Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC: VẬN DỤNG TRÒ CHƠI HỌC TẬP ĐỂ GIÁO DỤC MÔI TRƯỜNG TRONG DẠY HỌC MÔN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (942.91 KB, 82 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC



ĐÀO THỊ THU HOA



VẬN DỤNG TRÒ CHƠI HỌC TẬP ĐỂ GIÁO DỤC
MÔI TRƯỜNG TRONG DẠY HỌC MÔN
TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 3





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC








SƠN LA, NĂM 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC





ĐÀO THỊ THU HOA



VẬN DỤNG TRÒ CHƠI HỌC TẬP ĐỂ GIÁO DỤC
MÔI TRƯỜNG TRONG DẠY HỌC MÔN
TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 3



Chuyên ngành: Khoa học giáo dục


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Người hướng dẫn: Ths. Dương Thị Thanh




SƠN LA, NĂM 2013
LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài, ngoài sự cố gắng của bản thân tôi còn
nhận được sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của các thầy cô trong khoa Tiểu học -
Mầm non trường Đại học Tây Bắc. Với tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc,

tôi xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Dương Thị Thanh người trực tiếp hướng dẫn
đề tài, cùng thầy cô giáo trong khoa, giáo viên và học sinh trường Tiểu học
Lương Sơn 1 huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, bạn bè và gia đình.
Mặc dù bản thân đã có sự cố gắng trong việc sưu tầm, bám sát thực tiễn
để đề tài có tính khả thi cao nhưng chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót.
Vì vậy, tôi rất mong muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy cô
giáo và bạn bè để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Sơn La, tháng 5 năm 2013
Người thực hiện

Đào Thị Thu Hoa

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
Viết tắt
Diễn giải
1
BVMT
Bảo vệ môi trường
2
GDMT
Giáo dục môi trường
3
GVTH
Giáo viên tiểu học
4
GV
Giáo viên

5
HS
Học sinh
6
HSTH
Học sinh tiểu học
7
MT
Môi trường
8
PPDH
Phương pháp dạy học
9
SGK
Sách giáo khoa
10
SGV
Sách giáo viên
11
TC
Trò chơi
12
TCHT
Trò chơi học tập
13
TNXH
Tự nhiên xã hội


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 2
4. Giả thuyết khoa học 2
5. Các nhiệm vụ nghiên cứu 2
6. Phạm vi nghiên cứu 2
7. Các phương pháp nghiên cứu 3
7.1. Các phương pháp nghiên cứu lí luận 3
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn 3
7.3. Phương pháp thống kê toán học 3
8. Cấu trúc của khóa luận 4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
TRÒ CHƠI HỌC TẬP ĐỂ GIÁO DỤC MÔI TRƯỜNG TRONG DẠY
HỌC MÔN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 3 5
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN 5
1.1.1. Vấn đề môi trường và GDMT 5
1.1.2. Một số khái niệm 7
1.1.3. Trò chơi học tập 8
1.1.3.1. Nguồn gốc của trò chơi 8
1.1.3.2. Phân loại trò chơi 9
1.1.3.2.1. Trò chơi thi đấu 9
1.1.3.2.2. Trò chơi mô phỏng 9
1.1.3.2.3. Trò chơi cầu may 9
1.1.3.2.4. Trò chơi tạo cảm giác 9
1.1.3.2.5. Khái niệm về TCHT 10
1.1.3.3. Một số lưu ý khi sử dụng trò chơi học tập 10
1.1.3.4. Cách tổ chức một trò chơi học tập 10
1.1.3.5. Cách xây dựng một trò chơi học tập 10

1.1.4. Vai trò của TCHT trong GDMT cho HSTH 11
1.1.5. Giáo dục môi trường trong trường tiểu học 12
1.1.5.1. Mục tiêu GDMT trong trường tiểu học 12
1.1.5.2. Nhiệm vụ GDMT ở trường tiểu học 12
1.1.5.3. Nội dung GDMT có trong nội dung chương trình môn TNXH 13
1.1.6. Đặc điểm nhận thức của HS tiểu học 13
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN 14
1.2.1. Đặc điểm môn học 14
1.2.1.1. Môn TNXH là môn học được xây dựng theo quan điểm tích hợp 14
1.2.1.2. Môn TNXH được xây dựng theo hướng đồng tâm 15
1.2.1.3. Môn TNXH là môn học cung cấp cho HS các kiến thức khoa học 15
1.2.1.4. Môn TNXH là môn học thực hiện theo định hướng đổi mới 15
1.2.2. Đặc điểm nội dung SGK môn TNXH lớp 3 15
1.2.3. Thực trạng nhận thức và sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học
môn TNXH lớp 3 16
1.2.3.1. Mục đích khảo sát 16
1.2.3.2. Đối tượng khảo sát 16
1.2.3.3. Nội dung khảo sát 17
1.2.3.4. Các phương pháp khảo sát 17
1.2.3.5.Phân tích kết quả 17
1.2.3.5.1. Nhận thức của GV về GDMT 17
1.2.3.5.2. Về thực trạng vận dụng TCHT để GDMT của giáo viên trong dạy học
môn TNXH lớp 3 18
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 22
CHƯƠNG 2: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ TRÒ CHƠI HỌC TẬP ĐỂ GIÁO DỤC
MÔI TRƯỜNG TRONG DẠY HỌC MÔN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 3
23
2.1. NHỮNG NỘI DUNG VỀ MT VÀ BVMT CÓ TRONG NỘI DUNG
CHƯƠNG TRÌNH VÀ SGK MÔN TNXH LỚP 3 23
2.2. VẬN DỤNG TCHT ĐỂ GDMT TRONG DẠY HỌC MÔN TỰ NHIÊN

