Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tieu Luan-Giá Trị Lý Luận Của Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Cách Mạng Giải Phóng Dân Tộc Và Sự Vận Dụng Vào Công Cuộc Đổi Mới Ở Nước Ta Hiện Nay.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.65 KB, 28 trang )

TIỂU LUẬN
MƠN : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài :
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHĨNG DÂN
TỘC - GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chương 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI
PHĨNG DÂN TỘC.........................................................................................3
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc trong tiến trình
cách mạng Việt Nam.................................................................................3
2.2. Nội dung Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc.6
Chương 2. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHĨNG DÂN TỘC TRONG
CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY...................................14
2.1. Ý nghĩa lý luận của Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc..........................................................................................14
2.2. Ý nghĩa thực tiễn của Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc..........................................................................................19
2.3 Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
và ý nghĩa hiện thực với công cuộc đổi mới đất nước hiện nay..............22
KẾT LUẬN....................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................26


MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh - bậc vĩ nhân của dân tộc Việt Nam, là người học
trò xuất sắc của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin. Người đã vận dụng và


phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện lịch sử, văn hoá và con
người Việt Nam, giải đáp những yêu cầu lý luận và thực tiễn, đưa cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
cách mạng giải phóng dân tộc là một trong những chuỗi luận về sự vận dụng và
phát triển sáng tạo đó.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc là một hệ thống
những quan điểm của Người về những vấn đề cơ bản của cách mạng giải
phóng dân tộc ở Việt Nam, từ xác định mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng
thuộc địa, con đường giải phóng dân tộc, lực lượng lãnh đạo cách mạng tới lực
lượng tiến hành, phương pháp, phương thức tiến hành cách mạng giải phóng
dân tộc ở Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc ở
Việt Nam là kết quả của q trình phân tích, luận giải sự thành công, thất bại
của các con đường cứu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ở Việt Nam; kết
quả của quá trình tiếp thu, vận dụng một cách sáng tạo lý luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam của Hồ Chí Minh.
Khai thác, học tập, nghiên cứu, hệ thống hoá tri thức và vận dụng di sản
tinh thần phong phú của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào cơng cuộc đổi mới đất
nước ta hiện nay là nhiệm vụ hàng đầu của những người làm công tác nghiên
cứu lý luận. Tiểu luận: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng
dân tộc - giá trị lý luận và thực tiễn đối với cách mạng ở Việt Nam hiện
nay” xin được đóng góp phần nào vào vấn đề nghiên cứu trên.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc và và những giá trị về lý luận cũng như thực tiễn đối với cách
mạng Việt Nam
1



2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc và giá trị lý luận, thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí
Minh về cách mạng giải phóng dân tộc đối với Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc trong tiến trình
cách mạng Việt Nam và giá trị lý luận, thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về
cách mạng giải phóng dân tộc đối với Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin về hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc những vấn đề cơ bản của cách mạng
vào điều kiện cụ thể của nước ta.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
Phương pháp phân tích; Phương pháp lơgíc; Phương pháp lịch sử;
Phương pháp liên ngành; Phương pháp tổng hợp; Phương pháp khảo cứu tài
liệu…
5. Kết cấu của đề tài
Bài tiểu luận ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo được trình bày thành 2 chương và 5 tiết.

2



Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHĨNG
DÂN TỘC
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc trong tiến
trình cách mạng Việt Nam
Ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến như Việt Nam, giải quyết mối
quan hệ giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp là một vấn đề lớn, đầy khó
khăn phức tạp. Với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, với sức sáng tạo tuyệt
vời, tinh tế, Hồ Chí Minh đã khéo chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam,
đưa ra một mẫu hình chuẩn mực trong việc xử lý mối quan hệ giữa nhiệm vụ
giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp trong tiến trình cách mạng vô sản.
Đến với Cách mạng tháng Mười, tiếp nhận ánh sáng Luận cương của
Lênin về vấn đề dân tộc thuộc địa, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã kết luận: Con
đường giải phóng mọi sự áp bức chỉ có thể là sự nghiệp cách mạng vô sản.
Đưa phong trào yêu nước giải phóng dân tộc của nhân dân ta vào quỹ
đạo của phong trào cách mạng vô sản thế giới, Hồ Chí Minh đã nhận thức sâu
sắc rằng: Con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội. Người cho rằng: con đường, chiến lược, sách lược
cách mạng mỗi nước là tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn
hố, xã hội ở nước đó quyết định. Nhiệm vụ cốt tử hàng đầu của các dân tộc
trên bán đảo Đông Dương là phải giành cho được độc lập, tự do từ tay thực
dân Pháp và bè lũ tay sai. Sự nghiệp giải phóng dân tộc ấy theo Hồ Chí Minh
là hồn tồn khơng 1ệ thuộc cách mạng ở chính quốc Pháp.
Trong Chánh cương, sách lược vắn tắt do mình khởi thảo và được Hội
nghị thành lập Đảng 3/2/1930 thơng qua, Hồ Chí Minh đã vạch những vấn đề
hết sức cơ bản về con đường, chiến lược, sách lược cho cách mạng Việt Nam.
Những nội dung cụ thể của chính cương sách lược đã thể hiện sự sáng tạo rất
lớn và rất tinh tế của Hồ Chí Minh trong việc xử lý mối quan hệ giữa chỉ đạo
của Quốc tế Cộng sản với điều kiện thực tiễn cụ thể ở Việt Nam. Chánh
3



