Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC: SỬ DỤNG PHƯƠNG TIỆN TRỰC QUAN THEO HƯỚNG TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN KHOA HỌC LỚP 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (882.93 KB, 57 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC


ĐINH THỊ NGÂN

SỬ DỤNG PHƯƠNG TIỆN TRỰC QUAN THEO HƯỚNG
TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CỦA HỌC
SINH TRONG DẠY HỌC MÔN KHOA HỌC LỚP 5





KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC








Sơn La, năm 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC






ĐINH THỊ NGÂN

SỬ DỤNG PHƯƠNG TIỆN TRỰC QUAN THEO HƯỚNG
TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CỦA HỌC
SINH TRONG DẠY HỌC MÔN KHOA HỌC LỚP 5


Chuyên ngành: Giáo dục


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Người hướng dẫn: ThS. Dương Thị Thanh



Sơn La, năm 2013
LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện đề tài, ngoài sự cố gắng của bản thân tôi còn
nhận được sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của các thầy cô trong khoa Tiểu học -
Mầm non trường Đại học Tây Bắc. Với tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc,
tôi xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Dương Thị Thanh người trực tiếp hướng dẫn
đề tài, cùng thầy cô giáo trong khoa, giáo viên và học sinh trường Tiểu học
15/10 thị trấn Nông trường Mộc Châu, bạn bè và gia đình.
Mặc dù bản thân đã có sự cố gắng trong việc sưu tầm, bám sát thực tiễn
để đề tài có tính khả thi cao nhưng chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót.

Vì vậy, tôi rất mong muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy cô
giáo và bạn bè để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Sơn La, tháng 5 năm 2013
Người thực hiện

Đinh Thị Ngân














DANH MUC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT
KÍ HIỆU
DIỄN GIẢI
1
ĐDDH
Đồ dùng dạy học

2
ĐHSPHN
Đại học sư phạm Hà Nội
3
HS
Học sinh
4
GD
Giáo dục
5
GV
Giáo viên
6
NXB
Nhà xuất bản
7
PTTQ
Phương tiện trực quan
8
SGK
Sách giáo khoa
9
SL
Số lượng














MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 2
4. Phương pháp nghiên cứu 2
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
5.1. Đối tượng nghiên cứu 2
5.2. Phạm vi nghiên cứu 3
6. Đóng góp của đề tài 3
7. Cấu trúc của đề tài 3
CHƯƠNG I: CỞ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 4
1. Cơ sở lí luận 4
1.1. Các khái niệm cơ bản 4
1.1.1. Khái niệm trực quan 4
1.1.2. Khái niệm PTTQ 4
1.1.3.Tính tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh 4
1.1.4. Sử dụng PTTQ theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh
4
1.2. Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học 5
1.2.1. Tri giác 5
1.2.2. Khả năng chú ý 5

1.2.3. Trí nhớ 6
1.2.4. Về tưởng tượng 6
1.2.5. Tư duy 7
2. Cơ sở thực tiễn 7
2.1. Chương trình, sách giáo khoa Khoa học lớp 5 7
2.1.1. Mục tiêu dạy học Khoa học lớp 5 7
2.1.2.Những nội dung chính của môn Khoa học lớp 5 8
2.2.2. Sách giáo khoa 9
2.2. Thực trạng sử dụng PTTQ trong quá trình dạy học môn Khoa học lớp 5 ở
trường Tiểu học 15/10 10
2.2.1. Mức độ sử dụng PTTQ của GV trong quá trình dạy học môn Khoa học 10
2.2.2. Cách thức sử dụng PTTQ trong dạy học môn Khoa học lớp 5 11
2.2.3. Đánh giá chung về thực trạng sử phương tiện trực quan trong dạy học
môn Khoa học lớp 5 ở trường Tiểu học 15/10 11
2.2.4. Các giải pháp thực hiện 12
TIỂU KẾT CHƯƠNG I 13
CHƯƠNG II: BIỆN PHÁP, QUY TRÌNH SỬ DỤNG PHƯƠNG TIỆN
TRỰC QUAN THEO HƯỚNG TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG NHẬN
THỨC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC MÔN KHOA HỌC LỚP 5 . 15
2.1. Nguyên tắc sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học Khoa học lớp
5 ở tiểu học 15
2.2. Biện pháp sử dụng phương tiện trực quan theo hướng tích cực hoá hoạt
động nhận thức của học sinh trong dạy học Khoa học lớp 5 15
2.3. Quy trình sử dụng phương tiện trực quan theo hướng tích cực hoá hoạt
động nhận thức của học sinh trong dạy học môn Khoa học lớp 5 16
2.3.1. Quy trình sử dụng chung 16
2.3.2. Quy trình sử dụng cụ thể (tổ chức thực hiện các biện pháp) 17
2.4. Điều kiện để thực hiện các biện pháp và quy trình có hiệu quả 22
2.4.1. Đổi mới việc sử dụng các phương tiện trực quan 22
2.4.2. Tăng cường phương tiện dạy học cho các trường tiểu học 22

TIỂU KẾT CHƯƠNG II 23
CHƯƠNG III: THỂ NGHIỆM SƯ PHẠM 25
3.1. Những vấn đề chung 25
3.1.1. Mục đích thể nghiệm 25
3.1.2. Đối tượng, thời gian, phạm vi thể nghiệm 25
3.1.3. Tiến hành thể nghiệm 25
3.1.4. Nội dung đánh giá thể nghiệm 25
3.2. Thiết kế thể nghiệm (đã có trong phần phụ lục) 27
3.3.1. Kết quả dự giờ, làm việc với GV, HS 27
3.3.2. Kết quả kiểm tra đánh giá 28
TIỂU KẾT CHƯƠNG III 30
KẾT LUẬN 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO 33
PHỤ LỤC

1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Theo tinh thần của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ta đã
xác định: Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Thông qua đổi mới toàn diện
giáo dục đào tạo nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cải cách nền
giáo dục Việt Nam với các biện pháp cụ thể: Đổi mới chương trình, cơ cấu tổ
chức, phương pháp dạy và học theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá,
phát huy trí sáng tạo, khả năng vận dụng, thực hành của người học.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, tiểu học đóng vai trò là nền tảng, tạo
nền móng vững chắc cho sự phát triển nhân cách của người học. Cho nên việc
đổi mới phương pháp dạy học ở bậc học này diễn ra mạnh mẽ.
Phương tiện trực quan (PTTQ) là yêu cầu không thể thiếu trong quá trình
dạy học tiểu học. Vì nó phù hợp với đặc điểm nhận thức của lứa tuổi này. Học
sinh (HS) nhận thức được bởi dưới sự tổ chức, dẫn dắt của giáo viên (GV) có sự