VÀ XÃ HỘI LỚP 3 24
2.2.1. Xây dựng và giới thiệu một số TCHT để GDMT trong dạy học môn
TNXH lớp 3. 24
2.2.1.1. Xây dựng và giới thiệu một số trò chơi khởi động 24
2.2.1.1.1. Tiếng kêu các con vật 24
2.2.1.1.2. Hát cho nhau nghe 24
2.2.1.1.3. Về nhà 25
2.2.1.1.4. Trò chơi “bắt muỗi” 25
2.2.1.2. Xây dựng và giới thiệu một số trò chơi để hình thành kiến thức và củng
cố kĩ năng 26
2.2.1.2.1.Đố bạn con gì? 26
2.2.1.2.2. Đính từ vào tranh vẽ 27
2.2.1.2.3.Trò chơi "Ô chữ kì diệu" 27
2.2.1.2.4. Lô tô nhận biết hành vi đúng 29
2.2.1.2.5. Đố bạn cây gì? 30
2.2.1.2.6. Đố em 30
2.2.1.2.7. Ai đoán đúng! 31
2.2.1.2.8. Trò chơi "sắm vai". 33
2.2.1.2.9. Trò chơi “tiếp sức” 34
2.2.1.2.10. Hái hoa dân chủ 35
2.2.2. Sử dụng phương pháp TCHT trong dạy học môn TNXH 35
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 36
CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ - THỂ NGHIỆM 37
3.1. MỘT SỐ YÊU CẦU CHUNG 37
3.1.1. Nghiên cứu tài liệu, SGK, SGV, thiết kế bài giảng 37
3.1.2. Định hướng thiết kế bài dạy 37
3.2. THIẾT KẾ BÀI DẠY 37
3.2.1. Mục đích thiết kế 37
3.2.2. Nhiệm vụ thiết kế 38
3.2.3. Nội dung của thiết kế 38

3.2.4. Phương pháp thiết kế 38
3.2.5. Cấu trúc thiết kế 38
3.2.6. Giáo án 39
3.3. THỂ NGHIỆM 39
3.3.1. Mục đích thể nghiệm 39
3.3.2. Đối tượng thể nghiệm 39
3.3.3. Nội dung thể nghiệm 39
3.3.4. Cách thức tiến hành 39
3.3.5. Cách thức đánh giá kết quả thể nghiệm 40
3.3.6. Phân tích kết quả thể nghiệm 40
3.3.6.1. Kết quả lĩnh hội tri thức và kĩ năng về GDMT của HS 40
3.3.6.2. Mức độ tập chung chú ý và hứng thú học tập của HS 42
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 43
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 44
1. Kết luận 44
2. Kiến nghị 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO 46




1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Bảo vệ môi trường (BVMT) là vấn đề mang tính sống còn của đất nước,
của nhân loại, là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển bền vững, liên
quan chặt chẽ tới sự phát triển kinh tế - xã hội, gắn liền với cuộc đấu tranh xóa
đói, giảm nghèo đảm bảo công bằng xã hội, ổn định chính trị và an ninh quốc
gia. Yếu tố môi trường ngày càng ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm, hàng hóa,
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Môi trường còn ảnh hưởng trực tiếp tới sự

phát triển thể chất con người, phát triển giống nòi. Sau 10 năm thực hiện Luật
BVMT, 6 năm thực hiện Chỉ thị 36 - CT/TW của Bộ chính trị (khóa VIII), công
tác BVMT đã có những chuyển biến và đạt được một số tiến bộ nhất định. Tuy
nhiên, công tác BVMT cũng còn nhiều tồn tại và yếu kém, trong đó đang nảy
sinh những mâu thuẫn ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước [3].
Trong hệ thống giáo dục quốc dân thì tiểu học là bậc học quan trọng nhất,
là bậc học đặt nền móng cho sự phát triển của xã hội về vật chất và tinh thần, là
cơ sở ban đầu hết sức quan trọng trong việc đào tạo thế hệ trẻ thành những con
người có tri thức khoa học, có tư duy sáng tạo, có năng lực thực hành, có tác
phong công nghiệp, tính tổ chức kỉ luật cao. Hơn nữa, ở bậc học này còn trang
bị những kiến thức cơ bản phù hợp với độ tuổi và tâm sinh lí của HS về các yếu
tố môi trường, vai trò của môi trường đối với con người và tác động của con
người đối với môi trường, giáo dục cho HS có ý thức trong việc BVMT, phát
triển khả năng bảo vệ và giữ gìn môi trường.
Môn Tự nhiên và xã hội nhằm cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản,
ban đầu và thiết thực về con người ở hai khía cạnh sinh học và nhân văn, về xã
hội theo không gian và thời gian, về thế giới vật chất xung quanh bao gồm cả thế
giới vô sinh và hữu sinh. Từ đó hình thành ở HS ý thức thái độ, cách ứng xử
đúng đắn với bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội, thể hiện tình yêu thiên
nhiên với quê hương đất nước đồng thời hình thành lòng ham hiểu biết cho HS.
Đối với HS lớp 3, ở lứa tuổi này các em còn mang đậm bản sắc hồn nhiên,
sự chú ý chưa cao. Bên cạnh hoạt động học là hoạt động chủ đạo thì nhu cầu vui
chơi giao lưu với bạn bè vẫn còn tồn tại và cần thỏa mãn. Nếu GV biết phối hợp
nhịp nhàng giữa hoạt động học và sự thỏa mãn nhu cầu vui chơi, giao tiếp của
các em thì các em sẽ say mê học tập, tất yếu kết quả học tập sẽ cao. Đây cũng là
đặc thù của phương pháp trò chơi học tập (TCHT).

2
Trong thực tiễn dạy học môn TNXH lớp 3 cho thấy: TCHT là phương pháp
dạy học mới, GV sử dụng chưa nhiều. Nếu có thì GV tổ chức cho HS chơi

nhưng chưa theo quy trình chặt chẽ mà còn lộn xộn, trò chơi chưa làm nổi bật
được trong tâm của bài học, GV mới chỉ sử dụng trò chơi để củng cố bài chứ
chưa nhằm cung cấp kiến thức chưa xem trò chơi là phương pháp dạy học. Vì
vậy, việc sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học chưa đạt kết quả cao.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Vận dụng trò
chơi học tập để giáo dục môi trường trong dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3".
2. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng trò chơi học tập để nâng cao hiệu quả giáo dục môi trường trong
dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: HS lớp 3 Trường Tiểu học Lương Sơn 1, huyện
Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Đối tượng nghiên cứu: Vận dụng trò chơi học tập để giáo dục môi trường
trường trong dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu giáo viên biết vận dụng một cách linh hoạt và hợp lí một số trò chơi
học tập trong dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3 thì sẽ nâng cao hiệu quả
giáo dục môi trường cho học sinh tiểu học.
5. Các nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề giáo dục môi trường trong
dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3 nói chung và giáo dục môi trường bằng
trò chơi học tập nói riêng;
Vận dụng một số trò chơi học tập để giáo dục môi trường cho học sinh tiểu
học qua môn tự nhiên và xã hội lớp 3;
Thực nghiệm để kiểm nghiệm tính khả thi của vấn đề nghiên cứu.
6. Phạm vi nghiên cứu
Vận dụng TCHT để GDMT cho HS lớp 3 Trường Tiểu học Lương Sơn 1,
huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa.