cương do Hồ Chí Minh trình bày có đoạn: “a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp và bọn phong kiến. b) Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập. c)
Dựng ra chính phủ cơng nơng binh. d) Tổ chức ra qn đội cơng nơng”. Hồ
Chí Minh nhận định: ở Việt Nam bọn tư bản Pháp đã thâu tóm tồn bộ nền
kinh tế, nên “... tư bản bản xứ không có thế lực gì, ta khơng nên nới cho họ đi
về phe đế quốc được. Chỉ có bọn đại địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về
phe đế quốc chủ nghĩa”. Như vậy trong tư duy của Hồ Chí Minh để tập trung
phân hố, cơ lập kẻ thù, huy động lực lượng ở mức tối đa Người không xếp
nhiệm vụ chống giai cấp địa chủ, đưa lại ruộng đất cho nông dân ngang hàng
với nhiệm vụ chống đế quốc và bọn đại địa chủ tay sai. Người quan niệm:
đánh đổ sự thống trị của đế quốc thực dân Pháp và bè lũ tay sai, giải phóng
dân tộc tức là đã thực hiện một phần rất quan trọng cuộc đấu tranh giải phóng
giai cấp. Coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận không tách rời phong trào
cách mạng của thế giới, Người chỉ rõ: “... trong khi tuyên truyền khẩu hiệu
An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức
dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất và vô sản giai cấp Pháp”.
Nhằm khơi dậy và phát huy hết khả năng, tinh thần của nhân dân
trong mỗi quốc gia dân tộc, lần đầu tiên Hồ Chí Minh đã đề nghị giải quyết
vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của từng nước trên bán đảo Đông Dương.
Người cho rằng ở Đơng Dương vì cùng có kẻ thù chung nên khơng thể một
dân tộc này tự giải phóng riêng rẽ được. Nhưng sự liên hiệp các dân tộc
Đông Dương không nhất thiết buộc các dân tộc thành lập một quốc gia duy
nhất vì các dân tộc xưa nay vẫn có tinh thần dân tộc riêng của họ. Trong tình
hình mà kẻ thù đang tập trung xuyên tạc rằng: Đế quốc An Nam đang xâm
lược Lào và Cao Mên để ly gián chia rẽ 3 dân tộc anh em trên bán đảo Đơng
Dương thì nhận thức và sự chỉ đạo trên đây của Hồ Chí Minh 1à cực kỳ sáng
suốt và rất có hiệu quả. Sự phát triển nhanh chóng về lực lượng cách mạng
của 3 nước Việt - Lào - Cămpuchia diễn ra trong những năm sau đó đã làm

nổi bật thêm tư duy độc lập, đầy tính sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đề nghị của
4