hỗ trợ của PTTQ. PTTQ đảm bảo cho HS lĩnh hội tốt các biểu tượng, khái niệm,
hình thành những kỹ năng, kỹ xảo, qua đó phát triển năng lực quan sát, tư duy
và ngôn ngữ của các em.
Trong quá trình dạy học ở trường tiểu học nói chung, môn Khoa học lớp 5
nói riêng, PTTQ là một yếu tố đóng vai trò quan trọng, góp phần nâng cao chất
lượng, hiệu quả dạy học. PTTQ là nguồn thông tin phong phú và đa dạng giúp
HS lĩnh hội tri thức một cách cụ thể, chính xác và sinh động, là con đường tốt
nhất giúp HS tiếp cận hiện thực khách quan, góp phần mở rộng, củng cố tri thức,
phát triển hứng thú nhận thức, năng lực quan sát, năng lực tư duy. Đồng thời,
việc sử dụng các PTTQ một cách hợp lí sẽ giúp GV tổ chức, điều khiển quá
trình nhận thức cho HS một cách chủ động, đạt hiệu quả cao.
Hiện nay, môn Khoa học là môn cần nhiều PTTQ nhất so với các môn học
khác ở tiểu học về cả số lượng và chủng loại. Phần lớn các tiết học phải sử dụng các
phương tiện dạy học trực quan với các mức độ, hình thức khác nhau. Để phát huy
được vai trò của PTTQ trong việc nâng cao chất lượng dạy học môn Khoa học ở lớp
5, vấn đề cơ bản nhất là trang bị và sử dụng phương tiện. Trong đó, vấn đề sử dụng
có hiệu quả các phương tiện trực quan có ý nghĩa quyết định.
Hiện nay, môn Khoa học lớp 5 đã được cấp rất nhiều thiết bị dạy - học.
Nhưng thực tiễn cho thấy, việc sử dụng phương tiện trực quan chưa có hiệu quả.
Phương tiện trực quan vẫn còn dùng minh hoạ cho lời giảng, dùng chưa đúng
lúc, đúng chỗ, chưa khai thác hết nội dung. Điều đó dẫn đến hiệu quả sử dụng
không cao, không phát huy được tính tích cực, chủ động nhận thức của HS. Sử
dụng PTTQ như thế nào để phát huy được tính tích cực, chủ động nhận thức của

2
HS, từ đó nâng cao chất lượng dạy học môn Khoa học là vấn đề cấp thiết đang
đặt ra cho mỗi giáo viên. Vì vậy, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài "Sử dụng
phương tiện trực quan theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của
học sinh trong dạy học môn Khoa học lớp 5".
2. Mục đích nghiên cứu

Phương tiện trực quan ngày càng giữ vai trò quan trọng trong dạy học ở
tiểu học nói chung và dạy học môn Khoa học lớp 5 nói riêng. Song hiện nay,
việc sử dụng PTTQ chưa đạt hiệu quả cao, chưa phát huy được hết vai trò của
nó trong quá trình dạy học. Do đó, sau khi thực hiện đề tài này tôi hy vọng rằng
sẽ xác lập được các biện pháp và quy trình sử dụng các phương tiện trực quan
vào quá trình dạy học ở tiểu học nhằm phát huy tính tích cực trong nhận thức
của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Khoa học lớp 5.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc sử dụng PTTQ ở lớp 5
trường tiểu học 15/10 thị trấn Nông trường Mộc Châu.
Xây dựng được quy trình chung và quy trình sử dụng cụ thể PTTQ cho
một bài dạy trên lớp theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS trong
dạy học môn Khoa học lớp 5.
4. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Nghiên cứu các tài liệu liên quan đến đề tài. Kế thừa và phát huy lí luận
của các đề tài đi trước.
b. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Tham khảo ý kiến của giáo viên về hướng nghiên cứu của đề tài.
Khảo sát thực tế và thu thập các thông tin, số liệu thống kê và các vấn đề
liên quan trực tiếp đến đề tài nghiên cứu ở trường tiểu học.
Tiến hành thực nghiệm để xem xét hiệu quả và tính khả thi của việc sử
dụng PTTQ trong dạy học môn Khoa học lớp 5 ở tiểu học.
c. Phương pháp thống kê
Dùng phương pháp thống kê để phân tích và xử lý các kết quả thu được
qua điều tra và thực nghiệm.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài khảo sát, nghiên cứu việc sử dụng PTTQ trong dạy học Khoa học
lớp 5 nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh.


3
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu việc sử dụng PTTQ theo hướng tích cực hoá hoạt động
nhận thức của HS trong dạy học môn Khoa học lớp 5 trường Tiểu học 15/10 thị
trấn Nông trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho hoạt động nghiên
cứu khoa học về việc sử dụng PTTQ trong dạy học môn Khoa học nói riêng và
các môn học khác nói chung cho sinh viên khoa Tiểu học - Mầm non, những độc
giả quan tâm đến vấn đề này. Đồng thời là nguồn tài liệu có giá trị cho GV tiểu
học trong quá trình dạy học.
7. Cấu trúc của đề tài
Đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài
1. Cơ sở lí luận (tác giả đề cập tới một số khái niệm có liên quan, đặc điểm tâm
sinh lí của học sinh tiểu học)
2. Cơ sở thực tiễn (tác giả đề cập tới đặc điểm nội dung, chương trình sách giáo
khoa Khoa học lớp 5 ở tiểu học, thực trạng sử dụng phương tiện trực quan trong
dạy học Khoa học lớp 5, mức độ sử dụng phương tiện trực quan của giáo viên
trong quá trình dạy học môn Khoa học lớp 5, cách thức sử dụng phương tiện trực
quan trong dạy học môn Khoa học, đánh giá chung về thực trạng sử dụng phương
tiện trực quan trong dạy học môn Khoa học ở lớp 5, các giải pháp thực hiện).
Chương II: Sử dụng PTTQ theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức
của học sinh trong dạy học môn Khoa học lớp 5.
Tác giả đưa ra nguyên tắc sử dụng PTTQ trong dạy học Khoa học lớp 5 ở
tiểu học. Tác giả cũng xây dựng quy trình chung và quy trình sử dụng cụ thể
PTTQ trong quá trình dạy học, điều kiện để thực hiện các biện pháp và quy trình
có hiệu quả.
Chương 3. Thể nghiệm sư phạm

Tiến hành thiết kế và thể nghiệm 4 bài
Bài : Phòng tránh bị xâm hại
Bài: Lắp mạch điện đơn giản
Bài: Hỗn hợp
Bài: Cây con mọc lên từ hạt