3
7. Các phương pháp nghiên cứu
7.1. Các phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết các vấn đề có liên quan đến GDMT và trò chơi.
- Phương pháp phân tích hệ thống: GDMT cho học sinh tiểu học không
được dạy riêng lẻ như một môn học ở trường tiểu học mà nội dung GDMT được
tích hợp trong các môn học khác như: TNXH, Lịch sử và Địa lí, Khoa học, Đạo
đức Chính vì vậy khi nghiên cứu vấn đề GDMT nói chung và vận dụng một số
trò chơi học tập nhằm nâng cao chất lượng GDMT cho học sinh nói riêng cần
nghiên cứu nó trong hệ thống mục tiêu giáo dục, chương trình, nội dung sách
giáo khoa, cách thức tổ chức dạy học của giáo viên, khả năng tiếp thu kiến thức
của học sinh.
- Phương pháp hệ thống hoá: Từ việc nghiên cứu, phân tích các vấn đề có
liên quan tới phương pháp này được sử dụng nhằm xây dựng và trình bày các
nội dung được nghiên cứu.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát: tiến hành quan sát các hoạt động GDMT của học
sinh tại trường tiểu học nhằm tìm hiểu kinh nghiệm sử dụng trò chơi để GDMT
cho học sinh thông qua dạy học môn TNXH lớp 3.
- Phương pháp đàm thoại:
+ Trao đổi với giáo viên để tìm hiểu quan niệm, thái độ, cách thức tổ chức
dạy học mà họ đã tiến hành nhằm GDMT cho học sinh trong dạy học môn
TNXH lớp 3, những thuận lợi và khó khăn mà giáo viên đã gặp phải khi GDMT
cho HS.
- Phương pháp điều tra:
+ Điều tra nhận thức giáo viên về các vấn đề môi trường, các hình thức đã sử
dụng để GDMT cho học sinh thông qua môn TNXH cũng như hiệu quả của nó.
- Phương pháp thể nghiệm: Dựa vào giả thuyết khoa học đã đặt ra tiến hành
thể nghiệm ở trường tiểu học để xem xét hiệu quả và tính khả thi của việc sử

dụng trò chơi học tập để GDMT cho học sinh tiểu học thông qua môn TNXH
lớp 3 như đã đề xuất.
7.3. Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp này được dùng để phân tích và xử lí các kết quả thu được qua
điều tra và thể nghiệm.

4
8. Cấu trúc của khóa luận
Khóa luận gồm các phần: mở đầu, 3 chương và kết luận. Trong đó:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vận dụng trò chơi học tập để
GDMT trong dạy học môn TNXH lớp 3
Chương 2: Đề xuất một số trò chơi học tập để GDMT trong dạy học môn
TNXH lớp 3
Chương 3: Thiết kế - Thể nghiệm


















5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG TRÒ CHƠI
HỌC TẬP ĐỂ GIÁO DỤC MÔI TRƯỜNG TRONG DẠY HỌC MÔN
TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 3

1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Vấn đề môi trường và GDMT
Trên thế giới, việc GDMT được tiến hành từ những năm đầu của thập niên
70 và từ đó đến nay, dưới sự hướng dẫn và theo dõi của các tổ chức MT của
Liên Hiệp Quốc, GDMT đã phát triển mạnh mẽ và sâu rộng.
Do nhận thức rõ tình trạng MT bị biến đổi ngày càng xấu đi, Liên Hiệp
Quốc đã tổ chức hội nghị Quốc tế về “Con người và MT” tại Stôckhôm (Thụy
Điển) từ ngày 5 - 15/6/1972. Tại hội nghị này, các thành viên đã nhất trí nhận
định: Việc bảo vệ thiên nhiên và MT là một trong hai nhiệm vụ hàng đầu của
toàn nhân loại (cùng với nhiệm vụ bảo vệ hòa bình chống chiến tranh). Từ đó,
ngày 5 tháng 6 hàng năm trở thành "Ngày MT thế giới". Hội nghị cũng đã tuyên
bố GDMT là phương pháp quan trọng để hình thành nhận thức và hành vi có
trách nhiệm cho cá nhân và tổ chức trong việc bảo vệ và cải thiện MT, là một
yếu tố quyết định trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng MT trên toàn thế giới.
Sau hội nghị Stôckhôm năm 1972, GDMT đã được đưa vào các trường học.
Có khoảng hơn 1000 chương trình MT và BVMT được giảng dạy trong 750
trường thuộc 70 nước khác nhau. Tuy nhiên, về mục đích, nội dung và phương
pháp GDMT phải đợi đến nhiều hội nghị quốc tế sau đó mới được giải quyết và
hoàn thiện dần.
Hội nghị quốc tế về GDMT họp tại Belgrade (Nam Tư) vào tháng 10 năm
1975, lần đầu tiên tổ chức Giáo dục khoa học và văn hóa của Liên hợp Quốc
(UNESCO) đã khởi thảo một chương trình về GDMT, qua đó vạch ra các
nguyên lí và chiến lược GDMT cho thế hệ trẻ trên toàn thế giới.

Tiếp sau đó, nhiều hội thảo khu vực về GDMT được tổ chức, trong đó, hội
thảo khu vực châu Á - Thái Bình Dương được tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan)
vào tháng 10 năm 1976 đã đưa ra bốn vấn đề: (1)-Chương trình GDMT; (2) -
Đào tạo và bồi dưỡng giáo viên; (3) - GDMT phi chính quy và vấn đề soạn thảo
tài liệu; (4) - Xây dựng các phương tiện giảng dạy GDMT.


