Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu Luận Cao Học- Tư Tường Chính Trị Hy Lạp-La Mã Cổ Đại - Các Giá Trị Và Ảnh Hưởng Của Nó Trong Xây Dựng Nhà Nước Pháp Quyền Xã Hội Chủ Nghĩa.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.48 KB, 29 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN : CHÍNH TRỊ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Đề tài :
TƯ TƯỜNG CHÍNH TRỊ HY LẠP-LA MÃ CỔ ĐẠI - CÁC GIÁ TRỊ
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................4
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH VÀ NỘI
DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HY LẠP - LA MÃ CỔ
ĐẠI....................................................................................................................4
1.1. Khái quát về Đặc điểm lịch sử xã hội – chính trị...............................4
1.2. Những nội dung trong tư tưởng chính trị Hy Lạp-La Mã cổ đại.......5
1.3. Giá trị lịch sử của tư tưởng chính trị Hy Lạp – La Mã cổ đại..........11
Chương 2. VẬN DỤNG GIÁ TRỊ VÀ TƯ TƯỜNG CHÍNH TRỊ HY LẠP
- LA MÃ CỔ ĐẠI TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY....................................12
2.1. Quá trình nhận thức và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.......................................................................................12
2.2. Một số giải pháp hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam.........................................................................................................21
KẾT LUẬN....................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................27


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền văn minh Hy Lạp- La Mã cổ đại đã tạo tiền đề hình thành và phát


triển khá sớm những tư tưởng chính trị của nhân loại. Trong quá trình phát
triển từ chế độ cộng sản nguyên thủy sang chiếm hữu nô lệ, ở Hy Lạp xuất
hiện các quốc gia thành thị chiếm hữu nơ lệ. Mâu thuẫn xã hội giữa các tập
đồn trong giai cấp chủ nô nhằm tranh giành quyền lực và mâu thuẫn giữa
chủ nô với nô lệ và tầng lớp thị dân tự do ngày càng gay gắt dẫn đến hình
thành các phe phái chính trị và xuất hiện những chính trị gia xuất sắc. Mà tiêu
biểu là: Hêrơđốt, Xênơphơn, Platon, Arixtốt. Trong giai đoạn lịch sử này, tư
tưởng chính trị về nhà nước pháp quyền trên thế giới đã manh nha hình thành,
trong “Nhà nước lý tưởng” của Platơn (427-347 TCN), trong “Chính trị luận”
của Arixtốt (384-322 TCN).
Trong những năm qua, công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo đã mang lại nhiều thành tựu quan trọng. Đất nước đã
thốt khỏi tình trạng nước nghèo để bước vào vị thế mới: nước có thu nhập
trung bình. Song hành với quá trình phát triển của đất nước, những tư tưởng
chính trị Hy Lạp- La Mã cổ đại đã có sự tác động tích cực nhất định đến nền
chính trị của Việt Nam.
Với nền chính trị ổn định, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, quản lý xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
chúng ta đang quyết tâm và vững bước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Tuy nhiên, phía trước cịn tồn tại rất nhiều khó khăn, thách thức cả về lý
luận và thực tiễn để xây dựng thành công nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh.
Chính vì vậy nên em đã chọn nội dung “Tư tường chính trị Hy LạpLa Mã cổ đại - Các giá trị và ảnh hưởng của nó trong xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” để làm đề tài tiểu luận
cho mơn học: Chính trị học đại cương của mình.
1


2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài làm rõ tư tưởng chính trị cơ bản của các nhà chính trị phương tây
tiêu biểu của Hy Lạp-La Mã cổ đại như: Hêrôđốt, Xênôphôn, Platôn, Arixtốt,
cũng như những giá trị của nó trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đề tài khái quát làm rõ nguồn gốc ra đời và những tư tưởng chính trị
cơ bản của Tư tường chính trị Hy Lạp-La Mã cổ đại.
- Trên cơ sở chỉ ra những ưu điểm, hạn chế trong Tư tường chính trị Hy
Lạp-La Mã cổ đại và vận dụng vào công cuộc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Những tư tưởng chính trị cơ bản của Tư tường chính trị Hy Lạp-La Mã
cổ đại và sự ảnh hưởng của nó ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chỉ tập trung làm rõ tư tưởng chính trị cơ bản của Tư tường
chính trị Hy Lạp-La Mã cổ đại , những ảnh hưởng của nó trong xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về nhìn nhận, đánh giá những tư tưởng chính trị cơ bản của Tư tường
chính trị Hy Lạp-La Mã cổ đại.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
2


- Phương pháp cụ thể chủ yếu được sử dụng trong luận văn là: lịch sử

và lơgíc; phân tích và tổng hợp, phương pháp quan sát xã hội…
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài có
kết cấu là 2 chương và 5 tiết.