4
CHƯƠNG I: CỞ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm trực quan
Trong hoạt động dạy học trực quan được hiểu là khái niệm dùng để biểu thị
tính chất của nhận thức, trong đó thông tin thu được từ các sự vật, hiện tượng của
thế giới bên ngoài nhờ sự cảm nhận trực tiếp bởi các cơ quan cảm giác của con
người [7].
1.1.2. Khái niệm PTTQ
PTTQ là những phương tiện mà giáo viên và học sinh sử dụng trong quá
trình dạy học nhằm tạo ra những biểu tượng, hình thành những khái niệm cho
HS thông qua tri giác trực tiếp các sự vật hiện tượng như: cỏ, cây, mô hình,
tranh ảnh [7].
1.1.3.Tính tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh
Bản chất của dạy học tích cực là người dạy phải tính đến nhu cầu, nguyện
vọng của người học, những đặc điểm tâm sinh lí và cấu trúc tư duy của người
học, là chiến lược, phương pháp, thủ pháp dạy của thầy giáo sao cho phù hợp
với chiến lược, phương pháp, thủ pháp của trò, việc dạy phải xuất phát từ người
học, vì người học, phải đáp ứng nhu cầu của người học và nhu cầu xã hội. Dạy
học tích cực là người dạy phải lấy người học là trung tâm, xuất phát từ người
học, hướng học sinh vào các hoạt động học tập một cách chủ động, tự giác, tích

cực và sáng tạo. Như vậy, tính tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh
chính là việc tiếp nhận, lĩnh hội các tri thức một cách chủ động, nhiệt tình, tích
cực có sự độc lập và sáng tạo của người học trong quá trình học tập [5].
1.1.4. Sử dụng PTTQ theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh
Trong dạy học ở tiểu học nói chung và dạy học môn Khoa học nói riêng
đòi hỏi phải sử dụng rất nhiều loại PTTQ khác nhau để giúp cho HS trong quá
trình tiếp nhận, và lĩnh hội tri thức khoa học. Do đó, GV cần phải chú ý sử dụng
các PTTQ theo hướng tích cực hoá được hoạt động nhận thức của HS. Điều này
có nghĩa là, GV cần có sự lựa chọn các PTTQ và sử dụng các PTTQ một cách
khoa học, phù hợp với nội dung của từng bài học trong các môn học khác nhau,
phù hợp với đặc điểm nhận thức của từng đối tượng HS, kết hợp với các hình

5
thức dạy học khác nhau nhằm thu hút và phát huy được khả năng tư duy chủ
động, tự giác, tích cực của HS trong quá trình học tâp.
1.2. Đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học
1.2.1. Tri giác
Tri giác của HS những năm đầu tiểu học còn mang tính đại thể, ít đi vào
chi tiết và không chủ định. Ngoài ra, tri giác của các em còn rất nhạy và đượm
màu cảm xúc. Điều này thể hiện ở chỗ cái gì các em thích hơn thì tri giác tốt hơn
cái gì các em không thích, cái gì mới lạ được các em tri giác tốt hơn những cái
cũ kĩ quen thuộc, những cái sống động các em tri giác tốt hơn những cái tĩnh
lặng. Thời kỳ này, các em thường tri giác những sự vật hiện tượng bằng các
hành động cụ thể như: sờ, nắn, bóp, ngửi, tháo lắp [3].
Tri giác của các em phát triển mạnh trong quá trình học ở tiểu học và có
khuynh hướng phát triển của nó là tri giác ngày càng mang tính chủ định, đi sâu
vào chi tiết sự vật hiện tượng. Học sinh lớp 5 đã nắm được mục đích quan sát va
trong quá trình quan sát các em đã biết chú ý đến các chi tiết của đối tượng và đi
sâu vào từng chi tiết riêng rẽ, các em đã có thể tổng hợp chúng để có được một
biểu tượng hoàn chỉnh về đối tượng.

Những đặc điểm trên của HS tiểu học cho thấy, trong dạy học Khoa học ở
lớp 5, muốn hình thành một biểu tượng hoặc khái niệm cho HS, GV cần phải tổ
chức cho các em đối tượng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các
PTTQ như: tranh ảnh, mô hình, vật thật, thí nghiệm
1.2.2. Khả năng chú ý
Tính không chủ định chiếm ưu thế trong chú ý của HS tiểu học. Các em
chỉ chú ý vào những gì mình thích, những gì mới mẻ, sinh động, những gì khơi
gợi được sự rung cảm. Các em rất khó để chú ý vào những gì nhàm chán, cũ kĩ,
đơn điệu.
Sức tập trung chú ý của HS phụ thuộc vào khối lượng vật thể được chú ý.
Cùng một lúc, các em không thể chú ý đến nhiều đối tượng hoặc chi tiết của đối
tượng. Do vậy, trong quá trình sử dụng PTTQ, GV không nên yêu cầu HS quan
sát nhiều đối tượng một lúc mà cho HS quan sát từng đối tượng riêng rẽ với từng
nhiệm vụ cụ thể.
Độ bền vững và chú ý của các em phụ thuộc vào đối tượng chú ý và mức
độ hoạt động với sự vật. Vì thế, các PTTQ như tranh ảnh, vật thật, mô hình hay
các thí nghiệm phục vụ cho việc dạy học Khoa học ở lớp 5 cần phải rõ ràng, đơn

6
giản và trong đó chủ yếu chỉ nên thể hiện các hiện tượng khoa học cần thiết
nhất. Giáo viên cũng cần tạo điều kiện tối đa cho các em làm việc với chúng.
Tính chủ định trong chú ý của HS cũng được hình thành dần trong quá
trình học ở tiểu học. Để giúp HS rèn luyện được chú ý có chủ định, thường trước
khi yêu cầu các em tiến hành một hoạt động nào, GV cần giúp các em xác định
rõ mục đích của hoạt động ấy.
1.2.3. Trí nhớ
Trí nhớ hình tượng trực quan ở HS tiểu học lớn hơn trí nhớ từ ngữ lôgíc.
Điều này thể hiện ở chỗ các em nhớ những gì được cầm, nắm, nhìn hơn là
những thứ được đọc, được nghe, được tả
HS tiểu học có khả năng ghi nhớ máy móc rất tốt. Bởi vì, các em thường

không nắm được mục đích ghi nhớ, nội dung cần được ghi nhớ, cách thức ghi
nhớ nên cách tốt nhất là ghi nhớ nguyên xi. Ngoài ra, thời kỳ này ghi nhớ của
các em vẫn là ghi nhớ không chủ định. Các em thường không ghi nhớ cái bản
chất của đối tượng mà chỉ ghi nhớ những gì mình thích và không có chủ định
nhớ lại.
Tình cảm có ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ cũng như sự bền vững của ghi
nhớ. Những gì các em thích thì sẽ ghi nhớ nhanh và lâu hơn. Khả năng ghi nhớ
có chủ định và ghi nhớ lôgíc cũng sẽ hình thành và phát triển dần trong quá
trình học tập của các em.
Những đặc điểm trên về trí nhớ của HS tiểu học cho ta thấy, để giúp các
em ghi nhớ nhanh và nhớ lâu những nội dung của bài học, GV cần tổ chức cho
các em trực tiếp làm việc với các PTTQ để các em tự tìm ra kiến thức. Các
PTTQ phải đảm bảo tính thẩm mỹ tạo cho các em những ấn tượng ban đầu, cảm
xúc tốt về đối tượng, hiện tượng khoa học.
1.2.4. Về tưởng tượng
Học sinh đầu tiểu học, những chi tiết trong các hình ảnh tưởng tượng của
các em còn nghèo nàn, tản mạn, chưa hợp lý. Đến cuối các lớp tiểu học, hình
ảnh tượng của các em phong phú, sắp xếp hợp lý hơn. Đặc biêt, đến thời kỳ này
các em có khả năng tưởng tượng dựa trên các tri giác đã có từ trước và dựa trên
ngôn ngữ. Dựa vào đặc điểm này, GV không những có thể sử dụng PTTQ để
hình thành các biểu tượng ký ức mà còn có thể hình thành biểu tượng tưởng
tượng cho các em.


