Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Văn Hóa - Giá Trị Lý Luận Và Thực Tiễn Trong Xây Dựng Nền Văn Hóa Việt Nam Tiên Tiến, Đậm Đà Bản Sắc Dân Tộc.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.35 KB, 33 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài :
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HĨA - GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN TRONG XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TIÊN
TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................3
Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HĨA...........................3
1.1. Những quan điểm chung của Hồ Chí Minh về văn hố.....................3
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực của văn hoá..................12
Chương 2. GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA TRONG XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA VIỆT
NAM TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC..................................24
2.1. Giá trị lý luận...................................................................................24
2.2. Giá trị thực tiễn Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa trong xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc........................25
2.3. Sự vận dụng của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong xây dựng, phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc...............27
KẾT LUẬN....................................................................................................30
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................31


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh – Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt
xuất, người là hiện thân sinh động của cách mạng Việt Nam và cũng là biểu
tượng của văn hóa Việt Nam. Văn hóa Hồ Chí Minh là sự chắt lọc truyền


thống hàng ngàn năm của dân tộc, tích hợp giá trị của mọi nền văn hóa Đơng
– Tây, kim cổ.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, văn hố có ý nghĩa sâu xa, đặc biệt quan
trọng trong chiến lược phát triển của đất nước. Nó khơng chỉ là mục tiêu phấn
đấu vươn tới những giá trị cao đẹp cho cuộc sống, mà cịn có vai trị nền tảng
và sức mạnh động lực hết sức to lớn trong phát triển các bình diện đời sống
kinh tế - xã hội. Văn hoá là sức sống của sự phát triển kinh tế - xã hội, là động
lực thúc đẩy mọi hoạt động sống của con người.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta xác định lấy: “Xây dựng kinh tế là
trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng văn hóa là nền tảng tinh
thần xã hội”. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, về “xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước”, Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố vẫn luôn là một điểm tựa tinh thần
vững chắc. Đồng thời, với sức sống mãnh liệt, tự nó, tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hố đã và đang trở thành một bộ phận của nền văn hoá Việt Nam.
Do vây, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa có vai trị
rất quan trọng. Và đây cũng chính là việc quay trở lại với tư tưởng Hồ Chí
Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Chính vì vậy, em đã chọn chù đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn
hóa - Giá trị lý luận và thực tiễn trong xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”
để làm đề tài tiểu luận cho môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh của
mình.
1


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về
văn hóa để tìm ra giá trị lý luận và thực tiễn áp dụng vào q trình xây dựng

nền văn hố Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những những vấn đề chung về văn hóa theo tư tưởng Hồ Chí
Minh
- Tìm ra những giá trị về mặt lý luận và thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa và thực tiễn áp dụng ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài sử dung phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin
về văn hóa, hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối của Đảng và Nhà
nước Việt Nam về văn hóa.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp phân tích và chứng minh; Phương pháp
lơgic-lịch sử, Phương pháp tổng hợp; Phương pháp lịch sử cụ thể v.v..
5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài được trình bày
thành 2 chương và 5 tiết
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa

2


Chương 2: Giá trị lý luận và thực tiễn và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa vào xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.

NỘI DUNG
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA
1.1. Những quan điểm chung của Hồ Chí Minh về văn hố
1.1.1. Khái niệm "
văn hố"
.
Trong mục đọc sách ở phần cuối tập Nhật ký trong tù (1942 - 1943) lần
đầu tiên Hồ Chí Minh có nêu một định nghĩa về văn hố: "Vì lẽ sinh tồn cũng
như vì mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hố. Văn hoá là sự
tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi
người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của
sự sinh tồn1.
Người còn ghi thêm: "Năm điểm lớn xây dựng nền văn hoá dân tộc
Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường
Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân
trong xã hội
Xây dựng chính trị: dân quyền
Xây dựng kinh tế"2
Như vậy văn hoá đã được hiểu theo nghĩa rộng nhất. Đó là tồn bộ
những giá trị vật chất và những giá trị tinh thần mà loài người đã sáng tạo ra,
nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời cũng là mục đích của cuộc sống lồi
1
2

Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H.2002, tập 3, tr 431

SDD tr.431

3


người. Và muốn xây dựng nền văn hoá dân tộc, thì phải xây dựng tất cả các
mặt kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý con người.
1.1.2. Quan điểm về vị trí vai trị của văn hố
Trước hết Hồ Chí Minh cho rằng văn hố là động lực, là mục tiêu của
sự nghiệp cách mạng. Theo Người, văn hố nói chung, chủ nghĩa Mác - Lênin
nói riêng đóng vai trò quan trọng tạo bước nhảy vọt trong tư duy, hành động
của con người và của các dân tộc bị áp bức, bị tha hoá đến vương quốc của
con người phát triển tự do, toàn diện. Ngay từ năm 1921, Người đã nói đến
"luồng gió mới từ nước Nga thợ thuyền... đang thổi đến giải độc cho người
Đông Dương"; rằng "Nếu những người xã hội chủ nghĩa lơ là việc giáo dục,
thì giai cấp tư sản thực dân và bản xứ... cứ phụ trách việc giáo dục bằng
phương pháp của chúng... Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất
rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công
cuộc giải phóng nữa thơi". Hồ Chí Minh từng nói đến "văn hoá soi đường cho
quốc dân đi"; "Phải đem văn hoá lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự
cường, tự chủ". Phải "Xúc tiến văn hoá để tạo con người mới và cán bộ mới
cho cuộc kháng chiến kiến quốc".
Văn hố có tác dụng sửa đổi tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ,
sửa xã hội cũ xây xã hội mới. Văn hoá tạo sức mạnh vật chất, tinh thần
thắng ngoại xâm theo tinh thần "Văn minh thắng tàn bạo". Kinh tế nâng cao
đời sống vật chất, văn hố có tác dụng nâng cao đời sống tinh thần của nhân
dân. Văn hoá như một động lực thúc đẩy các dân tộc đồn kết và hiểu biết
lẫn nhau.
Văn hố cịn được Hồ Chí Minh xác định là đời sống tinh thần của xã
hội, là thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội. Văn hoá được đặt ngang

hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành bốn vấn đề chủ yếu của đời sống
xã hội. Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến,
cũng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. Nhưng văn
hoá là một bộ phận kiến trúc thượng tầng.
4


Theo Hồ Chí Minh, bốn vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau, cùng tác
động lẫn nhau.
- Chính trị xã hội có được giải phóng thì văn hố mới được giải phóng.
Chính trị giải phóng mở đường cho văn hố phát triển.
Khi đất nước cịn bị nơ lệ thì văn hố cũng chung số phận nơ lệ, tuyệt
đại bộ phận nhân dân bị đoạ đầy trong cảnh tối tăm, dốt nát. Vì vậy, Hồ Chí
Minh đã vạch ra một đường lối mới: phải tiến hành cuộc cách mạng chính trị
trước mà cụ thể là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc để giành lấy chính
quyền, nhân dân làm chủ đất nước, để giải phóng chính trị, giải phóng xã hội,
từ đó giải phóng văn hố, mở đường cho văn hố phát triển. Người chỉ ra
rằng, "Xưa kia chính trị bị đàn áp, nền văn hố của ta vì thế khơng thể nảy
sinh được","dân tộc bị nơ lệ thì văn nghệ cũng mất tự do".
- Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn
hoá.
Kinh tế là thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn
hoá, xây dựng kiến trúc thượng tầng. Do đó, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải xây
dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển
văn hố. Văn hoá là một bộ phận kiến trúc thượng tầng, nhưng cơ sở hạ tầng
của xã hội có kiến thiết rồi, văn hố mới kiến thiết được và có đủ điều kiện
phát triển được: "Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và
văn hố. Vì sao khơng nói phát triển văn hố và kinh tế ? Tục ngữ ta có câu:
Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước"[8].
- Văn hố khơng thể đứng ngồi, mà phải ở trong kinh tế và chính trị,

phục vụ cho nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy cho kinh tế phát triển.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Văn hoá, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động
khác, khơng thể đứng ngồi, mà phải ở trong kinh tế và chính trị" [9]. Điều này
cũng có nghĩa là văn hố có quan hệ chặt chẽ với kinh tế và chính trị, văn hố
phải phục vụ cho nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế,
tác động trở lại với kinh tế và chính trị như một động lực hết sức quan trọng,
5


Người nói: "Trình độ văn hố của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy
mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ... cần thiết để xây dựng
nước ta thành một nước hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh"[10]. Như vậy, cũng phải thấy rằng văn hố đứng ở trong kinh tế và
chính trị cũng có nghĩa là kinh tế và chính trị phải có tính văn hố.
1.1.3. Quan điểm về chức năng của văn hố
Văn hố trong tư tưởng Hồ Chí Minh có thể quy tụ ở ba chức năng chủ
yếu sau:
Chức năng thứ nhất là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao
đẹp cho nhân dân. Tư tưởng và tình cảm là những vấn đề chủ yếu của đời
sống tinh thần con người. Tư tưởng có thể đúng đắn hoặc sai lầm, tình cảm
cũng có thể cao đẹp hoặc thấp hèn. Theo Hồ Chí Minh, văn hố có chức năng
là bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và những tình cảm cao đẹp cho nhân dân.
Chức năng này phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, vì tư tưởng và
tình cảm con người luôn luôn biến đổi theo hoạt động thực tiễn của xã hội.
Việc bồi dưỡng ấy phải đặc biệt quan tâm đến những tư tưởng và tình cảm có
ý nghĩa chi phối đến đời sống tinh thần của mỗi con người và của cả dân tộc.
Tư tưởng đúng theo Hồ Chí Minh, đó là lý tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Người
chỉ ra rằng: "Nước độc lập, dân phải được tự do, hạnh phúc", để nền độc lập
đó là nền độc lập thực sự, độc lập bền vững để sự nghiệp giải phóng dân tộc,