3


NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG
CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HY LẠP - LA MÃ CỔ ĐẠI
1.1. Khái quát về Đặc điểm lịch sử xã hội – chính trị
Lịch sử tư tưởng chính trị Hy Lạp cổ đại gắn bó hữu cơ với q trình
tiến hóa xã hội và nhà nước Hy Lạp chiếm hữ nô lệ. Sự ra đời, củng cố và
hưng thịnh, cuối cùng là suy tàn của nhà nước chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp luôn
gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp. Chính trị đã xuất hiện với tư cách là một
trong những lĩnh vực kiến thức nhằm định hướng cho việc điều hành những
công việc phức tạp của quốc gia. Vào thế kỷ IX – VIII TCN, nền sản xuất
chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp phát triển cao. Nhân loại chuyển từ đồ đồng sang
đồ sắt. Việc xuất hiện các quan hệ tiền hàng đã làm cho thương mại và trao
đổi hàng hóa được tăng cường. Lãnh thổ của Hy Lạp được mở rộng thuận lợi
cho việc giao lưu kinh tế văn hóa với các dân tộc khác. Sự phát triển của sản
xuất đã dẫn đến việc các quan hệ và tổ chức xã hội bị đảo lộn. Nếu trước đây
là hình thức tổ chức xã hội cũ như bộ tộc, bộ lạc thì giờ đây tư tưởng tư hữu
và sau đó là chế độ tư hữu về của cải xuất hiện. Phân công lao động phát
triển, xã hội xuất hiện tầng lớp chuyên sống bằng chí óc tạo điều kiện nảy
sinh những tư tưởng chính trị. Sự mâu thuẫn giữa chủ nơ dân chủ và giới chủ
nơ q tộc mâu thuẫn với những tầng lớp trong nhóm đó.
+ Phái dân chủ cho rằng phải đập tan chế độ chuyên chế độc tài của

tầng lớp q tộc giải phóng khỏi sự nơ dịch của giới q tộc cũ.
+ Giới q tộc muốn duy trì trật tự cũ và bằng mọi cách bảo vệ đặc quyền
của mình. Chế độ sở hữu cá nhân được thừa nhận và không thay đổi, chế độ nô
lệ được coi là tự nhiên phải có. Mâu thuẫn giai cấp cơ bản của xã hội chiếm hữu
nơ lệ được hình thành là mâu thuẫn giữa nô lệ và chủ nô. Trong quá trình đấu
tranh đó nhiều quan niệm về sự bình đẳng, tự do đã nảy sinh.
4


- Hy Lạp là quốc gia có lịch sử phát triển lâu dài, song lịch sử Hy Lạp
cổ đại chỉ thực sự bắt đầu từ thế kỷ VIII trước công nguyên. Xã hội Hy Lạp
cổ đại phát triển khá điển hình với phương thức sản xuất chiếm hữu nơ lệ.
- Thành Aten với thể chế chính trị chủ nơ dân chủ, cịn thành Spas với
thể chế chính trị chủ nơ quí tộc.
- Lịch sử thực sự của thời kỳ cổ đại La Mã kéo dài từ TK IV TCN đến
TK V SCN, được chia ra làm hai thời kỳ: thời kỳ cộng hòa và thời kỳ đế chế.
- Sau thời hoàng kim, từ thế kỷ III đến thế kỷ V, đế chế La Mã rơi vào
thời kỳ khủng hoảng nghiêm trọng và chuyển dần sang thời kỳ hậu đế chế,
trong đó chế độ qn chủ chun chế kiểu phương Đơng trở nên thịnh hành.
1.2. Những nội dung trong tư tưởng chính trị Hy Lạp-La Mã cổ đại
Tư tưởng chính trị là một chủ đề lớn, được nghiên cứu dưới nhiều khía
cạnh. Trong khn khổ một bài tiểu luận, em chỉ đề cập tới 3 khía cạnh chính
là: Con người chính trị; thể chế chính trị và nhà nước chính trị.
1.2.1. Tư tưởng về con người chính trị.
- XENƠPHƠN: Chính trị là một nghệ thuật thực hành, nghệ thuật cao
nhất. Nghệ thuật của bậc đế vương.
Ai nhận thức được các vấn đề chính trị sẽ trở thành người trung thực,
người tốt. Ai ngu dốt về chính trị sẽ rơi vào hàng nơ lệ.
- Tư tưởng chính trị của ơng: quan niệm về con người chính trị phải
nhất thiết là một thủ lĩnh chính trị.