Hồ Chí Minh tách vấn đề dân tộc trong khn khổ của từng quốc gia khơng
những có giá trị chỉ đạo thực tiễn to lớn lúc bấy giờ mà nó cịn là một cơ sở
hết sức quan trọng để hình thành phát triển chính sách dân tộc hết sức đúng
đắn của Đảng ta về sau.
Trong suốt 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược (1945 - 1954) những
nội dung cơ bản của Chánh cương sách lược vắn tắt và quyết nghị của Hội
nghị Trung ương gần thứ 8 (5/1941) đã được vận dụng một cách hết sức linh
hoạt trong việc xử lý mối quan hệ giữa kháng chiến với cuộc cách mạng điền
địa. Để bồi dưỡng sức dân và huy động đến mức cao nhất lực lượng mọi mặt
(kể cả trong giai cấp địa chủ phong kiến), Đảng, Chính phủ đứng đầu là Chủ
tịch Hồ Chí Minh thực hiện từng bước giảm tô, lấy ruộng đất của địa chủ gian
ác, việt gian chia cho dân cày. Phải đến gần cuối chiến tranh vấn đề cải cách
ruộng đất mới được Đảng ta đặt ra một cách trực tiếp với những bước đi rất
thận trọng.
Vào lúc đế quốc Mỹ trực tiếp đưa quân ồ ạt vào miền Nam, mở rộng
chiến tranh trên quy mô cả nước, một lần nữa dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Bác Hồ kính u tồn dân ta hướng về khẩu hiệu chiến lược: Tất cả để chiến
thắng giặc Mỹ xâm lược. Đầu năm 1966, tại lớp Hội nghị cán bộ cao cấp của
Đảng, Nhà nước và quân đội Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nhiệm vụ:
“Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược... chúng ta phải quyết tâm chiến đấu đến cùng giành độc lập dân tộc và
thống nhất nước nhà...”
Như vậy, tư tưởng xuyên suốt của Hồ Chí Minh là: Khi đất nước còn
nằm dưới sự áp bức của đế quốc và bè lũ tay sai thì sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc ln là một mục tiêu thiêng liêng được đặt lên hàng đầu. Mọi
vấn đề như giương cao ngọn cờ lý tưởng, bồi dưỡng sức dân, phân hố cơ lập

kẻ thù, tập hợp lực lương cách mạng... trong phạm vi quốc gia và quốc tế trước
hết tập trung hướng vào thực hiện nhiệm vụ cao cả đó. Người cho rằng: đưa
dân tộc thốt khỏi ách nơ địch thuộc địa, giải phóng nhân ta khỏi “kiếp ngựa
5


trâu” của chính quyền đế quốc tay sai là đã tạo tiền đề tiên quyết đưa sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp đi đến thắng lợi hồn tồn.
2.2. Nội dung Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc
2.2.1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi triệt để phải đi
theo con đường Cách mạng vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đã chứng minh: Do
chưa có đường lối kháng chiến rõ ràng, bất cập trước lịch sử, con đường cách
mạng dựa trên ý thức hệ phong kiến hoặc xu hướng dân chủ tư sản nên đã bị
thực dân Pháp thẳng tay đàn áp và thất bại.
Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, ông cha ta
đã sử dụng nhiều con đường gắn với những khuynh hướng chính trị khác
nhau, sử dụng những vũ khí tư tưởng khác nhau.
Tất cả các phong trào cứu nước của cha ông ta, mặc dù đã diễn ra vô
cùng anh dũng, với tinh thần “người trước ngã, người sau đứng dậy”, nhưng
rốt cuộc đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Đất nước lâm vào “tình
hình đen tối tưởng như khơng có đường ra”. Đó chính là tình trạng khủng
hoảng về đường lối cứu nước ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nó
đã đặt ra u cầu bức thiết là phải tìm một con đường cứu nước mới.
Sinh ra trong cảnh nước mất nhà tan, nhân dân sống trong cảnh lầm than,
đói khổ…Hồ Chí Minh cũng đã được chứng kiến các phong trào cứu nước của
cha ông, Người nhận thấy con đường của Phan Bội Châu chẳng khác gì “Đuổi
hổ cửa trước, rước beo cửa sau” và con đường của Phan Chu trinh cũng chẳng

khác gì “Xin giặc rủ lịng thương”, con đường của Hồng Hoa Thám tuy có
phần thực tế hơn, những nó vẫn mang nặng cốt cách phong kiến.
Chính vì vậy, tuy có khâm phục tinh thần cứu nước của cha ơng, nhưng
Hồ Chí Minh đã khơng tán thành các con đường của họ, mà Người quyết tâm
ra đi tìm một con đường mới.
6


Và với tấm lòng yêu nước, thương dân nhiệt thành, ngày 5/6/1911
Nguyễn Tất Thành, lấy tên Văn Ba quyết định xuống làm thuê trên con tàu
buôn của Pháp và Người tạm biệt Tổ quốc từ Sài Gòn đi Pháp bắt đầu những
năm tháng dài lao động, nghiên cứu, học hỏi của Người ở các nước phương
Tây…
Qua quá trình khảo cứu thế giới đó, Nguyễn Ái Quốc rất quan tâm
nghiên cứu kinh nghiệm của nhiều cuộc cách mạng của các nước, trong đó
Người đặc biệt chú ý tới cách mạng Mỹ 1776, cách mạng Pháp 1789 và
Người nhận thấy “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách
mệnh tư bản,cách mệnh khơng đến nơi, tiếng là cộng hịa và dân chủ, kỳ thực
trong thì nó tước lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa”. Bởi vậy
người khơng đi theo con đường cách mạng tư sản.
Cho đến năm 1917 khi cuộc cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra, Người
đã nghiên cứu và nhận thấy: Cách mạng Tháng Mười Nga khơng những là
cuộc cách mạng vơ sản mà cịn là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu
tấm gương sáng về sự giải phóng dân tộc thuộc địa và “mở ra trước mắt họ
thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Đó là cuộc
cách mạng đến nơi, nghĩa là cách mạng thắng lợi rồi, chẳng những đem lại tự
do, bình đẳng thật sự cho người lao động Nga mà còn muốn giúp đỡ các dân
tộc thuộc địa đi tới giải phóng.
Người “hồn tồn tin theo Lênin và Quốc tế thứ ba” chính vì Lênin và
quốc tế thứ ba đã “bênh vực cho các dân tộc bị áp bức”. Người thấy trong lý

