Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC: Quá trình hình thành và phát triển của đường Hồ Chí Minh trên biển trong giai đoạn 1959 – 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 55 trang )



LỜI CẢM ƠN

Em xin trân trọng cảm ơn thầy Hoàng Xuân Thành, và các Thầy Cô
trong Khoa Sử - Địa trường Đại học Tây Bắc đã trực tiếp hướng dẫn, giúp
đỡ em về kiến thức và phương pháp để em hoàn thành được khóa luận tốt
nghiệp này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới Thư viện trường Đại học Tây Bắc, và
các bạn trong lớp K50 ĐHSP Lịch Sử đã giúp tôi trong quá trình tìm kiếm
và mượn tư liệu để phục vụ cho việc nghiên cứu và hoàn thành đề tài này.
Được sự giúp đỡ của Thầy Cô và bạn bè, cùng với những nỗ lực của
bản thân, em đã hoàn thành khóa luận tốt nghiệp “Quá trình hình thành
và phát triển của đường Hồ Chí Minh trên biển trong giai đoạn 1959 –
1975”. Rất mong được sự góp ý và chỉ dẫn của Thầy Cô, để khóa luận
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Sơn La, Tháng 05 năm 2013
Sinh viên thực hiện

Trần Văn Chính















MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, mục đích và đóng góp của khóa luận 3
4. Phương pháp nghiên cứu và cơ sở dữ liệu 3
5. Bố cục 4
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI
ĐOẠN (1959 - 1975) 5
1.1. Tình hình miền Bắc 5
1.2. Tình hình miền Nam 8
1.3. Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng trong giai đoạn (1959 - 1975) 11
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN (1959 – 1975) 15
2.1. Chủ trương mở tuyến đường vận tải chiến lược trên biển 15
2.2. Quá trình hình thành đường Hồ Chí Minh trên biển (1959 - 1965) 17
2.3. Sự phát triển của đường Hồ Chí Minh trên biển (1965 - 1975) 27
CHƯƠNG 3: ĐÓNG GÓP CỦA ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN
TRONG GIAI ĐOẠN (1959 - 1975) 34
3.1. Đóng góp về đường lối, phương pháp vận chuyển mới trong cuộc
kháng chiến giải phóng dân tộc (1954 – 1975) 34
3.2. Chi viện nguồn nhân, vật lực cho chiến trường miền Nam 36
3.3. Góp phần bảo vệ vùng biển đảo phía Nam của đất nước 40
3.4. Đường Hồ Chí Minh trên biển góp phần kết nối hai miền đất nước
42

KẾT LUẬN 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO 47






1
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Sau năm 1954 tình hình cách mạng miền Nam đang có nhiều chuyển
biến mới, Mỹ đã nhanh chóng nhảy vào miền Nam và lập nên chính quyền
tay sai Ngô Đình Diệm. Chúng đã ra sức phá hoại quá trình hiệp thương
tổng tuyển cử, thống nhất đất nước của ta. Không những vậy chúng còn tăng
cường tàn sát khủng bố và ban hành đạo luật phát xít phản động (10 – 59), lê
máy chém đi khắp miền Nam thẳng tay chém giết, tàn sát nhân dân điều đó
đã gây ra tổn thất không nhỏ cho các lực lượng cách mạng cũng như phong
trào đấu tranh của nhân dân.
Trong bối cảnh đó ánh sáng của Nghị quyết 15 đã đến với cách mạng
miền Nam giữa lúc nhân dân “không thể sống như cũ được nữa”, đã thổi
bùng ngọn lửa “đồng khởi” trên nhiều vùng rộng lớn ở miền Nam. Khiến
cho chính quyền tay sai vô cùng hoang mang lo sợ, nhưng nhân dân miền
Nam lúc này đang rất cần đó là “vũ khí” bởi nếu trong tay họ chỉ có “dao”,
“kiếm” hay “gậy tầm vông” thì không thể đối chọi lại được với vũ khí hiện
đại của kẻ thù được.
Trước yêu cầu bức thiết đó của cách mạng miền Nam. Trung ương
Đảng và Bộ Chính trị đã quyết định chi viện cho miền Nam về vũ khí, trang
thiết bị và nhân lực thông qua con đường huyết mạch “Trường Sơn trên

bộ”. Nhưng lúc này việc chi viện từ Bắc vào Nam thông qua con đường này
mới chỉ đến được một phần của miền Nam, chưa thể vươn tới Đông Nam Bộ
còn đồng bằng Nam Bộ thì rất khó để vươn tới. Trong khi đó chiến trường
Nam Bộ đang đòi hỏi vũ khí ngày càng cấp bách và có tính sống còn đối với
phong trào cách mạng ở đây.
Xuất phát từ điều kiện cụ thể đó một phương án vận chuyển chiến lược
mới được đưa ra đó là sử dụng con đường biển để chở thẳng vũ khí vào Nam
Bộ nơi mà con đường bộ chưa thể vươn tới. Bộ Chính trị đã hạ quyết tâm
mở bằng được con đường này và cũng từ đây lịch sử hào hùng của một con
đường huyền thoại “đường Hồ Chí Minh trên biển” được bắt đầu!.
Con đường được chính thức thành lập vào ngày 23/10/1961 đã mang
trên mình một nhiệm vụ thiêng liêng là mạch máu thông suốt nối liền hậu
phương lớn với tiền tuyến lớn. Đường Hồ Chí Minh trên biển đã góp phần
rất lớn vào thắng lợi chung của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước
của dân tộc, nó đã mở ra một trang mới cho lịch sử Quân sự Việt Nam.


2
Do đó với mong muốn đi sâu vào tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của
con đường huyền thoại này, qua đó từng bước làm nổi bật những đóng góp to lớn
của nó đối với sự nghiệp chống Mỹ và tay sai, thống nhất đất nước.Vì vậy tôi đã
mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu vấn đề: “Quá trình hình thành và phát triển của
đường Hồ Chí Minh trên biển trong giai đoạn 1959 – 1975” làm đề tài cho
khóa luận của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến nay trong nhiều bài viết, bài báo, tham luận và hội thảo khoa
học cũng như trong nhiều công trình nghiên cứu lịch sử về những con đường
chi viện chiến lược từ Bắc vào Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, trong đó đường Hồ Chí Minh trên biển cũng đã được đề cập trên nhiều
khía cạnh khác nhau và ít nhiều có quan hệ đến khóa luận.

Cuốn “Đại cương lịch sử Việt Nam” tập 3 của NXB Giáo dục. Cuốn
sách đã dựng lại toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc
và nó cũng đã có đề cập đến hoàn cảnh và sự bức thiết của việc thành lập
đường Hồ Chí Minh trên biển trong giai đoạn này.
Cuốn “5 đường mòn Hồ Chí Minh” của tác giả Đặng Phong, do NXB
Tri thức xuất bản năm 2008. Công trình là sự tái hiện một cách khái quát về
sự ra đời, cũng như phát triển của những con đường chi viện cho miền Nam
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và cũng đã phần nào đề cập đến con
đường Hồ Chí Minh trên biển.
Cuốn “Lịch sử đường Hồ Chí Minh trên biển” NXB Quân đội nhân dân
xuất bản năm 2011. Cuốn sách đã nói về sự hình thành và phát triển của
đoàn tàu không số với những chiến công vang dội đã trở thành kỳ tích của
người chiến sĩ Hải quân trên tuyến đường biển quân sự.
Cuốn “Đường Hồ Chí Minh trên biển - con đường của ý chí và sức sáng
tạo Việt Nam” do NXB Quân đội nhân dân xuất bản năm 2011, cuốn sách là
sự lý giải của những người trong cuộc chiến tranh đã lùi xa, để tìm lại quá
khứ và những bài học lớn góp phần giải quyết những vấn đề ngày càng đa
dạng và phức tạp trong công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo,
thềm lục địa của Tổ quốc hôm nay.
Trên cơ sở tham khảo những đề tài, khóa luận nghiên cứu đi trước, tôi
đã vận dụng vào quá trình nghiên cứu của mình, định hướng nguồn tư liệu,
hướng nghiên cứu để tiếp tục làm sáng rõ những vấn đề mà khóa luận đặt ra.