Thủ lĩnh chính trị là người biết chỉ huy, giỏi kỹ thuật, giỏi thuyết phục,
biết cảm hoá người khác.
Người thủ lĩnh phải có những phẩm chất đặc biệt:
+ Bảo vệ lợi ích chung
+ Có khả năng tập hợp sức mạnh quần chúng.
Thiên tài của thủ lĩnh không phải tự nhiên mà có. Nó sinh ra từ sự kiên
nhẫn, từ khả năng chịu đựng lớn về mặt thể chất, với ý chí sống và rèn luyện
theo phong cách thanh liêm, biết kiềm chế, yêu lao động.
5


Tóm lại, theo ơng u cầu thủ lĩnh chính trị phải có kỷ thuật giỏi, phải
có sức thuyết phục cao, người thủ lĩnh phải biết vì lợi ích chung nghĩa là phải
biết chăm sóc cho người bị trị, biết hợp lại và nhân sức mạnh của mọi người.
- PLATON: yêu cầu thủ lĩnh chính trị phải thực sự có khoa học chính
trị, có tính khí phù hợp với nhiệm vụ đảm đương. Ơng xem tiêu chuẩn chính
trị là tiêu chuẩn của mọi tiêu chuẩn.
- ARISTOT: xem thủ lĩnh chính trị là người sung túc, là người ở tầng
lớp trung lưu không phải giàu cũng không phải nghèo, họ là người phải biết
uốn mình theo lới khuyên của các bên (vì quan điểm của ông theo nhị nguyên
luận).
1.2.2. Tư tưởng về nhà nước chính trị
+ Platon: Tư tưởng chính trị của ông được phản ánh trong tác phẩm:
nước cộng hoà, các đạo luật, nền chính trị.
Ơng là người đầu tiền đạt tới quan niệm về giá trị phổ biến, tầm vĩ mơ
của chính trị và hành động chính trị, tiêu chuẩn của nền chính trị đích thực.
Nhà nước cầm quyền bởi sự thơng thái. Nhà nước gồm ba tầng lớp đó là
các pháp quan – có trí tuệ cai trị nhà nước, tầng lớp chiến binh bảo vệ thành
bang, giới bình dân lao động sản xuất cung cấp của cải vật chất cho thành bang.
Ơng cho rằng: chính trị là sự thống nhất tối cao, là nghệ thuật dẫn dắt

xã hội con người.
Chính trị là nghệ thuật cai trị. Cai trị bằng sức mạnh là độc tài, cai trị
bằng thuyết phục mới đích thực là chính trị.
Chính trị phải là sự chun chế.
Xã hội lí tưởng của Platơn là xã hội được trị vì bởi sự thơng thái. Chia
xã hội thành 3 hạng người:
+ Các triết gia thông thái đảm nhận vai trò lãnh đạo và cai trị Nhà
nước.
+ Tầng lớp nông dân, thợ thủ công làm ra của cải vật chất đảm bảo
cuộc sống cho xã hội.
6


- Điều kiện và cơ sở để duy trì một xã hội được cai trị bưỏi những
người thông thái là: thực hiện cộng đồng về tài sản và hơn nhân.
Ơng chủ trương xố sở hữu cá nhân và tình u gia đình thay vào đó là
những tổ chức cộng đồng.
Ơng cho rằng khi lãnh đạo Nhà nước, cần gạt sang 1 bên ý chí cá nhâ,
trước tiên phải dựa vào tơn giáo và pháp luật.
Sự chuyển hố quyền lực trong xã hội là do có sự biến đổi về quyền lợi
và những sự vận động về chính trị.
* Nhược điểm:
Quan điểm cuả Platơn có nhiều mâu thuẫn.
- Vừa địi hỏi xố bỏ tư hữu vừa muốn duy trì chế độ đẳng cấp.
- Ơng đưa ra mơ hình xã hội lí tưởng và cơng lí nhưng đồng thời lại bảo
vệ lợi ích của tầng lớp quý tộc chủ nô.
+ Aritxtôt là nhà bác học vĩ đại của nền văn minh Hy Lạp.
Ơng là tác giả của hai cơng trình nghiên cứu về chính trị đó là chính trị,
hiến pháp Aten.
Ơng đã tổng kết và phát triển tài tình các kết luận của các bậc tiền bối

về nguồn gốc, bản chất, hình thức và vai trị của Nhà nước pháp quyền.
Theo ơng, Nhà nước xuất hiện tự nhiên. Được hình thành trong lịch sử.
Con người là động vật chính trị. Bản tính của con người là sống trong
cộng đồng.
Hình thức tổ chức cộng đồng trong một thể chế xã hội nhất định gọi là
Nhà nước.
Nhà nước ra đời trên cơ sở gia đình, chính quyền Nhà nước là sự tiếp
tục chính quyền trong gia đình. Nhà nước xuất hiện tự nhiên, được hình thành
do lịch sử. Nó được phát triển từ gia đình và làng xã.
Thể chế chính trị điều hành và quản lý xã hội về 3 phương diện: lập
pháp, hành pháp, phân xử.
Sứ mạng của Nhà nước là lãnh đạo tập thể các công dân, quan tâm tới
các quyền chung của công dân, làm cho mọi người sống hạnh phúc.
7


