Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC: NÂNG CAO VIỆC PHÁT TRIỂN TƯ DUY CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI QUA VIỆC GIÚP TRẺ LÀM QUEN TRUYỆN CỔ TÍCH Ở TRƯỜNG MẦM NON THỊ TRẤN YÊN THỊNH - NINH BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (871.84 KB, 57 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC


AN THỊ TÂM

NÂNG CAO VIỆC PHÁT TRIỂN TƯ DUY CHO TRẺ
5 - 6 TUỔI QUA VIỆC GIÚP TRẺ LÀM QUEN TRUYỆN
CỔ TÍCH Ở TRƯỜNG MẦM NON THỊ TRẤN
YÊN THỊNH - NINH BÌNH











KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC









Sơn La, năm 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC







AN THỊ TÂM

NÂNG CAO VIỆC PHÁT TRIỂN TƯ DUY CHO TRẺ
5 - 6 TUỔI QUA VIỆC GIÚP TRẺ LÀM QUEN TRUYỆN
CỔ TÍCH Ở TRƯỜNG MẦM NON THỊ TRẤN
YÊN THỊNH - NINH BÌNH



CHUYÊN NGÀNH: PHƯƠNG PHÁP CHO TRẺ LÀM QUEN
VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Người hướng dẫn: ThS. Trịnh Thị Hồng




Sơn La, năm 2013
LỜI CẢM ƠN

Khóa luận tốt nghiệp được hoàn thành dựa trên sự hướng dẫn khoa học của
cô giáo, Thạc sĩ Trịnh Thị Hồng. Nhân dịp khóa luận được công bố, chúng em
xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô, Thạc sĩ Trịnh Thị Hồng - người đã trực tiếp
hướng dẫn, chỉ bảo, tận tình cho chúng em trong quá trình thực hiện đề tài này.
Em xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới Phòng đào tạo, các thầy cô
giáo trong khoa Tiểu học - Mầm non, Thư viện trường Đại học Tây Bắc, các ban
ngành chức năng và tập thể lớp K50 ĐHGD Mầm non.
Đồng thời em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới ban giám hiệu trường Mầm
non Thị trấn Yên Thịnh - Ninh Bình đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình thực
hiện khóa luận này.
Với nội dung khóa luận này em rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp của thầy cô và các bạn!
Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô và các bạn

Sơn La, tháng 5 năm 2013
Người thực hiện
An Thị Tâm

DANH MỤC VIẾT TẮT

CĐSP : Cao đẳng sư phạm
ĐC : Đối chứng
ĐHGD : Đại học giáo dục
SL : Số lượng
TC : Tiêu chí
TCSP : Trung cấp sư phạm

TN : Thực nghiệm


MỤC LỤC

I. PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3.Mục đích nghiên cứu 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
5. Giới hạn nghiên cứu 3
5.1. Khách thể và địa bàn nghiên cứu 3
5.2. Đối tượng nghiên cứu 4
6. Phương pháp nghiên cứu 4
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận 4
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn 4
6.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm 4
7. Giả thuyết khoa học 4
8. Đóng góp của đề tài 4
9. Cấu trúc của khóa luận 4
PHẦN NỘI DUNG 5
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 5
1.1. Khả năng phát triển tâm sinh lý và tư duy của trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) 5
1.2. Vai trò của truyện cổ tích 8
1.3. Phân loại truyện cổ tích 10
1.4. Đặc điểm tiếp nhận truyện cổ tích của trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) 11
Tiểu kết 13
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG DẠY HỌC CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI Ở
TRƯỜNG MẦM NON THỊ TRẤN YÊN THỊNH – NINH BÌNH 14
2.1. Khảo sát thực trạng dạy học ở trường Mầm non Thị trấn Yên Thịnh – Ninh

Bình 14
2.1.1.Mục đích khảo sát 14
2.1.2. Thời gian khảo sát 14
2.1.3. Phương pháp khảo sát 14
2.1.4. Nội dung khảo sát 14
2.1.4.1.Khảo sát chương trình, nội dung dạy học về truyện cổ tích của trẻ 5 - tuổi
14
2.1.4.2. Khảo sát hoạt động dạy học của giáo viên giúp trẻ làm quen với truyện
cổ tích 15
2.1.4.3. Khảo sát hoạt động học của trẻ qua việc làm quen với truyện cổ tích 18
Tiểu kết 20
CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP DẠY HỌC, THIẾT KẾ VÀ THỰC
NGHIỆM SƯ PHẠM 21
3.1. Đề xuất biện pháp để nhằm nâng cao phát triển tư duy cho trẻ qua việc giúp
trẻ làm quen truyện cổ tích 21
3.1.1. Giúp trẻ làm quen truyện cổ tích bằng phương pháp kể diễn cảm 21
3.1.2. Giúp trẻ làm quen truyện cổ tích bằng phương pháp đàm thoại 23
3.1.3. Giúp trẻ làm quen truyện cổ tích bằng phương pháp trực quan 25
3.1.4.Giúp trẻ làm quen truyện cổ tích bằng phương pháp trao đổi, gợi mở 26
3.2. Thiết kế và thực nghiệm sư phạm 28
3.2.1. Những vấn đề chung 28
3.2.1.1. Mục đích thực nghiệm 28
3.2.1.2. Đối tượng thực nghiệm 28
3.2.1.3. Phạm vi thực nghiệm 28
3.2.1.4. Điều kiện thực nghiệm 28
3.2.1.5. Thời gian thực nghiệm 29
3.2.1.6. Nội dung thực nghiệm 29
3.2.1.7. Tổ chức thực nghiệm 29
3.2.1.8. Chuẩn bị cho thực nghiệm 29
3.2.2. Tiến hành thực nghiệm 30

3.2.2.1. Tiến trình một số bài soạn thực nghiệm 30
3.2.2.2 Gợi ý tiến trình một số bài soạn thực nghiệm 30
3.3. Phân tích kết quả thực nghiệm 40
Tiểu kết 43
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 44
1. Kết luận 44
2. Kiến nghị 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO 46

1
I. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc
dân. Qua hơn 60 năm hoạt động, ngành giáo dục mầm non đã không ngừng đổi
mới về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nhằm giúp trẻ hoàn
thiện và phát triển nhân cách một cách toàn diện.
Trẻ mẫu giáo ở lứa tuổi 5 đến 6 tuổi đã có sự phát triển về mặt tư duy, nhận
thức, chú ý và ghi nhớ có chủ định hơn ở lứa tuổi mẫu giáo bé và mẫu giáo nhỡ.
Lứa tuổi này trẻ ham học hỏi, khám phá thế giới xung quanh. Đây là lứa tuổi
quan trọng đối với trẻ, là giai đoạn chuẩn bị để trẻ chuyển từ môi trường hoạt
động vui chơi ở trường mầm non sang môi trường hoạt động ở trường phổ
thông. Chính vì vậy, giáo viên cần giúp trẻ hình thành và phát triển về nhận
thức, luôn có được sự tự tin để trẻ bước vào học lớp 1. Muốn phát triển về nhận
thức, trước hết trẻ phải có vốn ngôn ngữ mà ngôn ngữ là một trong những yêu
cầu quan trọng nhất, nó là công cụ của tư duy và là phương tiện giao tiếp. Hay
nói cách khác, chúng ta cần phải nâng cao việc phát triển tư duy cho trẻ nhằm
làm phong phú thêm vốn từ cho trẻ để trẻ có thể nhận thức tốt khi bước vào
trường phổ thông.
1.2. Văn học là một loại hình nghệ thuật có vai trò to lớn quan trọng trong