7
1.2.5. Tư duy
- Về khả năng phân tích khái niệm: HS các lớp đầu tiểu học thường tiến
hành phân tích dựa trên những đặc điểm về bề ngoài, cụ thể, trực quan. Đến lớp
5 khả năng phân tích của các em đã phát triển hơn. Các em có thể phân tích một
số khái niệm đơn giản. Tuy nhiên, PTTQ vẫn tỏ ra rất hữu hiệu trong vai trò là

điểm tựa để các em nhận biết những khái niệm.
- Về khả năng khái quát hoá: Hoạt động khái quát hoá của HS lớp 1, 2, 3
hoàn toàn dựa trên những dấu hiệu mà các em dễ thấy, dễ gây xúc động, còn ở
lớp 5 HS đã biết dựa trên những dấu hiệu bên trong, bản chất hơn. Lúc này, các
em đã biết trừu xuất những cái bản chất của sự vật, hiện tượng ra khỏi những
dấu hiệu không bản chất và đưa vào nội dung khái niệm.
- Về khả năng phán đoán: HS bậc đầu tiểu học thường chỉ phán đoán
theo một chiều và dựa vào dấu hiệu duy nhất nên phán đoán của các em
thường mang tính khẳng định. HS các lớp cuối đã biết hình dung ra nhiều
phương pháp và các tình huống khác nhau vì thế các phán đoán của các em
thường mang tính giả định. Ở thời kỳ này các em đã biết chứng minh và lập
luận về những phán đoán của mình.
- Về trình độ suy luận: HS bậc đầu tiểu học thường chỉ dựa vào dấu hiệu
cảm tính, còn cuối bậc tiểu học các em đã biết suy luận dựa vào những dấu hiệu
bên trong. Đặc biệt, các em có thể suy luận dựa trên những tài liệu có tính trừu
tượng hơn (ngôn ngữ). Dù vậy, quá trình suy luận của các em sẽ dễ dàng hơn
nếu có sự trợ giúp của PTTQ.
Những đặc điểm trên về tư duy của HS tiểu học còn cho thấy, việc sử
dụng các PTTQ vẫn còn rất cần thiết cho các em tiến hành thao tác tư duy trong
học tập. Qua việc phân tích những khía cạnh tâm sinh lý và trình độ nhận thức
của HS tiểu học, có thể thấy rằng các em hoàn toàn có đủ khả năng tìm tòi, phát
hiện tri thức từ các PTTQ. Điều đó chứng tỏ, việc sử dụng PTTQ theo hướng
tích cực hoá hoạt động nhận thức cho các em là rất cần thiết và có tính khả thi.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Chương trình, sách giáo khoa Khoa học lớp 5
2.1.1. Mục tiêu dạy học Khoa học lớp 5
Dạy học môn Khoa học ở tiểu học đặc biệt ở lớp 5 nhằm bước đầu cung
cấp cho HS những kiến thức cở bản về:

8

Sự trao đổi chất, nhu cầu dinh dưỡng, sự sinh sản và sự lớn lên của cơ thể
người, cách phòng tránh một số bệnh thường gặp và bệnh truyền nhiễm.
Những kiến thức cơ bản về sự sinh sản của thực vật, động vật.
Cung cấp cho HS về đặc điểm và ứng dụng của một số chất,vật liệu và
dạng năng lượng thường gặp trong cuộc sống.
Bước đầu hình thành và phát triển cho các em một số các kỹ năng cơ bản
như: Cách ứng xử thích hợp trong các tình huống có liên quan đến vấn đề sức
khoẻ của bản thân, gia đình, cộng đồng; quan sát và làm một số thí nghiệm thực
hành đơn giản gần gũi với đời sống sản xuất; nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong
quá trình học tập, tìm thông tin giải đáp, diễn đạt những hiểu biết bằng lời nói,
hình ảnh, sơ đồ, mô hình, thí nghiệm; khả năng phân tích, so sánh, rút ra những
dấu hiệu chung và riêng của một số sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên.
Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở HS những thái độ tự giác thực hiện
những quy tắc vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và cộng đồng; ham hiểu
biết khoa học, có ý thức vận dụng những kiến thức đã học vào đời sống, có ý
thức tham gia bảo vệ môi trường xung quanh.
2.1.2.Những nội dung chính của môn Khoa học lớp 5
1. Con người và sức khoẻ
- Sự hình thành và phát triển ở cơ thể người
+ Sự sinh sản, sự lớn lên và phát triển ở cơ thể người (cơ thể chúng ta
được hình thành như thế nào? các giai đoạn của đời người).
- Vệ sinh phòng bệnh
+ Vệ sinh ở tuổi dậy thì và cách phòng tránh một số bệnh truyền nhiễm
(phòng tránh nhiễm HIV/AIDS, phòng chống bệnh viêm gan A, bệnh sốt rét, sốt
xuất huyết ).
- An toàn trong cuộc sống
+ Cách sử dụng thuốc an toàn, không sử dụng các chất gây nghiện, phòng
chống bị xâm hại, phòng chống tai nạn giao thông (nói không vói các chất gây
nghiện, thái độ với những người bị nhiễm HIV/AIDS).
2. Về vật chất và năng lượng

- Đặc điểm và ứng dụng của một số vật liệu thường dùng như mây, tre,
song, sắt gang, đồng, thép, nhôm, đá vôi, gạch, ngói, xi măng, thuỷ tinh, cao su,
chất dẻo, sợi.

