản chính là những thành
phố, khu vực có tỉ lệ dân số đi du lịch đông nhất như là:
- Tokyo chiếm 24,46%.
- Kanto chiếm 20,27%.
- Osaka chiếm 15,04%.
- Kansai chiếm 14,73%.
Những cửa khẩu có lượng khách Nhật xuất cảnh chiếm nhiều nhất đó là:
- Sân bay quốc tế Narita của Tokyo đứng đầu với 56,2%.Năm 2007, sân
bay này phục vụ 35.530.035 khách, đứng thứ 24 trong bảng xếp hạng
các sân bay bận rộn nhất thế giới.
- Sân bay quốc tế Kansai đứng thứ 2 với 22,3% : Sân bay này được xây
dựng trên 1 hòn đảo nhân tạo giữa vịnh Osaka. Năm 2004, sân bay
này có 102.862 chuyến bay, trong đó có 72.096 là quốc tế và 30.766 là
chuyến nội địa, tổng lượng khách là 15.340.975 người trong đó có
11.162.533 là quốc tế và 4.178.422 là nội địa.
- Sân bay Nagoya đứng thứ 3 với 9,6%.Sân bay này từng là sân bay
quốc tế nhưng hiện tại chỉ tiếp nhận các chuyến bay nội địa, và là sân
bay hạng hai phục vụ vùng Nagoya.
- Sân bay Fukuoka đứng thứ 4 với 4,6% : Sân bay này có vị trí thuận lợi
cho dân Fukuoka, ở Hakata-ku, Đông-Nam trung tâm thành phố. Sân
bay được nối với trung tâm kinh doanh của thành phố bằng tàu điện
ngầm và đường bộ với thời gian đi tàu điện ngầm chỉ mất ít hơn 10
phút vào trung tâm thành phố.
- Các sân bay còn lại chỉ chiếm 5,8% lượng khách Nhật xuất cảnh.
1.2. Theo độ tuổi, giới tính.
1
Do sự phát triển kinh tế xã hội Nhật Bản mà lượng khách nữ Nhật đi


nước ngoài lớn hơn so với các thị trường khác, còn sự chênh lệch giữa lượng
khách Nhật là nam và nữ là không đáng kể tuy có sự nhỉnh hơn về nam ở các
năm.
Theo các nghiên cứu của Trung tâm Nhật Bản-ASEAN thì các phân
đoạn thị trường khách lớn nhất đi outbound là:
- Khách trung niên là nam giới tuổi trung bình từ 45-60 chiếm 16,7%.
- Khách trung niên nữ giới tuổi trung bình từ 45-60 chiếm 14,4%.
- Khách nam giới đứng tuổi (trên 60) chiếm 11,9%.
- Khách nữ độc thân tuổi từ 15-29 chiếm 7,6%.
- Khách nữ có gia đình và công việc tuổi từ 15-44 chiếm 6,2%.
Tháp dân số Nhật cho thấy có hai thế hệ lớn trong dân số là nhóm dân
số trong khoảng 60-65 tuổi do sự bùng nổ dân số lần thứ nhất và trong
khoảng 35-40 tuổi do sự bùng nổ dân số lần thứ hai khoảng 25 triệu người
(chiếm khoảng 1/5 dân số Nhật Bản) tạo ra những đặc điểm đi du lịch của
khách Nhật ở trong các nhóm tuổi này lớn. Đối với những người thuộc
nhóm trên 60 tuổi, nhóm tuổi về hưu theo quy định của Luật Lao động Nhật
Bản thì họ vừa là những người có thời gian rảnh rỗi nhiều và khả năng chi
tiêu cao. Đối tượng khách này thích thư giãn nghỉ ngơi, rất hứng thú trong
việc tìm hiểu về lịch sử, văn hoá và tự nhiên rồi mua sắm, quà cáp ở các
điểm đến. Nhóm người thứ 2 ở độ tuổi 35-40 là những người ở tuổi đã ổn
định về nghề nghiệp và thu nhập, nên khả năng đi du lịch và chi tiêu cũng ở
mức cao. Giới học sinh - sinh viên và khách du lịch ba lô: Quan tâm tìm
hiểu văn hóa, mức tiêu dùng không cao, rất quan tâm đến yếu tố giá cả, song
lại là những du khách có khả năng phát tán thông tin nhanh chóng và mạnh
mẽ về điểm đến du lịch. Giới trẻ có độ tuổi trung bình từ 20-35: Chưa lập
gia đình, có nghề nghiệp và thu nhập khá ổn định. Đối tượng khách này rất
sành điệu trong tiêu dùng nhưng cũng rất quan tâm đến tính kinh tế của dịch
2
vụ, thích mua sắm, thời trang, đồ trang sức, sản phẩm lưu niệm của địa
phương