3
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, mục đích và đóng góp của khóa luận
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là “Quá trình hình thành và phát
triển của đường Hồ Chí Minh trên biển trong giai đoạn 1959 – 1975”.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Thời gian: Từ 1959 - 1975.
Không gian: Đường Hồ Chí Minh trên biển trong kháng chiến chống
Mỹ - Ngụy.
3.3. Mục đích
Khái quát tình hình hai miền đất nước trong giai đoạn từ 1959 – 1975,
nhằm dựng lại bức tranh lịch sử về quá trình hình thành và phát triển của
đường Hồ Chí Minh trên biển trong kháng chiến chống Mỹ - Ngụy.
Làm rõ vai trò và tầm quan trọng của đường Hồ Chí Minh trên biển
trong kháng chiến chống Mỹ - Ngụy.
3.4. Đóng góp
Khóa luận đã khái quát tình hình đất nước trong giai đoạn (1959 - 1975)
và bổ sung tài liệu vào việc nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử cuộc kháng
chiến chống Mỹ và làm phong phú thêm nguồn tài liệu về đường Hồ Chí
Minh trên biển.
Góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của mỗi người dân Việt Nam về
ý thức xây dựng và bảo vệ an ninh chủ quyền biển đảo quê hương, làm sáng
rõ chủ nghĩa yêu nước anh hùng cách mạng của dân tộc.
4. Phương pháp nghiên cứu và cơ sở dữ liệu
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chính mà khóa luận sử dụng là phương pháp
lịch sử kết hợp với phương pháp lôgic.
Ngoài ra khóa luận còn sử dụng các phương pháp khác như phương
pháp so sánh, phân tích, đối chiếu, sưu tầm và hệ thống hóa tài liệu
4.2. Cơ sở dữ liệu
Để thực hiện khóa luận tôi đã sử dụng các nguồn tư liệu sau:
Các tài liệu, văn kiện của Đảng thông qua các kỳ đại hội, cuốn Đại
cương lịch sử tập III.



4
Các công trình nghiên cứu khoa học và những bài viết đã công bố có
liên quan tới khóa luận.
5. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục. Nội dung
chính của khóa luận chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát tình hình đất nước trong giai đoạn (1959 - 1975)
Chương 2: Quá trình hình thành và triển của đường Hồ Chí Minh trên
biển trong giai đoạn (1959 - 1975)
Chương 3: Đóng góp của đường Hồ Chí Minh trên biển trong giai đoạn (1959 -
1975)
















5
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN

(1959 - 1975)

Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và việc ký Hiệp định Giơnevơ
(21/7/1954) đã chính thức khép lại sự hiện diện của thực dân Pháp ở Việt
Nam hơn trong 80 năm, nó đã xóa đi sự đau khổ, đói nghèo và thân phận của
người dân mất nước. Đã mở ra một kỉ nguyên mới của dân tộc Việt Nam.
Nhưng niềm vui, niềm hạnh phúc vô bờ bến đó chưa được bao lâu thì đế
quốc Mỹ đã nhảy vào nước ta với âm mưu chia cắt Việt Nam lâu dài và biến
miền Nam thành một quốc gia tự do dưới sự bảo trợ của chúng. Do đó đất
nước ta chưa được hoàn thống nhất, tạm thời bị chia cắt làm hai miền với
hai chế độ chính trị khác nhau. Ở mỗi miền tình hình kinh tế, chính trị, xã
hội đều mang những đặc điểm riêng.
Với niềm tin về một ngày mai thống nhất, được thể hiện qua chân lí:
“Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một sông có thể cạn núi có thể
mòn song chân lí đó không có gì thay đổi được”. Nó cũng chính là khát
vọng là động lực để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục thực hiện sứ
mệnh thiêng liêng của dân tộc là thống nhất đất nước, thu non sông về một
mối. Chính vì thế mà giai đoạn (1959 – 1975) đã trở thành thời kì “dậy
sóng” mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam với bao kì tích và chiến công anh
hùng, đỉnh điểm của nó chính là thắng lợi 30/4/1975. Đã hoàn thành niềm
mong mỏi lớn lao của toàn dân tộc đó là Độc Lập, Tự Do và Thống Nhất.
1.1. Tình hình miền Bắc
1.1.1. Về kinh tế
Trong nông nghiệp: Từ năm (1954 – 1959) Đảng và nhà nước ta đã thực
hiện một loạt chính sách phát triển kinh tế, hàn gắn vết thương sau chiến
tranh và đạt nhiều thành tựu rực rỡ, những thắng lợi này đã tạo cơ sở, tiền đề
củng cố phát triển về mọi mặt.
Năm 1960 nhà nước đề ra kế hoạch 5 năm với nội dung chủ yếu là phát
triển nông nghiệp, giải quyết tốt vấn đề lương thực và sử dụng lao động tập
thể hóa. Đảng ta chú trọng phát triển các hợp tác xã nông nghiệp, đổi mới cơ

chế quản lí nông nghiệp, những công trình thủy lợi được xây dựng như trạm
bơm La Khê, công trình thủy lợi Ấp Bắc – Nam Hồng , đã đảm bảo tưới


6
tiêu cho diện tích gieo trồng. Từng bước xóa bỏ tình trạng lạc hậu trong
nông nghiệp.
Cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân của Mỹ đã ảnh hưởng
đến sản xuất nông nghiệp. Nhân dân miền Bắc vẫn ra sức tăng gia sản xuất,
nhiều hợp tác xã địa phương đạt được “3 mục tiêu”, từ 7 huyện đạt mức 5
tấn trên một hécta trong 2 vụ năm 1965, tăng lên 14 huyện năm 1966 và 30
huyện năm 1967. Nhiều cán bộ, công nhân kỹ thuật được đào tạo phát triển
nông nghiệp.
Năm 1968 nhà nước đề ra rất nhiều biện pháp để phát triển nông
nghiệp, các hợp tác xã tích cực áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ
thuật, áp dụng biện pháp thâm canh tăng vụ, các giống lúa mới được đưa
vào gieo trồng. Nhờ đó nhiều hợp tác xã đạt được mục tiêu 5 triệu tấn trên
một hécta.
Nông nghiệp nước ta trong những năm (1959 – 1975) đã có bước phát
triển vượt bậc về năng suất cũng như công tác quản lý, là cơ sở đáp ứng đầy
đủ nhu cầu về lương thực của chiến trường.
Trong công nghiệp: Sau kháng chiến chống Pháp kết thúc công nghiệp
nước ta bị tàn phá nặng nề, do đó Bộ Chính trị chỉ rõ phải chú trọng phục
hồi công nghiệp.
Với việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần nhất (1961 - 1965). Nhà nước đã
rất chú trọng tới phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí, nỗ lực vươn
lên trong sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước. Sau kế hoạch 5 năm miền
Bắc đã tạo ra một bước tiến đáng kể về cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội,
một loạt các công trình được hoàn thành như nhà máy điện Thái Nguyên,
nhà máy Supe Phốt Phát Lâm Thao

Trong năm (1966 - 1967) sản lượng công nghiệp tăng 2,5 lần so với
(1961 - 1965). Tốc độ phát triển của công nghiệp có nhiều bước tiến đáng kể,
Nhà nước chú trọng vào cải tạo máy móc, đổi mới quản lí. Qua 3 năm (1968 -
1970) nhiều ngành sản suất công nghiệp đã đạt hoặc vượt mức trước chiến tranh
phá hoại. Cùng với nông nghiệp thì công nghiệp đã tiến nhanh để đáp đáp ứng
nhu cầu của nhân dân và là nguồn chi viện lớn cho các chiến trường. Góp phần
quan trọng vào việc đấu tranh thống nhất đất nước.
1.1.2. Về Chính trị
Sau năm 1954 miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân cơ bản hoàn thành. Đảng ta chủ trương đưa miền Bắc đi