9
- Sự biến đổi của các chất
+ Ba thể của chất: chất lỏng, chất khí, chất rắn (đặc điểm về hình dạng).
+ Hỗn hợp và dung dịch (cách tạo ra hỗn hợp và dung dịch, cách tách các
chất ra khỏi một hỗn hợp hay một dung dịch).
- Sử dụng năng lượng: than đá, dầu mỏ, khí đốt, mặt trời, gió, nước và
năng luợng điện (vai trò của các nguồn năng lượng trong đời sống sinh hoạt và
sản xuất, cách khai thác các nguồn năng luợng có hiệu quả và phòng tránh lãng
phí năng lượng).
3. Thực vật và động vật
- Sự sinh sản của thực vật
+ Cơ quan sinh sản (cơ quan sinh sản của thực vật có hoa gồm nhị và nhuỵ).
+ Sự sinh sản (sự sinh sản của thực vật có hoa; trồng cây bằng hạt, thân,
lá, rễ).
- Sự sinh sản của động vật
+ Sự sinh sản của một số động vật đẻ trứng, một số động vật đẻ con (biết
được chu trình sinh sản của một số loài động vật, sự nuôi và dạy con của một số
loài thú).
4. Môi trường và tài nguyên thiên nhiên
- Môi trường và tài nguyên (khái niệm về môi trường, khái niệm cơ bản
về tài nguyên; vai trò của môi trường tự nhiên và các loại tài nguyên đối với đời
sống con người).
- Mối quan hệ giữa môi trường và con người (tác động của con người đối
với môi trường rừng, môi trường đất, môi trường nước và không khí; các biện
pháp để bảo vệ môi trường).
2.2.2. Sách giáo khoa

2.2.2.1. Khổ sách
Sách được trình bày với khổ 17cm x 24cm, cách trình bày thoáng, cỡ chữ
to, số lượng kênh hình nhiều và kích thước các hình phù hợp với HS tiểu học.
Tạo điều kiện cho GV tổ chức các hoạt động tìm tòi, phát hiện kiến thức mới
cuả HS thông qua làm việc với các tranh ảnh, hình vẽ, vật thật, mô hình đồng
thời phát hiện các kỹ năng khoa học của học sinh.


10
2.2.2.2. Cách trình bày
Sách giáo khoa Khoa học lớp 5 ở tiểu học, kênh chữ đóng vai trò chủ yếu
trong việc cung cấp kiến thức. Tuy nhiên, kênh hình vẫn đóng vai trò quan
trọng. Nó không chỉ minh hoạ cho kênh chữ mà còn là nguồn cung cấp kiến thức
và kĩ năng cho học sinh.
Số lượng kênh hình nhiều và đa dạng về thể loại với khoảng 300 tranh
ảnh, sơ đồ.
2.2.2.3. Cách trình bày một bài học
Mỗi bài học gồm 3 phần:
- Phần cung cấp kiến thức (thông tin) bằng kênh chữ, kênh hình, được đặt
trong khung màu.
- Phần câu hỏi hay yêu cầu các hoạt động học tập.
- Mục "Bạn cần biết" với ký hiệu bóng đèn toả sáng.
Kết luận:
Khi sử dụng sách giáo khoa, GV nên căn cứ vào cấu trúc trên để hướng
dẫn HS sử dụng SGK một cách có hiệu quả (tận dụng cả kênh chữ và kênh hình)
nhằm đạt được yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ năng của môn học.
Sử dụng SGK cần lưu ý là SGK viết cho HS là tài liệu học tập của HS,
GV dựa vào đó để chuẩn bị bài giảng. GV có thể xem thêm các tài liệu khác làm
cho kiến thức trong SGK thêm sinh động.
2.2. Thực trạng sử dụng PTTQ trong quá trình dạy học môn Khoa học lớp 5 ở

trường Tiểu học 15/10
2.2.1. Mức độ sử dụng PTTQ của GV trong quá trình dạy học môn Khoa học
Qua tìm hiểu, quan sát và thực tế dạy học cho thấy, nếu phương tiện trực
quan càng dễ tìm kiếm thì càng được nhiều GV sử dụng thường xuyên. Tranh
ảnh là loại phương tiện trực quan mà GV sử dụng thường xuyên nhất trong quá
trình dạy học, bởi chúng dễ tìm, dễ tạo. Đặc biệt đối với một trường thuộc vùng
núi như trường Tiểu học 15/10 thì các loại phương tiện càng có giá trị kinh tế
thấp càng được nhiều GV sử dụng như sơ đồ, tranh ảnh, một số vật thật đơn giản
như tre (Bài 22: Tre, mây, song). Các loại phương tiện trực quan như: vật thật,
hiện tượng thí nghiệm tuy là những phương tiện có nhiều ưu điểm, có tác dụng
cung cấp cho các em những tri thức cụ thể về các sự vật, kỹ năng nhìn thấy tính
chất của chúng nhưng do khó kiếm tìm, khó thực hiện và khi thực hiện phải mất

11
nhiều thời gian và chi phí cao nên chúng ít được GV sử dụng. ( Ví dụ như các
mẫu tơ sợi tự nhiên và nhân tạo dùng làm thí nghiệm đốt cho HS quan sát và rút
ra đặc điểm chính của tơ sợi - Bài 32: Tơ sợi).
2.2.2. Cách thức sử dụng PTTQ trong dạy học môn Khoa học lớp 5
Qua dự giờ dạy mẫu của các GV trong trường tôi nhận thấy rằng: Mặc dù
các thầy cô giáo đã nhận thức đúng vai trò của PTTQ trong việc phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của người học nhưng nhìn chung GV còn lúng túng
trong quá trình sử dụng. Thông thường GV căn cứ vào nội dung bài dạy, yêu cầu
HS quan sát PTTQ sau đó đặt câu hỏi cho HS trả lời. Vì vậy, hệ thống câu hỏi
còn lộn xộn, đôi khi còn chưa hợp lý, chưa hướng cho HS quan sát được cái
tổng thể trước rồi mới đi sâu vào từng chi tiết cụ thể, từ bên ngoài vào bên trong.
Hơn thế nữa, GV còn chưa chú ý đến việc đầu tư, sưu tầm nhiều các loại PTTQ
khác nhau nên hiệu quả sử dụng các loại PTTQ và hiệu quả dạy học chưa cao.
Ví dụ: Bài 65: Tác động của con người đến môi trường rừng. GV thường chỉ
cho HS quan sát lần lượt 4 hình ảnh có trong SGK trang 134 rồi sau đó đặt câu
hỏi cho HS trả lời như: Con người khai thác gỗ và phá rừng để làm gì? Nêu các

nguyên nhân khác khiến rừng bị tàn phá? Mà ít khi GV sưu tầm các tranh ảnh
thật hay các đoạn phim chiếu cảnh rừng bị cháy cho HS xem và quan sát.
2.2.3. Đánh giá chung về thực trạng sử phương tiện trực quan trong dạy học
môn Khoa học lớp 5 ở trường Tiểu học 15/10
Qua thực tế khảo sát, khi trao đổi tực tiếp với cô Ngô Thị Liên, cô
Nguyễn Thị Quế và một số giáo viên khác về vai trò, sự tác động của PTTQ,
đồng thời tìm hiểu về mức độ sử dụng, cách thức sử dụng PTTQ trong việc dạy
- học các môn học ở tiểu học nói chung và dạy - học môn Khoa học nói riêng.
Đa số các thầy cô đều khẳng định PTTQ là trợ thủ không thể thay thế được của
người GV trong việc hình thành tư duy khoa học, trừu tượng cho HS. Tư duy
của HS dù đạt đến mức độ cao như thế nào nhưng ít nhiều nó vẫn cần đến trực
quan cảm tính, cần đến hình ảnh. Do vậy, phần lớn GV đều nhận thức được và
đánh giá cao vai trò của việc sử dụng phương tiện trực quan trong giờ dạy Khoa
học ở lớp 5 là góp phần phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
trong giờ học, giờ học sinh động, học sinh học tập hứng thú hơn, từ đó hiệu quả
dạy học được nâng cao. Tuy nhiên, đa số GV sử dụng phương tiện trực quan để
minh hoạ cho bài giảng là chính mà chưa biết tổ chức cho HS tìm kiếm tri thức
từ nguồn này.
Phương tiện mà GV sử dụng thường rất đơn điệu, chủ yếu là tranh, ảnh ở
trong SGK, GV ít chịu khó sưu tầm các loại đối tượng khác nhau cho HS quan