1.3. Theo thời gian đi du lịch
Nhìn chung thì người Nhật Bản đi du lịch quanh năm nhưng có một số
thời điểm họ tập trung đi du lịch đông nhất đó là:
• Dịp đầu năm mới: Đây là thời gian có lượng khách du lịch outbound
đông. Đối tượng khách du lịch thời gian này chiếm 1 lượng khá đông đó
là học sinh, sinh viên vì các trường của Nhật Bản thường được nghỉ Đông
từ trước giáng sinh đến khoảng mồng 10 tháng 1 năm sau mới nhập
trường. Ngoài ra người về hưu và cao tuổi cũng thường đi du lịch dài
ngày ở nước ngoài, nhất là đến các nước ở phía Nam, nơi có khí hậu ấm
áp hơn.
• Dịp nghỉ xuân tháng 3: Đây là thời gian nghỉ xuân của hầu hết các
trường tại Nhật Bản. Nhiều trường có thời gian nghỉ từ giữa tháng hai và
bắt đầu vào năm học mới vờ đầu tháng 4. Việc đi du lịch được coi là một
món quà cha mẹ dành cho học sinh chuyển cấp và là sự kiện đánh dấu
một bước ngoặt cuộc đời đối với các sinh viên vừa tốt nghiệp đại học.
• Dịp nghỉ Tuần lễ vàng đầu tháng 5: Đây có lẽ là thời điểm khách du lịch
Nhật Bản đi du lịch nước ngoài đông nhất do thời gian nghỉ dài (khoảng
hơn 1 tuần). Các công ty du lịch đón khách Nhật Bản thường rất vất vả để
đón khách trong thời gian này.
• Dịp nghỉ lễ Obon vào tháng 8: Lễ Obon là một trong những ngày lễ quan
trọng nhất trong năm của người Nhật Bản để tưởng nhớ đến người đã
mất. Đây cùng là thời gian diễn ra nhiều lễ hội trong nước nhất tại Nhật
Bản. Thời gian này, nhiều người Nhật chọn việc về quê để nghỉ lễ nhưng
cũng có một số lượng lớn người chọn đi du lịch nước ngoài.
2. Tích cách và phong tục tập quán của người Nhật
2.1. Tính cách và phong tục tập quán.
3
Tính cách nổi bật của người Nhật là trung thành, yêu nước, tôn kính,
giữ gìn danh dự gia đình, thực tế, lạc quan và hài hước, tinh tế và nhạy cảm,
lễ phép và lịch sự, ôn hòa và độ lượng. Tình cảm thẩm mỹ là nền tảng của

bản sắc dân tộc Nhật. Nhà dù nghèo mấy cũng phải có một chậu cảnh và một
bức họa khổ lớn. Độ tuổi trên 50 dành nhiều thời gian để thưởng ngoạn thiên
nhiên. Truyền thống sùng mộ cái đẹp thể hiện trong cả tình cảm hành động
lẫn ngôn từ, thích ngắm hoa thưởng nguyệt. Rất mê tín, hay xem tướng số,
thích các số 3, 5, 7, sợ số 4 và số 9, đàn ông ít đi chơi cùng vợ. Vợ chồng rát
ít khi đi du lịch cùng nhau.
Người Nhật bao giờ cũng lao động hết mình. Họ coi doanh nghiệp là
nhà, tuyệt đối trung thành với doanh nghiệp, bất kỳ một người lao động bình
thường nào cũng làm việc không dưới 9 tiếng một ngày dù hưởng lương chỉ
8 tiếng.
Tính kỷ luật là một đặc trưng của người Nhật. Đặc biệt, nó còn đi đôi
với giáo dục. Thật vậy, người Nhật nổi tiếng là có kỷ luật, cho dù sự kỷ luật
đó bắt nguồn từ hoàn cảnh sinh sống khó khăn, từ việc nghĩ tới lợi ích chung
hay từ văn hóa v.v đã trở thành như tự giác, nhưng không phải cứ thế thì
100% con người trong xã hội này sẽ trở thành kỷ luật. Mà những người làm
luật, những đoàn thể đều phải suy tính, ghi ra rất chi tiết các quy luật và
phổ biến rộng rãi để mọi người tuân theo. Những nơi sinh hoạt công cộng
luôn thấy đầy những bảng hướng dẫn, thông báọ. Cứ nhìn mặt đường của
Nhật thì rõ, đâu đâu cũng trắng xóa các lằn kẻ phân luồng xe chạỵ Ở những
nơi đông đảo hay dễ gây tai nạn, mặt đường còn được sơn màu cam hay đỏ,
sơn tráng loại đá răm để xe chạy không bị trượt. Ngoài ra còn lót những
tấm nhựa chỉ đường và loa phát nhạc báo cho người mù ở một số chỗ băng
ngang đường. Tiền giấy cũng có dấu hiệu nổi đặc biệt, ở ga xe điện thì dán
bảng ghi bằng chữ nổi dành cho người mù để có thể tự mua vé Quanh các
4
trường Tiểu học thì thường có người cầm cờ hướng dẫn các em nhỏ qua
đường.
Người Nhật cần sự ngăn nắp, trật tự và sạch sẽ ở mức độ tuyệt hảo.
Người Nhật không có thói quen cho và nhận tiền boa. Người Nhật thích tắm
ở nhà tắm công cộng, nước tắm phải thật nóng. Khi ăn đĩa bát phải cùng