7
lên chủ nghĩa xã hội và bắt tay vào khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương
chiến tranh.
Sự phát triển của cách mạng hai miền Nam - Bắc đòi hỏi Đảng ta phải
có những đường lối cùng với những bước đi phù hợp. Do đó tới tháng 9 năm
1960 Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam
được tổ chức. Đại hội đã xác định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc và đường lối đấu tranh thống nhất nước nhà.
Lúc này Bộ Chính trị đã họp và đề ra nghị quyết chỉ đạo cách mạng
Việt Nam. Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương của
tiền tuyến miền Nam. Nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là đi từ khởi
nghĩa từng phần đến cách mạng trên quy mô toàn miền. Xác định lực lượng
lãnh đạo là Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, quân giải
phóng miền Nam Việt Nam.
Về phía Mỹ. Cùng với việc tiến hành càn quét miền Nam, Mỹ còn tiến
hành leo thang đánh phá ra miền Bắc. Ngày mùng 5 tháng 8 năm 1964 sau
khi dựng lên sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” Mỹ đã cho ném bom một số nơi miền
Bắc. Trong 4 năm (từ ngày mùng 5 tháng 8 năm 1964 đến ngày mùng 1

tháng 11 năm 1968) miền Bắc đã bắn rơi 3243 máy bay trong đó có 6 máy
bay B52, 3 máy bay F111, bắn chìm 143 tàu chiến, ca nô địch. Ngày 31
tháng 11 năm 1968 tổng thống Mỹ phải tuyên bố chấm dứt chiến tranh
không điều kiện ném bom miền Bắc Việt Nam.
Ngày 16 tháng 4 năm 1972, Ních Xơn chính thức tiến hành cuộc chiến
tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc lần hai. Quân và dân
miền Bắc đã đánh trả không quân Mỹ bằng những đòn đích đáng, góp làm
nên trận “Điện Biên Phủ trên không”. Trong 12 ngày đêm quân ta đã bắn
rơi 81 máy bay trong đó có 61 máy bay B52, 10 máy bay F111, bắn chìm
125 tàu chiến ca nô địch. Với thắng lợi này đã buộc Mỹ phải tuyên bố ngừng
hẳn các hoạt động chống phá miền Bắc ngày 15 tháng 1 năm 1973, và phải
kí Hiệp định Pari ngày 27 tháng 1 năm 1973.
1.1.3. Về xã hội
Cùng với việc phát triển kinh tế, ngay sau khi giải phóng Đảng ta cũng
quan tâm tới việc cải thiện đời sống của nhân dân. Trước hết là tiến hành cải
cách ruộng đất, nhiều nông dân đã có ruộng nhân dân hăng say lao động để
phát triển kinh tế.


8
Các ngành văn hóa giáo dục, y tế phát triển nhanh chóng. Nền giáo dục
được phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống giáo dục theo chương
trình mười năm đã được khẳng định, giáo dục đại học được chú trọng.
Tiếp tục xóa bỏ tàn tích của chế độ cũ với nhiệm vụ chủ yếu là xây
dựng nền văn hóa mới và con người mới, thực hiện giáo dục phổ thông và
đại học, gắn với cuộc sống và thực tiễn Việt Nam.
Mạng lưới y tế, vệ sinh phòng bệnh ở các địa phương phát triển rộng
khắp. Đến năm 1965 có 70% số huyện có bệnh viện, 90% số xã ở đồng bằng
và 78% xã ở miền núi có trạm y tế. Phong trào rèn luyện thể dục thể thao
được phát triển rộng rãi trong quần chúng nhân dân.

Từ năm 1965 đến năm 1975 Đảng ta vẫn tiếp tục quan tâm tới đời sống
của nhân dân. Đời sống của nhân dân dần đi vào ổn định.
1.2. Tình hình miền Nam
1.2.1. Về kinh tế
Dưới chế độ Mỹ – Diệm, miền Nam trở thành thuộc địa và bị bóc lột
nặng nề về kinh tế. Chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành ký các hiệp định
cho phép hàng hóa của Mỹ được tự do buôn bán, miễn thuế quan và mọi
khoản thuế nội địa , chính quyền Ngô Đình Diệm còn lập ra các “khu dinh
điền”, “khu trù mật”. Để bóc lột về kinh tế, kìm kẹp khống chế nhân dân và
chuẩn bị chiến tranh.
Mỹ công khai tuyên bố mục đích sâu xa mà Mỹ thực hiện ở miền Nam
Việt Nam là: “giúp đỡ nước Việt Nam tự do phát triển một chính phủ hợp
hiến, ổn định và hùng mạnh”. Từ đây nền kinh tế miền Nam Việt Nam có
bước phát triển nhất định.
Năm 1964 khi tiến hành “Chiến tranh đặc biệt” chính quyền Ngô Đình
Diệm đã ra sức vơ vét nhân lực phục vụ chiến tranh, tăng thuế làm cho hàng
hóa lên cao, lập thêm thuế “đảm phụ quốc phòng”. Khi Mỹ tiến hành “chiến
tranh cục bộ” năm 1968 đã tăng viện trợ lên gấp đôi, quân Mỹ lúc này đã được
đưa đến Việt Nam thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động thương nghiệp và
dịch vụ ở các đô thị. Trong khi đó ở nông thôn do bom đạn chất độc hóa học
tàn phá, nông dân bị bắt đi lính, hàng triệu hécta đất bị bỏ hoang.
Nền kinh tế miền Nam có sự phát triển nhưng chỉ là về hình thức lệ
thuộc chặt chẽ vào Mỹ.



9
1.2.2. Về Chính trị
Lợi dụng Pháp thua trận, Mỹ từng bước gạt Pháp để độc chiếm miền
Nam. Mỹ ép Pháp gạt bỏ Bửu Lộc đưa Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tướng ở

miền Nam. Ngô Đình Diệm, dưới sự giúp đỡ của Mỹ đã đẩy mạnh các hoạt
động thanh lọc, nắm quân đội trong tay và xây dựng chính quyền trở thành
tay sai của Mỹ.
Năm 1959 Diệm ban hành Đạo luật phát xít 10/59 lê máy chém đi khắp
miền Nam. Đầu năm 1960 phong trào “Đồng khởi” bùng nổ ở Bến Tre sau
đó nhanh chóng lan rộng ra các tỉnh Nam Bộ, Trung Trung Bộ và Tây
Nguyên. Phong trào “Đồng khởi” đã làm chính quyền địch tan rã ở nhiều
nơi, chính quyền cách mạng được thành lập ở khắp các vùng miền Nam,
vùng giải phóng được mở rộng. Phong trào đã đánh dấu bước phát triển từ
thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.
Từ năm (1961 – 1965) Mỹ tiến hành “Chiến tranh đặc biệt” Đáp ứng
yêu cầu của cách mạng miền Nam tháng 1 năm 1961, Trung ương cục miền
Nam được thành lập. Các lực lượng vũ trang thống nhất thành “Quân giải
phóng miền Nam”
Trong khi đó chính quyền Ngô Đình Diệm thường xuyên xảy ra mâu
thuẫn. Tới ngày mùng 1 tháng 11 năm 1963 được sự ủng hộ của Mỹ, hội
đồng tướng lĩnh do Dương Văn Minh cầm đầu làm cuộc đảo chính lật đổ
chính quyền Diệm - Nhu, tạo điều kiện thuận lợi để Mỹ đẩy mạnh chiến
tranh xâm lược.
Với hàng loạt những thắng lợi sau đó như: Bình Giã, Ba Giai, An Lão,
Đồng Xoài…, “Chiến tranh đặc biệt’’ đứng trên bờ vực phá sản. Trước
nguy cơ thất bại của “Chiến tranh đặc biệt” Mỹ đã chuyển sang một chiến
lược mới là “Chiến tranh cục bộ” (1965 - 1968).
Nhân dân ta đã chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của
Mỹ, mở đầu là các thắng lợi ở Núi Thành, Vạn Tường (Quảng Nam). Qua
hai mùa khô (1965 - 1966) và (1966 - 1967), quân ta trong thế trận “chiến
tranh nhân dân” với nhiều phương thức tác chiến đã chặn đánh địch ở khắp
nơi, làm phá sản các cuộc hành quân “Tìm diệt” và “Bình định” của địch, từ
đó đã đánh bại những bước tiến quan trọng trong “Chiến tranh cục bộ” của
Mỹ, tạo cơ sở, điều kiện để Đảng ta đưa ra những nghị quyết quan trọng

trong năm 1968.