6
Hội nghị liên chính phủ về GDMT được tổ chức tại Tbilixi (Grudia) vào tháng
10 năm 1977 với sự tham gia của 66 quốc gia thành viên UNESCO. Hội nghị này là
đỉnh cao của giai đoạn xây dựng chương trình và đặt cơ sở cho sự phát triển GDMT
trên bình diện quốc tế. Nhiều hội thảo khu vực lại được tiếp tục trong đó có hội thảo
khu vực châu Á - Thái Bình Dương được tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan) vào tháng 9
năm 1980 với sự tham gia của 17 nước. Tại hội thảo này, các nước đã trao đổi kinh
nghiệm GDMT, đồng thời hội thảo cũng đã nêu ra sự cần thiết phải đưa GDMT vào
các trường đại học và đào tạo, bồi dưỡng cho các đối tượng khác nhau (bồi dưỡng giáo
viên dạy đại học, trung học, tiểu học). [7]
Tháng 8 năm 1987, UNESCO và UNEP phối hợp tổ chức hội nghị quốc tế
về GDMT tại Matxcơva (Nga), với sự tham gia của đại diện hơn 100 nước và
nhiều tổ chức quốc tế khác nhau. Hội nghị đã xây dựng chiến lược quốc tế về
chương trình hành động GDMT cho thập kỷ 90 gồm 9 mục tiêu về tăng cường
hệ thống thông tin quốc tế và trao đổi kinh nghiệm, đẩy mạnh nghiên cứu thực
nghiệm về nội dung, phương pháp GDMT, xây dựng hoàn thiện chương trình và
tài liệu, phương pháp GDMT, xây dựng hoàn thiện chương trình và tài liệu,
phương tiện cho GDMT ở mọi cấp học và đặt tên cho thập kỷ 90 là "Thập kỉ
toàn thế giới cho GDMT".[7]
Để thực hiện chương trình hành động GDMT thập kỷ 90, UNESCO và
UNEP phối hợp tổ chức hội nghị quốc tế về GDMT tại Pari (Pháp) vào tháng 10
năm 1990. Hội nghị nhằm trao đổi về trách nhiệm của từng tổ chức quốc tế
trong lĩnh vực GDMT, và một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ GDMT cho tất cả

mọi người đặc biệt là cho thế hệ trẻ và việc bồi dưỡng kiến thức MT cho giáo
viên các cấp.
Tháng 6 năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về "MT và phát triển"
đã diễn ra tại Rio de Janeiro (Brazil). Hội nghị đã thông qua chương trình hành
động cho thế kỉ XXI. Các quốc gia, các dân tộc theo đó giải quyết vấn đề MT
trong quan hệ hữu cơ với sự phát triển của cộng đồng. Các vấn đề cụ thể được
nêu lên ở hội nghị này là: Bảo vệ tầng khí quyển, chống nạn phá rừng, chống sa
mạc hóa và hạn hán, bảo vệ sự đa dạng sinh học, bảo vệ tài nguyên nước, xử lí
các chất độc hại, nâng cao và cải thiện điều kiện sống, bảo vệ sức khỏe con
người, chấm dứt sự thoái hóa của MT.
Gần đây, Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu "MT và phát triển" được tổ chức
lần thứ hai tại Niu Ooc (Mĩ). Hội nghị đã tổng kết và đánh giá những nhiệm vụ
đã thực hiện trong 5 năm mà hội nghị lần một đã đề ra.[3]

7
Có thể nhận thấy rằng, vấn đề GDMT trong nhiều năm qua đã được các hội
nghị quốc tế và khu vực quan tâm. Nội dung chủ yếu mà các hội nghị này đưa ra
là các chương trình, chiến lược và giải pháp GDMT chung cho tất cả các quốc
gia trên toàn thế giới.
Ở nước ta, việc giáo dục MT mới được bắt đầu từ những năm cuối của thập
niên 70, còn việc GDMT trong nhà trường phổ thông mới được thực hiện vào đầu
năm 1981 cùng với kế hoạch cải cách giáo dục.
Từ năm học 1986 đến 1992 các sách giáo khoa Tiểu học, trung học cơ sở
và trung học phổ thông với một số nội dung được cải tiến, trong đó vấn đề
GDMT đã được quan tâm nhiều hơn. Đặc biệt, bắt đầu từ năm học 2002 - 2003,
việc đổi mới nội dung chương trình, SGK với nhiều bài, nhiều mục, nhiều nội
dung GDMT được đưa vào các môn học tạo điều kiện thuận lợi cho việc GDMT
trong nhà trường phổ thông.
Tuy nhiên, hiện tại nhận thức và hành động tiêu cực của đông đảo quần chúng,
trong đó có cả học sinh vẫn còn là trở ngại lớn cho việc BVMT và thiên nhiên ở

nước ta. Do đó việc nâng cao nhận thức cho nhân dân và học sinh về MT và BVMT
cần được quan tâm hơn. Kiến thức MT và phát triển bền vững phải đưa dần từng
bước giúp học sinh có ý thức tự giác từ nhỏ cho đến hết đời mình. Chúng ta nhận
thấy, công tác GDMT ở nước ta những năm qua tuy đã thu được một số kết quả
bước đầu nhưng đang còn nhiều tồn tại và thiếu sót. Theo đánh giá của các tác giả
Đinh Quang Báo và Dương Tiến Sỹ: "tài liệu phục vụ GDMT còn thiên về cung cấp
kiến thức chưa đề cập đến phương pháp, hình thức GDMT, thiếu phương pháp, biện
pháp giáo dục kĩ năng, thái độ, hành vi BVMT, dẫn tới việc khai thác tri thức MT và
BVMT lồng ghép tích hợp trong nội dung môn học còn gặp nhiều lúng túng và mức
độ thực hiện còn hạn chế”. Để khắc phục những thiếu sót trên và thực hiện mục tiêu
GDMT trong quá trình dạy học, cần phải triển khai đồng bộ các hướng nghiên cứu
khoa học lấy GDMT làm định hướng và cơ sở thực hiện . Bên cạnh đó, cần tập trung
nghiên cứu khai thác các nội dung GDMT được lồng ghép tích hợp trong các môn
học, các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học sao cho phát huy được tính tích cực
sáng tạo của học sinh, đảm bảo GDMT sát với yêu cầu thực tiễn.
1.1.2. Một số khái niệm
- Ta có thể hiểu khái niệm MT như sau: MT là toàn bộ các hệ thống tự
nhiên và các hệ thống xã hội do con người tạo ra, chúng có mối quan hệ mật
thiết với nhau, bao xung quanh con người và ảnh hưởng tới đời sống sản xuất,
sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên.