luận của Lênin một phương pháp mới để giải phóng dân tộc: đó là con đường
cách mạng vơ sản.
Vượt qua những hạn chế về tư tưởng của các sỹ phu và của các nhà
cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học
thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và lựa chọn khuynh hướng
chính trị vô sản. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản”… “chỉ có chủ
7


nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức
và những người lao động trên thế giới khỏi ách nơ lệ”. Vì vậy, cách mạng
Việt Nam muốn có độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân phải noi
theo con đường cách mạng Tháng Mười Nga.
2.2.2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng
của giai cấp công nhân lãnh đạo
Từ thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 – cuộc cách
mạng do Đảng cộng sản Nga lãnh đạo, Hồ Chí Minh đã nhận thức đúng đắn
và sớm khẳng định rằng: Muốn cách mạng giải phóng dân tộc thành cơng
“Trước hết phải có Đảng cách mệnh, Đảng có vững thì cách mạng mới thành
cơng, Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm nịng cốt. Bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn
nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin. Đảng phải xác định rõ mục
tiêu, lý tưởng đi tới chủ nghĩa cộng sản, phải tuân thủ các nguyên tắc tổ chức
sinh hoạt đảng theo học thuyết đảng kiểu mới của Lênin”.
Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Người cũng đã khẳng định rằng
“Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vơ sản giai cấp mọi nơi.
Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy”.

Kết hợp lý luận Mác – Lênin về Đảng cộng sản với thực tiễn cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin trên một loạt vấn đề về cách mạng giải phóng dân tộc. Lý luận
đó đã được truyền bá trong phong trào công nhân, phong trào yêu nước, giải
quyết vấn đề đường lối cứu nước gắn liền với sự chuẩn bị những điều kiện
về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời một chính đảng cách mạng ở
Việt Nam.
Đây là một sáng tạo của Hồ Chí Minh về lý luận cách mạng giải
phóng dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, “Cách mệnh trước hết phải có đảng
8


cách mệnh... Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng...”. Đảng đó phải
được xây dựng theo nguyên tắc đảng kiểu mới của V.I.Lênin, được vũ
trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng Cộng sản
là: Xác định mục tiêu của cách mạng, xây dựng đường lối cách mạng giải
phóng dân tộc; thơng qua cương lĩnh, tổ chức vận động, tập hợp các lực
lượng cách mạng, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Đối với cách
mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ:
chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập dân tộc, đem lại tự do
và hạnh phúc cho nhân dân. Cương lĩnh Chính trị đầu tiên được thông qua
tại Hội nghị thành lập Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã khẳng định:
“Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp”. Điều đáng chú ý là, Chủ tịch
Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng khơng chỉ là của riêng giai cấp cơng nhân, mà
của tồn dân tộc. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (tháng 02/1951), Hồ Chí
Minh phân tích: “Trong giai đoạn hiện nay, quyền lợi của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động
Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên
phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”. Năm 1961, khi nhân dân miền Bắc
đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Hồ Chí Minh một lần nữa

khẳng định: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc,
không thiên tư, thiên vị”.
Đầu năm 1930 Đảng cộng sản Việt Nam ra đời và đã được Hồ Chí
Minh khẳng định: Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân
và dân tộc Việt Nam. Người đã xây dựng được một Đảng cách mạng tiên
phong phù hợp với thực tiễn Việt Nam, gắn bó nó với nhân dân, dân tộc một
lòng phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân được nhân dân, được dân tộc thừa
nhận là đội tiên phong của mình. Và từ khi mới ra đời, Đảng cộng sản Việt
Nam đã quy tụ được lực lượng và sức mạnh của tồn bộ giai cấp cơng nhân
và cả dân tộc Việt Nam. Đó là một đặc điểm và đồng thời là một ưu điểm của
Đảng. Nhờ đó mà ngay từ khi mới ra đời Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy
9