Ơng cho rằng, khơng có 1 loại hình chính phủ nào là duy nhất có thể
phù hợp với tất cả các thời đại và các nước.
Ơng phân chính phủ theo 2 tiêu chuẩn: số lượng và chất lượng.
Kết hợp 2 mặt đó: các chinh phủ có thể xếp theo 2 loại:
+ Chính phủ chân chính: quân chủ, quý tộc, cộng hồ.
+ Chính phủ biến chất: độc tài, quả đầu, dân trị.
Ông nhiệt thành ủng hộ chế độ quân chủ, coi đó như hình thức tổ chức
Nhà nước thần thánh và ưu việt nhất.
Tư tưởng chính trị của Arixtơt chứa đựng những giá trị tích cực sau:
1) Con người có khuynh hướng tự nhiên, gắn bó với nhau thành xã hội.
Do đó con người là động vật cơng dân, động vật chính trị, sống có trách
nhiệm với cộng đồng.
2) Chính trị là làm sao trong đời sống cộng đồng, cái chung cao hơn cái
cá nhân riêng biệt, con người sống ngày càng tốt hơn.

3) Chính trị phải giáo dục đạo đức và phẩm hạnh cao thượng cho cơng
dân.
4) Chính trị là khoa học lãnh đạo con người, khoa học kiến trúc xã hội
của mọi công dân.
5) Chế độ dân chủ sẽ chuyển thành chế độ mị dân hoặc độc tài nếu: ý
chí cá nhân thay thế pháp luật, chế độ bị trao cho cho những tên nịnh bợ, gian
xảo, ham quyền lực…
6) Khơng thể hoạt động chính trị nếu bị dục vọng của cải chi phối và sự
dốt nát chế ngự.
7) Chế độ quân chủ là hình thức sơ khai vèi khơng có ai uy tín bằng
lãnh tụ chiến thắng.
Nhưng khi xã hội phát triển, người tốt, người giỏi có nhiều thì chế độ
chính trị phải thay đổi.
=> Hạn chế:
- Mục tiêu giai cấp
8


- Quan điểm cổ đại hẹp hòi về quyền tự do của cá nhân những người
nô lệ và lao động.
Tư tưởng về nhà nước ở phương tây cổ đại chủ yếu gắn liền với sự phát
triển của nền dân chủ Hy Lạp và La Mã, có phần sâu sắc hơn vì được dựa trên
cơ sở tư duy triết học, thể hiện sự tìm kiếm cái khách quan, cái duy lý lại
được thể nghiệm trong bầu khơng khí dân chủ ở trình độ tương đối cao. Các
nhà tư tưởng chú ý tới tính tối cao của đạo luật và cả tính hợp lý, tới sự tổ
chức hợp lý của bộ máy nhà nước, hiểu pháp luật là pháp luật tự nhiên, pháp
luật xuất phát từ bản chất lý trí của con người và của thế giới xung quanh con
người, pháp luật là thuộc tính vốn có của con người, luật nhà nước phải đáp
ứng yêu cầu của luật tự nhiên. Xixerôn coi Nhà nước là trật tự pháp luật
chung, bảo vệ tự do cho công dân. Theo Demôkrit, nhân dân phải đấu tranh

bảo vệ pháp luật như bảo vệ chốn nương thân của chính mình. Nhà tư tưởng
lớn của Hy Lạp Xôkrat đã khẳng định rằng: xã hội không thể tồn tại nếu thiếu
pháp luật, Nhà nước phải tôn trọng, phục tùng pháp luật, tôn trọng pháp luật
là tôn trọng lý trí, cơng bằng và trí tuệ phổ biến, nếu khơng quyền lực sẽ lạc
lối. Arixtôt, nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại cũng khẳng định: pháp luật
thống trị trên tất cả và đã đưa ra lý thuyết về sự tổ chức hợp lý của quyền lực
nhà nước- bất kỳ Nhà nước nào cũng phải có ba bộ phận: cơ quan làm luật, cơ
quan thực hành pháp luật, cơ quan toà án xét xử. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại
Platon đã viết: nếu pháp luật khơng có sức mạnh, bị đặt dưới quyền lực của ai
đó thì nhà nước sẽ diệt vong.
1.2.3. Tư tưởng về thể chế chính trị
+ Hêrodot: Là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã phân biệt và so
sánh các thể chế của nhà nước khác nhau. Theo ơng có 3 hình thức cơ bản:
- Quân chủ: là thể chế độc quyền của một người là vua. Vua có cơng
lập quốc sống vì nước, vì dân. Vua có quyền cấm tất cả những ý kiến phản
biện, phản kháng. Đặc quyền và quá lạm dụng quyền lực khiến vua dễ trở
thành tội lỗi. Thể chế quân chủ: tức là thể chế cầm quyền của một người - đó
là vua. Thể chế này có 2 mặt:
9