việc hình thành và phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Dẫn dắt trẻ vào thế giới
văn học là nhiệm vụ quan trọng của trường mẫu giáo. Đó là sự mở cửa cho con
người đi từ những bước chập chững đầu tiên vào thế giới các giá trị phong phú
chứa đựng trong tác phẩm văn học. Sự tiếp xúc thường xuyên của trẻ mẫu giáo
với tác phẩm văn học được lựa chọn sẽ kích thích ở trẻ sự nhạy cảm thẩm mỹ,
sự phát triển ngôn ngữ, trí tuệ. Văn học góp phần hình thành trí tuệ cho trẻ ở lứa
tuổi mẫu giáo, việc hình thành và phát triển hoạt động văn học là một hình thức
quan trọng để phát triển tính cá nhân, tính độc lập sáng tạo ở trẻ.
Kể chuyện cổ tích là một trong những nội dung của chương trình cho trẻ
làm quen với tác phẩm văn học ở trường mầm non. Đây là hoạt động cơ bản giúp
trẻ rèn luyện thực hành, trải nghiệm nghệ thuật. Có lẽ, đối với trẻ thơ không có món
quà nào hấp dẫn bằng những câu chuyện kể. Từ những em bé nhút nhát, yếu đuối
nhất cho những em bướng bỉnh nhất, truyện kể đều làm cho các em say sưa, thích
thú. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này qua việc quan sát lớp mẫu giáo trong giờ kể
chuyện cổ tích, chúng ta dễ dàng nhận thấy sự lôi cuốn của câu chuyện đối với trẻ
thơ đến nhường nào, cả lớp ngồi trật tự nghe cô kể, chú ý nhìn cô giáo và sự biến

2
đổi nét mặt của trẻ theo tình tiết của câu chuyện, đó là những lúc căng thẳng, lúc
buồn đăm chiêu lo lắng, lúc giọng nhẹ nhàng, to, nhỏ, trầm ấm. Thông qua những
câu truyền cổ tích, trẻ biết yêu thương, biết mơ ước hướng tới một cuộc sống
tươi đẹp hơn.
Có thể nói rằng, hạnh phúc nhất là trẻ em được sống với tuổi thơ của mình
trong thế giới của truyện cổ tích. Thật thú vị biết bao khi các em được cô giáo,
bố mẹ, ông bà kể cho nghe những câu chuyện cổ tích có những câu chuyện sẽ đi
theo suốt cuộc đời các em. Như vậy, rõ ràng truyện cổ tích có nhiều yếu tố đáp
ứng được nhu cầu tinh thần cho con người nói chung và cho trẻ thơ nói riêng, đó
là một món ăn tinh thần không thể thiếu đối với trẻ mẫu giáo.
1.3. Trên thực tế ở một số trường mầm non hiện nay các giáo viên chưa
thực sự quan tâm tới việc làm thế nào giúp trẻ làm quen với truyện cổ tích một

cách hiệu quả nhất, khơi dậy trong các em sự rung động thật sự trước cái hay,
cái đẹp của thể loại này.
Với những lý do trên tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Nâng cao việc phát
triển tư duy cho trẻ 5 - 6 tuổi qua việc giúp trẻ làm quen truyện cổ tích ở trường
Mầm non Thị trấn Yên Thịnh - Ninh Bình”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Văn học là một loại hình nghệ thuật, là một bộ phận hoạt động tinh thần
làm nên sự phong phú của nhân cách và làm nảy sinh tư tưởng đối với trẻ thơ.
Với sự bùng nổ của khoa học kĩ thuật và quá trình phát triển văn hóa toàn cầu
cùng với những thành tựu tiến bộ khoa học về tâm lí học, lí luận dạy học là cơ
sở để cho một số tác giả đi vào tìm hiểu, xây dựng một số phương pháp dạy học
nói chung, dạy kể chuyện cổ tích ở trường mẫu giáo nói riêng nhằm đạt hiệu quả
cao hơn.
Vài thập kỉ lại đây, vấn đề phương pháp kể chuyện cho trẻ mẫu giáo đã
được các nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Qua quá trình tìm hiểu
và nghiên cứu tôi thấy có rất nhiều các nhà tâm lí học, giáo dục học, các tác giả trong
và ngoài nước quan tâm và nghiên cứu vấn đề này.
Cuốn phương pháp kể chuyện sáng tạo truyện cổ tích thần kì cho trẻ mẫu
giáo của PGS-TS.Hà Nguyễn Kim Giang (2006). Ở cuốn này tác giả đi nghiên
cứu các phương pháp kể chuyện cổ tích thần kì cho trẻ mẫu giáo.
Cuốn Đặc điểm ngôn ngữ kể chuyện trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi của Lê Thị
Kim Anh (2004)

3
Khóa luận của Quàng Thị Tiên, lớp k47 ĐHGD Mầm non, khoa Tiểu học -
Mầm non, trường Đại học Tây Bắc, Một số biện pháp rèn kĩ năng kể chuyện cho
trẻ mẫu giáo lớn 5 - 6 tuổi
Công trình “Văn học và phương pháp cho trẻ làm quen với TPVH” của Cao
Đức Tiến (1993)
“Cho trẻ tiếp xúc với TPVH ở trường mẫu giáo” Gianh Hà (2002)

Cuốn “Đặc điểm thẩm mĩ của truyện cổ tích thần kì ở Việt Nam” Hà Châu (2004)
Những công trình nghiên cứu trên đều dựa vào đặc điểm phát triển của trẻ
cũng như điều kiện sống của mỗi vùng, mỗi miền mà trẻ sinh sống và hoạt động.
Nhằm đưa ra các phương pháp kể chuyện cổ tích cho trẻ mẫu giáo. Tuy nhiên,
những công trình nghiên cứu này chỉ dừng lại ở việc đề xuất một số phương
pháp kể chuyện theo hướng chung chung chứ chưa đi sâu vào một khía cạnh nào
cụ thể để nâng cao việc phát triển tư duy cho trẻ.
Tất cả những công trình khoa học được nghiên cứu ở trên chính là tiền đề,
là cơ sở lí luận vững chắc để tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nâng cao việc
phát triển tư duy cho trẻ 5 - 6 tuổi qua việc giúp trẻ làm quen truyện cổ tích ở
trường Mầm non Thị trấn Yên Thịnh - Ninh Bình ”.
3.Mục đích nghiên cứu
Từ cơ sở lý thuyết và thực tiễn, đề tài hướng tới đề xuất biện pháp việc
nâng cao việc phát triển tư duy cho trẻ 5 - 6 tuổi qua việc giúp trẻ làm quen
truyện cổ tích ở trường Mầm non Thị trấn Yên Thịnh - Ninh Bình.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài triển khai một hệ thống nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu một số cơ sở lí luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm phát triển tư duy cho trẻ 5 - 6 tuổi qua việc
giúp trẻ tiếp nhận truyện cổ tích ở trường Mầm non Thị trấn Yên Thịnh - Ninh Bình.
- Tổ chức thực nghiệm để khẳng định tính khả thi của việc “Nâng cao phát
triển tư duy cho trẻ 5 - 6 tuổi qua việc giúp trẻ làm quen truyện cổ tích ở trường
Mầm non Thị trấn Yên Thịnh - Ninh Bình” mà đề tài đề xuất.
5. Giới hạn nghiên cứu
5.1. Khách thể và địa bàn nghiên cứu
- Nhóm trẻ 5 - 6 tuổi của trường Mầm non Thị trấn Yên Thịnh - Ninh Bình.