10
Đầu năm 1968, xuất phát từ nhận định. So sánh lực lượng đã có lợi cho
ta sau hai mùa khô, đồng thời lợi dụng mâu thuẫn ở nước Mỹ trong những năm
bầu cử Tổng thống, ta chủ trương mở cuộc tấn công và nổi dậy trên toàn miền
Nam trọng tâm là các đô thị, nhằm tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân Mỹ,
quân đồng minh, đánh đòn mạnh vào chính quyền quân đội Sài Gòn. Giành
quyền chủ động về tay nhân dân, buộc Mỹ phải rút quân về nước.
Cuộc tổng tiến công nổi dậy trong ba đợt; đợt 1 từ đêm 30 tháng 1 đến
ngày 25 tháng 2, đợt 2 diễn ra trong tháng 6, tháng 7, đợt 3 diễn ra trong
tháng 8 và tháng 9 năm 1968. Mặc dù có tổn thất và hạn chế, song cuộc tấn
công và nổi dậy xuân Mậu Thân vẫn có ý nghĩa to lớn, làm lung lay ý chí
xâm lược của Mỹ buộc chúng phải tuyên bố “phi Mĩ hóa chiến tranh” chấm
dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đàm phán tại
Hội nghị Pari về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Đáp ứng yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam, từ ngày mùng 6
tháng 6 đến ngày mùng 8 tháng 6 năm 1969 Đại hội Đại biểu quốc dân miền
Nam Việt Nam đã quyết định thành lập “chính phủ cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam” do đồng chí Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch.
Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” thất bại Mỹ chuyển sang chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hóa chiến tranh”.
Đảng ta quyết định mở cuộc tổng tiến công chiến lược năm 1972. Ngày
30 tháng 3 năm 1972, cuộc tổng tiến công chiến lược bắt đầu. Tới cuối tháng
6 năm 1972 quân ta đã chọc thủng ba tuyến phòng ngự mạnh nhất của địch
là Quảng Trị, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Loại khỏi vòng chiến đấu hơn
hai mươi vạn quân Sài Gòn, giải phóng một vùng đất đai rộng lớn. Cuộc
tổng tiến công chiến lược đã giáng một đòn nặng nề vào chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh” buộc Mỹ phải tuyên bố “ phi Mĩ hóa trở lại chiến

tranh xâm lược”. Tức là thừa nhận sự thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa
chiến tranh”. Sau đó Mỹ - Ngụy tiếp tục chịu nhiều thất bại đặc biệt là thất
bại lớn nhất của chúng trong cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa xuân 1975 với
chiến thắng lịch sử 30/4.
Như vậy từ năm 1954 đến năm 1975 Mỹ – Ngụy, đã áp dụng rất nhiều
loại hình chiến tranh ở miền Nam. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân
và nhân dân ta đã từng bước đánh bại từng chiến lược chiến tranh, buộc Mỹ
phải ngồi vào bàn đàm phán và rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam.



11
1.2.3. Về xã hội
Dưới sự cai trị của Mỹ - Diệm, tình hình xã hội miền Nam có đặc điểm
hoàn toàn khác biệt so với miền Bắc. Khi Mỹ tràn vào miền Nam đầu độc
nhân dân ta nhất là tầng lớp thanh thiếu niên.
Sau khi thiết lập được quyền kiểm soát ở miền Nam, từ giữa năm 1955
Mỹ - Diệm phát động chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” giai đoạn một trên
toàn miền. Đã làm cho nhân dân phẫn nộ dẫn đến hàng loạt các cuộc đấu
tranh đã nổ ra.
Khi tiến hành “Chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam việc lập ấp chiến
lược được coi là “quốc sách” và “xương sống” của “Chiến tranh đặc biệt”.
Thế nhưng sau mười tám tháng dù đã bỏ ra không ít tiền bạc, nhiều cuộc càn
quét hết sức ác liệt, sử dụng cả máy bay, nhưng chúng vẫn không đạt được
mục tiêu.
Trong giai đoạn từ (1969 – 1975), Mỹ – Ngụy dùng mọi cách để thực
hiện việc “bình định”, “tát nước bắt cá” và đã đạt được một số thắng lợi
nhất định. Cuộc sống nhân dân miền Nam dưới sự cai trị của Mỹ – Ngụy hết
sức khổ cực, y tế giáo dục không được quan tâm và bị bóc lột nặng nề về
kinh tế đã gây nên sự bất mãn trong đồng bào quần chúng nhân dân, vì thế

nhân dân liên tục nổi dậy đấu tranh. Đây là những lực lượng đông đảo và
quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ - Ngụy.
1.3. Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng trong giai đoạn (1959 - 1975)
1.3.1. Nhiệm vụ chung của cách mạng hai miền
Ngày 12 tháng 9 năm 1960. Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao
động Việt Nam, được khai mạc tại Hà Nội trong bối cảnh cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc đang giành được nhiều thắng lợi trong việc thực hiện
nhiệm vụ cải tạo và phát triển kinh tế, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
ở miền Nam đã có được những bước chuyển nhảy vọt từ “Đồng khởi” cuối
1959 đầu 1960.
Trong bài diễn văn khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu
khái quát nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam và nhấn mạnh: “Đại hội
lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh
thống nhất nước nhà”.
Đại hội đã phân tích và căn cứ vào những đặc điểm và tình hình của
nước ta đó là tạm thời bị chia cắt làm hai miền dưới hai chế độ chính trị, xã
hội khác nhau. Từ đó đã xác định nhiệm vụ của cách mạng cả nước trong


12
giai đoạn này là: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ
vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng
thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng
cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”
[9,154].
Như vậy từ việc xác định nhiệm vụ chung của cách mạng cả nước, Đại
hội cũng đã đưa ra mục tiêu chung đó là nhanh chóng hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hoà bình thống nhất nước

nhà và đều nhằm giải quyết những mâu thuẫn tồn tại trong phạm vi cả nước
là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ xâm lược cùng bè lũ tay sai.
Đây chính là cơ sở để quân và dân hai miền tiếp tục giành được nhiều thắng
lợi hơn nữa góp phần quan trọng vào sự nghiệp thống nhất nước nhà.
1.3.2. Nhiệm vụ của miền Bắc
Do đặc điểm tình hình đất nước lúc này bị chia cắt làm hai miền với hai
chế độ Chính trị khác nhau. Vì vậy Đại hội Đảng lần thứ III đã xác định
nhiệm vụ của cách mạng miền Bắc là thuộc “chiến lược cách mạng xã hội
chủ nghĩa”.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là quá trình cải biến cách mạng
về mọi mặt nhằm đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sản xuất cá
thể về tư liệu sản xuất thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa dựa trên sở hữu
toàn dân và sở hữu tập thể, từ chế độ sản xuất nhỏ tiến lên chế độ sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa, từ nền kinh tế lạc hậu trở thành một nền kinh tế cân
đối và hiện đại. Công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm
của thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là con đường tất yếu
để cải biến nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu ở nước ta [9,155].
Với đường lối chiến lược này Đảng ta đã chỉ đạo việc thực hiện xây
dựng chủ nghĩa xã hội một cách quyết liệt để nhanh chóng đưa miền Bắc
phát triển và trở thành hậu phương vững chắc, là chỗ dựa cho cách mạng
miền Nam trong cuộc đấu tranh chống Mỹ – Diệm. Lúc này những hành
động leo thang và phá hoại Hiệp định Giơnevơ của chúng đã thể hiện rõ âm
mưu chia cắt và tách miền Nam ra khỏi Việt Nam cho nên nhiệm vụ đặt ra
đối với miền Bắc là phải tiến hành xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã
hội qua đó tạo ra sức mạnh về vật chất cũng như tinh thần chi viện cho tiền


13
tuyến lớn miền Nam. Bởi lẽ “Hậu phương là nhân tố thường xuyên quyết
định đến thắng lợi của cách mạng” (Lênin).