Ưu điểm: là thể chế ra đời thường là do những người có cơng khai
quốc, thường là vì lợi ích chung của nhân dân. Nó là một bàn tay sắt cần thiết
khi chế độ dân chủ bị rối loạn.
Nhược: thể chế này dễ rơi vào sự độc tài, chuyên quyền, dễ bị xu nịnh,
ln có xu hướng là lạm dụng quyền lực.
- Quý tộc: là chế độ được xây dựng trên cơ sở cầm quyền của một
nhóm người ưu tú nhất của đất nước, vì lợi ích chung.
Ưu: đây chính là chính quyền của những người có trình độ cao nên mọi
cơng việc, các quyết sách chính trị đều được bàn bạc giữa những người trí tuệ

nên cơng việc có khoa học, ít sai lầm.
Nhược: giữa các nhà thơng thái làm việc bên nhau sớm muộn cũng sẽ
tiêu diệt lẫn nhau, vì khơng ai chịu thua ai, các nhà thơng thái đều muốn làm
thầy của nhau.
Tuy nhiên, thể chế này dễ có sự khác biệt, bất hồ chia bè phái dẫn đến
tranh dành, tàn sát lẫn nhau.
- Dân chủ: là thể chế mà quyền lực do đông đảo nhân dân nắm bằng
con đường bỏ phiếu để trao những chức vụ công cộng một cách đúng đắn để
ngăn chặn lạm dụng quyền lực, xây dựng Nhà nước trên nguyên tắc cơ bản:
tất cả đều bình đẳng trước pháp luật.
Ưu: các quyết định quyết sách chính trị đều do tập thể bàn bạc một cách
dân chủ. Nó có xu hướng cơng bằng vì lợi ích chung, chăm lo cho nhân dân.
Nhược : số đơng người ít học cầm quyền thì khó có khả năng chống
độc tài, chuyên chế, dễ rơi vào tiểu tiết mà quên đi tầm chiến lược, thường
thấy những chuyện trước mắt mà khơng thấy trước những chuyện lâu dài.
Tóm lại, Hêrơđơt thiên về loại hình thể chế qn chủ. Ông cho rằng:
thể chính trị tốt nhất là thể chế hỗn hợp những đặc trưng tốt nhất của 3 loại
hình: quân chủ, quý tộc, dân chủ.
+ Arixtot: ông cho rằng thể chế nhà nước dân chủ là thể chế người
giàu, người nghèo khơng bên nào số lượng tuyệt đối. Ơng cho rằng mọi thể
chế đều có nguy cơ biến chất, thay đổi bằng cuộc cách mạng.
10


+ Polybe: kế thừa tư tưởng trước đó vào thể chế nhà nước, ông cho
rằng thể chế nhà nước là phải kết hợp những ưu điểm các thể chế chứ khơng
theo một tiêu chí thuần túy nào bởi vì trong thuần túy đã chức đựng mầm
mống sự yếu kém khi phát huy tối đa sẽ bộc lộ yếu kém.
1.3. Giá trị lịch sử của tư tưởng chính trị Hy Lạp – La Mã cổ đại
- Thứ nhất, tư tưởng chính trị Hy Lạp – La Mã cổ đại phản ánh q

trình tiến hóa của xã hội và nhà nước Hy – La chiếm hữu nơ lệ, có chịu tác
động của văn hóa phương Đơng thời kỳ này. Trong q trình hình thành và
phát triển tư tưởng chính trị Hy – La cổ đại trải qua ba thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất, thời kỳ phát sinh kinh nghiệm về nhà nước gắn liền
với việc hình thành thể chế nhà nước: chủ nơ dân chủ (chủ nơ cộng hịa), chủ
nơ đế chế (chủ nô quân chủ);
Thời kỳ thứ hai, thời kỳ phát triển cao và tổng kết sự phát triển của nhà
nước; Thời kỳ thứ ba, là thời kỳ khủng hoảng và suy vong của hệ thống quốc
gia thành thị, suy vong của chế độ dân chủ, cộng hòa.
- Thứ hai, tư tưởng chính trị Hy – La cổ đại chủ yếu phản ánh ý thức hệ
của giai cấp chủ nô thống trị. Trái lại với việc thiết lập nhà nước chiếm hữu
nơ lệ, những tư tưởng phản ánh lợi ích của giai cáp chủ nơ vẫn là những tư
tưởng chính thống.
- Thứ ba, tư tưởng chính trị thời cổ đại đề cập một cách khá toàn diện
đến những nội dung phong phú của phạm trù chính trị, từ quan niệm về chính
trị, bản chất chính trị, thể chế chính trị, con người chính trị với tư cách là giới
tinh hoa, thủ lĩnh chính trị, vai trị của chính trị đối với quản lý xã hội
Trên đây là hệ thống quan điểm về chính trị của những chính trị gia nổi
tiếng Hy Lạp cổ đại: Hêrôđôt, Xênôphôn, Platôn, Arixtôt. Bên cạnh điểm tích
cực, quan điểm của các ơng cịn tồn tại những hạn chế riêng. Những hạn chế
ấy có thể do thời đại tác động cũng có thể do tư tưởng chủ quan của mỗi
người. Điều quan trọng là họ đã có những đóng góp đáng ghi nhận, đã xây
dựng viên gạch đầu têin cho nền chính trị học khơng chỉ của Hy Lạp mà còn
của cả thế giới.
11