màu. Màu hồng được nữ giới rất ưa thích, thích cây liễu rủ, cành liễu dùng
làm đũa quý chỉ đem ăn trong dịp Tết. Người Nhật thích các món ăn chế
biến từ hải sản, trong bữa ăn phải có cá và rau, thích có bình tương đặt sẵn
trên các bàn ăn ở nơi đến du lịch, thích các món súp tự pha lấy. Thích cơm
rang với trứng. Người Nhật rất kính phục người phục vụ sành nghề, có kỹ
xảo trong phục vụ. Trong buồng ngủ phải có ít nhất 2 loại dép, thích có bồn
tắm, trong nhà tắm phải có đầy đủ bàn chải, thuốc đánh răng, doa cạo râu,
bàn chải, máy sấy tóc, kem xoa, dầu gội đầu, dầu xả. Trong tủ lạnh phải có
đủ thứ rượu, bia, nước ngọt, hoa quả, thích uống trà, rót nước ra cốc để
uống. Người Nhật nghe, nói, viết, đọc tiếng Anh bình thường, họ không
thích giao tiếp bằng tiếng Anh ở nơi đến du lịch. Tuy nhiên, nếu nói tiếng
Nhật với họ thì phải phát âm, dùng từ và ngữ pháp tiếng Nhật phải chuẩn.
Không nên sử dụng câu hỏi phủ định bằng tiếng Anh khi nói chuyện với
người Nhật. Người Nhật tuyệt đối quan tâm đến điều kiện an toàn ở nơi đến
du lịch, đòi hỏi tính chính xác cao trong phục vụ. Bữa ăn kéo dài 20 – 30
phút. Phục vụ nhanh được họ coi là mến khách. Người Nhật rất thích tìm
hiểu khám phá nơi đến du lịch. Khi chọn khách sạn, người Nhật rất quan tâm
đến tiền sảnh lớn, phải có bồn tắm, phòng đơn có hai giường, các phòng có
chất lượng đồng đều nhau. Với người Nhật, lễ nghi giao tiếp được đặt lên
hàng đầu. Người Nhật rất thích hoa anh đào, hoa cúc, thích màu đỏ và đen,
chán ghét màu vàng. Người Nhật có truyền thống là những người hay lập
danh sách.
5
Người Nhật nổi tiếng là dặn dò chi tiết nhất so với các dân tộc khác.
Xe điện lúc nào cũng thông báo mở cửa bên nào, xin lưu ý đừng để quên
hành lý, khi bước ra coi chừng khoảng cách giữa toa xe và thềm ga Tóm
lại là sự tự giác chung vẫn luôn luôn cần sự hướng dẫn, giáo dục cụ thể để
đáp ứng với hoàn cảnh và sự thay đổi của xã hội theo với thời đại.
Người Nhật tôn trọng quyết định của nhóm. Bởi người Nhật quan
niệm thành công là nỗ lực của cả nhóm và không ai có thể tự thành công. Họ

nhấn mạnh giá trị của việc mọi người làm việc cùng nhau. Họ ưu tiên một
quy trình thảo luận mang tính hợp tác mà đôi khi có thể chậm một chút,
nhưng cuối cùng, vẫn đảm bảo được rằng tất cả mọi người đều có tiếng nói
chung. Người Nhật hiểu rằng việc đảm bảo mọi phần thưởng được chia đều
giữa các thành viên sẽ không làm nảy sinh sự ghen tị, so đo.
Người Nhật học cách nói giảm nói tránh. Họ luôn chủ động hạn chế
những tình huống đối đầu. Họ không thích và không bao giờ nói “Không”.
Mọi lời nói và phép tắc giao tiếp của họ được phối hợp nhằm tránh gây hiềm
khích nơi người nghe. Thay vì đi thẳng vào vấn đề, người Nhật thường gợi ý
nhẹ nhàng, nói bóng gió. Đôi lúc, họ nói một cách rõ ràng hơn nhưng rất cẩn
trọng để không làm người khác bị phật ý hay tức giận.
Đối với người Nhật, đúng giờ là thể hiện sự tôn trọng. Người Nhật
đưa việc làm quen và tạo dựng mối quan hệ lên một tầm mới bởi họ hiểu
được giá trị của chúng.
Người Nhật có ngày Tết đũa vào ngày 4 tháng 8 hàng năm. Đũa được
chia làm hai loại, loại dùng ở nhà và loại dùng ở khách sạn, nhà hàng. Loại
dùng ở nhà được làm bằng loại gỗ quý ( Cây liễu) trang trí hoa văn rất cầu
kỳ. Loại đũa ở khách sạn được làm bằng gỗ thiếp son, bọc trong giấy sạch
sử dụng một lần. Trong sô đũa tiêu dùng hàng năm có 90% dùng một lần.
6
Khi dùng đũa người Nhật có quy định rất chặt chẽ buộc mọi người phải tuân
thủ một cách tự giác, người ta gọi là 8 điều kiêng kị khi dùng đũa:
- Không dùng đầu lưỡi để liếm đũa
- Không lắc, ngoáy, khua đũa trên bàn ăn
- Không dùng đũa gắp kẹp hai ba miếng thức ăn cùng lúc
- Không dùng răng cắn, gặm đũa
- Không dùng đũa cắm lên thức ăn và gắp thức ăn vào bát người cùng
ăn
- Không dùng đũa gạt bát đĩa, giấy ăn và các vật dụng ăn uống khác
- Không đặt đũa lên trên bát đĩa

- Không dùng đũa cào bới thức ăn
Khác với các quốc gia dùng đũa khác, đũa Nhật khi được đặt trên bàn
ăn không được đặt thẳng về phía bên phải, bên tay cầm đũa, mà được đặt ở
trước mặt người ăn, đầu đũa phải được đặt trên một cái gác đũa gọi là
hashioki hướng về phía bên trái.
2.2. Những điều cần chú ý khi giao tiếp với khách du lịch người Nhật
• Quần áo và diện mạo: bên ngoài trang phục sạch sẽ, là phẳng, đeo phù
hiệu của công ty, tóc không che mắt, nữ giới bôi son môi vừa phải, móng
tay không sơn màu sáng chói; nam giới tất màu đen, màu tối, nữ giới
mang đồ trang sức giản dị, mang tất dài màu dịu tự nhiên, giầy bóng
láng, luôn tươi cười.
• Tư thế chào: ở tư thế nghiêm, trân tọng, nữ giới hai tay nắm vào nhau
tay trái cầm tay phải, chào nhanh chúc tụng chậm, cúi chào 15 độ trong
trường hợp giản đơn, cúi chào 30 độ trong trường hợp kính trọng, 45 độ
trong trường hợp cảm ơn, 90 độ trong trường hợp tạ lỗi.
• Trao và nhận danh thiếp: sử dụng ngôn ngữ thích hợp thể hiện sự tôn
trọng giao tiếp bằng tấm danh thiếp. Không bao giờ được lấy danh thiếp
từ túi quần trước hoặc sau ra để trao cho người Nhật, mà phải có hộp
7
đựng đàng hoàng để trong túi áo khoác. Khi trao tấm danh thiếp cần đưa
trực tiếp bằng tay phải ở độ cao ngang ngực khách. Khi nhận phải đứng
dậy, nhận bằng tay phải sau đó chuyển qua tay trái, đọc tên khách và bày
tỏ niềm vui, hỏi ngay nếu không đọc được các thông tin trên card, nếu
cùng thời gian khách cùng đưa thì nhận trước và trao sau, đặt card trên
bàn nơi diễn ra cuộc gặp gỡ.
• Hướng dẫn khách tại văn phòng: đi trước khách khoảng 1m, chỉ đường
cho khách bằng tay thì lòng bàn tay phải ngửa lên. Tại cầu thang, đi sau
khách khi đi lên, đi trước khách khi đi xuống. Bố trí chỗ ngồi cho khách
ở chỗ xa cửa ra vào, xa bàn làm việc, hướng ra cửa sổ, ghế rộng.
• Cách đối xử với khách: quan tâm tới tất cả các khách như nhau. Không