Cho nên hậu phương lớn miền Bắc có vững mạnh thì mới đưa đến thắng
lợi của tiền tuyến lớn miền Nam. Trong sự nghiệp giải phóng miền Nam
thống nhất đất nước.
1.3.3. Nhiệm vụ của miền Nam
Sau năm 1954 trong khi ta đang thực hiện rất đầy đủ và nghiêm túc
những tinh thần và nội dung của Hiệp định Giơnevơ thì ở miền Nam thì Mỹ
bắt đầu có hành động phá hoại hiệp định sau khi tuyên bố không chịu sự
ràng buộc về những điều khoản của Hiệp định. Vì thế chúng lập ra và dung
túng cho chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm thực hiện âm mưu chia cắt
Việt Nam lâu dài và lập nên cái gọi là “Nam kì tự trị”.
Xuất phát từ thực tế đó mà không thể tiến hành một đường lối cách
mạng tương tự như miền Bắc được. Cho nên Đại hội Đảng III đã xác định
nhiệm vụ của cách mạng miền Nam lúc này thuộc “chiến lược cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân”, để đánh đổ tập đoàn Mỹ – Diệm sau khi hoàn
thành nhiệm vụ này thì miền Nam sẽ cùng miền Bắc tiến lên con đường chủ
nghĩa xã hội mà Đảng và bác Hồ đã lựa chọn.



14
Tiểu kết chương 1

Bước sang năm 1959, tình hình đất nước có những chuyển biến mạnh
mẽ ở cả hai miền. Trong khi miền Bắc đang ra sức hàn gắn vết thương chiến
tranh, khôi phục phát triển kinh tế thì miền Nam phải đương đầu với nhiều
thử thách cam go do Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào miền Nam bằng việc
thao túng và dung dưỡng cho tập đoàn phản động tay sai Ngô Đình Diệm
điều này đã gây ra rất nhiều khó khăn cho lực lượng cách mạng miền Nam.
Lịch sử lại một lần nữa chứng minh sự lãnh đạo tài tình và sáng tạo của
Đảng trên bước đường trưởng thành. Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc

tiếp tục phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội và nhân dân miền Nam
đứng lên chống lại chính quyền Mỹ - Diệm để bảo vệ miền Nam, thống nhất
đất nước. Trong giai đoạn đầy biến động của lịch sử, sau khi phân tích đánh
giá tình hình Đảng đã phân công rõ nhiệm vụ và mối liên hệ của cách mạng
mỗi miền từ đó để mỗi miền thấy được trách nhiệm của mình ra và sức phấn
đấu nhằm hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng mà cả dân tộc đang hướng tới.
Giai đoạn (1959 – 1975) đánh dấu sự gắn kết máu thịt giữa hai miền đất
nước. Miền Bắc với tinh thần: “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu
một người”, “vì miền Nam, miền Bắc sẵn sàng mỗi người làm việc bằng
hai”. Nhân dân miền Nam sẽ chiến đấu đến hơi thở cuối cùng để đất nước
được độc lập, thống nhất để Nam – Bắc sớm xum họp một nhà.
Từ bối cảnh đất nước giai đoạn này với những biến động to lớn ở cả hai
miền đã bật lên yêu cầu, nhiệm vụ cấp thiết của việc thành lập tuyến đường
vận tải chi viện Bắc – Nam. Đã đưa đến sự ra đời của đường Trường Sơn
trên bộ và đường Hồ Chí Minh trên biển.





15
CHƯƠNG 2
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐƯỜNG
HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN (1959 – 1975)

2.1. Chủ trương mở tuyến đường vận tải chiến lược trên biển
“Đường biển là con đường duy nhất có thể chi viện cho đồng bằng sông
Cửu Long. Vậy nên phải giữ bằng được bí mật con đường đó. Phải kiểm tra
thật kỹ, nắm chắc từng chuyến đi. Không để có một sai sót nhỏ đáng tiếc
khiến kẻ địch nghi ngờ” [11,8]. Qua đánh giá của Đại tướng Võ Nguyên

Giáp chúng ta cũng đã thấy được phần nào về vai trò và ý nghĩa chiến lược
của con đường trong sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Cùng với đường Trường Sơn (đường Hồ Chí Minh trên bộ), thì đường mòn
trên biển Đông (đường Hồ Chí Minh trên biển) chính là một trong hai tuyến
giao thông huyết mạch chi viện cho chiến trường miền Nam và cũng từ con
đường huyền thoại này mà nhiều chiến tích lẫy lừng của quân và dân ta đã
xuất hiện trong cuộc đấu tranh chống Mỹ và tay sai giành độc lập dân tộc.
Có thể nói rằng, ngay trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, cũng đã có
những chuyến tàu và thuyền buồm vận chuyển vũ khí từ miền Bắc vào miền
Nam, từ Thái Lan về Nam Bộ đi trên tuyến đường này. Nhưng do điều kiện
hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ mà con đường này hầu như chưa được chú ý
tới, chính vì vậy mà ý nghĩa và tầm quan trọng của nó cũng chưa được bộc
lộ rõ ràng.
Năm 1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết miền Bắc hoàn toàn được giải
phóng, miền Nam còn tạm thời chịu sự thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước chưa hoàn thành.
Ở miền Nam lúc này cũng là thời kỳ cách mạng đang bước vào giai
đoạn khó khăn do những chính sách đàn áp và khủng bố tàn bạo của chính
quyền Mỹ - Diệm, với khẩu hiệu “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”. Đó là
chính sách “tố cộng, diệt cộng”, là đạo luật phát xít phản động (10 - 59).
Chúng đã lê máy chém đi khắp miền Nam thẳng tay chém giết, tàn sát.
Những chính sách đó của chúng đã khiến nhiều cơ sở Đảng và tổ chức cách
mạng của ta bị vỡ, hàng vạn cán bộ đảng viên bị bắt bị giết và lưu đày. Tất
cả đều nhằm vào việc thực hiện âm mưu tách miền Nam ra khỏi Việt Nam
và thành lập một chính phủ riêng.


16
Xuất phát từ hoàn cảnh đó ngày 13/1/1959 Ban chấp hành Trung ương
Đảng họp Hội nghị lần thứ 15 (khóa II) và đề ra Nghị quyết 15 để chỉ đạo

đường lối đấu tranh thống nhất nước nhà. Dưới ánh sáng Nghị quyết 15 của
ban chấp hành Trung ương Đảng, cách mạng miền Nam như có một luồng
gió thổi bùng ngọn lửa cách mạng vốn đang cháy âm ỉ. Trong vòng một năm
phong trào cách mạng đã lan rộng từ Nam Bộ ra khu 5, từ Tây Nguyên
xuống vùng đồng bằng ven biển duyên hải trước sự đàn áp tàn bạo của kẻ
thù phong trào đấu tranh càng phát triển mạnh hơn. Yêu cầu cấp bách đặt ra
lúc này đó là đòi hỏi về vũ khí là vô cùng cấp bách và có tính sống còn đối
với cách mạng ở đây.
Tháng 2/1959 Quân ủy Trung ương họp mở rộng để quán triệt Nghị
quyết 15 và bàn kế hoạch thực hiện nhiệm vụ chi viện cho miền Nam và
chuẩn bị sẵn sằng đưa quân đội và vũ khí cùng với các yếu phẩm khác vào
Nam chiến đấu. Theo chỉ thị của Bộ Chính trị tháng 5/1959 Tổng quân ủy
Trung ương quyết định thành lập cơ quan nghiên cứu về việc mở đường vận
tải trên bộ và trên biển để đưa lực lượng, vũ khí cho chiến trường miền
Nam. Sau một thời gian nghiên cứu chuẩn bị ngày 19/5/1959, đoàn vận tải
quân sự 559 được thành lập với lực lượng nòng cốt gồm hai tiểu đoàn:
1. Tiểu đoàn 301 gồm 500 cán bộ, chiến sỹ được tuyển chọn từ lữ đoàn
305 và một số đơn vị bộ đội miền Nam tập kết, do đại úy Chu Đăng Chữ
làm tiểu đoàn trưởng, đại úy Nguyễn Danh làm Chính trị viên, chịu trách
nhiệm mở đường trên bộ vào Nam!.
2. Tiểu đoàn 603 có 107 người do đồng chí Hà Văn Xá làm tiểu đoàn
trưởng và thượng úy Lưu Đức làm chính trị viên có trách nhiệm nghiên cứu
mở đường biển vào Nam. Ban đầu để giữ bí mật tiểu đoàn phải cải trang
dưới cái tên: “Tập đoàn đánh cá Sông Gianh” .
Tháng 7/1959, Tổng quân ủy Trung ương quyết định tổ chức tuyến
đường vận tải trên biển đây là một trong những nhiệm vụ lớn đầu tiên có ý
nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam [13,8].
Theo lệnh thì chuyến tàu đầu tiên của tiểu đoàn 603 (Tập đoàn đánh cá
Sông Gianh) gồm 6 người chở 5 tấn vũ khí và thuốc men cho quân khu 5,
địa điểm cập bến là chân đèo Hải Vân. Đêm 27/01/1960 (tức 30 tết năm