Chương 2
VẬN DỤNG GIÁ TRỊ VÀ TƯ TƯỜNG CHÍNH TRỊ HY LẠP - LA MÃ
CỔ ĐẠI TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI

CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Quá trình nhận thức và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng phát triển
dân chủ đã hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các
nhà tư tưởng của Hy Lạp – La Mã thời cổ đại như Xôcrat (469-399 Tr.CN),
Arixtốt (384-322 Tr.CN), Xixêrôn (l06-43 Tr.CN).
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề Nhà nước và pháp luật giữ
một vị trí đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng,
củng cố một nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền có thể khái
quát trên các quan điểm sau:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân:
Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao
nhất là dân vì dân là chủ” [1]; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là
chủ” [2]. Với Hồ Chí Minh, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của
quyền lực nhà nước. Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân,
do nhân dân uỷ quyền cho bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phụng sự lợi ích
của nhân dân. Bộ máy nhà nước được thiết lập là bộ máy thừa hành ý chí,
nguyện vọng của nhân dân, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước không thể là
các ông quan cách mạng mà là công bộc của nhân dân. “Chúng ta hiểu rằng,
các cơ quan của Chính phủ từ tồn quốc cho đến các làng, đều là công bộc
của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân
như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”[3].
12


Là nhà nước của dân, do chính nhân dân lập qua thông qua chế độ bầu
cử dân chủ. Bầu cử dân chủ là phương thức thành lập bộ máy nhà nước đã

được xác lập trong nền chính trị hiện đại, đảm bảo tính chính đáng của chính
quyền khi tiếp nhận sự uỷ quyền quyền lực từ nhân dân. Chính vì vậy, để thật
sự là nhà nước của dân, ngay từ những ngày đầu giành được nền độc lập, Hồ
Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến tổ chức cuộc tổng tuyển cử để nhân dân
trực tiếp bầu ra các đại biểu xứng đáng thay mặt mình gánh vác việc nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước vì dân, tất cả vì hạnh phúc của
nhân dân là tư tưởng nhất quán trong suốt cuộc đời của Người. Cả cuộc đời
Người là một tấm gương trong sáng thể hiện sinh động tư tưởng, đạo đức của
một con người suốt đời vì dân, vì nước. Khi đảm nhận chức vụ Chủ tịch nước,
Hồ Chủ Tịch đã trả lời các nhà báo “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công
danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh vác chức chủ tịch là vì đồng bào
uỷ thác thì tơi phải gắng làm, cũng như một người lính vâng lệnh quốc dân ra
trước mặt trận”.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về mơ hình tổ chức bộ máy nhà nước:
Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành cơng, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hồ ra đời, mở đầu một chính thể nhà nước mới ở Việt Nam: chính
thể dân chủ cộng hồ. Sự ra đời của chính thể dân chủ cộng hồ thể hiện một
tư duy sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn mơ hình tổ
chức nhà nước, vừa tiếp thu được các giá trị phổ biến của nền dân chủ nhân
loại, vừa phù hợp với các đặc điểm của đất nước.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mơ hình bộ máy nhà nước của dân, do dân,
vì dân được thể hiện sâu sắc trong các văn kiện pháp lý quan trọng của đất
nước do chính Người chỉ đạo xây dựng và ban hành. Có thể thấy rằng hai bản
Hiến pháp 1946, 1959 do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo
và 613 sắc lệnh kể từ 1945 đến 1969, trong đó có 243 sắc lệnh liên quan đến
bộ máy nhà nước và luật pháp do Người ký ban hành đã hình thành một thể
chế bộ máy nhà nước vừa hiện đại vừa dân tộc kết tinh sâu sắc tư tưởng Hồ
Chí Minh về một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
13