giải phóng xã hội, giải phóng con người được thực hiện một cách trọn vẹn. Lý
tưởng đó là điểm hội tụ những tư tưởng lớn của cả một dân tộc. Nếu ai xa rời
lý tưởng đó đều có thể dẫn tới sai lầm.
Hồ Chí Minh cịn chỉ ra, phải làm thế nào để cho "văn hoá đi sâu vào
tâm lý quốc dân" để xây dựng những tình cảm cao đẹp cho nhân dân như lịng
u nước, tình thương u con người, yêu sự chân thành, thuỷ chung; căm
ghét, lên án, phê phán những cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, những xa đoạ biến
chất trong đời sống tinh thần của xã hội.
6


Vì vậy, trong q trình xây dựng nền văn hố cách mạng ở nước ta, Hồ
Chí Minh và Đảng thường xuyên quan tâm đến bồi dưỡng lý tưởng và tình
cảm cho các tầng lớp nhân dân, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên và đặt chức
năng cao quý đó cho văn hố.
Chức năng thứ hai là, nâng cao trình độ dân trí. Lênin đã từng chỉ ra
rằng: "Người mù chữ là người đứng ngồi chính trị". Thấm nhuần tư tưởng
của Lênin và từ thực tiễn nước ta, Hồ Chí Minh nói: "Một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu", "Dốt thì dại, dại thì hèn" [11] và trong bài "Chống nạn thất học"
(4.10.1945), Người viết: "Số người Việt Nam thất học so với số người trong
nước là 95%, nghĩa là hầu hết người Việt Nam mù chữ". Như thế thì làm sao
tiến bộ được.
Nay chúng ta đã giành được độc lập. Một trong những công việc phải
thực hiện cấp tốc trong lúc này, là nâng cao dân trí.
"Muốn giữ vững nền độc lập,
Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,
Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình... phải có kiến
thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết
phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ"[12]. Do đó, theo Hồ Chí Minh nói tới văn
hố là nói đến vấn đề dân trí. Dân trí ở đây khơng chỉ hạn hẹp ở biết đọc, biết

chữ, mà Người còn chỉ ra rằng, đó là trình độ hiểu biết, trình độ kiến thức của
người dân, của mỗi cơng dân. Từ trình độ biết chữ đến chỗ hiểu biết và tiếp
thu kiến thức trên các lĩnh vực cần thiết cho hoạt động của mỗi người nhằm
thực hiện được nhiệm vụ của mình, của cách mạng. Những hiểu biết đó bao
gồm lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, chun mơn kỹ thuật, khoa
học kỹ thuật - cơng nghệ, lịch sử, tình hình trong nước, quốc tế... Theo Hồ
Chí Minh, việc nâng cao trình độ dân trí chỉ có thể thực hiện được khi chúng
ta hồn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giành được chính quyền về
tay nhân dân.

7


Chức năng thứ ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những
phong cách lành mạnh, luôn hướng con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái
mỹ để không ngừng hồn thiện bản thân mình.
Con người khơng chỉ sống trong mơi trường tự nhiên, mà cịn sống
trong mơi trường xã hội, mơi trường văn hố. Con người phải tiếp nhận mơi
trường đó mới tồn tại và phát triển được. Mặt khác các giá trị văn hoá tác
động đến con người những định hướng giá trị và xác định những chuẩn mực
trong đời sống xã hội. Với cá nhân giá trị văn hố là thành tố cốt lõi để hình
thành nên nhân cách con người.
Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề ra những
phẩm chất và phong cách cần thiết để mỗi người tu dưỡng, rèn luyện, trước
hết là đối với cán bộ, đảng viên. Đó là những phẩm chất đạo đức, phẩm chất
chính trị, những phong cách trong lao động, sinh hoạt và trong mọi quan hệ
xã hội.
Phẩm chất và phong cách được hình thành trong đạo đức, nếp sống, lối
sống của con người và xã hội, trong thói quen của cá nhân và trong phong tục,
tập quán của cả cộng đồng dân tộc. Văn hoá giúp con người phân biệt được

cái tốt đẹp lành mạnh với cái xấu xa, hư hỏng; cái tiến bộ thúc đẩy sự phát
triển xã hội, cái lạc hậu cản trở con người, cản trở dân tộc tiến lên phía trước.
Từ đó con người phấn đấu làm cho cái đẹp, cái lành mạnh ngày càng tăng, cái
tiến bộ, cái mới ngày càng phát triển, làm cho cái lạc hậu ngày càng bớt đi,
cái xấu xa, hư hỏng ngày càng bị loại khỏi đời sống con người và xã hội.
Với đặc trưng khơng giống với kinh tế và chính trị, văn hoá hướng con
người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, từ cái hiện có vươn tới cái lý
tưởng, từ cái chưa hoàn thiện vươn tới cái hoàn thiện ln ln ở phía trước,
đặc biệt là việc hồn thiện bản thân mỗi người.
1.1.4. Quan điểm về tính chất của nền văn hoá
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hồ ra đời, việc xây dựng một
nền văn hố mới được Hồ Chí Minh và Đảng ta đặt ra như một trong những
8


nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Ngay sáng 3.9.1945, Người đã đặt ra
hàng loạt các vấn đề về văn hoá cần giải quyết, như diệt "giặc dốt", giáo dục
nhân dân tinh thần cần, kiệm, liêm, chính, cấm hút thuốc phiện... Cũng trong
những ngày đầu tháng 9.1945, Người đã cho thành lập Uỷ ban văn hoá lâm
thời Bắc Bộ và chỉ rõ nhiệm vụ cho Uỷ ban là: gây dựng cho đất nước một
nền văn hoá mới.
Nền văn hoá trong thời kỳ đó là nền văn hố dân chủ mới, đồng thời là
một nền văn hoá kháng chiến. Khi miền Bắc được hồn tồn giải phóng bước
vào thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội, thì nền văn hố được xây dựng là
nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, tính chất của nền văn hố cũng được
điều chỉnh cho phù hợp.
Nền văn hoá trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đã
được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định có ba tính chất: dân tộc,
khoa học và đại chúng. Điều này thể hiện khá sớm trong Đề cương văn hoá
Việt Nam của Đảng năm 1943, đó là: Để tiến tới một nền văn hố xã hội chủ

nghĩa, cuộc giải phóng dân tộc sẽ cơ cấu lại nền văn hoá truyền thống theo ba
nguyên tắc lớn "dân tộc hoá, đại chúng hoá, khoa học hoá".
Khi đặt vấn đề xây dựng nền văn hố mới của nước Việt Nam độc lập,
Hồ Chí Minh nói: "Cái nền văn hố mới này cần phải có tính khoa học, tính
đại chúng, thì mới thuận với trào lưu tiến hoá của tư tưởng hiện đại. Nay nước
ta có được độc lập, tinh thần được giải phóng, cần phải có một nền văn hố
hợp với khoa học và hợp với cả nguyện vọng của nhân dân"[13]. Tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Xây dựng một
nền văn hố Việt Nam có tính dân tộc, khoa học và đại chúng"[14].
Theo Hồ Chí Minh, ba tính chất đó có quan hệ chặt chẽ với nhau. Đó là
một nền văn hố phải làm cho mỗi người dân Việt Nam hiểu biết được cội
nguồn lịch sử hình thành phát triển dân tộc; biết giữ gìn, phát huy những giá
trị truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc trong dựng nước và giữ nước.
Nền văn hoá mới phải phản ánh được đời sống hiện thực của cuộc đấu tranh
9


giải phóng dân tộc theo đúng quy luật khách quan, đảm bảo tính chân thực;
tiếp thu văn hố nhân loại để làm phong phú thêm văn hoá dân tộc, đưa văn
hoá Việt Nam, ngày càng vươn tới đỉnh cao văn hoá nhân loại. Nền văn hoá
mới phải lấy việc phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân lao động làm mục
đích hoạt động nhằm góp phần nâng cao đời sống tinh thần vui tươi lành
mạnh cho nhân dân.
Tính chất của nền văn hoá mới trong giai đoạn miền Bắc bước vào xây
dựng chủ nghĩa xã hội đã được Hồ Chí Minh đề cập ở nhiều bài viết, bài
nói và ở nhiều hội nghị quan trọng, Hồ Chí Minh xác định "... để phục vụ sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì văn hố phải xã hội chủ nghĩa về nội
dung và dân tộc về hình thức"[15]. Như vậy, Người chỉ ra tính chất của nền văn
hố mà chúng ta xây dựng là có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất
dân tộc.

Nội dung xã hội chủ nghĩa có nghĩa là tiên tiến, khoa học, hiện đại.
Tính dân tộc khơng chỉ là ở hình thức thể hiện mà cịn biết kế thừa, phát huy
những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hoá của dân tộc cho phù hợp với
những điều kiện lịch sử của đất nước. Hơn thế nữa theo Hồ Chí Minh, chúng
ta cịn phải biết giới thiệu những giá trị văn hoá cao đẹp của dân tộc ra thế
giới để thế giới hiểu biết thêm về đất nước, con người Việt Nam.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng ta xác định xây dựng nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hai tính chất tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tiên tiến là khoa học,
hiện đại, là xã hội chủ nghĩa. Đậm đà bản sắc dân tộc là biết kế thừa, phát
huy, phát triển những giá trị tốt đẹp của văn hoá dân tộc trong điều kiện mới.
Đây chính là thực hiện quan điểm của Hồ Chí Minh về sự phát triển biện
chứng của văn hoá.
1.1.5. Quan điểm về thái độ với việc giữ gìn, bảo vệ và phát triển văn
hố truyền thống của dân tộc.