8
- Khoa học MT là một trường học liên ngành tích hợp các khoa học vật lí,
sinh học (bao gồm nhưng không giới hạn Sinh thái học, Vật lí, Hóa học, Sinh
học, khoa học đất, Địa chất, khoa học khí quyển và Địa lí) cho việc nghiên cứu
MT và các giải pháp về vấn đề MT.
Khái niệm này được giải thích là: “Ý muốn hướng tới việc bảo tồn những
di sản của thiên nhiên và việc chăm sóc chúng”.
Vì vậy bảo vệ thiên nhiên được coi là bảo tồn những đối tượng hiếm, đặc
hữu của tự nhiên để chúng khỏi bị tiêu diệt. Từ đó, người ta bắt đầu xây dựng

những khu rừng cấm để nhằm bảo vệ toàn vẹn các điều kiện tự nhiên của những
khu vực nhất định.[6]
- BVMT như lời kêu gọi sự quan tâm thích đáng và hợp lí tới MT. Ngay
lập tức phải hợp tác với nhau một cách đầy thiện ý trong việc sử dụng, quản lí
nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ tính đa dạng sinh học, sự cân bằng sinh
thái, phòng chống sự suy thoái và ô nhiễm MT.
- GDMT là tiền đề của sự phát triển bền vững. GDMT là làm cho từng người
và cộng đồng hiểu được bản chất phức tạp của MT tự nhiên và nhân tạo, có được
tri thức thái độ và kĩ năng thực tế để tham gia có hiệu quả và có trách nhiệm vào
việc tiên đoán và giải quyết các vấn đề MT và quản lí chất lượng MT.
1.1.3. Trò chơi học tập
1.1.3.1. Nguồn gốc của trò chơi
Từ thời kì nguyên thủy con người đã có nhu cầu về chơi, sau những ngày
làm việc mệt nhọc như săn bắt, hái lượm người ta tụ tập nhau lại để bày tỏ sự
vui mừng của mình và họ nhảy múa, reo hò suốt đêm.
Trong những cuộc vui như vậy thì những người lập được chiến công
thường kể lại, diễn lại những thao tác quyết định như ném đá, phóng lao, đuổi
bắt nhờ những hành động đó mà họ bắt được nhiều thú rừng. Cứ như vậy sự
bắt chước đã biến thành TC và dần dần TC ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong cuộc sống, TC là một món ăn tinh thần tiếp thêm sức mạnh cho người lao
động. Đây là nguồn gốc, là sự ra đời sơ khai nhất của TC. Lúc đầu sự bắt trước
mang tính chân thực và đơn điệu, nhưng rồi trong quá trình chơi mỗi người thêm
bớt một chút sẽ dần dần làm cho TC mang tính khái quát và trìu tượng từ đó tư
duy và ngôn ngữ của con người cũng phát triển.
Cũng nhờ khả năng tư duy, ngôn ngữ phát triển mà con người bắt đầu biết
tích lũy kinh nghiệm trong cuộc sống. Nhờ vậy, mà chúng ta dần dần thấy được

9
tầm quan trọng của sự chuẩn bị trước các công cụ lao động, sức khỏe và sự tập
luyện những tao tác cơ bản nhờ đó mà hiệu quả lao động đạt được cao hơn. Lúc

đầu sự chuẩn bị các thao tác này mang tính chất tự nhiên dưới hình thức vui chơi
mà tập luyện, tập luyện mà vui chơi, sau đó người ta dùng TC để dạy cho con
cháu, dạy cho lớp trẻ, chuẩn bị cho họ tiếp bước cha anh tham gia tích cực, có
hiệu quả vào cuộc sống lao động, đấu tranh sinh tồn và phát triển của mình. Như
vậy sau khi ra đời TC đã mang ý nghĩa giáo dục rất cao và có một vai trò quan
trọng trong xã hội loài người. Cuộc sống xã hội ngày càng phát triển, trường học
được hình thành và ngày càng mở rộng và là nơi thu hút những mần non của xã
hội. Ở đây người ta sử dụng nhiều nội dung, nhiều phương pháp để giáo dục, rèn
luyện thế hệ trẻ trong đó có TC. Ngày nay cũng vậy TC trở thành một trong
những phương pháp giáo dục hiệu quả nhất, đặc biệt đối với trẻ bậc tiểu học.
1.1.3.2. Phân loại trò chơi
1.1.3.2.1. Trò chơi thi đấu
Bao gồm TC diễn ra giữa hai người hay hai phe, giữa nhiều người hay
nhiều phe mà kết quả bao giờ cũng có người thắng, kẻ thua. Loại TC này thường
thu hút được nhiều người tham gia. Bởi lẽ, quyền lợi của người chơi và người cổ
vũ gắn chặt với nhau.
VD: đấu bóng, đấu vật, đánh cờ, đua thuyền, kéo co
1.1.3.2.2. Trò chơi mô phỏng
Loại TC này nhằm tái hiện những hoạt động lao động sản xuất, sinh hoạt hằng
ngày của con người hay sự vận hành vũ trụ. TC mô phỏng những hoạt động sống
của con người giúp cho thiếu nhi chuẩn bị gia nhập thế giới người lớn.
VD: kéo co, ném còn, đập lúa, nhảy dây
1.1.3.2.3. Trò chơi cầu may
Loại này bao gồm những TC chỉ để nhằm thỏa mãn nhu cầu của cá nhân,
nhưng thu hút nhiều người tham gia.
VD: xổ số, cá ngựa
1.1.3.2.4. Trò chơi tạo cảm giác
Loại TC này nhằm đáp ứng và thỏa mãn những nhu cầu đặc biệt của con
người để thoát khỏi thực tại bằng sự xuất thần, tạo nên một cảm giác mới lạ
choáng ngợp.

VD: trượt dốc, nhào lộn, nhảy dù, đánh đu

10
1.1.3.2.5. Khái niệm về TCHT
TCHT là trò chơi có nội dung gắn với hoạt động học tập của học sinh.
Phương pháp TCHT là phương pháp tổ chức hoạt động học tập của HS mà
trong đó HS lĩnh hội được các kiến thức cần thiết nhờ tham gia tích cực và các
hoạt động của TC.
VD: hái hoa dân chủ, ô chữ bí mật, bắt muỗi
1.1.3.3. Một số lưu ý khi sử dụng trò chơi học tập
Khi xây dựng TCHT GV cần chú ý tới:
- Phải thể hiện được tính thi đua giữa các cá nhân và các nhóm.
- Có quy định về sự thưởng phạt rõ ràng.
- Có cách chơi cụ thể (bao gồm cả thời gian).
- Có cách tính điểm.
Như vậy để xây dựng một TCHT, GV cần lựa chọn từ các hoạt động học
tập đảm bảo được các nhân tố cơ bản trên.
Ngoài các TC trong SGV, GV có thể bổ sung các TC hợp lí với bài học và
trình độ nhận thức của HS.
1.1.3.4. Cách tổ chức một trò chơi học tập
Khi tổ chức một TCHT GV cần tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Giới thiệu tên TC, hướng dẫn cách chơi, thời gian chơi và phổ biến
luật chơi.
Bước 2: Cho HS chơi thử (nếu cần) nhằm giúp HS có biểu tượng về TC.
Bước 3: Chơi thật.
Bước 4: Nhận xét kết quả TC (có thể thưởng hoặc phạt người thắng hoặc
người thua). Nhận xét thái độ của người chơi và rút kinh nghiệm.
Bước 5: Kết thúc: GV hỏi xem HS đã học được gì qua TC hoặc GV tổng
kết những gì cần học thông qua TC này.
1.1.3.5. Cách xây dựng một trò chơi học tập