Tuy không tiếp nhận tư tưởng phân quyền vốn là nền tảng lý luận của
mơ hình nhà nước dân chủ phương Tây, nhưng Hồ Chí Minh đã đưa vào mơ
hình tổ chức bộ máy nhà nước những yếu tố hợp lý và khoa học của nguyên
tắc phân quyền. Theo đó, bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 được thiết
kế trên cơ sở phân chia quyền lực uyển chuyển giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Trong mơ hình tổ chức bộ máy nhà nước này, khơng có một cơ quan nào là
độc quyền quyền lực, có quyền đứng trên cơ quan khác. Nghị viện nhân dân
là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hồ (Điều 22 Hiến pháp 1946), nhưng khơng thể là cơ quan tồn quyền; Chính phủ Việt
Nam dân chủ cộng hồ là cơ quan hành chính cao nhất của tồn quốc (Điều
43 - Hiến pháp 1946) nhưng khơng phải là cơ quan chấp hành của Quốc hội
như các quy định của Hiến pháp 1992. Cơ quan tư pháp là hệ thống toà án
được tổ chức theo cấp xét xử. Với quy định của Hiến pháp 1946 bộ máy nhà
nước về cơ bản được cấu tạo theo ba quyền: quyền lập pháp (Nghị viện nhân
dân); quyền hành pháp (Chủ tịch nước và Chính phủ); quyền tư pháp (Hệ
thống tồ án được tổ chức theo cấp xét xử).
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước được tổ chức và hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật:
Tiếp xúc với nền văn minh Âu - Mỹ, nhất là kinh nghiệm tổ chức, hoạt
động của nhà nước trong quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội, Hồ Chí
Minh cho rằng, quản lý xã hội bằng pháp luật là dân chủ, tiến bộ và có tính
chất phổ biến đối với các xã hội hiện đại.
Nhận thức được tầm quan trọng của luật pháp, từ rất sớm, Hồ Chí Minh
đã đề cập đến vai trò của chúng trong điều hành và quản lý xã hội. Năm 1919,
tám yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc- xây đã có 4 điểm liên
quan đến vấn đề pháp quyền, cịn lại liên quan đến cơng lý và quyền con người.
Bản Yêu sách của nhân dân An Nam được Hồ Chí Minh chuyển thành
“Việt Nam u cầu ca”, trong đó yêu cầu thứ bảy là: “Bảy xin hiến pháp ban
14



hành, Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Đây là tư tưởng rất đặc sắc
của Hồ Chí Minh, phản ánh nội dung cốt lõi của Nhà nước dân chủ mới - Nhà
nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Đồng thời, đây cũng là nguyên tắc xuyên
suốt trong hoạt động quản lý nhà nước của Người.
Sau Cách mạng Tháng Tám, năm 1945, Hồ Chí Minh đề ra một trong
sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hồ là: Chúng
ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Ngày 20/9/1945, Chủ tịch lâm thời nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà ký Sắc lệnh thành lập Ban dự thảo Hiến pháp
gồm 7 thành viên do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm trưởng ban. Bản dự thảo
Hiến pháp hoàn thành khẩn trương và nghiêm túc dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của Hồ Chủ tịch. Tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội khoá I vào tháng 10/1946,
Quốc hội đã thảo luận dân chủ và thông qua bản dự thảo Hiến pháp này. Đó là
bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam: Hiến pháp năm 1946. Trong
phiên họp Quốc hội thơng qua hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát biểu:
“… Hiến pháp đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc Việt
Nam và một tinh thần liêm khiết, cơng bình của các giai cấp”. Và nhấn mạnh
rằng: “Chính phủ cố gắng làm theo đúng 3 chính sách: dân sinh, dân quyền và
dân tộc”.
Sau năm 1954, khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhiều quy định trong Hiến
pháp năm 1946 khơng cịn phù hợp, Hồ Chí Minh đã chủ trương sửa đổi và
ban hành Hiến pháp mới - Hiến pháp năm 1959. Trong tư duy Hồ Chí Minh,
một khi điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì pháp luật, nhất là đạo luật “gốc”
- Hiến pháp, cũng phải thay đổi để bảo đảm khả năng điều chỉnh hợp lý các
quan hệ xã hội đã phát sinh và định hình.
Nét đặc sắc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về tổ chức nhà nước là các
cơ quan nhà nước hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của
pháp luật nhưng trong điều kiện của một nước thuộc địa nửa phong kiến ở

phương Đơng, Hồ Chí Minh sử dụng linh hoạt pháp trị và đức trị trong tổ
chức hoạt động của Nhà nước và quản lý nhà nước.
15


2.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
Sau Cách mạng Tháng 8/1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hồ
ra đời. Đó là một nhà nước kiểu mới, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông
Nam Á. “Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã
đánh tan xiềng xích thực dân gần một trăm năm, đã đưa chính quyền lại cho
nhân dân, đã xây dựng nền tảng cho nước Việt Nam dân chủ cộng hoà độc
lập, tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử
nước nhà…”.
Đảng ta khẳng định, nhiệm vụ lịch sử của Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà là “bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiến quốc gia
trên nền tảng dân chủ”. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các
quan điểm của Đảng về Nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước đã được thể chế
hoá trong bản Hiến pháp đầu tiên - Hiến pháp 1946. Với Hiến pháp 1946,
Đảng ta chủ trương thực hiện “chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân
dân” nhằm đồn kết tồn dân, khơng phân biệt giống nịi, gái trai, giai cấp,
tơn giáo, đảm bảo các quyền tự do dân chủ. Hiến pháp 1959 đã thể chế hoá
quan điểm Đảng ta về “sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân, làm nhiệm vụ
lịch sử của chun chính vơ sản”[4].
Đại hội lần thứ IV của Đảng (1976) đã xác định: Nhà nước XHCN là
Nhà nước chun chính vơ sản, một tổ chức thực hiện quyền làm chủ tập thể
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, một tổ chức thơng qua đó Đảng
thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với tiến trình phát triển xã hội…
Quan điểm của Đảng về Nhà nước chun chính vơ sản đã được thể
chế hố trong Hiến pháp 1980 “Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là nhà