12
sát như vật thật, đồ dùng học tập khác. Đặc biệt là ít tổ chức cho các em tham
gia trực tiếp vào các hoạt động thực hành, thí nghiệm.
Chất lượng học tập môn Khoa học còn hạn chế, HS chưa tích cực và
hứng thú.
Sở dĩ còn tồn tại những thực trạng trên là do các nguyên nhân sau:
Môn Khoa học nói chung và chương trình môn Khoa học lớp5 nói riêng
có nội dung kiến thức rất phong phú và đa dạng.
Vẫn còn GV và phụ huynh coi môn học này là môn phụ. Vì vậy, thời gian

đầu tư cho môn này còn chưa thích đáng.
Đồ dùng và phương tiện dạy học đã được trang bị và cung cấp nhưng
vẫn còn thiếu, cơ sở vật chất phục vụ cho môn học chưa đảm bảo.
Từ những thực trạng trên, để việc sử dụng PTTQ trong dạy học môn Khoa
học ở lớp 5 đạt hiệu quả cao, phát huy được tính tích cực trong hoạt động nhận
thức của học sinh, tôi xin đưa ra một số giải pháp như sau:
2.2.4. Các giải pháp thực hiện
Để sử dụng phương tiện trực quan trong quá trình dạy học có hiệu quả cần
thực hiện theo các giải pháp sau:
Lựa chọn một cách thận trọng các PTTQ sao cho phù hợp với mục đích
và nhiệm vụ của bài học, xem trong các trường hợp nào thì dùng vật thật, các vật
tượng trưng hoặc các vật tạo hình, trường hợp nào thì dùng chúng phối hợp với
nhau, cần chú ý đến số lượng (nếu có thể) và kiểm tra lại tình trạng của chúng
một cách thận trọng trước khi sử dụng (nhất là đối với các thí nghiệm).
Giải thích mục đích trình bày trực quan theo một trình tự nhất định tuỳ
theo yêu cầu nội dung của bài dạy.
Đảm bảo cho tất cả HS quan sát sự vật hiện tượng được rõ ràng, đầy đủ,
nếu có thể phân phát các vật cho HS (theo nhóm hoặc cá nhân), cần chú ý đến
quy luật cảm giác, tri giác của người học.
Đảm bảo phát triển óc quan sát - năng lực quan sát nhanh, chính xác, độc
lập. Quan sát toàn bộ sau đó mới quan sát bộ phận, quan sát tập trung vào những
chi tiết, bộ phận chủ yếu, không quan sát tràn lan, tích cực phân tích, so sánh,
tổng hợp, khái quát hoá, tự rút ra kết luận cần thiết.
Đảm bảo phù hợp với các phương pháp trình bày trực quan. Cụ thể:

13
- Giáo viên dùng lời nói để hướng dẫn HS tự quan sát. trong quá trình
quan sát HS tự rút ra các thuộc tính và các mối liên hệ trực tiếp của chúng.
- Trên cơ sở HS quan sát các đối tượng và trên cơ sở tri thức các em
tích luỹ được, giáo viên dẫn dắt các em suy nghĩ và nêu ra những mối liên hệ

trong các hiện tượng mà HS trong quá trình quan sát không thể tri giác được.
- Từ lời giảng của GV, học sinh tiếp thu được tri thức về đặc điểm bên
ngoài của đối tượng, về các thuộc tính và mối liên hệ của chúng. Còn các
phương tiện trực quan có tác dụng khẳng định và cụ thể hoá lời giảng.
- Xuất phát từ việc quan sát các sự vật, đối tượng của HS, GV thông báo
các mối liên hệ, các hiện tượng mà các em không tri giác được, rồi các em rút ra
kết luận, khái quát những đặc điểm riêng biệt.
Khai thác vốn sống của HS bằng cách sử dụng các vật thật. Trên cơ sở
vốn hiểu biết của mình kết hợp đồ dùng các em sẽ được hoạt động, tự mình tìm
ra tri thức.

TIỂU KẾT CHƯƠNG I

Qua nghiên cứu cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc sử dụng PTTQ
theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học môn
Khoa học lớp 5 ở trường Tiểu học 15/10 thị trấn Mộc Châu, tôi rút ra một số kết
luận như sau:
Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học môn Khoa học ở tiểu học
nói riêng các PTTQ là một yếu tố quan trọng góp phần nâng cao chất lượng
dạy và học. Các PTTQ chứa đựng bên trong nó là một nguồn tri thức phong
phú và đa dạng, giúp học sinh lĩnh hội tri thức một cách cụ thể, chính xác,
phát triển năng lực tư duy, kĩ năng tìm tòi, khám phá, vận dụng tri thức. Đồng
thời giúp GV tổ chức, điều khiển quá trình nhận thức cho HS một cách chủ
động có hiệu quả.
Hiệu quả dạy học chỉ có thể có được khi HS là chủ thể tích cực của quá
trình nhận thức. Bằng hoạt động tự lực của mình, HS chiếm lĩnh các tri thức
khoa học, và tham gia tích cực vào quá trình học tập. Vì vậy, việc nghiên cứu sử
dụng các phương tiện trực quan một cách hiệu quả cần phải hướng đến việc phát
huy được tính tích cực trong hoạt động nhận thức của HS.
Về nghiên cứu thực trạng cho thấy rằng, PTTQ khoa học hiện nay ở các

trường tiểu học nói chung và trường Tiểu học 15/10 nói riêng mặc dù đã được

14
cung cấp nhưng vẫn còn thiếu. Các thầy cô đều nhận thức được vai trò, tầm
quan trọng của PTTQ trong dạy học Khoa học ở lớp 5 nhưng chưa biết rõ mục
đích sử dụng chúng cũng như còn lúng túng trong việc sử dụng và khai thác triệt
để các nguồn thông tin đựợc chứa đựng trong các PTTQ.


