10


Đối với Hồ Chí Minh, dân tộc là cái trường tồn trong phát triển và văn
hoá là tinh hoa của dân tộc. Người ý thức rõ giá trị văn hoá dân tộc - văn hoá
tinh thần và văn hoá vật chất. Bắt đầu vào con đường hoạt động cách mạng,
Người đã rất chú ý tới vấn đề "càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin càng
phải coi trọng các giá trị truyền thống tốt đẹp của cha ơng". Hồ Chí Minh ca
ngợi truyền thống yêu nước, thương người, tinh thần độc lập, tự chủ, đoàn
kết, yêu đời, lạc quan đến việc ngợi ca các anh hùng và danh nhân Việt Nam.
Người giáo dục nhân dân ta rằng: "Dân ta phải biến sử ta, cho tường gốc tích
nước nhà Việt Nam", văn hoá là vốn quý của dân tộc, là niềm tự hào dân tộc.
Hồ Chí Minh ln ln quan tâm đến việc giữ gìn, bảo vệ và phát
triển những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc đã được xây dựng từ

ngàn đời bằng mồ hôi và xương máu của nhân dân, của cả dân tộc. Vì thế,
ngay từ ngày đầu trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà,
Người đã ký sắc lệnh về bảo tồn tất cả các di sản văn hố như đình chùa, đền
miếu, cung điện, thành quách, lăng mộ, bia ký, chiếu sắc, văn bằng... kể cả
những cái có tính cách tơn giáo nhưng có ích cho lịch sử. Hồ Chí Minh đánh
giá cao và tự hào về truyền thống văn hố dân tộc, Người nói rằng "nghệ
thuật của ơng cha ta hay lắm, tốt lắm", "tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu
đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, q trọng nó,
làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp"[16]. Người chú ý đến bản sắc
dân tộc của văn hố, nói chuyện với hoạ sĩ người Thuỵ Điển Êrích
Giơhanxơn, Người nhấn mạnh: mỗi dân tộc cần chăm lo đến đặc tính dân tộc
mình trong nghệ thuật. Người cũng căn dặn "chú ý phát huy cốt cách dân
tộc","lột tả cho hết cái tinh thần dân tộc".
Hồ Chí Minh rất chú ý đến "việc phát huy vốn cũ quý báu của dân tộc
(nhưng tránh phục cổ một cách máy móc) và học tập văn hoá tiên tiến của các
nước". Học tập vốn cũ của dân tộc với tinh thần cách mạng chân chính để
thâu thái những cái hay của các đời trước. Học tập văn hố tiên tiến của các
nước thì phải tránh nguy cơ trở thành kẻ bắt trước khơng cịn bản sắc, theo
11


Người mình có thể bắt trước cái hay của bất kỳ nước nào, nhưng điều cốt yếu
là sáng tác. Mình đã hưởng cái hay của người thì cũng phải có cái hay để cho
người ta hưởng. Mình đừng chịu vay mà không trả "phát triển cái hay cái đẹp
của dân tộc, tức là ta cùng đi tới chỗ nhân loại".
Giữ gìn, bảo vệ và phát triển văn hố dân tộc khơng phải là đóng cửa,
khép kín mà phải mở rộng giao lưu văn hoá với thế giới để văn hoá dân tộc
ngày càng phát triển. Vì vậy, dân tộc và quốc tế theo Hồ Chí Minh là thống
nhất và làm phong phú lẫn nhau. Sự tác động qua lại giữa các nền văn hoá của
các dân tộc là sự tác động tích cực trên cơ sở bình đẳng, tự chủ, giữ gìn và

phát huy được bản sắc dân tộc của mình.
Hồ Chí Minh - Người là hình ảnh của dân tộc Việt Nam trong tính
cách, tâm hồn, phong độ, lời ăn tiếng nói, Người tiêu biểu cho đạo lý làm
người Việt Nam, trí tuệ Việt Nam, tinh thần và sức mạnh Việt Nam, Người
hết sức nhạy cảm với tất cả những gì liên quan đến truyền thống, đến vận
mệnh của dân tộc.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực của văn hoá.
Văn hoá là một lĩnh vực rộng lớn, phong phú, nên ở đâu có con người,
có hoạt động của con người thì ở đó có văn hoá. Văn hoá thâm nhập vào mọi
lĩnh vực của đời sống con người, từ sản xuất vật chất đến đời sống tinh thần.
Từ sự am hiểu sâu sắc, toàn diện bản chất xã hội và đặc trưng của văn hoá,
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rõ ràng, sinh động đặc thù và sức mạnh của từng lĩnh
vực của văn hoá. ở đây tập trung làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về ba lĩnh vực
chính như sau:
1.2.1. Văn hố giáo dục.
Khi tìm thấy con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã bỏ ra nhiều cơng
sức phân tích sâu sắc nền giáo dục phong kiến và nhất là nền giáo dục thực
dân, đó là một nền giáo dục "ngu dân", "nhồi sọ". Mục đích của nền giáo
dục thực dân là đào tạo ra những người phục vụ cho chính quyền thực dân,
thông ngôn, viên chức... Người đặt vấn đề: "Nếu những người xã hội chủ
12