Canh Tý), thuyền nhổ neo ra khơi song trên đường đi đã gặp bão với sóng
to, gió lớn nên thuyền đã bị hỏng và còn phải đương đầu với kẻ thù. Để giữ
bí mật con đường anh em phải thả toàn bộ số hàng gồm vũ khí và thuốc men
xuống biển, sau đó họ bị địch bắt 4 người đã hy sinh một người bị đày ra


17
Côn Đảo. Chuyến vận chuyển hàng đầu tiên của tiểu đoàn vận tải thủy 603
không thành công nhưng qua đó Tổng quân ủy Trung ương và Bộ tổng tư
lệnh đã rút ra kết luận quan trọng là không thể dùng thuyền buồm để vận
chuyển chi viện cho chiến trường. Đường xa, sóng gió bất thường thuyền lại
chở nặng lại hoàn toàn phụ thuộc vào sức gió và khả năng bơi chèo của các
thủy thủ thì khó có thể thành công.
Vì vậy, Tổng quân ủy và Bộ tổng tư lệnh chỉ thị cho tiểu đoàn vận tải
thủy 603 ngừng hoạt động. Trong khi chờ phương án mới tiểu đoàn tạm thời
sáp nhập vào tiểu đoàn 301 thuộc đoàn 559 làm nhiệm vụ mở đường Trường
Sơn trên bộ, lúc này cách mạng miền Nam đang tiếp tục có những bước phát
triển mới. Ngày 20/12/1960 Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam được
thành lập để chỉ đạo cách mạng.
Tháng 1/1961, Bộ Chính trị chỉ thị: “Tích cực tiêu diệt địch, bảo tồn và
phát triển lực lượng của ta, làm tan dã chính quyền và lực lượng địch trên
phạm vi ngày một rộng lớn; tạo ra điều kiện và mọi thời cơ thuận lợi để
đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm” [13,10]. Do đó nhiệm vụ vận tải chiến
lược phải theo kịp tình hình phát triển của chiến trường, nếu có điều kiện
phải đi trước một bước. Lúc này tuyến đường chi viện trên bộ (đường
Trường Sơn) chưa thể vươn tới Đông Nam Bộ, còn đồng bằng Nam Bộ thì
rất khó để vươn tới: trong khi đó chiến trường Nam Bộ đang đòi hỏi vũ khí
ngày càng cấp bách, có tính sống còn đối với phong trào cách mạng ở đây.
Xuất phát từ những điều kiện cụ thể đó Bộ Chính trị đã hạ quyết tâm mở
bằng được con đường mòn trên biển này.

Ngày 23 tháng 10 năm 1961, Bộ Tổng tư lệnh ra Quyết định số 97/QP
do Thứ trưởng Hoàng Văn Thái ký, thành lập Đoàn 759 đặt dưới sự quản lý,
chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tổng tư lệnh, làm nhiệm vụ vận chuyển chiến lược
theo đường biển chi viện cho cách mạng miền Nam [11,65].
Đây chính là yêu cầu cấp thiết mà lịch sử đã đặt ra, từ đó khai sinh ra một
con đường đã trở thành huyền thoại mang đầy sức mạnh, sự sáng tạo và ý chí
của con người Việt Nam đó chính là con đường mòn Hồ Chí Minh trên biển.
2.2. Quá trình hình thành đường Hồ Chí Minh trên biển (1959 - 1965)
2.2.1. Giai đoạn thăm dò và xác định phương án (1959 - 1962)
Trước những đòi hỏi cấp thiết của cách mạng miền Nam và việc con
đường Trường Sơn trên bộ mới đến được khu 5 bằng phương pháp vận
chuyển thô sơ rất gian nan mà không hiệu quả, mỗi chiến sỹ cố gắng lắm


18
cũng chỉ gùi được 20kg hàng; muốn chở 10 tấn hàng phải cần đến 500
người, chưa kể đến khi ốm đau, địch đánh phá, người phục vụ và tổn thất do
nhiều nguyên nhân khác nhau. Vậy chiến trường cần 100 tấn, 1000 tấn hàng
thì phải cần bao nhiêu người? trong bao nhiêu năm? Lúc này nếu mở được
con đường biển thì 100 tấn hàng chỉ cần 1 chiếc thuyền với 15 thủy thủ đi
trong một tuần là tới nơi, do đó không còn con đường nào khác là bằng
đường biển. Đây chính là điểm tựa để Bộ Chính trị hạ quyết tâm để mở bằng
được con đường vận tải trên biển.
Ngay trong quý I năm 1961, Bộ tổng tham mưu đã hoàn thành đề án về
tổ chức con đường vận chuyển chiến lược trên biển chi viện cho chiến
trường miền Nam.
Nội dung đề án nêu rõ:
“1. Phương châm tổ chức vận tải: Tận dụng mọi hình thức hợp pháp, bất
hợp pháp là chủ yếu; xây dựng khả năng chuyên môn và phương tiện ở miền
Bắc, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của miền Nam; kiên quyết bảo vệ hàng

trong mọi trường hợp; khi không bảo vệ được hàng thì triệt để thủ tiêu
không để lọt hàng vào tay địch; tuyệt đối giữ bí mật mọi kế hoạch hoạt động
của cơ quan, đơn vị.
2. Phương pháp tiến hành: Phải bảo đảm chắc ăn, lợi dụng sơ hở của địch để tổ
chức vận chuyển theo khả năng phương tiện vận tải thô sơ, bán hiện đại; kết
hợp mọi hình thức hợp pháp để tổ chức vận chuyển vững chắc, lâu dài.
3. Nguyên tắc xây dựng lực lượng: Gọn, nhẹ bảo đảm chất lượng, tập trung
nhanh chóng xây dựng thuyền buồm kết hợp với máy đẩy, nghiên cứu tổ
chức thủy đội hải quân để không bị động về thời tiết. Về cán bộ và thủy thủ,
yêu cầu tiêu chuẩn trình độ giác ngộ chính trị cao, chuyên môn giỏi, sức
khỏe tốt.
4. Nhiệm vụ: Nghiên cứu đóng thuyền máy trọng tải 15 đến 30 tấn, tận dụng
phương tiện của miền Nam để tăng khả năng vận chuyển. Trước mắt tập
trung vận chuyển hàng hóa và vũ khí vào chiến trường Nam Bộ.
5. Tổ chức biên chế: Phải hết sức gọn nhẹ, cụ thể gồm các khối cơ quan và
khối các đội tàu thuyền. Khối cơ quan gồm các ban tham mưu, chính trị, hậu
cần, hành chính. Ban chính trị có chức năng nhiệm vụ nghiên cứu công tác
chính trị cho đoàn và các đội tàu thuyền bảo đảm sinh hoạt chặt chẽ để lãnh
đạo tư tưởng sát với yêu cầu, nhiệm vụ của đơn vị; nghiên cứu công tác giữ
bí mật từng bộ phận ” [11,47].