nhất đối với cách mạng Việt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi
thắng lợi của cách mạng.
2.2.3. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đồn kết của tồn
dân, trên cơ sở liên minh cơng nông
Theo học thuyết Mác – Lênin, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng
nhân dân, nhân dân lao động là người làm ra lịch sử.
Trên quan điểm tiếp thu Chủ nghĩa Mác – Lênin, cách mạng giải phóng
dân tộc như Nguyễn Ái Quốc viết “là việc chung của cả dân chúng chứ khơng
phải việc một hai người”, vì vậy phải đồn kết tồn dân, “sĩ, nơng, cơng,
thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Nhưng trong sự tập hợp rộng rãi
đó, Người nhắc nhở khơng được qn cái cốt của nó là cơng – nơng. Phải nhớ
“cơng nơng là người chủ cách mệnh…công nông là gốc cách mệnh”
Trong phạm vi của cách mạng giải phóng dân tộc mà đối tượng cần
đánh đổ trước hết là bọn đế quốc và địa chủ phong kiến tây sai nhằm giành lại
độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân, trước hết là nông dân, nên Nguyễn Ái
Quốc đã chủ trương vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt

Nam đang mất nước, đang bị làm nô lệ trong một mặt trận dân tộc thống nhất
rộng rãi nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc, đấu tranh giành độc lập
tự do.
Người đã viết trong Sách lược vắn tắt tại Hội nghị thành lập Đảng đầu
năm 1930: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng,
thanh niên, Tân việt,.v.v., để kéo họ di vào phe vô sản giai cấp. Cịn đối với
bọn phú nơng, trung tiểu địa chủ và tư sản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách
mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã
ra mặt phản cách mạng(Đảng lập hiến)… thì phải đánh đổ”
Do chưa phân biệt được sự khác nhau giữa yêu cầu, mục tiêu của cách
mạng vô sản ở các nước tư bản phát triển với cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa, lại chịu sự chi phối của quan điểm “tả” khuynh của đường lối “giai
cấp chống giai cấp” đang tồn tại trong Quốc tế cộng sản lúc bấy giờ, nên đã
10


có ý kiến cho rằng Nguyễn Ái Quốc quá chú trọng vấn đề dân tộc “chỉ nghĩ
đến việc phản đế mà quên mất lợi ích đấu tranh”,…
Nhưng thực ra, trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực
lượng dân tộc chống đế quốc, Hồ Chí Minh vẫn luôn nhắc nhở, quán triệt
quan điểm giai cấp: “Công nông là gốc cách mệnh; cịn học trị, nhà bn
nhỏ, điền chủ cũng bị tư sản áp bức, song không cực khổ bằng công nông, ba
hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”. Và “trong khi liên lạc
với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì
của cơng nơng mà đi vào đường thỏa hiệp”.
2.2.4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng
tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc
Có thể nói đây là một luận mới mẻ và sáng tạo của Hồ Chí Minh cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc. Bởi lẽ, trong phong trào cộng sản quốc tế đã
từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực

tiếp vào thắng lợi của cách mạng vơ sản ở chính quốc.
Trong bản Tuyên ngôn thành lập của Quốc tế cộng sản năm 1919, có
đoạn viết: “ Cơng nhân và nơng dân không những ở An Nam, Angiêri,
Bengan mà cả Ba tư hay Ácmênia chỉ có thể giành được độc lập khi mà công
nhân các nước Anh và nước Pháp lật đổ được Lơiit Gicgiơ và Clêmăngxơ,
giành chính quyền nhà nước vào tay mình”.
Những luận cương về phong trào cách mạng trong các nước thuộc địa
và nửa thuộc địa được thông qua Đại hội VI Quốc tế cộng sản, ngày 1/9/1928
cũng có viết: “Chỉ có thể thực hiện hồn tồn cơng cuộc giải phóng các thuộc
địa khi giai cấp vơ sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”.
Quan điểm này vơ hình chung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các
phong trào cách mạng ở thuộc địa.
Tại Đại hội V Quốc tế cộng sản tháng 6/1924, Nguyễn Ái Quốc đã phát
biểu và phân tích: Vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận
mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận
11