Khi xây dựng TCHT GV cần tuân thủ những bước sau:
Bước 1: Lựa chọn trò chơi
- Phân tích yêu cầu cần đạt được của bài học.

11
- Chọn thử TC nào đó để phân tích nội dung bài học và khả năng ứng dụng
của TC đó.
- Đối chiếu khả năng giáo dục của TC (vừa chọn thử) với yêu cầu bài học
(nếu thấy không phù hợp thì cần trở lại việc chọn thử TC).
Bước 2: Chuẩn bị tổ chức trò chơi
- GV thiết kế giáo án chuẩn bị đầy đủ các phương tiện, đồ dùng phục vụ TC.
- Chuẩn bị thực hiện giáo án.
Bước 3: Giới thiệu và giải thích cách chơi
GV nêu tên TC, cách thức chơi, những thao tác cần thiết, cố gắng thật ngắn
gọn, rõ ràng làm sao để HS hiểu rõ cách thực hiện TC.
Bước 4: Điều khiển, nhận xét, đánh giá
1.1.4. Vai trò của TCHT trong GDMT cho HSTH
Cùng với học, chơi là nhu cầu không thể thiếu được của HSTH. Lí luận và
thực tiễn đã chứng tỏ rằng: Nếu biết tổ chức cho trẻ vui chơi một cách hợp lí, đúng
đắn thì đều mang lại hiệu quả giáo dục. Học trong quá trình chơi là quá trình lĩnh
hội tri thức, vốn sống, kinh nghiệm xã hội một cách nhẹ nhàng, tự nhiên không gò
bó phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí HSTH. Học bằng chơi sẽ khơi dậy hứng thú tự
nguyện, làm giảm sự căng thẳng thần kinh ở các em, giữ được sự hồn nhiên của trẻ
thơ. Chính vì vậy, việc vận dụng trò chơi để GDMT thì hiệu quả giáo dục sẽ nâng
cao. Cụ thể là:
- Mục tiêu cuối cùng của vấn đề GDMT là hình thành hành vi đúng đắn.
Trong khi đó, nội dung trò chơi sẽ minh họa một cách sinh động các mẫu hành
vi này. Nhờ đó mà các hành vi này sẽ tạo được những biểu tượng rõ rệt ở HS,
giúp các em ghi nhớ dễ dàng và lâu bền.
- Nguyên nhân quan trọng gây ra hiện tượng xuống cấp MT là do những

hành động và suy nghĩ trước đây của loài người. Nhiều người trong chúng ta vẫn
chưa thấy được lợi ích về sự thay đổi hành vi và thói quen ứng xử với MT. Ngay
cả những người hiểu được cũng không thường xuyên thực hiện ý muốn này.
Việc thay đổi thái độ và hành vi của con người đòi hỏi phải có một chiến dịch
tuyên truyền đồng bộ. Trong khi đó, qua TC rất dễ làm thay đổi thái độ và hành
vi về MT.Cũng như, qua TC HS được luyện tập những kĩ năng những thao tác
hành vi đúng đắn về vấn đề MT, giúp các em thể hiện hành vi một cách đúng
đắn và tự nhiên.

12
- Qua TC, HS có cơ hội thể nghiệm những chuẩn mực hành vi BVMT.
Chính nhờ sự thể hiện này, sẽ hình thành được ở HS niềm tin về những chuẩn
mực hành vi đã học, tạo ra động cơ bên trong cho những hành vi BVMT trong
cuộc sống.
- Qua trò chơi, HS sẽ được rèn luyện khả năng quyết định lựa chọn cho
mình một cách ứng xử đúng đắn, phù hợp với MT.
Qua trò chơi, HS được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kĩ
năng nhận xét, đánh giá hành vi của người khác là phù hợp hay không phù hợp
với chuẩn mực hành vi BVMT.
1.1.5. Giáo dục môi trường trong trường tiểu học
1.1.5.1. Mục tiêu GDMT trong trường tiểu học
Xuất phát từ mục tiêu chung về GDMT, các nước sẽ xây dựng mục tiêu
riêng cho nước mình, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, trình độ nhận thức và khả
năng hành động của từng cấp học, dựa trên tiêu chuẩn quan trọng nhất là hành
động tích cực của cá nhân và tập thể trong việc cải thiện chất lượng MT. Thông
qua chỉ thị 36/CT-TƯ đưa ra ngày 25/6/1998 của bộ chính trị về “tăng cường
công tác BVMT trong thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước” ở đó có
công tác GDMT là giải pháp đầu tiên: “Thường xuyên giáo dục, tuyên truyền,
xây dựng thói quen, nếp sống và phong trào quần chúng BVMT”. Vì vậy, mục
tiêu GDMT trong nhà trường phổ thông nhằm: “Mỗi trẻ được trang bị một ý

thức trách nhiệm đối với sự phát triển bền vững của Trái Đất, một khả năng biết
đánh giá vẻ đẹp của thiên nhiên và một giá trị nhân cách được khắc sâu bởi một
nền tảng đạo lí về môi trường”.[1]
1.1.5.2. Nhiệm vụ GDMT ở trường tiểu học
GDMT là một quá trình nâng cao nhận thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành thái
độ và hành vi đúng đắn cho HS về vấn đề MT. Do đó nó có các nhiệm vụ sau: [1]
- Làm cho HS hiểu biết về thiên nhiên, về MT nói chung và MT Việt Nam
nói riêng. Nhận thức rõ mối quan hệ khắng khít với sự tác động tương hỗ giữa
các sinh vật với các yếu tố của MT. Tầm quan trọng của MT đối với sự tồn tại
và phát triển của xã hội loài người.
- Trên cơ sở những hiểu biết đó, giáo dục cho HS ý thức, thái độ, sự quan
tâm, hành vi cư xử đúng mực với môi trường và BVMT, dần dần hình thành ở
HS lòng yêu thiên nhiên, mong muốn được bảo vệ môi trường sống, các phong