vay mượn tiền khách, không tham gia vào cuộc tranh luận giữa khách với
nhau, không đưa ra các thông tin chưa rõ ràng và không chắc chắn. Nhớ
tên tất cả khách trong đoàn nhanh và chính xác.
3. Tâm lý và sở thích khách du lịch Nhật Bản
3.1. Các điểm đến du lịch được ưa thích
• Những điểm du lịch lịch sử và những nơi có phong cảnh đẹp: Khách
du lịch Nhật Bản thường có xu hướng thỏa mãn sự tò mò của mình thông
qua việc tìm hiểu về lịch sử, văn hóa của các điểm đến. Do vậy họ đặc
biệt rất thích những điểm đến du lịch-nơi có bề dày lịch sử, truyền thống
văn hóa hoặc những điểm lưu trữ các dấu tích lịch sử, văn hóa như bảo
tàng, nhà lưu niệm, nhà truyền thống…Trong quá trình tham quan du
lịch, khách du lịch Nhật thường hay so sánh sự tương đồng và khác biệt
về lịch sử, văn hóa của Nhật cũng như lịch sử, văn hóa của các điểm đến.
Do có điều kiện tốt về thu nhập, nên du khách Nhật Bản cũng thích du
lịch tới những điểm du lịch nổi tiếng với phong cảnh đẹp và độc đáo.
Ví dụ: Phố cổ Hội An: với những ngôi nhà, khu phố theo kết cấu của thế
kỷ 18, 19. Hội An trầm tư với với những thiết kế tài hoa của người nghệ
nhân xưa được giấu trong những kiến trúc của người Chăm, những đền,
8
chùa, tháp, miếu nổi tiếng như: chùa Cầu, hội quán Phúc Kiến, miểu
Quan Công… với những làng nghề truyền thống, nét ẩm thực đa dạng
độc đáo…
• Những điểm đến với sự thân thiện: Văn hóa Nhật phụ thuộc vào 3 giá trị
và nguyên tắc căn bản là Wa – hay sự hài hòa, thân thiện, Kao – bộ mặt
hay niềm kiêu hãnh và Omoiyari – với hàm nghĩa sự đồng cảm, thấu cảm
và lòng trung thành. Giá trị đầu tiên trong văn hóa Nhật và có sự ảnh
hưởng sâu sắc và là nguồn gốc lý giải tại sao người Nhật thường chọn
những điểm đến du lịch – nơi sự thân thiện của người dân là yếu tố căn
bản nâng cao hình ảnh du lịch của điểm đến. Khách du lịch Nhật Bản rất
thích các cơ hội giao tiếp và tiếp xúc với người dân địa phương trong

hành trình du lịch của mình.
• Những địa điểm du lịch ẩm thực đặc biệt: Mặc dù được coi là những
thực khách hết sức cẩn thận về vệ sinh an toàn thực phẩm, nhưng khách
du lịch Nhật Bản cũng khá tò mò và rất hứng thú trong việc thưởng thức
các hương vị ẩm thực đặc biệt và khác lạ ở các điểm đến du lịch. Hơn thế
nữa, họ còn rất thích thú tìm hiểu và học hỏi về nguồn gốc, cách thức chế
biến và những giá trị ẩn chứa đằng sau vẻ bề ngoài của ẩm thực ở nơi
đến. Mặc dù vậy, khi tổng kết về ẩm thực của khách du lịch Nhật Bản
trong các hành trình du lịch, các chuyên gia du lịch cũng khẳng định tuy
du khách Nhật khá là quốc tế hóa trong vấn đề ẩm thực nhưng lại rất
Nhật. Họ rất thích ăn món Nhật tại các điểm đến du lịch (một trong
những món phổ biến là Soy source-nước tương).Nếu trong thực đơn của
các nhà hàng tại các điểm đến du lịch có các món Nhật thì đó là một lợi
thế để khai thác khách du lịch Nhật.
Ví dụ: Nhà hàng Nhật truyền thống Hana ichirin tại sài Gòn vượt qua
được sự khắt khe về những yêu cầu khó tính trong văn hóa của người
Nhật, trở thành một điểm đến hấp dẫn cho những vị khách Nhật Bản
9
muốn thưởng thức tay nghề của các đầu bếp Việt Nam khi nấu món Nhật
Bản. Người Nhật.đặc biệt yêu thích những món ăn truyền thống đậm đà
hương vị VN như phở, gỏi cuốn, chả giò Khi đến Hà Nội, Huế, Sài Gòn.
• Những điểm đến với những giá trị về nghệ thuật và thủ công mỹ nghệ:
Du khách Nhật yêu thích âm nhạc và các điệu nhảy, múa truyền thống
của người dân bản địa. Họ luôn coi âm nhạc là một trong những thành
phần chính trong trải nghiệm lữ hành của họ. Hơn thế nữa họ đặc biệt
hứng thú với việc được thưởng lãm, cảm nhận và sở hữu (nếu có thể) các
giá trị nghệ thuật, đồ thủ công mỹ nghệ cũng như các chương trình biểu
diễn đẳng cấp quốc tế tại các điểm đến. Điều này cũng được lý giải từ
một trong những giá trị gốc dễ trong văn hóa Nhật – sự đồng cảm, thấu
cảm.