mệnh của giai cấp bị áp bức ở các nước thuộc địa…Nọc độc và sức sống của
con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa, nếu khinh
thường cách mạng thuộc địa tức là muốn đánh con rắn đằng đuôi.
Vận dụng công thức của C. Mác: “Sự giải phóng của giai cấp cơng
nhân phải là sự nghiệp của giai cấp công nhân”, Nguyễn Ái Quốc đã đi tới
luận điểm: “Cơng cuộc giải phóng anh em (nhân dân thuộc địa) chỉ có thể
thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”.
Nhận thức được thuộc địa là một mắt xích yếu trong hệ thống của chủ
nghĩa đế quốc. Trong khi đó, nhân dân thuộc địa luôn chứa đựng tinh thần
yêu nước, căm thù bọn xâm lượng và sẽ vùng dậy khi có thời cơ. Vì vậy, ngay
từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã sớm cho rằng: “cách mạng thuộc địa không
những phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở chính quốc mà có thể giành thắng

lợi trước” và “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ
nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em
mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn”. Như vậy, Cách
mạng thuộc địa có khả năng chủ động giành thắng lợi trước cách mạng vô sản
ở chính quốc, nhưng cơng cuộc giải phóng đó chỉ có thể thực hiện được bằng
sự nỗ lực của nhân dân thuộc địa.
Đây là một luận điểm đầy sáng tạo có ggias trị lý luận và thực tiễn rất
lớn, một cống hiến rất quan trọng vào kho tàng lý luận Mác – Lê nin, đã được
thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam chứng minh là hồn
tồn đúng đắn.
2.2.5. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con
đường bạo lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng
vũ trang trong nhân dân
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, có nhiều phương pháp giành chính quyền
cách mạng từ tay giai cấp thống trị. Song kẻ thù khơng bao giờ tự nguyện
giao chính quyền cho nhân dân. Vì vậy cách mạng muốn thắng lợi phải dùng
bạo lực của quần chúng nhân dân để giành chính quyền.
12


Hồ Chí Minh khẳng định: Ở các nước thuộc địa, chủ nghĩa thực dân
dùng bạo lực phản cách đàn áp các phong trào yêu nước. Cách mạng giải
phóng dân tộc muốn thắng lợi thì phải dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo
lực phản cách mang. Bạo lực phản cách mạng là bạo lực của quần chúng gồm
lực lượng "chính trị" của quần chúng và lực lượng "vũ trang" với 2 hình thức
đấu tranh chính trị và vũ trang kết hợp với nhau. Để giành chính quyền phải
bằng bạo lực, trước hết là khởi nghĩa vũ trang của quần chúng.
Tư tưởng về cách mạng bạo lực gắn liền với tư tưởng về xây dựng lực
lượng vũ trang được Hồ Chí Minh suy nghĩ từ sớm và khi trở thành chủ
trương của Đảng tại hội nghị trung ương 8 (5/1941), Người kết luận: Cuộc

cách mạng Đông Dương được kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, mở
đầu có thể là bằng một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương...
Từ sau Hội nghị trung ương 8, Hồ Chí Minh chỉ đạo xây dựng căn cứ
địa, đào tạo huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức chính trị của quần
chúng, lập ra các đội du kích vũ trang, chủ động đón thời cơ, phát động tổng
khởi nghĩa Tháng Tám và giành được chính quyền cả nước chỉ trong có hơn
10 ngày.
Đây chính là sự vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin
về cách mạng thuộc địa thành một hệ thống luận điểm mới mẻ, sáng tạo, bao
gồm cả đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng
giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã chứng minh hùng hồn tính khoa học
đúng đắn, tính sáng tạo của tư tưởng Hơ Chí Minh về con đường cách mạng
giải phóng dân tộc ở Việt Nam đó là sử dụng bạo lực cách mạng đúng đắn sẽ
là yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc.

13


Chương 2
Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHĨNG DÂN TỘC TRONG CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
2.1. Ý nghĩa lý luận của Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn
hóa thế giới đã cống hiến trọn cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc,
đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam. Sự
nghiệp cách mạng phong phú, sơi động của Hồ Chí Minh đã để lại cho dân