13
cảnh đẹp, các di tích văn hoá, lịch sử của đất nước và cuối cùng làm cho việc
BVMT trở thành phong cách, nếp sống của HS.
- Trang bị cho HS các kĩ năng và biện pháp BVMT thông thường trong
sinh hoạt và lao động sản xuất để sau này ra đời các em có thể tham gia một
cách có hiệu quả trong việc BVMT ở nơi sinh sống và làm việc.
1.1.5.3. Nội dung GDMT có trong nội dung chương trình môn TNXH
Phần lớn các nội dung GDMT đều được đưa vào nội dung các môn học để giáo
dục cho HS. Trong môn TNXH nội dung GDMT được đưa vào với các lĩnh vực sau:
- Những kiến thức về môi trường và các yếu tố của môi trường bao gồm: các
yếu tố của MT tự nhiên và các yếu tố của MT nhân tạo, các điều kiện sinh thái của
MT, quan hệ giữa các yếu tố sinh thái của MT với đời sống của con người.
- Những tác động của MT đến đời sống sinh vật và con người bao gồm: tác
động đến MT đến sự tồn tại và phát triển của động thực vật và con người; tác
động đến các điều kiện lao động sản xuất của con người, tác động đến các điều
kiện nghỉ ngơi, giải trí và sức khoẻ của con người.

- Những tác động của con người và của động thực vật đến MT bao gồm:
việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, việc bảo vệ và cải
tạo MT tự nhiên, những nguyên nhân gây biến đổi MT.
- Những kĩ năng học tập và BVMT bao gồm: các kĩ năng học tập như điều
tra quan sát thực tế Các kĩ năng BVMT như: vệ sinh nhà cửa, trường lớp, xử lí
chất thải.
1.1.6. Đặc điểm nhận thức của HS tiểu học
- Tri giác mang tính đại thể, toàn bộ, ít đi sâu vào chi tiết tuy nhiên trẻ cũng
bắt đấu có khả năng phân tích dấu hiệu, chi tiết nhỏ của một số đối tượng nào
đó. Tri giác thường gắn với hành động, với hoạt động thực tiễn.
Tri giác và đánh giá không gian và thời gian còn hạn chế: tri gác chưa
chính xác độ lớn của những vật quá lớn hoặc quá nhỏ.
- Tư duy của trẻ mới đến trường là tư duy cụ thể, mang tính hình thức, dựa
vào đặc điểm bên ngoài. Nhờ hoạt động học tập tư duy gần mang tính khái quát.
khi khái quát HSTH thường dựa vào chức năng và công dụng của chúng, trên cơ
sở này HS tiến hành phân loại, phân hạng. Hoạt động phân tích tổng hợp còn sơ
đẳng. Việc học TNXH sẽ giúp các em biết phân tích và tổng hợp. Trẻ thường
gặp khó khăn trong việc thiết lập mối quan hệ nhân - quả.

14
- Tưởng tượng còn tản mạn, ít có tổ chức, hình ảnh tưởng tượng thì đơn
giản, hay thay đổi. Tưởng tượng tái tạo từng bước hoàn thiện.
- Chú ý không chủ định vẫn phát triển, chú ý có chủ định còn yếu và thiếu
bền vững. Sự phát triển chú ý gắn liền với sự phát triển của hoạt động học tập.
- Trí nhớ trực quan hình tượng phát triển hơn trí nhớ từ ngữ lôgic. Nhiều
HSTH còn chưa biết việc tổ chức ghi nhớ có ý nghĩa mà có khuynh hướng phát
triển trí nhớ máy móc. Ghi nhớ gắn với mục đích đã giúp trẻ nhớ nhanh hơn, lâu
hơn và chính xác hơn.[5]
Tóm lại, đặc điểm nhận thức của HSTH là tri giác mang tính đại thể, sự tập
chung chú ý còn yếu, tư duy cụ thể và khả năng phân tích chưa cao. vì vậy để

giúp HSTH học tốt môn TNXH cần sử dụng phương tiện trực quan sinh động,
tham quan thảo luận và đặc biệt là sử dụng phương pháp trò chơi học tập.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Đặc điểm môn học
1.2.1.1. Môn TNXH là môn học được xây dựng theo quan điểm tích hợp
- Dạy học theo quan điểm tích hợp là sự trình bày các khái niệm, các
nguyên lí khoa học cho phép sự diễn đạt thống nhất một cách cơ bản của tư
tưởng khoa học, tránh nhấn mạnh quá sớm hoặc quá muộn về sự khai thác giữa
các lĩnh vực khác nhau.
- Tính tích hợp trong môn TNXH ở tiểu học được thể hiện như sau:
+ Môn TNXH xem xét con người trong một thể thống nhất có mối quan hệ
qua lại và tác động khác nhau trong đó có con người là yếu tố cốt lõi, yếu tố
quyết định.
+ Môn TNXH được hình thành từ tri thức của nhiều lĩnh vực khoa học.
- Trong chương trình môn TNXH ở tiểu học tích hợp được thể hiện ở nội
dung và phương pháp dạy học với nhiều mức độ và hình thức khác nhau được
thể hiện theo 2 giai đoạn của quá trình nhận thức:
+ Giai đoạn lớp 1, 2, 3: Ở giai đoạn này HS có cách nhìn nhận về môi
trường ở dạng tổng thể vì vậy nội dung kiến thức được chia theo dạng chủ điểm:
gia đình, con người, xã hội sở dĩ như vậy là do nhận thức trực quan hình tượng
của trẻ còn chiếm ưu thế, khả năng phân tích chưa cao, trẻ khó xác định mối
quan hệ giữa các sự vật hiện tượng với nhau.