nghĩa lơ là việc giáo dục, thì giai cấp tư sản thực dân và bản xứ - bọn quan
lại - cứ phụ trách giáo dục bằng phương pháp của chúng" [17], từ đó Người đã
suy nghĩ về việc xây dựng một nền giáo dục mới của nước Việt Nam độc lập
sau này.
Do vậy, sau khi giành được chính quyền, việc xây dựng một nền giáo
dục mới được đặt ra như là một trong những nhiệm vụ chiến lược cơ bản lâu
dài, đồng thời là một nhiệm vụ cấp bách phải làm ngay, không thể để chậm

trễ, Người chỉ rõ: "Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân
dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc
dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt
Nam độc lập"3.
Để xây dựng nền văn hoá giáo dục của nước Việt Nam độc lập, Hồ Chí
Minh nêu ra nhiều quan điểm rất quan trọng, được tập trung ở những quan
điểm cơ bản sau:
Mục tiêu của văn hoá giáo dục là thực hiện cả ba chức năng của văn
hố, có nghĩa là bằng dạy và học.
Dạy và học là để mở mang dân trí, nâng cao kiến thức, bồi dưỡng tư
tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp, những phẩm chất trong sáng và phong
cách lành mạnh cho nhân dân.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: "trường học của chúng ta là trường học
của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo ra những cơng dân và
cán bộ tốt, những người chủ trương lai tốt của nước nhà" [19]. Như vậy, việc
học không phải để chạy theo bằng cấp, không phải học để làm quan của xã
hội cũ, mà theo Người: "học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để
phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân". Người đặt việc học để làm cán bộ sau
học để làm việc, làm người hàm chứa một ý nghĩa hết sức sâu sắc, bởi "chính
khách có thể ra đi, cơng việc vẫn cịn đó".

3

Sđd, tập 4, tr 8

13


Mục tiêu giáo dục còn được thể hiện trong quan điểm "trồng người"
của Hồ Chí Minh. Năm 1958 nói chuyện tại lớp học chính trị của giáo viên

cấp II, cấp III tồn miền Bắc, Người đã nhắc lại câu nói nổi tiếng của Quản
Trọng, như một cương lĩnh hành động cho tồn Đảng, tồn dân ta: "Vì lợi ích
mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người" [20].
Như vậy, Người đã đặt vấn đề "trồng người" cho chúng ta như một chân lý tất
yếu của cách mạng, khái niệm "trồng người" của Hồ Chí Minh với ý nghĩa
như khái niệm văn hoá là "trồng trọt" "vun trồng" cây cối.
Chương trình, nội dung giáo dục phải khoa học, hợp lý phù hợp với
những bước phát triển của cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh nội dung giáo dục phải tồn diện, bao gồm cả văn
hố, chính trị, khoa học - kỹ thuật, chun mơn nghiệp vụ. Nói chuyện với
thanh niên, Người nhắc nhở: Các cháu phải cố gắng học tập kỹ thuật, văn hố,
chính trị... Nếu khơng học văn hóa, khơng có trình độ văn hố thì không học
tập được kỹ thuật, không học tập được kỹ thuật thì khơng theo kịp được u
cầu phát triển của cách mạng; nhưng phải chú ý học chính trị, vì nếu chỉ học
văn hố, kỹ thuật mà khơng có chính trị thì như người nhắm mắt mà đi. Kiến
thức tồn diện đó là điều kiện để phát huy và nâng cao năng lực làm chủ cho
nhân dân.
Về xây dựng chương trình giáo dục, Hồ Chí Minh lưu ý rằng, nhà
trường không phải là nơi nhồi nhét quá thừa kiến thức vô bổ, nhưng lại không
quá thiếu những kiến thức cần thiết cho xây dựng kinh tế, quản lý xã hội và
hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa.
Phải ln gắn chương trình, nội dung giáo dục với thực tiễn. Phải từ
yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn mà bổ sung, phát triển, hồn thiện nội dung,
chương trình giáo dục.
Học đi đôi với hành; giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, với cuộc
đấu tranh xã hội; nhà trường gắn liền với xã hội; coi trọng tự học, tự đào tạo.