tộc ta nhiều “Di sản” quý báu, trong đó, những sáng tạo lý luận của Người về
cách mạng giải phóng dân tộc là một dấu ấn nổi bật, góp phần tạo nên những
thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam, đồng thời có giá trị thời đại sâu sắc.
Thứ nhất, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo
con đường cách mạng vô sản
Trong q trình vận dụng lý luận cách mạng vơ sản vào Việt Nam, Hồ
Chí Minh đã kiên trì khắc phục những trở ngại của khuynh hướng giáo điều,
nhấn mạnh một chiều đấu tranh giai cấp trong nửa sau những năm 20 và nửa
đầu những năm 30 của thế kỷ XX, làm cho lý luận cách mạng giải phóng dân
tộc theo khuynh hướng vơ sản có sức sống mạnh mẽ, thâm nhập trong đông
đảo quần chúng nhân dân. Đi theo con đường cách mạng vơ sản, Hồ Chí
Minh sớm xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là
“làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”. Sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng CNXH. Bên cạnh đó,
Người dành nhiều tâm trí vào sự nghiệp cách mạng XHCN và xây dựng
CNXH ở Việt Nam, hình thành nên những quan điểm hết sức cơ bản về
CNXH và con đường đi lên CNXH từ một nước thuộc địa, với những tàn tích
phong kiến nặng nề; xác định những đặc trưng bản chất của CNXH, mục tiêu
14


và bước đi để đạt tới CNXH. Đó là một quá trình cải biến cách mạng lâu dài,
gian khổ, phải trải qua nhiều chặng đường khác nhau, tất cả vì sự nghiệp giải
phóng con người, làm cho con người phát triển tồn diện, có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc.
Cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, tức là
độc lập dân tộc đi tới CNXH. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết, là tiền
đề đi tới CNXH. Không giành được độc lập dân tộc sẽ khơng có gì hết. Độc
lập dân tộc thể hiện ở chỗ giành và giữ chính quyền dân chủ nhân dân, chuẩn
bị tiền đề đi lên CNXH. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh

phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. CNXH là hạnh phúc, tự do.
Vì vậy, phải xây dựng CNXH như là sự phát triển tất yếu của độc lập dân tộc,
để bảo vệ độc lập dân tộc và tạo ra bước phát triển mới với một trình độ cao
hơn của tồn bộ tiến trình cách mạng. Đây chính là sự phát triển sáng tạo luận
điểm của V.I.Lênin về cách mạng không ngừng - cách mạng dân tộc dân chủ
và cách mạng XHCN, giữa hai giai đoạn đó khơng có một bức tường thành
nào ngăn cách cả.
Thực tiễn đó cho thấy, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi
phải đi theo con đường của cách mạng vô sản là một trong những sáng tạo nổi
bật về mặt lý luận của Hồ Chí Minh. Chính theo con đường cách mạng vô
sản, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 “long
trời lở đất”, dẫn tới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa (2-91945). Trong Tun ngơn độc lập đọc trước quốc dân đồng bào vào ngày 2-91945, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự
do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”(4). Với Tun
ngơn độc lập, Hồ Chí Minh đã tuyên bố với toàn thế giới về quyền độc lập
dân tộc, thống nhất đất nước, toàn vẹn lãnh thổ và quyền dân tộc tự quyết của
dân tộc Việt Nam. Trong đó, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn
lãnh thổ vừa là tiền đề, vừa là điều kiện tiên quyết của chế độ dân chủ, cho
việc xác lập và bảo vệ quyền con người.
15


Cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do Đảng và Hồ Chí Minh lãnh
đạo đã mở ra một thời đại mới cho dân tộc Việt Nam - thời đại độc lập dân
tộc gắn liền với CNXH. Kiên trì với con đường đã lựa chọn, trải qua 30 năm
trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, với
tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”, “khơng có gì q hơn độc lập, tự do”; trên cơ sở
đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân
tộc, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của thực
dân, đế quốc, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Trong cuộc đấu tranh

trường kỳ này, tất cả người dân Việt Nam đã kiên cường đấu tranh cho độc
lập dân tộc và tự do cho nhân dân. Quyền vốn dĩ tự nhiên đó của con người
Việt Nam, của dân tộc Việt Nam được cộng đồng quốc tế đón nhận như là
một trong những tư tưởng lớn của thời đại.
Thứ hai, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng
Cộng sản lãnh đạo
Thực tiễn phong phú cách mạng Việt Nam chứng minh rằng, sự lãnh
đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, chính trong q trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng đã được tôi luyện, thử thách và không ngừng trưởng thành, dày
dạn kinh nghiệm để ngày càng xứng đáng với vai trò và sứ mệnh lãnh đạo
cách mạng, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân; qua đó, khẳng định một
chân lý, “ở Việt Nam khơng có một lực lượng chính trị nào khác, ngồi Đảng
Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng
lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc
đến bến bờ vinh quang, hạnh phúc”.
Đó là một Đảng đạo đức và văn minh, được võ trang bằng lý luận Mác
- Lênin; có bản lĩnh chính trị vững vàng; đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm
chất đạo đức trong sáng, năng lực trí tuệ dồi dào, biết giải quyết mọi vấn đề
xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và theo kịp bước tiến của thời đại. Đảng đó
16