19
Ngay sau đó Bộ tham mưu đề nghị Bộ Tổng tư lệnh thành lập Đoàn vận
tải thủy lấy tên là Đoàn 759 và cho tổ chức cán bộ để xây dựng đoàn. Trong
thời gian đang chuẩn bị xây dựng lực lượng để đảm nhận công tác chi viện
cho miền Nam bằng đường biển thì theo đề án của Bộ Tổng tham mưu, Bộ
Chính trị đã chỉ thị cho Trung ương cục miền Nam về việc chỉ đạo các tỉnh
ven biển miền Trung và Nam Bộ chủ động chuẩn bị bến bãi và tổ chức đưa
thuyền vượt biển ra Bắc vừa thăm dò, nắm tình hình địch và nghiên cứu

tuyến vận tải chuyển trên biển, vừa nhận vũ khí về kịp thời cung cấp cho
phong trào đấu tranh cách mạng ở miền Nam đang phát triển. Năm 1961
theo chỉ đạo của Trung ương cục miền Nam những “con cá kình” của Nam
Bộ đã vượt biển ra Bắc nhận vũ khí.
- Hai con tàu của bến tre do Đặng Bá Tiên và Lê Công Cẩn lên đường.
Ngày 09/06/ năm đó, một chiếc đã cập vào Hà Tĩnh, ngày 28/08/ một chiếc
đã cập vào Thanh Hóa.
- Tàu của Cà Mau do Bông Văn Dĩa phụ trách xuất phát từ Cà Mau, đến
ngày 07/08 đã vào cửa sông Nhật Lệ.
- Tàu của Trà Vinh do Thuyền trưởng Nguyễn Thanh Lồng và Thuyền
trưởng Hồ Văn In dẫn đầu, bị dạt sang Macao, cuối cùng được đưa về
Quảng Châu và theo đường bộ về Hà Nội.
- Tàu của Bà Rịa do Nguyễn Văn Phe dẫn đầu, dạt sang Hải Nam và đến
giữa năm 1962 mới về tới miền Bắc [10,73].
Như vậy sau chuỗi hành trình dài với rất nhiều khó khăn, hiểm nguy và
gian khổ thì tất cả những con cá kình của Nam Bộ đã ra đến miền Bắc.
Mang theo niềm tin và hi vọng của Phương Nam để gửi tới Đảng và bác Hồ
những nguyện vọng tha thiết và cháy bỏng của họ đó là vũ khí để bảo vệ quê
hương. Miền Nam đang rất cần hơi thở và nhịp đập của miền Bắc xã hội chủ
nghĩa, trong những chuyến đi này đã giúp cho bản thân các thủy thủ hiểu
được tình hình trên biển và quan trọng hơn là giúp cho Trung ương kiểm
nghiệm được các tình huống để tìm ra giải pháp mới. Sau khi trao đổi với
các đoàn, Quân ủy Trung ương quyết định: Về phương tiện, miền Bắc sẽ
đóng tàu để đảm bảo kỹ thuật về mặt đi biển, đảm bảo ngụy trang tối đa để
tránh sự kiểm soát của địch. Đội hình do Đoàn 759 phụ trách, điều quan
trọng là thăm dò bến bãi và cách thức đưa vũ khí lên bờ Quân ủy Trung
ương quyết định cử một tàu trở lại miền Nam, do Thuyền trưởng Bông Văn
Dĩa phụ trách để thẩm định một trong ba phương án sau:



20
1. Lấy các đảo Thổ Chu, Phú Quốc, Nam Du, Hòn Ông, Hòn Bà làm
căn cứ để xây dựng hầm cất giấu vũ khí. Tàu từ ngoài Bắc đưa hàng về đó
rồi các tàu thuyền trong đất liền ra chở dần về.
2. Chọn một số điểm thuộc khu vực Hòn Chuối hay các cửa sông để thả
hàng xuống biển. Sau đó sẽ dùng thuyền đánh cá để vớt hàng lên đưa vào bờ.
3. Nếu hai phương án trên không thuận lợi thì chọn phương án dự
phòng: Tìm một số cửa sông thuộc khu vực Cà Mau để đưa thẳng hàng vào
[10,74].
Đêm 10/04/1962, thuyền rời cửa sông Nhật Lệ để vào Nam thực hiện
nhiệm vụ được giao. Trải qua hơn mười ngày lênh đênh trên biển đối mặt
với hiểm nguy nhưng với sự kiên gan và lòng dũng cảm họ đã vào cửa Bồ
Đề thuộc Cà Mau ngày 18/04 an toàn, nhiệm vụ trinh sát đã hoàn thành. Sau
khi nghe Bông Văn Dĩa báo cáo tình hình và truyền đạt ý kiến chỉ đạo của
Trung ương, Khu ủy Khu IX, quyết định thành lập một đơn vị chuyên trách
“chỉ đạo công tác vận tải chiến lược bằng đường biển”, lấy phiên hiệu là
HN75. Có nhiệm vụ khảo sát toàn bộ vùng biển Cà Mau, xác định bến bãi
tiếp nhận hàng, báo cáo kết quả cho khu ủy.
Qua thăm dò và xác định phương án 1 và 2 không thể thực hiện được.
Vì tàu tuần tiễu của địch dày đặc, nếu đưa vũ khí lên đảo rồi mới đưa vào
đất liền thì thời gian có mặt ở ven biển dài hơn và xác suất chạm chán với
địch rất cao. Do đó, HN75 đề nghị chọn phương án 3: Vì có thể lợi dụng
thời cơ tàu phóng thẳng vào bến bãi trên đất liền, rút ngắn thời gian bị địch
phát hiện sau đó lại dễ cất giấu cả tàu lẫn vũ khí. Tháng 07/1962 Bông Văn
Dĩa trở ra báo cáo tình hình với Trung ương, phương án 3 đưa tàu vào cửa
sông đã được lựa chọn.
Như vậy với sự thành công của chuyến đi trinh sát này đã mở ra một
hướng chi viện mới cho chiến trường miền Nam bằng đường biển tháng
08/1962 Quân ủy Trung ương thông qua Nghị quyết mở đường vận chuyển
chiến lược trên biển, từ đây con đường huyền thoại trên biển Đông với bao

kỳ tích có một không hai trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc với
những “con tàu không số” lúc ẩn, lúc hiện trên mặt biển làm nhiệm vụ tiếp
tế vũ khí cho chiến trường bắt đầu được dệt lên trên mặt biển mênh mông.
Lịch sử dân tộc lại được bồi đắp thêm những điểm độc đáo và sáng tạo mới
về nghệ thuật Quân sự, trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.



21
2.2.2. Giai đoạn vận chuyển bí mật (1962 – 1965)
Sau quá trình thăm dò và xây dựng phương án, đặc biệt là sự thành công
của chuyến đi trinh sát thì công việc chuẩn bị cho những chuyến tàu đầu tiên
ra khơi đang được tiến hành với nhịp độ cao nhất để nhanh chóng chi viện
cho chiến trường miền Nam qua đó sẽ chính thức khai thông con đường
chiến lược này. Xưởng đóng tàu I Hải Phòng được giao nhiệm vụ sửa chữa
những chiếc thuyền của miền Nam đưa ra và đóng mới thêm 4 chiếc thuyền
có hình dạng như thuyền đánh cá miền Nam, đầu tháng 10 thì mọi công tác
chuẩn bị cho chuyến đi đầu tiên gần như đã hoàn thành.
22 giờ 30 phút ngày 11 tháng 10 năm 1962, chiếc tàu (vỏ gỗ) thực hiện
chuyến đi đầu tiên gọi là tàu “Phương Đông 1” cùng với 13 cán bộ, đảng
viên do Thuyền trưởng Lê Văn Một và Chính trị viên Bông Văn Dĩa chỉ huy,
chở 28,213 tấn vũ khí rời bến Vạn Sét, Đồ Sơn đi Cà Mau [11,91].
Chuyến đi lần này không chỉ mang trên mình trách nhiệm lớn lao là
khai thông tuyến đường biển chiến lược mà còn đưa tới miền Nam vũ khí,
niềm tin, hơi thở và nhịp đập của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Điều này có
nghĩa là không được phép thất bại và tất cả thủy thủ trên tàu đều ý thức
được trách nhiệm thiêng liêng mà họ phải gánh vác, tuy nhiên với tinh thần
của những người con Thành đồng Tổ quốc đang mang trên mình vũ khí về
để giải phóng quê hương. Nhiệm vụ này không những không trở thành áp
lực mà trái lại càng làm cho họ quyết tâm hơn để hoàn thành nó. Ngày