4
5.2. Đối tượng nghiên cứu

Tìm hiểu toàn bộ quá trình giúp trẻ 5 - 6 tuổi làm quen với truyện cổ tích
tại trường Mầm non Thị trấn Yên Thịnh - Ninh Bình.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Đọc và hệ thống hóa các tài liệu có liên quan đến đề tài, xây dựng cơ sở lí
luận của vấn đề nghiên cứu.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Dự giờ, khảo sát điều tra kết hợp với phỏng vấn giáo viên ở trường Mầm
non Yên Thịnh trong giờ học giúp trẻ làm quen với tác phẩm văn học.
6.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Thiết kế một số bài soạn theo các biện pháp dạy học đã đề xuất
- Kiểm chứng giả thuyết đặt ra và thử nghiệm các biện pháp đề xuất.
7. Giả thuyết khoa học
Vấn đề kể chuyện cho trẻ mẫu giáo nhằm phát triển tư duy tại các trường
mầm non nói chung, kể chuyện cổ tích nhằm phát triển tư duy nói riêng ở trường
Mầm non Thị trấn Yên Thịnh - Ninh Bình hiện nay còn “bỏ ngỏ”, nhiều giáo
viên còn chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc bồi dưỡng cũng như cách
thức hướng dẫn trẻ kể chuyện cổ tích. Nếu đề tài đề xuất được những biện pháp
hướng dẫn trẻ phù hợp thì sẽ giúp trẻ phát huy cao nhất khả năng kể chuyện cổ
tích, bồi dưỡng trí tưởng tượng, khả năng phát triển ngôn ngữ thông qua việc kể
truyện cổ tích.
8. Đóng góp của đề tài
Nếu đề tài nghiên cứu thành công trước hết đó là một cơ hội trải nghiệm cho
bản thân trong công tác tập dược nghiên cứu khoa học. Đây cũng là tài liệu tham
khảo cho sinh viên học chuyên ngành Mầm non - trường Đại học Tây Bắc.
9. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận
gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lí luận
Chương II: Thực trạng dạy học cho trẻ 5 - 6 Tuổi ở Trường Mầm non Thị

trấn Yên Thịnh - Ninh Bình
Chương III: Đề xuất các biện pháp để nhằm nâng cao phát triển tư duy cho
trẻ qua việc giúp trẻ làm quen truyện cổ tích.

5
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Khả năng phát triển tâm sinh lý và tư duy của trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi)
Theo quan điểm những nhà tâm lý học, ngôn ngữ học, giáo dục học hiện
đại cho rằng: Trẻ 1 tuổi đã bắt đầu có hoạt động trí tuệ, đến 1 tuổi rưỡi trẻ bắt
đầu tư duy. Trẻ 2 tuổi đã có khả năng phân biệt những sự vật hiện tượng có hình
dạng khác nhau. Qua hướng dẫn trẻ có thể hiểu được những điều người lớn sai
bảo trong khi chơi với trẻ 3 - 4 tuổi, trẻ đã biết nhảy múa, biết tự mình làm một
số việc bắt trước hình vẽ, xếp đồ chơi. 5 - 6 tuổi trẻ đã bắt đầu có năng lực phân
tích, năng lực tổng hợp, biết so sánh nặng - nhẹ, to - nhỏ và phân biệt được khá
nhiều màu sắc, hình khối. Trẻ bắt đầu tư duy và suy diễn trừu tượng, thích bắt
trước hành vi, lời nói các nhân vật mà trẻ được xem trên vô tuyến truyền hình
hoặc do người khác kể cho nghe. Tuổi mẫu giáo lớn đã có thể trả lời những câu
hỏi thông thường về nội dung mà trẻ nhận biết được nhờ các giác quan, nhất là
thị giác và thính giác. Tuổi mẫu giáo đã biết dùng lời nói để làm phương tiện
để “chuyện trò” với người khác và nhận biết môi trường xung quanh. Trẻ rất
yêu thích nghe và kể lại truyện cổ tích. Ở trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) có khả
năng đó vì trẻ đã có những hiểu biết về không gian, thời gian vật lí. Các cháu
đã đạt tới trình độ phân tích, tổng hợp suy luận nhất định nên thường hay lặng
lẽ suy nghĩ, có khi lẩm bẩm nói một mình. Đó là biểu hiện của sự phối hợp
hoạt động giữa cảm giác, tri giác, xúc cảm và ngôn ngữ để tạo ra một thế giới
cho mình, một thế giới còn khép kín, lệ thuộc chủ yếu vào nhu cầu và sự thỏa
mãn biểu hiện trong yêu thích hay không yêu thích, muốn hay không muốn.
Thích được nghe chuyện cổ tích và vỗ về, muốn ăn muốn ngủ, muốn chơi đùa,

muốn học hỏi…
Theo quan điểm sinh lý học
Trẻ 5 - 6 tuổi đã có thể tiếp thu sự chỉ dẫn, huấn luyện và trả lời được khá
rõ ràng những vấn đề đặt ra bằng những câu hỏi thích thú hấp dẫn. Những nhà
sinh lý học và giải phẫu học cho biết não bộ của trẻ 5 - 6 tuổi không khác với bộ
não người trưởng thành là bao nhiêu với 1 tỉ rưỡi tế bào nơron thần kinh và hàng
vạn tế bào phụ trợ khác trong đại não, trẻ đã biểu hiện năng lực trí tuệ qua hoạt
động tổng hợp của lời nói, qua suy nghĩ, quan sát, tập trung chú ý, khả năng ghi
nhớ, liên tưởng, tưởng tượng và khả năng giải quyết các nhiệm vụ chơi, học,
sinh hoạt của mình một cách sáng tạo. Sự khôn lớn, phát triển và trưởng thành
của trẻ phụ thuộc vào hoạt động thích nghi với môi trường và thế giới hiện thực

6
theo cơ chế đồng hóa và điều ứng ở con người. Cơ chế này có mối liên hệ với hoạt
động diễn ra ở trẻ. Phản xạ có điều kiện và phản xạ không điều kiện, có điều cần
lưu ý là sự di truyền gen đã tạo ra sự kì diệu trong tâm linh trẻ mà người lớn không
thể xem thường. Đó là cơ sở niềm tin để giáo dục trẻ bằng những phương tiện văn
học nghệ thuật vốn rất gần gũi với thế giới tâm linh của trẻ.
Phản xạ không điều kiện được ổn định và có sẵn. Phản xạ có điều kiện là loại
phản xạ được hình thành sau này trong quá trình sống của cá thể trẻ. Để nó lâu
bền cần sự hỗ trợ của những điều kiện hình thành và sự củng cố. Phản xạ có điều
kiện là hoạt động tín hiệu nhờ hai loại kích thích: Kích thích cụ thể như âm
thanh, hình ảnh, mầu sắc gọi là tín hiệu thứ nhất. Còn tín hiệu thứ 2 có được ở
trẻ là nhờ những kích thích trừu tượng như: lời nói, chữ viết, môi trường, xã hội,
con người. Đó chính là điều kiện không thể thiếu ở trẻ mẫu giáo để hình thành
và củng cố hệ thống tín hiệu thứ 2. Muốn mở mang trí lực cho trẻ ở độ tuổi này
cần phải hướng dẫn, dạy bảo trẻ sử dụng tiếng nói để giao tiếp. Trước 7 tuổi là
thời kì then chốt để rèn luyện ngôn ngữ và tư duy cho trẻ. Hoạt động của ngôn
ngữ thứ 2 là cơ sở sinh lý của hoạt động tư duy và phát triển ngôn ngữ. Đối với
trẻ mẫu giáo, tư duy là quá trình phản ánh vào trí óc trẻ những sự vật khách quan

bên ngoài, nó có đặc điểm là phải dựa vào ngoại giới, là đi từ nhận thức cảm
tính đến nhận thức lý tính, tức là sau khi sự vật đã được tích lũy vào não rất
nhiều, sự nhận biết cảm tính nhờ suy luận những nhận biết cảm tính được khái
quát lên lý tính.
Theo quan điểm ngôn ngữ học
Muốn phát triển tư duy trước tiên trẻ phải có một vốn từ phong phú và
ngôn ngữ mạch lạc. Thật vậy, nếu trong đầu trẻ có rất nhiều ý tưởng ngộ nghĩnh,
dễ thương nhưng ngôn ngữ kém phát triển trẻ sẽ không thể nào diễn đạt ý hiểu
của mình một cách sáng tạo.
Ở lứa tuổi 5 - 6 tuổi trẻ rất nhạy cảm với sự hình thành ngôn ngữ. Vì vậy,
người lớn phải thận trọng trong khi dùng từ với trẻ và với những người xung
quanh, trẻ rất dễ bắt trước. Trẻ thường sử dụng khoảng 3500 từ, sự phong phú
và đa dạng của câu, các hình thức độc thoại đã chuyển sang đối thoại và kể
chuyện. “Trẻ đã có sự phân biệt ngôn ngữ của người kể và ngôn ngữ của các
nhân vật trong chuyện, như vậy cảm xúc về ngôn ngữ và năng lực biểu cảm
bằng ngôn ngữ của trẻ đã phát triển khá”.
Theo khảo sát của các nhà khoa học như P.Blomxki và Bulomana (Mỹ) thì
bộ óc con người liên tục học tập có thể chứa lượng tri thức tương đương với trên
nửa triệu cuốn sách. Nếu trí lực bình thường của con người đạt được ở lứa tuổi