15
+ Giai đoạn lớp 4, 5: HS đã bước đầu có khả năng phân tích, so sánh, tổng
hợp đặc biệt là khả năng tư duy trìu tượng phát triển hơn. Vì vậy trẻ có khả năng
tiếp thu kiến thức về mặt bản chất do đó chương trình được cấu tạo dưới dạng
các phân môn: khoa học, lịch sử và địa lí.[13]
1.2.1.2. Môn TNXH được xây dựng theo hướng đồng tâm
Các kiến thức trong chương trình được trình bày từ gần đến xa, từ đơn giản

đến phức tạp. Đặc biệt tăng dần tính phức tạp và khả năng khái quát ở các lớp
cao hơn.[13]
1.2.1.3. Môn TNXH là môn học cung cấp cho HS các kiến thức khoa học
Các kiến thức khoa học cung cấp cho HS về TNXH, con người gấn gũi với
đời sống hàng ngày của trẻ vì vậy HS có thể vận dụng những hiểu biết của mình
về cuộc sống để tham gia vào quá trình dạy học.[10]
1.2.1.4. Môn TNXH là môn học thực hiện theo định hướng đổi mới
Môn TNXH tạo điều kiện tối đa cho GV đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng tích cực trên cơ sở phát huy tính độc lập sáng tạo, tự chủ cho HS.[1]
1.2.2. Đặc điểm nội dung SGK môn TNXH lớp 3
Các bài TNXH lớp 3 được chia làm 3 chủ đề đó là: con người và sức khỏe,
Xã hội, Tự nhiên.
- Chủ đề con người và sức khỏe HS được tìm hiểu về:
+ Cơ quan hô hấp: nhận biết trên sơ đồ, hoạt động lao động và tập thể vừa sức.
+ Cơ quan bài tiết nước tiểu: nhận biết trên sơ đồ, biết giữ vệ sinh.
+ Cơ quan thần kinh: nhận biết trên sơ đồ, biết ngủ, nghỉ ngơi, học tập và
làm việc điều độ.
- Chủ đề xã hội HS được tìm hiểu về:
+ Gia đình: mối quan hệ họ hàng nội ngoại (cô, dì, chú, bác, cậu và các chị
em họ); quan hệ giữa sự gia tăng số người trong gia đình và số người trong cộng
đồng; biết giữ an toàn khi ở nhà.
+ Trường học: một số hoạt động chính ở trường tiểu học, vai trò của GV và
HS trong các hoạt động đó; biết giữ an toàn khi ở trường.
+ Tỉnh hoặc thành phố nơi bạn đang sống: một số cơ quan hành chính,
giáo dục, văn hóa, y tế ; làng quê và đô thị; giữ vệ sinh nơi công cộng; an
toàn giao thông.

16
- Chủ đề tự nhiên HS được tìm hiểu về:
+ Thực vật và động vật: đặc điểm bên ngoài của một số cây xanh và con

vật (đặc điểm chung và riêng của một số cây cối, con vật).
+ Mặt trời và trái đất;
● Mặt trời: nguồn sáng và nguồn nhiệt; vai trò của mặt trời đối với sự sống
trên trái đất; trái đất trong hệ mặt trời; mặt trăng và trái đất.
● Trái đất: hình dạng đặc điểm bề mặt và sự chuyển động của trái đất; ngày
đêm, năm tháng, mùa.[12]
Như vậy ta thấy chương trình, nội dung môn TNXH lớp 3 rất đa dạng và
phong phú, bao gồm kiến thức về tự nhiên, xã hội, con người do vậy để dạy học
môn này thành công thì GV không chỉ phải nắm vững kiến thức mà còn phải biết
lựa chọn, kết hợp các phương pháp dạy học khác nhau trong một giờ học.
1.2.3. Thực trạng nhận thức và sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy
học môn TNXH lớp 3
1.2.3.1. Mục đích khảo sát
Tôi tiến hành khảo sát thực trạng nhận thức và sử dụng phương pháp trò
chơi của GV trong dạy học môn TNXH lớp 3 nhằm thu thập thông tin tìm ra
những ưu điểm, hạn chế và xác định nguyên nhân của những hạn chế đó trong
quá trình sử dụng phương pháp. Từ đó có thể đề xuất các trò chơi trong dạy học
để khắc phục những nhược điểm trên.
1.2.3.2. Đối tượng khảo sát
Tôi tiến hành khảo sát 10 GV đã và đang dạy khối 3 trường Tiểu học
Lương Sơn 1, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
1. Nguyễn Thị Hà
2. Nguyễn Thị Vinh
3. Bùi Nguyên Hồng
4. Lê Thị Thắm
5. Vũ Thị Hiền
6. Trần Hợp Hoàng
7. Lê Xuân Hoa
8. Hồ Sĩ Thiện


17
9. Lê Thị Hồng Lấn
10. Trần Thị Hồng Yến
1.2.3.3. Nội dung khảo sát
Với phạm vi và nội dung nghiên cứu đề tài, chúng tôi giới hạn xác định
khảo sát trên một số chỉ tiêu cơ bản sau:
- Nhận thức của GV về GDMT.
- Thực trạng hoạt động GDMT của GVTH.
1.2.3.4. Các phương pháp khảo sát
- Khảo sát bằng Anket
- Dự giờ quan sát giờ dạy
- Thống kê toán học
- Phương pháp đàm thoại
1.2.3.5.Phân tích kết quả
1.2.3.5.1. Nhận thức của GV về GDMT
- Về khái niệm MT
Chúng tôi đưa ra câu hỏi số 1 trong phiếu điều tra và kết quả thu được là:
100% GV được điều tra đã trả lời: “MT là toàn bộ hệ thống TNXH do con người tạo
ra. Trong đó con người sinh sống và lao động”. Điều này chứng tỏ GV đó có nhận
thức đúng đắn về khái niệm MT.
- Về mục tiêu GDMT
Chúng tôi đưa ra câu hỏi số 2 trong phiếu điều tra và kết quả thu được là:
Với các mục tiêu đưa ra thì kết quả thu được có 3 mục tiêu đạt số phần trăm cao
nhất là hình thành thái độ và hành vi bảo vệ môi trường: 91,41%. Hình thành
tình yêu thiên nhiên và môi trường: 82,82%. Cung cấp tri thức về các vấn đề
môi trường và bảo vệ môi trường: 79,29%. Điều này chứng tỏ phần lớn giáo
viên đã xác định được 3 mục tiêu chính của việc GDMT trong trường tiểu học
và đặc biệt hơn nữa là giáo viên đã nhận thức được tầm quan trọng của từng
mục tiêu như cung cấp tri thức, bồi dưỡng tình cảm và hình thành thái độ, hành
vi BVMT cho các em.



×