nước chun chính vơ sản. Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước đó là thực hiện
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, động viên và tổ chức nhân dân
tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách
mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hố, trong đó cách mạng
16


khoa học kỹ thuật là then chốt, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, đập tan
mọi sự chống đối của bọn phản cách mạng trong nước, mọi hành động xâm
lược và phá hoại của kẻ thù bên ngoài, xây dựng thành cơng XHCN, tiến tới
chủ nghĩa cộng sản; góp phần củng cố hồ bình và đẩy mạnh sự nghiệp cách
mạng của nhân dân thế giới” (Điều 2 - Hiến pháp 1980).
Phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về chun chính vơ sản
trong thời kỳ q độ lên chủ CNXH, Đảng ta xác định “quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động mà nòng cốt là liên minh công nông, thực hiện bằng
nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp cơng nhân, đó là
chun chính vơ sản. Nhà nước ta, vì vậy, là nhà nước chun chính vơ sản”.
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối đổi mới
đã đặt ra những cơ sở quan trọng cho việc đổi mới tư duy, quan điểm về xây
dựng nhà nước trong các điều kiện tiến hành cải cách kinh tế.
Đảng ta khẳng định “Nhà nước ta là công cụ của chế độ làm chủ tập thể
XHCN, do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tổ chức thành cơ quan
quyền lực chính trị. Trong thời kỳ q độ, đó là Nhà nước chun chính vơ
sản thực hiện chế độ dân chủ XHCN…”[4].
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội VI
của Đảng đã chỉ ra nhiều yếu kém, bất cập của bộ máy nhà nước và cho rằng:
“… cơ chế tập trung quan liêu bao cấp là nguyên nhân trực tiếp làm cho bộ
máy nặng nề, nhiều tầng, nhiều nấc. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức và
chức năng, tiêu chuẩn cán bộ chưa được xác định rõ ràng”[5]. Xoá bỏ cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp là cơ sở để đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy

nhà nước. Đồng thời, cải cách bộ máy nhà nước sẽ thúc đẩy việc xoá bỏ cơ
chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp, tạo ra cơ chế quản lý mới phù hợp
với các yêu cầu, đòi hỏi của cải cách kinh tế. Để thực hiện mục tiêu này,
Đảng ta chủ trương “… Để thiết lập cơ chế quản lý mới, cần thực hiện một
cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước theo phương
hướng: Xây dựng và thực hiện một cơ chế quản lý nhà nước thể hiện quyền
17


làm chủ tập thể của nhân dân lao động ở tất cả các cấp. Tăng cường bộ máy
nhà nước từ trung ương đến địa phương và cơ sở thành một hệ thống thống
nhất, có sự phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm từng cấp
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phân biệt rõ chức năng quản lý - hành
chính - kinh tế với quản lý sản xuất - kinh doanh, kết hợp quản lý theo ngành
với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ phù hợp với đặc điểm tình hình
kinh tế, xã hội…”.
Đại hội lần thứ VII của Đảng xác định thực hiện dân chủ XHCN là
thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục
tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Như vậy, việc đổi mới và kiện
tồn hệ thống chính trị được Đảng ta đặt ra như một tất yếu để thực hiện và
phát huy dân chủ XHCN. Để đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị, Đảng chủ
trương tiếp tục đẩy mạnh cải cách bộ máy nhà nước theo hướng: Nhà nước
thực sự là của dân, do dân, vì dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,
dưới sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, thực hiện thống nhất quyền lực nhưng phân công, phân cấp rành
mạch; bộ máy tinh giản, gọn nhẹ và hoạt động có chất lượng cao trên cơ sở
ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật, quản lý…”.
Những quan điểm chủ yếu của Đảng về xây dựng, cải cách bộ máy nhà
nước được xác định tại Đại hội VI, VII tiếp tục được Đảng ta phát triển trong
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” là

“tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân
dân. Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ
chức quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, sửa đổi hệ thống tổ
chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện tồn các cơ quan luật pháp
để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý nhà nước.
Quan điểm của Đảng về Nhà nước trong Cương lĩnh 1991 đã nhấn
mạnh đến những vấn đề có tính nền tảng đối với tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước trong một chế độ dân chủ – pháp quyền: có đủ quyền lực và đủ
18



×