phải xây dựng được một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, vững chắc, lâu
dài, chân thành, đoàn kết; trong đó, lực lượng của Đảng là cả dân tộc, mọi con
dân nước Việt, con Lạc cháu Hồng. Đảng đó còn biết tập hợp các lực lượng
cách mạng và tiến bộ trên thế giới đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa
thực dân, vì mục tiêu chung của nhân loại tiến bộ là: hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thứ ba, cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đồn kết của tồn

dân trên cơ sở liên minh công nông
Từ thực tiễn Việt Nam, với tuyệt đại đa số dân số là nông dân, Hồ Chí
Minh cho rằng, nơng dân là những người chịu nhiều tầng áp bức, bị bần cùng
hóa nên họ ln có ý thức phản kháng, sẵn sàng tham gia cách mạng. Do đó,
cách mạng giải phóng dân tộc phải có sự tham gia của giai cấp nơng dân và là
sự nghiệp của tồn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Nông dân là một
lực lượng rất to lớn của dân tộc, một đồng minh rất trung thành của giai cấp
công nhân. Muốn kháng chiến kiến quốc thành công, muốn độc lập, thống
nhất thật sự, ắt phải dựa vào lực lượng của nơng dân. Đồng bào nơng dân sẵn
có lực lượng to lớn, sẵn có lịng nồng nàn u nước, sẵn có chí khí kiên quyết
đấu tranh và hy sinh. Do vậy, vấn đề giải phóng dân tộc ở Việt Nam, thực
chất là vấn đề nông dân. Nông dân vừa là động lực, vừa là lực lượng đơng
đảo, nịng cốt, và cũng là đối tượng vận động của cách mạng.
Đánh giá cao vai trò, sứ mệnh của giai cấp nơng dân, nhưng Hồ Chí
Minh ln khẳng định, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng và
Đảng phải lãnh đạo xây dựng khối liên minh công - nơng làm nịng cốt cho
Mặt trận Dân tộc thống nhất. Hồ Chí Minh chủ trương vận động, tập hợp
rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam, những người dân mất nước, đang
phải chịu thân phận nô lệ, tham gia vào Mặt trận Dân tộc thống nhất, nhằm
huy động sức mạnh của toàn dân tộc vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự
do. Đây là luận điểm rất mới, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn đối với
cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào giải phóng dân tộc. Đó là sự bổ
17


sung kịp thời vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Có thể nói,
đối với cách mạng Việt Nam, luận điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công - nông đã được vận
dụng một cách chủ động, sáng tạo trong tiến trình tiến hành cách mạng giải
phóng dân tộc.

Thứ tư, cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con
đường cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị của quần chúng với đấu
tranh vũ trang; thực hiện khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành
thắng lợi hoàn toàn
Trên cơ sở nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh
khơng hề đối lập với tinh thần u chuộng hịa bình và chủ nghĩa nhân đạo
của dân tộc Việt Nam mà là sự tiếp nối truyền thống nhân nghĩa của cha ơng
ta. Tuy đề cao vai trị của bạo lực cách mạng nhưng Hồ Chí Minh khơng tuyệt
đối hóa vai trị của bạo lực, của đấu tranh vũ trang trong chiến tranh cách
mạng. Với Người, đấu tranh vũ trang chỉ là một trong những phương pháp để
thực hiện mục tiêu chính trị của cách mạng. Với tinh thần ấy, sau khi về nước
chuẩn bị giành chính quyền, tháng 12-1944, trên cơ sở nghiên cứu kỹ tình
hình cách mạng trong nước và trên thế giới, Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập
đội “Việt Nam tuyên truyền giải phóng qn”. Người căn dặn: “Chính trị
trọng hơn qn sự”, “tuyên truyền trọng hơn tác chiến”, “người trước, súng
sau”. Chỉ thị nêu rõ nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng,
phương châm xây dựng ba thứ quân, phương thức hoạt động là kết hợp quân
sự với chính trị.
Trong q trình lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, Hồ Chí Minh và
Đảng đã chỉ đạo tích cực xây dựng và phát triển lực lượng, để khi có thời cơ
sẽ phát động khởi nghĩa vũ trang. Trước hết là xây dựng các căn cứ địa, đồng
thời mở các lớp đào tạo, huấn luyện cán bộ, xây dựng các tổ chức chính trị
của quần chúng... Với sự chủ động, tích cực chuẩn bị đón chờ thời cơ khởi
nghĩa, tháng Tám năm 1945, khi thời cơ đến, lệnh “Tổng khởi nghĩa” được
18



×