14



Đây thực sự là một cuộc cách mạng trong công nghệ " trồng người" của
Hồ Chí Minh, một đặc trưng rất cơ bản để phân biệt nền giáo dục mới với
nền giáo phong kiến, thực dân.
Việc giáo dục theo Hồ Chí Minh phải đặt trong mối quan hệ biện
chứng giữa học và hành, nói rộng ra là mối quan hệ biện chứng giữa lý luận
và thực tiễn.
Không chỉ gắn học với hành, lý luận với thực tiễn mà còn phải kết
hợp giáo dục với lao động sản xuất, với cuộc đấu tranh xã hội. Hồ Chí Minh
đã có những chỉ dẫn hết sức sâu sắc về vấn đề này, Người viết: "Một người
học xong đại học, có thể gọi là có trí thức. Song y khơng biết cày ruộng,
khơng biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác.
Nói tóm lại: cơng việc thực tế, y khơng biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức
một nửa. Trí thức của y là trí thức sách vở, chưa phải trí thức hồn tồn".
Nhà trường gắn với xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
cịn là sự phối hợp thống nhất ở cả ba khâu gia đình, nhà trường và xã hội,
Người chỉ rõ: " Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục
trong gia đình và ngồi xã hội thì kết quả cũng khơng hồn tồn".
Học tập là q trình hoạt động tiếp thu tri thức của mỗi cá nhân, là tiền
đề quan trọng để dẫn tới sự phát triển ở mỗi người. Q trình học tập đó bao
gồm: học tập ở trường lớp trong những giai đoạn nhất định và tự học trong cả
cuộc đời của mỗi người. Hồ Chí Minh cho rằng cịn sống thì cịn phải học tập.
Đây là biện pháp tốt nhất để nâng cao trình độ hiểu biết, đáp ứng với yêu cầu
của nhiệm vụ cách mạng: "Nếu khơng chịu khó học thì khơng tiến bộ được.
Khơng tiến bộ là thối bộ. Xã hội càng đi tới, cơng việc càng nhiều, máy móc
càng tinh xảo. Mình mà khơng chịu học thì lạc hậu, mà lạc hậu là bị đào thải,
tự mình đào thải mình". Để tự học đạt kết quả, Người cho rằng mỗi người
phải xác định được mục đích, động cơ học tập đúng đắn. Phải học với thái độ
nghiêm túc, khiêm tốn, thật thà, khơng dấu dốt, khơng được tự cho mình là đủ

15



rồi, biết hết rồi. Người nhắc nhở: Kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một
của học tập. Người còn cho rằng mỗi người trong tự học là phải biết cách học:
học ở thư viện, ở sách báo, học bạn bè, đồng nghiệp. Đồng thời thực hiện
phương châm: Học ở mọi lúc, mọi nơi... Người chỉ rõ: "Học ở đâu? Học ở
trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân là
một thiếu sót rất lớn".
Những quan đểm của Hồ Chí Minh về văn hoá giáo dục là một hệ
thống quan điểm rất phong phú và hoàn chỉnh. Những quan điểm ấy của
Người đã được thực hiện và đem lại những thành tựu và niềm tự hào cho nền
giáo dục mới Việt Nam trong những thập niên cách mạng và kháng chiến, thì
những thiếu sót, khuyết điểm của nền giáo dục nước ta hiện nay đòi hỏi chúng
ta phải nghiên cứu, quán triệt hơn nữa những quan điểm ấy, nhằm đưa cuộc
cải cách giáo dục tiếp tục tiến lên phía trước.
1.2.2. Văn hoá văn nghệ.
Văn nghệ là biểu hiện tập trung nhất của nền văn hoá, là đỉnh cao của
đời sống tinh thần, là hình ảnh của cốt cách, tâm hồn, đặc tính dân tộc. Văn
nghệ trở thành một nhu cầu khơng thể thiếu trong đời sống tinh thần của nhân
dân ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn nghệ là cả một kho tàng, ở tầm chiến
lược và ngày càng ngời sáng qua thực tiễn. Có thể tìm thấy ở đây những vấn
đề lý luận văn nghệ rất cơ bản theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
được diễn đạt rất dung dị và thiết thực. Dưới đây sẽ trình bày những quan
điểm chủ yếu nhất:
Trước hết, "Văn hoá văn nghệ là một mặt trận, nghệ sĩ là chiến sĩ".
Tư tưởng này trước khi phát biểu thành lời đã thể hiện trong truyện và
ký của Người từ những năm 20 của thế kỷ XX như: Con Rồng tre; Bản án
chế độ thực dân Pháp... Những tác phẩm ấy đã thể hiện tinh thần chiến đấu
không thoả hiệp, chống chủ nghĩa thực dân và phong kiến, thức tỉnh nhân dân