7
thanh niên là 100% thì ở tuổi 4 - 7 tuổi trẻ đạt được khoảng 80% khối lượng
kiến thức ấy. Như vậy, đủ thấy độ tuổi mẫu giáo lớn là độ tuổi then chốt nhất để
phát triển trí tuệ một cách thuận lợi, để hướng dần trẻ vào hoạt động học tập.
Người ta đã phát hiện ra cách thức tổ chức hoạt động hệ thần kinh của trẻ mẫu
giáo rất kì lạ, chúng phát triển theo lối cạnh tranh. Nếu ở thời kì này thường
được hoạt động thường xuyên tích cực thì một số lượng thần kinh yếu và vô ích
sẽ bị hao trừ, trí tuệ của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi phát triển nhanh nhất nên môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội có ảnh hưởng rất lớn. Như chúng ta đã đề
cập ở trên, sự phát triển trí lực ở trẻ mẫu giáo chỉ trở thành đặc tính cá nhân, khi

trẻ biết dùng ngôn ngữ để suy nghĩ với tư cách là nội dung và công cụ tư duy.
Ngôn ngữ trở thành nội dung và công cụ tư duy khi nó đã tìm được con đường
vận động hợp lý và tạo ra được một số biểu danh chỉ định sự vật.
Theo quan điểm tâm lí học
Về vấn đề trí lực, ngành mẫu giáo đã được thừa hưởng thành tựu tâm lý
học lớn nhất của thế kỉ XX, đó là ngành “Tâm lý kết cấu phát sinh học” do nhà
bác học Thụy Sỹ Giang Piagie (1896 - 1983) khởi xướng và chủ trì.
Piagie cho rằng trí tuệ của trẻ em trải qua 4 giai đoạn:
Một là, giai đoạn vận động cảm tri, tức là trẻ sống nhờ vào mối quan hệ
giữa cảm giác và vận động.
Hai là, sự phát triển trí tuệ của trẻ là thời kì tiền vận động, từ 2 - 6 tuổi, là
lúc trẻ sử dụng kí hiệu làm trung gian lĩnh hội và thuật tả thế giới khách quan.
Ba là, thời kì vận động cụ thể là lúc trẻ 2 - 12 tuổi. Trẻ tiến hành những
thao tác suy luận hợp lí trong những tình huống riêng, trong mối quan hệ với sự
vật cụ thể.
Bốn là, thời kì vận động hình thức khi tư duy của trẻ vượt qua sự vật cụ thể
để tiến tới tư duy trừu tượng.
Theo Piagie, trẻ 1 - 4 tuổi đã có khả năng kể chuyện, hỏi truyện và trình
bày việc làm, suy nghĩ của mình với những xét đoán suy luận không hoàn toàn
như tư duy người lớn mà mang đặc điểm tâm lí tuổi thơ với cái nhìn “quy ngã”.
Tức là trẻ tự biến thành “mặt trời bé thơ” soi sáng tất cả thế giới tự nhiên, xã
hội, con người và chính bản thân bởi một thứ ánh sáng trí tuệ khác, trí tuệ bên
trong, trí tuệ trái tim.
Nhiều nhà tâm lý học trẻ em đều nhất trí rằng, trẻ thường hiếu động, hiếu
kì, hay bắt trước, giàu sức tưởng tượng. Giữa những đặc điểm ấy có mối liên hệ

8
hỗ trợ lẫn nhau. Chúng ta đều biết thế giới nghệ thuật được tái tạo và sáng tạo
trong tác phẩm văn chương và đặc biệt là trong truyện cổ tích.
Vutgotxki, nhà tâm lý học Xô Viết (1896 - 1934) nói: “Văn học chủ yếu

không phải là để giải thích, cải tạo cuộc sống mà là tạo dựng và lưu truyền cảm
xúc cho người đọc”. Trong hoạt động nhận thức cảm tính tri giác là sự hiểu biết
những gì mắt thấy tai nghe và cảm thấy. Nó có khả năng phân tích và hiểu được
những ấn tượng của cảm giác xuất hiện trong trí não. Ở trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
cùng với tri giác nhìn những tri giác khác cũng phát triển mà trước hết phải kể
đến tri giác nghe. Trẻ dần dần nhìn, tập nghe được những điều cô giáo yêu cầu.
Về sau tùy từng hoàn cảnh, trẻ biết tự mình phát biểu lên được những điều đã tri
giác được theo nhiệm vụ cô giáo đề ra cho chúng. Tâm lý của trẻ mẫu giáo quan
trọng nhất là trí tưởng tượng. Giàu sức tưởng tượng là thuộc tính của trí tuệ, gắn
liền với năng lực hiểu biết của trẻ. Tuổi mẫu giáo là mảnh đất phì nhiêu bồi đắp
trí tưởng tượng cho con người. Vì vậy, những câu chuyện kể cổ tích với những
yếu tố hoang đường kì ảo thích hợp với tư duy của trẻ. Đối với trẻ “những gì
làm trẻ xúc động mạnh mẽ là phương tiện duy nhất để làm cho trí tưởng tượng
và tính nhạy cảm hoạt động”. Cần quan tâm đặc biệt đến đặc trưng tâm lý này ở
trẻ để tìm hiểu sự tiếp nhận văn học và những phản ứng diễn ra
Trẻ mẫu giáo rất hiếu động, hiếu thắng, hiếu kì, nhiều hứng thú và muốn
biết tất cả. Đặc biệt thích nghe kể chuyện nói chung và thích nghe truyện cổ tích
nói riêng, thích quan sát, ham hiểu biết và thử nghiệm. Chính những đặc điểm
này đã là cơ sở lí luận cho chúng tôi xây dựng nên những biện phát nhằm nâng
cao phát triển tư duy cho trẻ qua việc giúp trẻ làm quen truyện cổ tích.
1.2. Vai trò của truyện cổ tích
Truyện cổ tích nói chung, truyện cổ tích Việt Nam nói riêng, là những
truyện truyền miệng dân gian kể lại những câu truyện tưởng tượng xoay quanh
một số nhân vật quen thuộc như: nhân vât tài giỏi, nhân vật dũng sĩ….
Dạy trẻ kể chuyện: Là dạy trẻ biết sử dụng các phương thức kể chuyện, kể
lại các câu truyện mà mình đã được nghe, được chứng kiến, được tham gia qua
đó giáo dục trí tuệ cho trẻ.
Truyện cổ tích có vai trò rất quan trọng đối với đời sống của con người nói
chung và đặc biệt nói riêng đối với trẻ ở lứa tuổi mầm non. Nó như một món ăn
tinh thần không thể thiếu trong đời sống của trẻ, ngay từ khi mới sinh ra trẻ đã

được các bà, các mẹ…. kể cho nghe những câu truyện cổ tích. Tất cả những điều
đó, dường như nó đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi đứa trẻ, nó nuôi dưỡng tâm
hồn và phát triển tình cảm của trẻ. Trước hết phải nói rằng kể chuyện cổ tích góp