Ví dụ: Phố Cổ Hà Nội- là một trong những địa điểm thu hút khách Nhật
bản bổi sự đặc biệt từ các món hàng thủ công được bày bán qua các con
phố hàng bạc, phố hàng lược. Xa hơn nữa là phố cổ Hội An thưởng thức
lễ hội đèn lồng, với nhiều kiểu dáng, màu sắc, kích thước, đèn lồng tại
đây đã làm cho du khách thấy sự sâu sắc, cổ kính cũng như nét văn hóa
đặc sắc của Việt Nam.
• Những điểm đến với ưu thế về cơ hội mua sắm và hệ thống cửa hàng
bán đồ lưu niệm: Người Nhật có thói quen tặng quà nhau vào mọi dịp có
thể. Chính vì vậy, tặng quà, đồ lưu niệm cho người thân, bạn bè sau mỗi
lần trở về nhà từ những chuyến đi du lịch được coi như là một quy luật
bất thành văn, do đó các điểm đến với ưu thế về mua sắm và hệ thống các
cửa hàng bán đồ lưu niệm luôn thu hút rất đông lượng du khách Nhật.
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn điểm đến du lịch của
du khách Nhật Bản.
• Yếu tố về an ninh và an toàn: là yếu tố tối thượng được người Nhật đặt
lên hàng đầu khi lựa chọn điểm đến du lịch. Nguyên nhân là vì từ xưa
10
đến nay người Nhật sống trong một môi trường sống rất an toàn về mọi
phương diện và họ luôn có thói quen so sánh các giá trị tương tự tại các
điểm đến. Do đó, với quan điểm bảo thủ, họ khó có thể chấp nhận lựa
chọn các điểm đến là những nơi có điều kiện an ninh và an toàn thấp, trừ
khi đó là nơi họ mong muốn hỗ trợ phát triển.
• Sự sạch sẽ và vệ sinh: Người Nhật nói chung và khách du lịch Nhật nói
riêng điển hình về sự sạch sẽ và vệ sinh trong cuộc sống hàng ngày cũng
như khi đi du lịch. Tại các nhà hàng, cơ sở lưu trú và vệ sinh công cộng,
du khách Nhật luôn quan tâm tới vấn đề vệ sinh và sự sạch sẽ của khăn
ăn, khăn tắm, đồ ăn, dụng cụ ăn, ga trải giường, phòng tắm, toilet,…
• Cơ sở lưu trú tiện nghi với dịch vụ chu đáo: khách du lịch Nhật Bản
cũng nổi tiếng về sự quan tâm tới chất lượng dịch vụ và sự tiện nghi của
các cơ sở lưu trú. Việc này cũng bắt nguồn từ thực tế là họ luôn mong

muốn trải nghiệm những cơ sở lưu trú với chất lượng và dịch vụ tại các
điểm đến luôn phải tương đồng với các cơ sở lưu trú ở Nhật. Đối với du
khách Nhật, cơ sở lưu trú nơi họ lưu lại trong hành trình có thể không
phải là loại thượng hạnh, nhưng phải sạch sẽ và hài hòa với môi trường
thiên nhiên cũng như gần các trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm.
• Hệ thống giao thông thuận tiện: Du khách Nhật thường lựa chọn điểm
đến du lịch có đường bay trực tiếp và dễ tiếp cận. Họ thường rất ngại đến
những điểm du lịch phải quá cảnh nhiều lần trừ khi không có sự lựa chọn
nào khác.
Với khả năng không dễ dàng “nhập gia tùy cục”, khách du lịch Nhật Bản
thường có mong muốn sử dụng các phương tiện giao thông công cộng có
độ chính xác về thời gian và thuận tiện như ở Nhật Bản. Và cũng vì
nguyên tắc đúng giờ nên người Nhật thực sự thiếu kiên nhẫn và không
hài lòng nếu pahir chờ đợi các phương tiện giao thông sai giờ giấc .
11
• Chất lượng của những hướng dẫn viên du lịch sử dụng tiếng Nhật, các
thông tin, sách hướng dẫn: khách du lịch Nhật Bản thường có xu hướng
đi du lịch theo nhóm và họ không thường sử dụng tiếng Anh nên họ cũng
thường yêu cầu hướng dẫn viên du lịch phải có đủ trình độ tiếng Nhật để
có thể cung cấp chính xác thông tin về điểm đến du lịch và lí giải đầy đủ
về các vấn đề mà họ quan tâm trong hành trình du lịch. Người Nhật trọng
chữ tín và sự chân thành nên những hướng dẫn viên có trình độ tiếng
Nhật tốt, thân thiện và tốt bụng sẽ được các khách du lịch Nhật giới thiệu
cho bạn bè của họ - những người có thể sẽ tới du lịch vào những lần sau.
Một trong các vấn đề khách du lịch Nhật Bản hay phàn nàn đối với
các nhà cung cấp dịch vụ du lịch thiếu thông tin và sách hướng dẫn bằng
tiếng Nhật về điểm đến du lịch. Đây cũng là một trong những yếu tố ảnh
hưởng đến quyết định điểm đến của khách du lịch Nhật.
3.3. Về sở thích mua sắm
Về khía cạnh mua sắm, du khách Nhật cũng được đánh giá là những