Việt Nam và các dân tộc thuộc địa đứng lên tự giải phóng, đồng thời xây
16


dựng niềm tin sắt đá vào lý tưởng và thắng lợi của cách mạng . Trong dòng tư
tưởng ấy, Đề cương văn hoá Việt Nam 1943 xác định: Mặt trận văn hố là
một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hố). Trong kháng chiến chống
Pháp, Hồ Chí Minh coi văn hố cũng như mặt trận chính trị, qn sự, Người
viết: "Như thế thì về mặt trận văn hố, chúng ta cũng sẽ thắng lợi như các mặt
trận khác trong cuộc trường kỳ kháng chiến ".
Theo Người, mặt trận văn nghệ không gươm súng nhưng thường là mặt
trận tiền tiêu, tác động to lớn, lâu dài "Văn chương có sức mạnh của nghìn
quân", " Văn chương làm đẹp cho nước", "Văn chương có đủ sức để sửa sang
việc đời". Văn nghệ cổ vũ tinh thần và lực lượng trong kháng chiến kiến
quốc. Văn nghệ khơng thể khơng vì một mục tiêu chính trị-xã hội nhất định.
Nó khơng thể đứng ở trên, ở ngoài mà" phải ở trong kinh tế và chính trị". Nó
phải đấu tranh cho cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ thì nó cũng phải chống lại cái
Giả, các ác, cái Xấu, ngòi bút trở thành " vũ khí sắc bén trong sự nghiệp phị
chính, trừ tà".
"Nhà văn - chiến sỹ", " Nghệ sĩ - chiến sĩ" là danh hiệu cao quý mà Hồ
Chí Minh tặng cho những người làm văn nghệ. Chiến sĩ nghệ thuật có
kiểu"xung phong" riêng của mình, nhưng theo Người, đã là chiến sĩ thì phải
biết "xung phong", dám "xung phong", đó là sứ mạng, là trách nhiệm khơng
thể thối thác của những người làm văn nghệ. Đại diện cho đời sống tinh
thần, lý tưởng của xã hội, chiến sĩ nghệ thuật phải biết trả lời những câu hỏi
bức bách, khó khăn nhất của đời sống xã hội bằng nghệ thuật một cách hấp
dẫn, say mê, thắp sáng những khát vọng cao đẹp của quần chúng nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, để biết "xung phong", làm tròn trách nhiệm văn
nghệ sĩ - chiến sĩ, thì văn nghệ sĩ phải học tập chính trị, trau dồi đạo đức, nghệ
thuật, nghiệp vụ, đi sâu vào quần chúng, đi sát sự thật, nhưng trước hết cần

phải có "lập trường vững , tư tưởng đúng.
Hai là, văn nghệ phải gắn với đời sống thực tiễn của nhân dân, phục
vụ nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.
17


Với Hồ Chí Minh, văn nghệ phải ln ln gắn với thực tiễn, phục vụ
nhân dân, vì nhân dân " là gốc của nước nhà", "công nông là người chủ của
cách mạng". Quần chúng là những người sáng tạo, văn nghệ "lấy hạnh phúc
của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở" thì nó phải phản ánh đời sống thực tiễn
của nhân dân, vì nhân dân, "khơng thể nói nghệ thuật vị nghệ thuật, mà cần
phải nói rõ văn nghệ phục vụ công nông binh", tức là phục vụ đa số nhân dân,
Người nói: "Về sáng tác, thì cần hiểu thấu, liên hệ và đi sâu vào đời sống của
nhân dân. Như thế mới bày tỏ được tinh thần anh dũng và kiên quyết của
quân và dân ta, đồng thời để giúp phát triển và nâng cao tinh thần ấy". Người
cũng không quên căn dặn, nhắc nhở các nhà văn, các nhà làm cơng tác nghệ
thuật rằng: "...chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng sáng tác của các nhà văn bằng
những nguồn nhựa sống, còn nếu nhà văn quên điều đó - nhân dân cũng sẽ
qn anh ta". Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: "Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái
chân lý này: dân rất tốt... bất kỳ việc gì cũng từ lợi ích của nhân dân mà làm...
Nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo. v.v. của chúng ta đều phải lấy
câu này làm khuôn phép: "Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong quần chúng".
Ba là, văn nghệ phải phản ánh cho hay, cho chân thật và hùng hồn,
phải hấp dẫn và bổ ích.
Hồ Chí Minh đã nói với văn nghệ sĩ: "Quần chúng mong muốn những
tác phẩm có nội dung chân thật và phong phú, có hình thức trong sáng và vui
tươi. Khi chưa xem thì muốn xem, xem rồi thì có bổ ích" và "Miêu tả cho hay,
cho chân thật và cho hùng hồn những người, những việc ấy, bằng văn, bằng
thơ, bằng vẽ và bằng các nghệ thuật khác.v.v.". "Để cổ vũ đồng bào ta và để
giáo dục con cháu ta"[32]. Theo Người, những tác phẩm đó phải phục vụ quần

chúng nhân dân đơng đảo, được họ yêu thích, đem lại chuyển biến tích cực
trong tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của họ.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh văn nghệ phải có ý nghĩa giáo dục, đồng thời
cũng nhấn mạnh phải hay, thật hay, nghĩa là văn nghệ phải có tính nghệ thuật
cao. Người nói: "...một tác phẩm văn chương không phải cứ dài mới hay. Khi
18



×