9
một phần thỏa mãn nhu cầu nghe kể chuyện của trẻ. Và không chỉ dừng lại ở đó
truyện cổ tích còn có vai trò rất quan trọng, nó như là một phương tiện giáo dục
toàn diện đối với sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
Có lẽ đối với trẻ thơ, không có món quà nào hấp dẫn bằng truyện cổ tích.
Theo nhận xét của nhiều cô giáo thì “giờ học” được yêu thích nhất, giữ trật tự
nhất là giờ các cháu được nghe kể chuyện, nhất là chuyện cổ tích. Còn các bà
mẹ trẻ thì cho rằng không gì dỗ trẻ dễ dàng để đi ngủ sớm bằng cách kể cho
chúng nghe truyện cổ tích.
Chúng ta nhận thấy rằng: “truyện kể nói chung, truyện cổ tích nói riêng đều
là những tác phẩm nghệ thuật”. Kể chuyện cổ tích bồi dưỡng cho trẻ những tri
thức thông thường về tự nhiên, xã hội, về kinh nghiệm đối nhân xử thế trong
mối quan hệ con người với nhau, song chức năng cơ bản của môn kể chuyện là
kích thích sự vận động linh hoạt của trí tuệ mở ra những chân trời mới cho trí
tưởng tượng, làm phong phú các hình thức, màu sắc của lí tưởng sống đang từng
bước hình thành trong tâm hồn trẻ. Những tiếng cười sảng khoái không khí thư
giãn thoải mái trong giờ kể chuyện tạo sự gần gũi, sự cảm thông, lòng tin cậy
giữa người kể và người nghe, đặc biệt là giữa cô với những trẻ rụt rè trong giao
tiếp, thiếu cởi mở do bản tính hoặc do môi trường sống.
Kể chuyện cổ tích là một biện pháp tốt rèn cho trẻ thói quen chú ý có chủ
định, phát triển ngôn ngữ - là điều kiện cần cho sự tiếp thu mọi tri thức khoa
học. Qua tìm hiểu thực tế cho thấy trong giờ kể chuyện cổ tích: khi câu chuyện
mới bắt đầu thì trong lớp còn có trẻ thờ ơ, không chú ý, đùa nghịch nhưng ít
phút sau khi kể đến những biến cố li kì đặc biệt, những yếu tố kì ảo, thần kì, sự
đấu tranh giữa cái thiện và cái ác trong câu truyện cổ tích thì sự chú ý của trẻ
cũng tăng dần, sự tập trung chú ý hứng thú thể hiện rõ trên từng ánh mắt, gương

mặt của trẻ.
Ngoài ra, kể những câu chuyện cổ tích góp phần rèn luyện khả năng Tiếng
Việt cho trẻ, đó là một yếu tố nền tảng để giúp trẻ tiếp thu và lĩnh hội tri thức
khoa học. Truyện kể có vai trò chủ đạo trong việc giúp trẻ nhận thức về thế giới
của các em, giúp các em chính xác hóa những biểu tượng đã có. Những yếu tố kì
ảo trong truyện cổ tích sẽ là điều kiện giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng sáng tạo
ở trẻ. Đối với trẻ mẫu giáo đang là độ tuổi “học mà chơi, chơi mà học”, cuộc
sống của trẻ ở trường mầm non là một dòng chảy các hoạt động mang tính chất
là trò chơi, câu chuyện. Tuy nhận thức của trẻ chưa cao qua các câu chuyện cổ
tích chúng ta dễ dàng giáo dục hành vi, ý thức cho trẻ.


10
1.3. Phân loại truyện cổ tích
Căn cứ vào nhân vật chính và tính chất sự việc được kể lại có thể chia
truyện cổ tích ra làm 3 loại:
+ Truyện cổ tích về loài vật: Những câu truyện ngụ ngôn, những con vật
nuôi trong nhà, khi miêu tả đặc điểm các con vật thường nói đến nguồn gốc các
đặc điểm đó: “Trâu và Ngựa”, “Chó 3 cẳng”… hoặc các con vật thông minh
dùng mẹo để thắng các con vật mạnh hơn nó: “Cóc kiện Trời”, “Truyện Công và
Qụa”…
+ Truyện cổ tích thần kì hay truyện thần thoại: Truyện cổ tích thần kì kể lại
những sự việc xảy ra trong đời sống gia đình và xã hội của con người. Đó có thể
là những mâu thuẫn giữa các thành viên trong gia đình phụ quyền, vấn đề tình
yêu hôn nhân, những quan hệ xã hội: “Tấm Cám”, “Cây khế”, “Cây tre trăm
đốt”…Nhóm truyện về các nhân vật tài giỏi, dũng sĩ, nhân vật chính lập chiến
công, diệt cái ác, bảo vệ cái thiện, mưu cầu hạnh phúc cho con người: “Thạch
Sanh”, “Người thợ Săn và mụ Chằn”… Nhóm truyện về các nhân vật bất hạnh,
về một xã hội họ bị ngược đãi, bị thiệt thòi về quyền lợi. Về mặt tính cách họ
trọn vẹn về đạo đức nhưng thường chịu đựng, trừ những nhân vật xấu xí mà có

tài: “Sọ Dừa”, “Lấy vợ Cóc”
+ Truyện cổ tích thế tục: Truyện tiếu lâm, truyện kể lại những sự kiện khác
thường li kì nhưng những sự kiện này rút ra từ thế giới trần tục. Yếu tố thần kì
nếu có thì không có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của câu chuyện như
trong các truyện cổ tích thần kì. Nhóm truyện có đề tài nói về các nhân vật bất
hạnh: “Trương Chi”,“Sự tích chim Hít”, “Tích Chu”…Nhóm có nội dung phê
phán những thói xấu: “Đứa con trời đánh”, “Gái ngoan dạy chồng”…Nhóm
truyện về người thông minh: “Quan án xử kiện”, “Em bé thông minh”…Nhóm
truyện về người ngốc nghếch: “Chàng ngốc thua kiện”, “Làm theo vợ dặn”
Trong các truyện kể trên, loại cổ tích thần kì là quan trọng nhất đối với trẻ
vì với trẻ lúc này đời sống của trẻ đang tồn tại hai thế giới: Thế giới thực xung
quanh và thế giới tưởng tượng. Trong truyện cổ tích thần kì những yếu tố hoang
đường kì ảo đóng vai trò quan trọng trong kết cấu và quá trình dẫn truyện, nó tạo
ra sức mạnh, vẻ đẹp độc đáo cuốn hút trẻ thơ, giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng
đặc biệt với trẻ mẫu giáo lứa tuổi 5 - 6 tuổi, lứa tuổi giàu trí tưởng tượng, khát
khao nhận thức, hồn nhiên yêu thích cuộc sống với những ảo giác êm đẹp và rất
giàu mơ ước. Thế giới cổ tích thần kì - một thế giới nghệ thuật của hư cấu hoang
đường rất phù hợp với nếp tư duy của trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi, lứa tuổi chưa quen
với những chuyện bên ngoài của cuộc sống, những mối quan hệ phức tạp giữa con

11
người với nhau trong xã hội, chưa có được kinh nghiệm cay đắng làm cho con
người khôn ngoan. Truyện cổ tích thần kì dường như xây nên những lâu đài bay
bổng của trí tưởng tượng, của khát vọng ước mơ về một thực tại khác, một thế giới
không biết đến bi kịch đau đớn, con người bình đẳng, không có bất công, không đi
tìm sự lí giải của lí trí. Sống trong thế giới của truyện cổ tích làm tâm hồn của trẻ
thơ trở nên lạc quan hơn với cuộc đời. Chính vì vậy, trong luận văn chúng tôi tập
trung nghiên cứu một số biện pháp nhằm nâng cao việc phát triển tư duy cho trẻ
thông qua việc giúp trẻ làm quen với truyện cổ tích.
1.4. Đặc điểm tiếp nhận truyện cổ tích của trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi)