15
CHƯƠNG II: BIỆN PHÁP, QUY TRÌNH SỬ DỤNG PHƯƠNG TIỆN
TRỰC QUAN THEO HƯỚNG TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG
NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC
MÔN KHOA HỌC LỚP 5

2.1. Nguyên tắc sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học Khoa học lớp
5 ở tiểu học
Trong quá trình dạy học môn Khoa học lớp 5, để tích cực hoá hoạt động
nhận thức của HS, để chuyển vị trí của họ từ khách thể đến chủ thể của quá trình
nhận thức, việc sử dụng các phương tiện trực quan phù hợp với yêu cầu bài dạy
theo một quy trình hợp lý đóng vai trò quan trọng, khi sử dụng chúng GV cần
chú ý đến một số nguyên tắc cơ bản sau:
1. Phải căn cứ vào mục tiêu, nội dung, hình thức của bài học để lựa chọn
PTTQ cho phù hợp, tránh quá tải PTTQ cho một giờ học.
2. Phải có phương pháp sử dụng thích hợp đối với mỗi loại PTTQ.
3. Phải sử dụng PTTQ như là một nguồn cung cấp kiến thức chứ không
đơn thuần chỉ dùng để minh hoạ cho bài giảng.
4. Có sự phối hợp chặt chẽ giữa các PTTQ Khoa học.
5. Trước khi sử dụng cần cho HS hiểu: sử dụng PTTQ nhằm mục đích gì?
chúng ta cần tìm hiểu những nội dung gì trong đó? cách quan sát, sử dụng những
phương tiện trực quan ấy như thế nào?
6. Đảm bảo HS trên lớp đều được quan sát sự vật, hiện tượng khoa học
được thể hiện trên các PTTQ một cách rõ ràng, đầy đủ. Đặc biệt chú ý đến vấn
đề nhận thức, giáo dục thẩm mĩ cho HS.
7. Khi sử dụng các PTTQ làm thế nào đảm bảo được sự kết hợp giữa
chúng với các phương pháp dạy học một cách nhuần nhuyễn như: kết hợp với
các phương pháp dùng lời nói (mô tả, diễn giải, trình bày theo vấn đề ) hoặc
phương pháp sử dụng bảng số liệu thống kê ghi lại kết quả quan sát các sự vật,
hiện tượng, thí nghiệm.
2.2. Biện pháp sử dụng phương tiện trực quan theo hướng tích cực hoá hoạt
động nhận thức của học sinh trong dạy học Khoa học lớp 5
Như chúng ta đã biết, môn Khoa học là một môn học tích hợp kiến thức
của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau như: vật lí, hoá học, sinh học Vì vậy,
các phương pháp trực quan được sử dụng trong dạy học môn Khoa học lớp5
cũng rất phong phú và đa dạng, mỗi loại đều có những thế mạnh khác nhau.


16
Môn Khoa học lớp 5, ngoài những phương tiện trực quan như vật thật,
ảnh, mô hình thì các thí nghiệm chiếm một vai trò quan trọng. Thí nghiệm là
một dạng phương tiện trực quan có hiệu quả và đa số giáo viên thích dùng vì nó
tạo nên những hiện tượng mà HS ít được quan sát trong thực tế. Các thí nghiệm
có khả năng hấp dẫn HS, kích thích trí tò mò, sáng tạo và lòng yêu khoa học của
các em. Các thí nghiệm nếu được sử dụng tốt thì sẽ phát huy được tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh.
Từ thực tiễn quan sát, qua các tiết dự giờ dạy mẫu của các thầy cô giáo,
tôi rút ra được một số biện pháp sử dụng phương tiện trực quan sau đây có thể
phát huy được tính tích cực nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học môn
Khoa học lớp 5.
- Sử dụng phối hợp các phương tiện trực quan với nhau một cách nhuần
nhuyễn trong một giờ học.
- Sử dụng các thí nghiệm có tính chất nêu vấn đề để kích thích tính tích
cực của học sinh trong quá trình học tập môn Khoa học.
- Sử dụng các thí nghiệm có tính chất nghiên cứu của học sinh để phát
huy tính độc lập, sáng tạo của học sinh khi giải quyết các vấn đề khoa học.
2.3. Quy trình sử dụng phương tiện trực quan theo hướng tích cực hoá hoạt
động nhận thức của học sinh trong dạy học môn Khoa học lớp 5
2.3.1. Quy trình sử dụng chung
Để đảm bảo cho quá trình dạy học ở tiểu học đạt chất lượng cao thì việc
sử dụng các PTTQ trong một bài dạy lên lớp cần phải được thực hiện theo
những quy trình nhất định. Quy trình sử dụng PTTQ cho một bài dạy trên lớp
theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh có thể được quy trình
hoá theo các bước chung như sau:
Giai đoạn 1: Lựa chọn biện pháp
Bước 1: Xác định mục đích, yêu cầu, nội dung bài học. Nhiệm vụ của
bước này nhằm trả lời câu hỏi: với mục đích, yêu cầu, nội dung của bài dạy này

có thể sử dụng những biện pháp nào? Những phương tiện trực quan nào? Biện
pháp nào, phương tiện trực quan nào là tốt nhất, đạt hiệu quả bài dạy cao nhất?
Bước 2: Xác định biện pháp sử dụng phương tiện trực quan chủ yếu đối
với bài học.
Bước 3: Lựa chọn phương tiện trực quan phục vụ bài học.
Căn cứ vào nội dung bài, điều kiện cơ sở vật chất, các phương tiện trực quan
sẵn có của nhà trường để GV lựa chọn phương tiện trực quan phục vụ cho bài dạy.

17
Giai đoạn 2: Tổ chức thực hiện biện pháp
Bước 1: Soạn giáo án
Giáo án là bản kế hoạch tổ chức và hướng dẫn các hoạt động tổ chức cho
một bài cụ thể. Trong giáo án GV cần phải phân định rõ tiến trình của bài học
bằng những hoạt động của giáo viên và học sinh, cần dự kiến phân bố thời gian
cho từng hoạt động, việc sử dụng các phương tiện trực quan theo các hoạt động
và giai đoạn của tiết học.
Bước2: Tổ chức dạy học trên lớp
Đây là bước mà GV vận dụng một cách linh hoạt giáo án đã được thiết kế.
Kết quả của bài dạy phụ thuộc vào bước này. Quan điểm chủ đạo là xem phương
tiện trực quan như là nguồn tri cung cấp thức và tổ chức cho học sinh quan sát,
tự hoạt động tiếp cận đối tượng học tập. Giáo viên là người tổ chức hoạt động,
học sinh tự tìm kiếm tri thức thông qua hoạt động của mình.
Giai đoạn 3: Kiểm tra, đánh giá kết quả bài học
Mục đích của giai đoạn này là giúp GV đánh giá kết quả dạy học, từ đó
đánh giá hiệu quả của biện pháp lựa chọn.
Trong 3 giai đoạn trên thì giai đoạn 2 là giai đoạn trọng tâm.
2.3.2. Quy trình sử dụng cụ thể (tổ chức thực hiện các biện pháp)
2.3.2.1. Sử dụng thí nghiệm có tính chất nêu vấn đề
Thí nghiệm là một phương tiện trực quan nhằm tạo ra các hiện tượng tự
nhiên, giúp HS nhận thức thế giới khách quan dưới dạng thuần khiết, ít bị chi