19/10/1962 sau khi vượt qua bao nhiêu khó khăn sóng gió, con tàu “Phương
Đông 1” cũng đã cập bến Vàm Lũng Cà Mau an toàn lúc này công tác bốc
rỡ hàng hóa được tiến hành rất khẩn trương hàng chục chiếc thuyền, ghe
được điều ra để nhận hàng, cất giấu suốt ba ngày đêm mới xong. Thông tin
về thắng lợi của chuyến đi đã ngay lập tức được báo cáo lên Chủ tịch Hồ
Chí Minh, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương. Bác đã thay mặt Bộ Chính
trị, Quân ủy Trung ương biểu dương chiến công xuất sắc đó và chỉ thị:
“Nhanh chóng rút kinh nghiệm, tiếp tục vận chuyển nhanh, nhiều vũ khí hơn
nữa cho đồng bào miền Nam đánh giặc, cho Nam - Bắc sớm sum họp một
nhà” [3,163].
Thắng lợi của tàu “Phương Đông 1”. Đã chính thức mở ra con đường
vận chuyển trên biển nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn
miền Nam, đó là tiền đề quan trọng để mở ra những chiến công và thắng lợi
của những con tàu tiếp theo, nó còn mở ra một trang sử mới một trận tuyến


22
mới mà ở đó in đậm những chiến công hiển hách của những người lính biển
trên con đường huyền thoại này.
Trên cơ sở thắng lợi đó thì đêm 19/10/1962. Tàu “Phương Đông 2” do
Đồng chí Đinh Đạt làm Thuyền trưởng và Đồng chí Lê Công Cẩn làm Chính
trị viên cùng với các anh em thủy thủ chở theo 14 tấn vũ khí đã xuất phát tại
bến Đồ Sơn vào Nam. Trải qua gần một tuần lễ vượt biển thì tàu “Phương
Đông 2” cũng đã cập bến Cà Mau giữa ban ngày trong sự ngỡ ngàng của các
anh em trên bến.
Đồng chí Nguyễn Văn Phán (Tư Đức) được Khu ủy Khu 9 giao phụ
trách bến vui mừng ôm từng người trên tàu và xúc động nói rằng: “Các
đồng chí không chỉ đưa hàng vào cho chúng tôi, mà còn mang đến cho
chúng tôi cả tình thương của Đảng, của Bác và đồng bào miền Bắc. Điều ấy
sẽ giúp chúng tôi phá tan nhiều cuộc càn của giặc” [11,96].

Ngày 14/11/1962, tàu “Phương Đông 3” chở 32 tấn vũ khí rời bến Đồ
Sơn, ngày 14/12/1962 tàu “Phương Đông 4” xuất phát chở 37 tấn vũ khí và
cả hai chuyến Tàu này đã đều cập bến an toàn.
Như vậy sau hơn hai tháng cả 4 chuyến Tàu đều đã xuất phát và tới đích
an toàn với số hàng cùng vũ khí vận chuyển lên tới 112 tấn vào Khu 9. Qua
đó đã đánh dấu những thành công đầu tiên trên con đường huyền thoại này.
Ở miền Nam. Sau khi được tăng viện, nhân dân đã tổ chức hàng loạt các
cuộc chiến tranh du kích và giành được nhiều thắng lợi quan trọng, nó đã
làm cho chính quyền Mỹ - Diệm bị lung lay tận gốc. Tuy nhiên Mỹ không
dễ dàng chịu chấp nhận thực tế này và để đưa chiến tranh đi xa hơn nữa,
Chính quyền Mỹ đẩy mạnh tăng viện cho Ngô Đình Diệm, đó cũng là cơ sở
quan trọng để chúng đưa ra những chiến lược chiến tranh mới. Sau khi lên
thay Aixenhao, Kennơđi đã đưa ra chiến lược “phản ứng linh hoạt”, thay
cho chiến lược “trả đũa ồ ạt”, với 3 loại hình chiến tranh: “Chiến tranh
Đặc Biệt”, “Chiến tranh Cục Bộ” và “Chiến tranh Tổng lực”. Ngay lập tức
chúng đã tiến hành hàng loạt các cuộc hành quân “bình định” và “tìm diệt”
nhằm vào căn cứ cách mạng của ta. Điều này đã chứng tỏ âm mưu và tham
vọng của Mỹ - Diệm qua đó cũng thấy được những khó khăn mà ta phải
đương đầu. Trước yêu cầu phát triển, đòi hỏi của Cách mạng miền Nam đặc
biệt là yêu cầu về vũ khí để trang bị cho các lực lượng vũ trang đang ngày
càng lớn mạnh vì vậy công tác vận chuyển hàng và vũ khí phải nhanh chóng
đẩy mạnh hơn nữa để đáp ứng được nhu cầu về vũ khí cho miền Nam. Quân
ủy Trung ương nhận thức được rằng để công tác vận chuyển chi viện được


23
nhanh, nhiều vũ khí và hàng từ miền Bắc vào thì phải cải tổ và nâng cấp tất
cả các khâu từ thuyền bè đến bến bãi đến các công tác khác, được sự chấp
thuận của Bộ Tổng tư lệnh, Đoàn 759 đã ngay lập tức tiến hành các công tác
cải tổ để đẩy mạnh chi viện. Bộ Quốc phòng đề nghị xưởng đóng tàu III Hải

Phòng đảm nhận nhiệm vụ đóng những con tàu bằng sắt có trọng tải từ 50 -
100 tấn, nhưng phải tuyệt đối giữ bí mật về mục đích sử dụng và phải tiến
hành nhanh nhất có thể. Sau 6 tháng khẩn trương, ngày 28/02/1963 chiếc tàu
sắt đầu tiên đã hoàn thành và giao cho đoàn 759 cùng với đó công tác chuẩn
bị, xây dựng bến bãi được đẩy mạnh bằng việc thành lập Đoàn 962 cuối
1962, do Đồng chí Phạm Thái Bường, bí thư Khu 9 ký quyết định thành lập
để làm nhiệm vụ xây dựng các bến bãi ven biển miền Nam tiếp nhận hàng từ
miền Bắc chuyển vào cất giữ và bảo quản rồi đưa về các chiến trường theo
yêu cầu, quy mô tổ chức tương đương cấp Sư đoàn. Với việc đẩy mạnh xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho Đoàn 759 và công tác chuẩn bị bến bãi
nhận hàng liên tục được củng cố càng làm cho công tác vận chuyển được dễ
dàng, nhanh chóng và hiệu quả hơn thời điểm trước. Đây là cơ sở để các con
tàu không số liên tục cập bến miền Nam, mang theo hàng trăm, hàng nghìn
tấn vũ khí và hàng hóa vào Nam.
Ngày 17/03/1963 chiếc tàu sắt đầu tiên mang số hiệu 43, chở 44 tấn vũ
khí lên đường do Đồng chí Đinh Đạt làm Thuyền trưởng, Đồng chí Nguyễn
Văn Tiến làm Chính trị viên cùng với các thủy thủ, đến đêm 23 rạng ngày
24/03/1963 thì cập bến Trà Vinh. Việc vận chuyển bằng tàu sắt đã mở ra
giai đoạn phát triển mới trong công tác chi viện bằng đường biển.
Trên tinh thần tích cực, khẩn trương ngày 14/04 chiếc tàu sắt thứ 2
mang số hiệu 56 đã chở 60 tấn vũ khí lên đường, do Đồng chí Vũ Tấn Ích
làm Thuyền trưởng, Đồng chí Thuyền phó cùng 11 thủy thủ lên đường vào
Cà Mau an toàn. Từ thành công đó Đoàn 759 liên tục được nhận bổ xung
thêm nhiều chiếc tàu sắt nữa nó đã làm cho khối lượng hàng hóa, vũ khí vận
chuyển được tăng lên từng ngày.
Ngày 19/05 tàu 67 do Đồng chí Nguyễn Thanh Trầm làm thuyền
trưởng, Đồng chí Nguyễn Văn Tiến làm Chính trị viên cùng 12 thủy thủ chở
63 tấn vũ khí cập bến Trà Vinh an toàn.
Ngày 03/06 chiếc tàu sắt 56 lại tiếp tục hành trình vào Nam do Đồng
chí Vũ Tấn Ích làm Thuyền trưởng, Đồng chí Nguyễn Ngọc Ảnh Thuyền

phó cùng 12 thủy thủ chở 63 tấn vũ khí đến Cà Mau giao hàng an toàn.

×