* Trẻ mẫu giáo lớn tiếp nhận truyện cổ tích thông qua khâu trung gian là cô giáo.
Với tư cách là người đọc trực tiếp rồi đọc lại và kể lại, với những ấn tượng
sâu sắc rõ nét, những hiểu biết kĩ càng giá trị toàn diện của truyện. Như vậy là
trẻ mẫu giáo tiếp nhận truyện gián tiếp, do đặc điểm này trẻ thiếu tính chủ động,
khả năng trực cảm, trực giác dựa trên sự phối hợp và hòa quyện giữa các cơ
quan thụ cảm, sự tri giác nhạy bén của thị giác, thính giác, ngữ cảnh và linh
cảm, độ tập trung tự lực trực tiếp tạo ra. Trẻ không được tự học, phải “nghe
nhờ” tức là không được phát huy khả năng tri giác phối hợp giữa chữ viết và âm
thanh, giữa kí hiệu và nghĩa, phần nào giảm đi năng lực ghi nhớ và liên tưởng
của trẻ. Ở trên lớp, sự tiếp nhận của trẻ là sự tiếp nhận thụ động vì các cháu phải
ngồi im để nghe cô giáo kể chuyện, chúng phải tập trung chăm chú lắng nghe,
theo dõi những gì cô làm. Tuy nhiên, trẻ không thể tự do một mình tiếp nhận mà
cùng các bạn nghe cô kể. Đặc điểm này vừa có lợi thế vừa bị hạn chế. Lòng tin
cậy và sự quen biết trong lớp học có thể làm cho trẻ đỡ căng thẳng thần kinh,
làm cho sự tiếp nhận có không khí thi đua, cởi mở, kích thích tính năng động,
hoạt bát của trẻ nhưng đồng thời dễ phân tán sức chú ý của trẻ.
Như vậy, muốn trẻ tiếp nhận truyện cổ tích, trước tiên trẻ phải được nghe
chuyện qua cô giáo kể. Và điều quan trọng sự tiếp nhận này cô giáo phải tạo ra
được sự hòa cảm, chia sẻ trong tình yêu thương để có thể tạo ra môi trường xúc
cảm thẩm mĩ và một tư duy vô cùng phong phú ở trẻ.
* Không thể vận dụng đầy đủ lý thuyết tiếp nhận văn học đối với trẻ mẫu
giáo lớn (5 - 6 tuổi).
Vì để trẻ tự tiếp nhận truyện nên ngôn ngữ là phương tiện quan trọng làm
phong phú tư duy cho trẻ, khả năng phân biệt và sử dụng ngôn ngữ để phản ánh
và biểu hiện nội dung của truyện, nhưng trẻ lại thiếu phương tiện quan trọng
ngôn ngữ này cũng như khả năng phân biệt và sử dụng ngôn ngữ khi kể chuyện.
Trẻ cũng chưa nắm được những khái niệm về khoa học, văn học nên chưa tạo

12
được kênh thông tin giao tiếp tương ứng với đặc trưng văn học giữa cô và trẻ.

Trẻ tiếp nhận truyện nhiều hay ít là nhờ vào đặc điểm tình cảm, đời sống tâm
hồn và sự hiểu biết nhờ kinh nghiệm, linh cảm và bản chất con người tồn tại
dưới những dạng khác nhau. Dù còn ở lứa tuổi nhỏ, tư duy còn non nớt nhưng
trẻ vẫn có sự rung động, vẫn có thể cảm nhận được những cái hay, cái đẹp, trẻ
đều có thể nhận ra nhiều điều chất chứa trong chuyện cổ tích .
Nếu chỉ nói đến sức tưởng tượng nghệ thuật để sáng tạo ra cuộc sống với
những khát vọng lớn lao, với những lý tưởng nhân đạo và sự cao cả của con
người. Như vậy, chúng ta thấy văn học cần thiết cho sự trưởng thành của trẻ
mẫu giáo biết chừng nào “lứa tuổi cần hoạt động thật nhiều để mặc cho trí
tưởng tượng tràn ngập tâm hồn”. Đặc biệt, với thể loại truyện cổ tích thì sức
tưởng tượng không còn giới hạn ở sự liên tưởng, hình dung ra bức tranh nghệ
thuật trong mối quan hệ nối kết giữa các sự vật cụ thể mà nó được mở rộng ra
trong không gian và thời gian bên ngoài cho đến mức không còn bịa đặt và bày
vẽ ra được nữa. Thế giới trong cổ tích còn dung nạp cả trí tưởng tượng hoang
đường với những yếu tố kì ảo nhờ hư cấu chủ tâm, điều đó càng tạo nên sức hấp
dẫn kì lạ của truyện cổ tích thỏa mãn trí tưởng tượng bay bổng và niềm mơ ước
được sống trong ảo ảnh và giấc mơ mới lạ của con người.
Tư duy của trẻ em và tư duy của truyện cổ tích cũng có những nét tương
đồng, gần gũi, trong thế giới cổ tích ấy con người trực tiếp giao cảm, thế giới huyền
thoại cổ tích với thế giới hiện thực dường như khác nhau nhưng trẻ lại dung hòa hội
nhập. Trẻ có thể thâm nhập vào thế giới cổ tích một cách dễ dàng và đồng thời lại
có thể tách mình ra, hòa nhập vào thế giới cổ tích huyền thoại chính là trẻ đã tự
mình hòa nhập vào thế giới tự nhiên vào môi trường sống đầy dưỡng khí mà ở đó
trẻ thỏa mãn giải tỏa những “ấm ức” và hình thành những khát vọng, ước mơ. Khi
thâm nhập truyện trẻ “tự đồng nhất” mình với nhân vật mình yêu thích, suy diễn từ
mình, lấy mình ra làm trung tâm và chỉ hướng vào bản thân mình.
* Trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) tiếp nhận văn học không mang nội dung
đích thức và đầy đủ các giai đoạn, cũng như mức độ sâu sắc của quá trình định
hướng và tự lực chiếm lĩnh tác phẩm.
Mức độ tiếp nhận diễn ra ở trẻ mẫu giáo chỉ giới hạn trong việc “cho trẻ

làm quen với tác phẩm văn học” với một số thể loại phù hợp. Sự tiếp nhận văn
học của trẻ mẫu giáo diễn ra trong nhà trường nên phải tôn trọng quy luật nhận
thức quá trình tiếp nhận và quá trình sư phạm đan xen, hòa nhập vào nhau với
những phương pháp giáo dục đặc biệt hiệu quả.


13
Tiểu kết

Trong chương này chúng tôi đề cập đến cơ sở lí luận về việc kể chuyện cổ
tích nhằm phát triển tư duy cho trẻ. Việc kể chuyện cổ tích của trẻ 5 - 6 tuổi phụ
thuộc vào vốn ngôn ngữ, khả năng nhận thức, tư duy óc sáng tạo của trẻ. Tốc độ
phát triển của mỗi trẻ là khác nhau, vì thế tư duy của chúng cũng khác nhau do
vậy khả năng kể chuyện cổ tích ở mỗi trẻ cũng không đều nhau.
Không chỉ có giờ kể chuyện trong phân môn cho trẻ làm quen với tác phẩm
văn học, trẻ kể được chuyện cổ tích mà có thể thông qua các hoạt động ngoài
giờ học khác như: Hoạt động góc, hoạt động ngoại khóa, giờ chơi cũng giúp trẻ
rất nhiều trong việc hình thành thói quen và tạo nên kĩ năng kể chuyện nhằm
phát triển tư duy cho trẻ.





















14
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG DẠY HỌC CHO TRẺ 5 - 6 TUỔI Ở
TRƯỜNG MẦM NON THỊ TRẤN YÊN THỊNH - NINH BÌNH

2.1. Khảo sát thực trạng dạy học ở trường Mầm non Thị trấn Yên Thịnh –
Ninh Bình
2.1.1.Mục đích khảo sát
- Quá trình điều tra nhằm mục đích tìm hiểu:
+ Thực trạng giáo viên tổ chức hướng dẫn trẻ mẫu giáo lớn 5 - 6 tuổi làm
quen với truyện cổ tích ở trường Mầm non: Trường Mầm non Thị trấn Yên
Thịnh - Ninh Bình.
+ Thực trạng về mức độ hứng thú, kỹ năng kể chuyện cổ tích ở trẻ mẫu
giáo lớn 5 - 6 tuổi tại trường này.
2.1.2. Thời gian khảo sát
Từ tháng 3/2012 đến tháng 3/2013
2.1.3. Phương pháp khảo sát
- Sử dụng phiếu điều tra:
Chúng tôi đã sử dụng một số câu hỏi cho giáo viên
- Trao đổi, trò chuyện, quan sát với giáo viên, với trẻ
- Ghi chép, dự giờ các giờ học giúp trẻ làm quen với tác phẩm văn học, đặc
biệt là các giờ kể chuyện cổ tích.