người thích mua sắm. Tuy nhiên, theo khảo sát của công ty Nghiên cứu thị
trường du lịch Nhật Bản – JTM của Nhật Bản thì trung bình một khách du
lịch Nhật Bản chi tiêu cho mua sắm năm 2006 là 46.000 yên, giảm hơn 50%
so với con số 109.000 yên của năm 1995. Nguyên nhân được cho là trong
những năm gần đây, chính phủ Nhật Bản đã thay đổi về chính sách thuế
nhập khẩu rượu, thuốc lá và các loại hàng hiệu nhập khẩu nhằm thỏa mãn
cơn khát mua sắm của người Nhật về những mặt hàng này. Do vậy, người
Nhật có thể mua sắm những mặt hàng này trong nước với giá rẻ hơn. Mặc
dù vậy, xét về tổng thể, khách du lịch Nhật vẫn là thị trường khách chi tiêu
cho mua sắm lớn nhất thế giới và những người đi du lịch vì mục đích mau
sắm vẫn chiếm đa số do sự chênh lệch giá cả giữa Nhật và các nước khác.
Bên cạnh rượu, thuốc lá, hàng hiệu, khách du lịch Nhật còn thích mua và
12
sưu tầm các sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống độc đáo được sản xuất
bằng tay.
Dù là du khách thích mua sắm hàng hiệu hay du khách thích mua sắm
sản phẩm thủ công mỹ nghệ địa phương thì du khách Nhật nói chung thường
chọn mua những mặt hàng dễ khơi gợi cảm xúc của chuyến đi hay những đồ
lưu niệm hiếm có và chưa được nhập khẩu vào Nhật. Khách du lịch Nhật
thường có cái nhìn thiếu thiện cảm với những mặt hàng có chất lượng thấp.
Họ đặc biệt không thích các mặt hàng được bán bởi những người bán hàng
rong. Du khách Nhật thích các mặt hàng được đề giá cố định hơn là các mặt
hàng phải mặc cả.
3.4. Một số đặc điểm và sở thích khác của khách Nhật
- Khách Nhật thích nghỉ ngơi ở một, hai nước hơn là tận dụng đi thật
nhiều trong một kỳ nghỉ (71,5%)
- Đi lâu hơn mặc dù đi ít hơn là đi liên tục những chuyến ngắn (64,5%)
- Mỗi lần đi một nước hơn là đi lại những điểm đã đi (70,9%)
- Ở tại khách sạn nào có đủ các dịch vụ cần thiết (59,3%) hơn là ở tại
khách sạn sang trọng và đắt (32,1%)

- Ăn uống tại các địa điểm mà người dân địa phương thường ăn
(74,9%)
- Đi trong nhóm càng ít người càng tốt (71,1%)
- Thăm những điểm du lịch nổi tiếng (63,6%) hơn là những nơi ít người
từng tới thăm quan (24%)
- Tìm một chương trình tour trọn gói phù hợp (73,4%) hơn là tự tìm
khách sạn, phương tiện vận chuyển.
- Mua sắm nhiều kể quà lưu niệm cho gia đình, bạn bè (50,6%) nhiều
hơn là mua chủ yếu cho bản thân (41,6)
4. Một số đặc điểm tiêu dùng du lịch của người Nhật
- Người Nhật thường chọn nơi du lịch có nắng, cảnh sắc hấp dẫn, nước
biển trong xanh, cát trắng có thể tắm được quanh năm quen với
phương tiện sinh hoạt thuận tiện và hiện đại
13
- Chương trình du lịch của họ thường chọn 7 ngày để 1 năm có thể đi
du lịch được ba lần
- Nội dung đầu tiên của chuyến đi mà người Nhật quan tâm đó là giá
cước vận chuyển. Nếu họ thấy rẻ thì đi còn không tính đến việc tiêu
tiền như thế nào trong chuyến đi
- Tầng một và hai tầng ở trên cùng của loại khách sạn cao tầng không
thích hợp với người Nhật vì lý do an toàn. Người Nhật cất tiền ở nơi
kín đáo nhất, biết chắc trả bao nhiêu thì tìm cách lấy đúng bằng đó để
trả. Trước khi ra nước ngoài du lịch người Nhật được đến các phòng
tư vấn về vấn đề an ninh đảm bảo sự an toàn tính mạng và tài sản cho
họ
- Người Nhật chi tiêu nhiều cho dịch vụ lưu trú và ăn uống, chẳng hạn
so khách du lịch Nhật chi tiêu tại Hong Kong là 312USD/ngày thì
khách du lịch Mỹ là 198USD/ngày
- Ở Nhật có phong trào đi nghỉ tuần trăng mật ở nước ngoài; trung bình
chi tiêu cho chuyến đi là 10.000USD