phối bởi những yếu tố phụ, nhờ đó mà học sinh nhận thức được rõ ràng những
đặc tính khách quan của sự vật, hiện tượng. Nó là cơ sở là điểm xuất phát của
quá trình nhận thức cảm tính của học sinh, để rồi sau đó diễn ra sự trừu tượng
hoá, khái quát hoá. Ngoài ra, thí nghiệm còn góp phần tăng hứng thú học tập đối
với môn Khoa học, phát triển kĩ năng, kĩ xảo thực hành. Trong dạy học căn cứ
vào hoạt động của GV và HS ta có thể chia thí nghiệm thành hai loại thí nghiệm:
Thí nghiệm biểu diễn của giáo viên và thí nghiệm của học sinh.
Thí nghiệm mang tính chất nêu vấn đề là thí nghiệm biểu diễn của giáo
viên kết hợp với việc hướng dẫn học sinh tích cực, tự lực giải quyết vấn đề, lĩnh
hội nội dung bài học.
Ví dụ Bài 37: Dung dịch
Giáo viên giới thiệu bài bằng cách đặt vấn đề: Khi ta cho một thìa đường
vào cốc nuớc, dùng thìa khuấy nhẹ để hoà tan đường và hỏi: Đường trong cốc đã

18
đi đâu? Và nêu khi hoà tan đường vào trong nước ta được một dung dịch. Vậy
dung dịch là gì? Làm thế nào để tạo được một dung dịch hay tách một chất ra
khỏi dung dịch? Bài học hôm nay qua thí nghiệm chúng ta sẽ tìm hiểu điều đó.
GV giới thiệu dụng cụ thí nghiệm: thìa nhỏ, cốc lớn, một vài cốc nhỏ,
đường và nước đun sôi để nguội, một cái đĩa, nước sôi, và muối.
GV phát các dụng cụ cho từng nhóm HS, hướng dẫn học sinh cách thực
hiện để tạo ra một dung dịch. HS thực hiện sau đó tự nhận xét để rút ra đặc điểm
của từng loại dung dịch mà mình đã tạo được.
- GV hỏi: Dung dịch mà các em vừa tạo được là gì?
+ Dung dịch có tên là nước đường, nước muối.
Đặc điểm của dung dịch như thế nào?
+ Nước đường có vị ngọt, nước muối có vị mặn.
GV giải thích: vì đường có vị ngọt nên khi được hoà tan trong nước sẽ
làm cho dung dịch có vị ngọt
Điều kiện để tạo ra dung dịch là gì?

+ Cần có ít nhất từ hai chất trở lên. Trong đó có ít nhất một chất ở thể
lỏng còn chất kia phải hoà tan được trong chất ở thể lỏng đó.
Vậy dung dịch là gì?
+ Dung dịch là hỗn hợp chất lỏng với chất rắn hoà tan trong chất lỏng đó.
GV kết luận: Hỗn hợp chất lỏng với chất rắn bị hoà tan và phân bố đều
hoặc hỗn hợp chất lỏng với chất lỏng hoà tan vào nhau được gọi là dung dịch.
GV thực hiện thí nghiệm thứ hai cho HS quan sát:
GV rót một cốc nước muối nóng rồi úp một cái đĩa lên trên. Trước khi làm thí
nghiệm GV đặt câu hỏi:
Phán đoán xem hiện tượng gì sẽ xảy ra nếu ta úp một chiếc đĩa lên trên
một cốc nước muối nóng?
HS dự đoán? GV làm thí nghiệm.
Hiện tượng gì xảy ra?
+ Trên mặt đĩa có những giọt nước đọng.
Vì sao có những giọt nước này đọng trên mặt đĩa?

19
+ Trên mặt đĩa có những giọt nước đọng là do nước nóng bốc hơi, gặp
lạnh sẽ ngưng tụ lại.
Theo em những giọt nước này có vị như thế nào?
+ HS dự đoán: mặn/ không có vị gì
Gọi một vài học sinh lên nếm thử nước đọng trên đĩa và nêu nhận xét.
+ Kết quả nước đọng trên đĩa không có vị mặn như nước trong cốc.
Qua thí nghiệm trên em hãy suy nghĩ cách để tách muối ra khỏi dung dịch
nước muối?
+ Làm cho nước trong dung dịch bay hơi hết ta sẽ thu được muối.
Kết luận: Đó được gọi là chưng cất. Người ta thường dùng phương pháp chưng
cất để tách các chất trong dung dịch.
2.3.2.2. Sử dụng các thí nghiệm có tính chất nghiên cứu của học sinh
Dạy học Khoa học nói chung và dạy học Khoa học lớp 5 nói riêng thí

nghiệm đóng vai trò quan trọng vì nó có khả năng hấp dẫn HS, kích thích trí tò
mò, sáng tạo và lòng yêu khoa học của các em. Do đó, trong quá trình dạy học
GV nên sử dụng các thí nghiệm mang tính chất nghiên cứu của học sinh hay nói
cách khác là tổ chức cho các em tự nghiên cứu và tự làm các thí nghiệm phục vụ
cho quá trình lĩnh hội tri thức mới.
Khi tổ chức cho HS tự mình nghiên cứu và thực hiện các thí nghiệm khoa
học là GV đang bồi dưỡng cho các em lòng yêu khoa học, khả năng tìm tòi,
khám phá các hiện tượng, sự vật. Nên khi tổ chức, GV cần lưu ý nêu rõ mục
đích khi yêu cầu HS làm thí nghiệm, hướng dẫn HS cách để làm các thí nghiệm
(cách tiến hành thí nghiệm, cách ghi chép các kết quả nghiên cứu ), tạo mọi
điều kiện để giúp đỡ HS (về thời gian) tránh để HS gặp quá nhiều khó khăn
trong quá trình thực hiện dẫn tới nản trí, chán ghét các hoạt động thực hành.
Ví dụ: Bài 53: Cây con mọc lên từ hạt
Để giúp học sinh biết được điều kiện nảy mầm của hạt trong nội dung bài
dạy "Cây mọc lên từ hạt", GV yêu cầu học sinh gieo một vài hạt đậu, ngô,mướp
hoặc lạc trước đó vài ngày, mỗi hạt gieo vào một chiếc cốc khác nhau có đánh
số thứ tự để phân biệt và mỗi cốc được đặt ở những nơi có điều kiện về nhiệt độ,
ánh sáng, độ ẩm khác nhau. Theo dõi thường xuyên từ lúc gieo hạt cho đến lúc
hạt mọc thành cây con. Ghi chép lại hành báo cáo theo mẫu (ở Bảng 1).

×