2.1.4. Nội dung khảo sát
2.1.4.1.Khảo sát chương trình, nội dung dạy học về truyện cổ tích của trẻ 5 - tuổi
Ở trường mầm non Thị trấn Yên Thịnh nội dung chương trình dạy trẻ làm
quen với tác phẩm văn học được xây dựng theo hướng đồng tâm, trẻ 5 - 6 tuổi
chủ đề được phân thành các lĩnh vực: gia đình, bản thân, môi trường tự nhiên,
môi trường xã hội, tết và mùa xuân, an toàn giao thông và trường mầm non. Mỗi
một truyện kể nói chung và truyện cổ tích nói riêng sẽ được xắp xếp, lồng ghép
vào trong các chủ đề đó. Trong một năm học có 36 tuần, mỗi tuần truyện cổ tích
được trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi làm quen một vài lần, số lượng mỗi tuần cho trẻ làm
quen với truyện cổ tích là tương đối cho nên đây cũng là điều kiện thuận lợi để
trẻ 5 - 6 tuổi làm quen với truyện cổ tích được nhiều hơn.
Truyện cổ tích cho trẻ làm quen dạy các tiết thuộc chủ đề của tháng đó ở
trường Mầm non Thị trấn Yên Thịnh cũng được chia ra làm 3 loại và tiêu biểu ở
những chuyện:

15
+ Truyện cổ tích về loài vật: “Trâu và Ngựa”, “Chó 3 cẳng”… “Cóc kiện
Trời”, “Truyện Công và Qụa”… thường được sử dụng ở chủ đề về môi trường
tự nhiên.
+ Truyện cổ tích thần kì hay truyện thần thoại: “Tấm Cám”, “Cây khế”,
“Cây tre trăm đốt”, “Thạch Sanh”, “Người thợ Săn và mụ Chằn”… “Sọ Dừa”,
“Lấy vợ Cóc”, “ Sự tích mùa xuân” thường được sử dụng ở chủ đề về gia đình.
+ Truyện cổ tích thế tục: “Trương Chi”, “Sự tích chim Hít”, “Tích Chu”
,“Đứa con trời đánh”, “Gái ngoan dạy chồng”, “Quan án xử kiện”, “Em bé
thông minh”, “Chàng ngốc thua kiện”, “Làm theo vợ dặn”… thường được sử
dụng ở chủ đề về môi trường xã hội.
2.1.4.2. Khảo sát hoạt động dạy học của giáo viên giúp trẻ làm quen với truyện
cổ tích
Qua số liệu khảo sát tôi thấy tại trường Mầm non Thị trấn Yên Thịnh -
Ninh Bình là giáo viên có trình độ đại học giáo dục Mầm non là 3, giáo viên có

trình độ cao đẳng giáo dục Mầm non là 5, giáo viên có trình độ trung cấp giáo
dục Mầm non là 14, sơ cấp giáo dục Mầm non là không có, chưa qua đào tạo là
không có, thâm niên công tác dưới 5 năm là 2, từ 5 - 10 năm là 8, từ 15 năm trở
lên là 12. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc chăm sóc và giáo dục trẻ ở lứa tuổi
mẫu giáo lớn.
Qua tìm hiểu chương trình chăm sóc giáo dục trẻ nói chung, trẻ mẫu giáo
(lớn 5 - 6 tuổi) nói riêng của Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ban hành (1994) hiện nay
đang sử dụng trong các trường mầm non, chương trình này chưa đề cập đến một
môn học riêng nào để giúp trẻ mẫu giáo nói chung, trẻ mẫu giáo lớn nói riêng kể
chuyện cổ tích, các biện pháp giúp trẻ kể chuyện cổ tích mới chỉ được lồng ghép
trong các môn học “làm quen với tác phẩm văn học” qua giờ kể chuyện và hoạt
động góc đặc biệt là góc phân vai, góc thư viện, trẻ xem tranh truyện.
Qua khảo sát, điều tra một số giáo viên của trường Mầm non Thị trấn Yên
Thịnh chúng tôi thấy rằng: giáo viên soạn giáo án còn chung chung, chủ yếu dựa
vào cuốn phương pháp hướng dẫn mang tính chất chỉ đạo chung chung. Mục
đích yêu cầu đặt ra trong tiết học còn chưa cụ thể. Vì vậy đòi hỏi giáo viên soạn
bài cần phải có sáng kiến của mình. Các cô đều bao quát lớp tốt, các cháu đều
nghe cô. Đa phần các cô chưa chú ý đến những trẻ yếu kém, nhút nhát có nghĩa
là cô chỉ chú ý đến những trẻ có khả năng thuộc và tư duy được câu chuyện mà
cô đang dạy. Cô chưa chú ý đến việc giáo dục cá biệt có những trẻ rất thiệt thòi
chỉ biết ngồi lắng nghe bạn kể, thậm chí trong cả tiết có những trẻ không được
tham gia lần nào. Trong tiết học các cô chưa xác định được tiết cho trẻ làm quen

16
với truyện cổ tích thì phải đưa phương pháp, biện pháp gì? Tiết học khác phải sử
dụng ra sao để phù hợp? Đây là tiết dạy trẻ dùng tư duy của trẻ để kể lại chuyện
nhưng những biện pháp và phương pháp các cô đưa ra giống như tiết kể chuyện
cho trẻ nghe.
Khi sử dụng phương pháp đàm thoại thì hầu hết giáo viên đều sử dụng câu
hỏi đơn giản, không theo trình tự nội dung câu chuyện, các câu hỏi và câu trả lời

còn mang tính chất là của cô giáo, số lượng các cháu được trả lời câu hỏi ít. Các
câu hỏi chưa mang tính mở nên chưa phát huy được tính tích cực hoạt động của
trẻ. Nhìn chung các cô chưa đưa ra được những biện pháp, thủ thuật để khơi gợi
hứng thú, khuyến khích trẻ tham gia vào các hoạt động tư duy để trẻ kể chuyện.
Do đó tiết học trở nên buồn tẻ, có nhiều cô giáo chưa chú tâm vào tiết dạy vì vậy
cô thực hiện rất máy móc, rập khuôn dẫn đến sự nhàm chán cho trẻ.
Tổng hợp các ý kiến qua phiếu điều tra của 6 giáo viên đang trực tiếp giảng
dạy ở lớp mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) trường Mầm non Thị trấn Yên Thịnh - Ninh
Bình, chúng tôi nhận thấy:
100% giáo viên (6/6) hiểu đúng câu hỏi: “Thế nào là giúp trẻ tiếp nhận
truyện cổ tích?”. Giúp trẻ tiếp nhận truyện cổ tích là việc trẻ sử dụng ngôn ngữ
của mình để kể lại một câu chuyện, không làm biến đổi nội dung cốt truyện, hấp
dẫn người nghe bằng cách kết hợp các cử chỉ, điệu bộ theo nhận thức của trẻ về
câu chuyện.
Nhưng có đến 3/6 giáo viên (chiếm 50%) chưa chú ý đến việc giúp trẻ làm
quen truyện cổ tích. Điều này cho thấy, vấn đề lí thuyết các giáo viên mầm non
nắm rất chắc nhưng khoảng cách đến thực tế còn hơi xa, nguyên nhân của thực
trạng này là do số trẻ quá đông và nhiều công việc phụ trong lớp (chuẩn bị đồ
dùng cho tiết dạy, công tác chăm sóc, vệ sinh cho trẻ và vệ sinh lớp học…) thậm
chí do một số cô đứng lớp. Thực tế này đã dẫn đến việc giáo viên chưa có điều
kiện nhất là về mặt thời gian để giúp trẻ tự kể chuyện cổ tích. Đây là một thực tế
và tôi nghĩ rằng cần bổ sung về mặt nhân lực, đảm bảo một lớp 2 cô phụ trách,
giữa 2 cô có sự phân tách nhiệm vụ rõ ràng, có thể làm theo ca hoặc luân chuyển
nhiệm vụ trong một tuần hoặc một tháng: giáo viên chịu trách nhiệm công tác
giáo dục trẻ, giáo viên còn lại sẽ chịu công tác chăm sóc trẻ, cách làm này vừa
khoa học vừa đảm bảo cả công tác chăm sóc giáo dục trẻ.
Có 33,3% (2/6) giáo viên đã chú ý đến việc tạo điều kiện giúp trẻ có cơ hội
và môi trường kể chuyện cổ tích nhưng lại chưa khai thác triệt để và đạt hiệu
quả cao, chưa phát huy hết hứng thú và khả năng tư duy sáng tạo của trẻ bởi vì
qua câu hỏi: “Cách tiến hành như thế nào để giúp trẻ kể chuyện cổ tích?” hầu