- Khách du lịch ở độ tuổi thanh niên thích phiêu lưu, dân dã thích các
trang phục cũ của quân đội Mỹ
- Khách du lịch là thương gia Nhật đòi hỏi tính chính xác rất cao: Thời
gian làm việc (bắt đầu từ 7h30’, kết thúc 17h30’). Thời gian, địa điểm
đưa đón, chủng loại phương tiện, người điều khiển, chương trình làm
việc, nội dung và con người cụ thể khi làm việc; chương trình tham
quan giải trí. Loại khách này sử dụng các dịch vụ có thứ hạng cao.
Nếu sử dụng các dịch vụ thấp kém nghĩa là hạ thấp uy tín, là sự xỉ
nhục đối với công ty mà họ đại diện. Thời gian rỗi loại khách này
thích dạo phố phường chợ thưởng thức nghệ thuật dân gian … Nhìn
14
chung khách Nhật ít kêu ca phàn nàn, ít nổi nóng, rất khéo léo trong
đối nhân xử thế nhưng lại có yêu cầu khắt khe về chất lượng sản phẩm
và dịch vụ
- Hầu như tất cả khách du lịch Nhật đều bắt buộc phải mua nhiều quà
lưu niệm, vì phong tục tập quán của người Nhật.
- Thích các di tích cổ
- Thích ăn món ăn Pháp và uống rượu Pháp
- Giữ gìn bản sắc dân tộc khi ra nước ngoài, luôn thể hiện là người lịch
sự, có kỷ luật
Các chuyên gia du lịch dự đoán một cách có sơ sở rằng: Khách du lịch Nhật
Bản sẽ là thị trường tiềm năng có triển vọng nhất của sản phẩm du lịch Việt
Nam.
5. Thực trạng khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam.
5.1. Các ưu thế sản phẩm du lịch hiện có phục vụ khách Nhật ở Việt Nam
• Có vị trí gần đất nước Nhật. Đất nước mặt trời mọc là một quốc đảo nên
không có đường biên giới trên bộ, giao thông với bên ngoài chỉ bằng
đường biển và đường hàng không. Vì vậy du khách Nhật đặc biệt coi
trọng vấn đề an toàn giao thông. Hiện nay hãng hàng không quốc gia Việt
Nam và hãng hàng không Nhật Japan Airlines đã mở các đường bay

thẳng từ Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đến các thành phố lớn của
Nhật Bản như: Tokyo, Osaka, Fukuoka, Aichi, Kyoto, Nara,…
• Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ như đồ gốm sứ, sơn mài và mây tre đan
rất được người Nhật ưa chuộng do giá thành rẻ và mang đặc trưng văn
hóa của Việt Nam.
• Có phong cảnh thiên nhiên tươi đẹp như: Vịnh Hạ Long, Đồng bằng sông
Cửu Long,…và nền văn hóa phong phú đa dạng như: rối nước, nhã nhạc
cung đình Huế, tuồng cổ,…Người Nhật phần lớn đều được giáo dục, có
tri thức và tôn trọng văn hóa truyền thống. Vấn đề này nên được tập trung
15
nghiên cứu khai thác trong các thiết kế quảng cáo danh lam thắng cảnh
và sắc thái văn hóa đặc trưng truyền thống của Việt Nam tại thị trường
Nhật Bản.
• Món ăn hấp dẫn. Người dân xứ Phù Tang cũng rất thích thưởng thức
nghệ thuật ẩm thực của Việt Nam, một số món như chả cá, nem, lẩu hải
sản,…
• Lễ hội văn hóa đầy màu sắc dân gian như: chọi trâu, đánh vật, thả diều,
đua thuyền, hát quan họ, các loại nhạc cụ dân gian như: đàn bầu, sáo trúc,
đàn bá, đàn dây, bộ gõ,…
• Thư giãn, giải trí; tắm hơi, tắm bùn, câu cá, lặn biển, hát karaoke…Du
khách Nhật rất thích những khu du lịch biển như Vịnh Hạ Long, Phan
Thiết, Nha Trang, Đà Nẵng, Phú Quốc,…
5.2. Đánh giá mức tiêu dùng của khách du lịch Nhật Bản tại Việt Nam.
Nguồn: Vụ Thị trường du lịch – Kết quả điều tra Bảng hỏi khách du lịch
Nhật Bản đã từng đến Việt Nam (tháng 10/2011)
Theo kết quả điều tra trên thì mức chi tiêu của khách du lịch Nhật Bản
đến Việt Nam tại thời điểm điều tra khá cao với 48% số người được hỏi cho
biết đã chi từ 50.000 – 100.000 yên (khoảng 700 – 1400 USD) và 26% là
trên 100.000 yên (trên 1400 USD) trong khoảng thời gian phần lớn là từ 4 –
5 ngày lưu trú ở Việt Nam thì trung bình mỗi ngày khách Nhật tiêu khoảng

200 USD tại Việt Nam và trung bình chi tiêu cho một chuyến đi của một
khách Nhật đến Việt Nam là 1000 USD. Nếu trong năm 2011, Việt Nam có
thể thu hút được 481.000 lượt khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam thì thu
nhập xã hội từ tiêu dùng của khách du lịch Nhật Bản vào khoảng 481 triệu
đô la Mỹ (tương đương khoảng 10.000 tỷ đồng, chiếm 8% toàn bộ thu nhập
xã hội từ du lịch của Việt Nam). Phần thu nhập trên còn chưa tính đến khoản
16
thu nhập từ dịch vụ vẩn chuyển hàng không, chủ yếu là VietNam Airline
(ước tính bằng khoảng 2/3 với phần chi tiêu của khách tại Việt Nam).
Tuy nhiên, tổng thu từ khách du lịch Nhật Bản nói trên so với mức
tiêu dùng trung bình của khách du lịch Nhật Bản khi đi nước ngoài. Theo
thống kê của tổ chức du lịch thế giới (UNWTO), năm 2010 tiêu dùng du lịch
của khách outbound Nhật Bản ở nước ngoài, không kể vé máy bay là khoảng
27 tỉ đô la Mỹ và chi tiêu bình quân của một khách du lịch Nhật Bản ở nước
ngoài là 1.600 USD. Con số này đến năm 2012 còn cao hơn nhiều vì kể từ
năm 2010 đến nay, đồng yên đã tăng giá gần 20% so với đồng đô la Mỹ.
Nếu so với mức chi tiêu trung bình của khách du lịch Nhật Bản ở Việt Nam
là khoảng 1000 USD theo kết quả điều tra trên thì con số này quá thấp so với
mức chi tiêu bình quân của khách du lịch outbound Nhật Bản.
5.3. Hiện trạng công tác phát triển sản phẩm và xúc tiến quảng bá thu
hút khách du lịch Nhật Bản.
Công tác xây dựng sản phẩm du lịch nói chung và sản phẩm du lịch
đặc thù cho khách du lịch Nhật Bản nói riêng còn chưa được đầu tư đúng
mức. Do vậy, nhìn chung các sản phẩm du lịch còn nghèo làn, chưa có sản
phẩm đặc thù thu hút khách du lịch Nhật Bản và cạnh tranh được với các
nước khác trong khu vực.
Công tác xúc tiến, quảng bá của du lịch Việt Nam trong những năm
gần đây chủ yếu tập trung vào việc tham gia Hội chợ du lịch quốc tế JATA
được tổ chức thương niên tại Tokyo, Nhật Bản. Tuy nhiên, do kinh phí hạn
chế nên Tổng cục Du lịch thường phải phối hợp với Tổng công ty Hàng

không Việt Nam và huy động các doanh nghiệp cùng tham gia. Do vậy, chất
lượng công tác xúc tiến, quảng bá tại Hội chợ này không được cao. Bên cạnh
Hội chợ JATA, hàng năm du lịch Việt Nam còn tham gia Lễ hội văn hóa du
17
lịch do Trung tâm - ASEAN Nhật Bản tổ chức. Tuy nhiên, Lễ hội này chỉ có
10 nước Asean tham dự và quy mô rất nhỏ. Hiệu quả quảng bá không lớn.
Về việc tổ chức các sự kiện, ngoài một số hoạt động chung của Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại Nhật Bản (ngày văn hóa Việt Nam…), các
sự kiện riêng của du lịch ít được tổ chức. Gần đây nhất là năm 2009, Tổng
cục Du lịch phối hợp với Việt Nam Airlines tổ chức được 03 Roadshow lớn
tại 3 thành phố của Nhật Bản là Osaka, Nagoya và Tokyo. Tuy nhiên, từ đó
đến nay không tổ chức được hoạt động phát động thị trường nào khác, ngoài
một số hoạt động của Vietnam Airlines. Mặt khác, từ năm 2008, Lễ Hội Việt
Nam tại Nhật Bản đã được tổ chức thường niên tại Trung tâm Tokyo, thu hút
khoảng 100 ngàn công chúng Nhật Bản tham gia, hiệu quả quảng bá rất lớn
nhưng du lịch Việt Nam vẫn không có điều kiện tham gia một cách chủ
động. Về đón các đoàn famtrip và presstrip từ Nhật thì chủ yếu phối hợp với
các doanh nghiệp đón khách Nhật và Vietnam Airlines, các đoàn do Tổng
cục Du lịch chủ trì thực hiện rất ít.
Về website du lịch tiếng Nhật, Tổng cục Du lịch đã có website quảng
bá, giới thiệu du lịch Việt Nam bằng tiếng Nhật, nhưng là một website ‘tĩnh’,
thông tin không được cập nhật hàng tháng Các ấn phẩm tiếng Nhật hình
thức xấu, thông tin cũng không được cập nhật thường xuyên. Các ấn phẩm
khách du lịch và các hãng lữ hành của Nhật Bản cần như sách hướng dẫn du
lịch (guide book) và bản đồ du lịch tiếng Nhật thì không có. Ngoài ra công
tác nghiên cứu thị trường cũng chưa được triển khai mạnh mẽ. Trong năm
2005 và 2006, Tổng cục Du lịch đã phối hợp được với Trung tâm ASEAN –
Nhật Bản tổ chức được 02 lớp tập huấn về thị trường khách du lịch Nhật
Bản. Từ đó đến nay hầu như không còn tổ chức được khóa tập huấn nào
tương tự.

5.4. Xây dựng sản phẩm du lịch cho du khách Nhật
Những lưu ý khi xây dựng sản phẩm cho du khách Nhật
18
Người Nhật kỹ tính, ưa sạch sẽ, trọng nghi thức, chữ tín; tôn sùng chất
lượng, tiện nghi và cái đẹp; thường khép kín không biểu lộ quan điểm. Vốn
là thị trường quen thuộc của châu Á, Đông Nam Á, nhưng còn mới đối với
Việt Nam. Nhưng Nhật Bản cũng gần gũi với Việt Nam về văn hóa, Nhật
cũng đín líu với Việt Nam trong lịch sử, nên người Nhật, đặc biệt là các thế
hệ sinh trước năm 1945, cũng có mong muốn trở lại Việt Nam.
• Về thông tin: Cần cung cấp nhiều hơn, chi tiết hơn về dịch vụ, đặc biệt là
về chất lượng dịch vụ, sự thuận tiện và an toàn. Cần chú ý đến độ tin cậy
của thông tin. Chú ý khai thác những thông tin về lịch sử, văn hóa, mặc
dù nhấn mạnh tính truyền thống nhưng những thông tin về sự tương đồng
văn hóa Việt – Nhật cũng làm người Nhật thích thú.
• Về công cụ lựa chọn: Tuy khép kín (nội tâm) nhưng người Nhật cũng
thích lễ hội, các hoạt động tập thể, những hoạt động trình diễn văn hóa
ngoài trời có thể có hiệu quả tuyên truyền cao; người Nhật ham đọc nên
các ấn phẩm thường nên dùng loại có nhiều thông tin, tốt nhất là các tạp
chí nhỏ in trên loại giấy nhẹ, chất lượng tốt, hình thức in ấn đẹp, trang
nhã, ít màu sắc sặc sỡ, dễ mang theo.
19

×