17
như 33,3% giáo viên này đều tiến hành các bước của một giáo án kể chuyện
trong môn: “Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học”, hơn nữa các giờ chơi, giờ
hoạt động ngoại khóa, hoạt động góc chưa có bước tiến hành cụ thể mà chỉ theo
ngẫu hứng của trẻ, để trẻ tự hoạt động chứ chưa có định hướng, cô cần tham gia
cùng trẻ, nhập một vai chơi để cùng đóng vai với trẻ, trò chuyện, đàm thoại với
trẻ, quá trình đó sẽ giúp trẻ có định hướng được hoạt động của mình.
Về câu hỏi: “Trong thực tế chị đã gặp những khó khăn gì khi giúp trẻ kể
chuyện cổ tích?” 100% (6/6) giáo viên đều cho rằng số lượng trẻ quá đông nên
việc quan tâm đến từng trẻ và lắng tai nghe từng trẻ kể chuyện đã rất khó khăn
vì không đủ thời gian và rất mệt không thể để trẻ kể sâu hơn về các câu chuyện
mà trẻ kể, có chăng chỉ tập chung được một vài trẻ, mặt khác có nhiều giáo viên
chưa có giọng kể hay khiến trẻ chưa hấp dẫn vào câu chuyện, sử dụng các câu
hỏi đàm thoại còn ít do thời gian han hẹp, tranh minh họa cho câu chuyện mà cô
kể chưa phong phú …. Từ thực tế này tôi đề ra biện pháp: Cô nên tổ chức cho
trẻ thành từng nhóm nhỏ, cho chúng kể chuyện với nhau, vào các buổi ngoại
khóa, sinh hoạt chiều. Cô đề nghị trẻ xung phong lên kể chuyện sau đó cô có
hình thức khuyến khích động viên trẻ, thực hiện hiệu quả biện pháp này không
chỉ phát huy được tính sáng tạo ở trẻ mà còn rèn được trẻ khả năng mạnh dạn
trong giao tiếp.
Và một khó khăn lớn mà giáo viên gặp phải đó là vốn ngôn ngữ của trẻ còn
hạn chế, trẻ nói ngọng (n - l, đ - l….) và tồn tại một số là trẻ - con em địa phương
nơi cư trú, sự va chạm ít nên chúng còn thiếu mạnh dạn hay còn nhút nhát.
Về câu hỏi: “Chị có đề xuất biện pháp, phương pháp gì để giúp trẻ mẫu
giáo lớn (5 - 6 tuổi) kể được chuyện cổ tích?” thì 100% giáo viên chưa đưa ra
được biện pháp, phương pháp gì mới, họ đều cho rằng nên sử dụng các biện
pháp như:
- Cho xem tranh ảnh
- Sử dụng đồ chơi kết hợp với đàm thoại

- Lời kể mẫu của cô
Qua số liệu điều tra, ta thấy tại các trường mà chúng tôi tiến hành điều tra
khảo sát phần lớn giáo viên có trình độ TCSP và CĐSP và các giáo viên này có
thâm niên công tác tương đối trẻ. Các cô đa số trẻ, khỏe có điều kiện thuận lợi
để tiếp thu linh hoạt những thay đổi về cách thức, hình thức, phương pháp tổ
chức giờ học, đặc biệt là giảng dạy trong lĩnh vực “Cho trẻ làm quen với tác
phẩm văn học” cụ thể trong việc giúp trẻ kể chuyện cổ tích nhằm nâng cao tư
duy cho trẻ.

18
Về số lượng trẻ mỗi lớp là trường Mầm non Thị trấn Yên Thịnh (35
trẻ/lớp). Từ số liệu này chúng ta nhận thấy một thực tế là số lượng trẻ trong một
lớp là tương đối đông. Chính vì vậy, khi tổ chức hoạt động giáo dục nói chung
cũng như việc giúp trẻ kể chuyện cổ tích nói riêng khiến cho các cô gặp không ít
những khó khăn, trẻ ít có cơ hội trải nghiệm, cô không bao quát được hết hoạt động
của trẻ để khơi nguồn cảm hứng cũng như giúp trẻ tư duy để kể chuyện cổ tích.
2.1.4.3. Khảo sát hoạt động học của trẻ qua việc làm quen với truyện cổ tích
Tổng số trẻ toàn trường Mầm non Thị trấn Yên Thịnh là 294 trẻ, số trẻ khối
5 - 6 tuổi là 96 trẻ, về số lượng trẻ mỗi lớp là trường (35 trẻ/lớp). Từ số liệu này
chúng ta nhận thấy một thực tế là số lượng trẻ trong một lớp là tương đối đông,
độ tuổi từ 5 - 6 tuổi, là con em của địa bàn khu vực đó mà một bộ phận nhỏ là con
em của những gia đình thuần nông, xen lẫn với các gia đình công nhân viên chức.
Chính vì vậy, khi tổ chức hoạt động giáo dục nói chung cũng như việc giúp trẻ kể
chuyện cổ tích nói riêng khiến cho các cô gặp không ít những khó khăn, trẻ ít có cơ
hội trải nghiệm, cô không bao quát được hết hoạt động của trẻ để khơi nguồn cảm
hứng cũng như giúp trẻ tư duy để kể truyện cổ tích.
Về phía trẻ, đa số trẻ chưa chú ý trong tiết học, đa số trẻ chưa dùng tư duy,
tưởng tượng của mình để kể lại chuyện cổ tích. Đối với trẻ đã biết nghe cô dùng
trí tưởng tượng của mình để kể chuyện thì rất hứng thú khi thể hiện câu chuyện.
Tuy vậy đặc điểm chú ý ở độ tuổi này là chú ý không chủ định, do vậy ở cuối

tiết học trẻ thường hay mất trật tự.
Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng mức độ trẻ mẫu giáo lớn biết kể
truyện cổ tích là chưa cao. Kết quả này do nhiều nguyên nhân, thứ nhất do ngôn
ngữ của trẻ, trẻ nói ngọng nhiều, con em của các địa phương nơi trẻ sống …. Vì
vậy hạn chế về vốn từ phổ thông. Thứ 2, giáo viên chưa thực sự quan tâm và tạo
điều kiện để giúp trẻ kể truyện cổ tích, giáo viên cần có những biện pháp cụ thể
để giúp trẻ kể truyện cổ tích nhằm nâng cao phát triển tư duy cho trẻ, giáo viên
phải luôn tạo ra môi trường kể chuyện để trẻ hứng thú và tự tin kể chuyện, muốn
làm được điều đó giáo viên phải có phương pháp và hình thức tổ chức phù hợp.
Đây cũng là vấn đề cốt lõi mà khóa luận của tôi đề cập tới.
- Sự phối hợp của gia đình trong hoạt động học của trẻ
Qua tiến hành khảo sát các phụ huynh của 2 lớp mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi)
của trường Mầm non Thị trấn Yên Thịnh – Ninh Bình tôi nhận thấy chỉ có một
vài con em của những gia đình công nhân viên chức thì việc cho trẻ làm quen
với truyện cổ tích được chú ý hơn, tối tối các em cũng đã được mẹ của mình kể
cho nghe những câu chuyện cổ tích còn các con em của những gia đình làm

×