Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC: ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP LUYỆN VIẾT CHỮ NGHIÊNG, NÉT THANH NÉT ĐẬM CHO HỌC SINH LỚP 3 TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐÔNG HƯNG 1 LỤC NAM - BẮC GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (900.08 KB, 63 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC


PHẠM THỊ VÂN

ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP LUYỆN VIẾT CHỮ NGHIÊNG,
NÉT THANH NÉT ĐẬM CHO HỌC SINH LỚP 3
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐÔNG HƯNG 1
LỤC NAM - BẮC GIANG


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC








SƠN LA, NĂM 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC








PHẠM THỊ VÂN

ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP LUYỆN VIẾT CHỮ NGHIÊNG,
NÉT THANH NÉT ĐẬM CHO HỌC SINH LỚP 3
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐÔNG HƯNG 1
LỤC NAM - BẮC GIANG



Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Tiếng Việt


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Người hướng dẫn: ThS. Trịnh Thị Hồng


SƠN LA, NĂM 2013
LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn ThS. Trịnh Thị
Hồng, giảng viên Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tây Bắc, người đã tận tình
hướng dẫn giúp đỡ em trong quá trình thực hiện khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo Khoa Tiểu học – Mầm non
những người đã trực tiếp giảng dạy, trang bị cho em những kiến thứ quý báu
trong thời gian học tập tại trường, cảm ơn các thầy cô giáo và các em học sinh
Trường Tiểu học Đông Hưng 1, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang đã tạo điều

kiện giúp đỡ em trong quá trình tìm hiểu và khảo sát thực tế.
Qua đây em cũng gửi lời cảm ơn tới tập thể lớp K50 Đại học giáo dục
Tiểu học, cũng như gia đình, bạn bè những người luôn quan tâm, động viên và
giúp đỡ trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn!

Sơn La, tháng 5 năm 2013
Sinh viên thực hiện

Phạm Thị Vân








DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CỦA ĐỀ TÀI

Từ viết tắt Dịch là
BGD Bộ Giáo dục
CĐSP Cao đẳng Sư phạm
ĐT Đào tạo
GV Giáo viên
HS Học sinh
NXB Nhà xuất bản
NXB GD Nhà xuất bản Giáo dục
SGK Sách giáo khoa
SL Số lượng

ThS. Thạc sĩ
















MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích nghiên cứu 3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 3
5. Đối tượng nghiên cứu 3
6. Phạm vi nghiên cứu 4
7. Đóng góp của đề tài 4
8. Phương pháp nghiên cứu 4
9. Cấu trúc của đề tài 4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC LUYỆN VIẾT CHỮ CHO

HỌC SINH TIỂU HỌC 5
1.1. Cơ sở lý luận 5
1.1.1. Cơ sở tâm sinh lý của học sinh tiểu học 5
1.1.2. Cơ sở ngôn ngữ 7
1.1.3. Vị trí của dạy học Tập viết 7
1.1.5. Chương trình dạy Tập viết và quy định hiện hành về chữ viết ở tiểu học 9
1.2. Cơ sở thực tiễn 12
1.2.1. Khảo sát thực trạng luyện viết chữ cho học sinh 12
1.2.2. Kết quả khảo sát 13
1.2.2.1. Thực trạng học phân môn Tập viết, các kĩ năng viết và kiểu chữ viết của
học sinh ở Trường Tiểu học Đông Hưng 1 – Lục Nam – Bắc Giang 13
1.2.2.2. Thực trạng dạy phân môn Tập viết cho học sinh ở Trường Tiểu học
Đông Hưng 1 – Lục Nam – Bắc Giang 16
Tiểu kết 19
CHƯƠNG 2: BIỆN PHÁP LUYỆN VIẾT CHỮ NGHIÊNG NÉT THANH,
NÉT ĐẬM CHO HỌC SINH LỚP 3 20
2.1. Hướng dẫn học sinh tư thế ngồi, cách cầm bút, cách để vở cho phù hợp 20
2.2. Hướng dẫn học sinh luyện viết các nét cơ bản, nhóm chữ đồng dạng 21
2.3. Hướng dẫn học sinh kỹ năng liên kết các nét chữ khi viết 24
Kiểu 2: liên kết phụ âm đầu với vần 26
2.4. Hướng dẫn học sinh luyện viết dấu phụ và dấu thanh 29
2.5. Hướng dẫn học sinh luyện viết tạo nét thanh nét đậm 32
2.6. Cách chọn bút, vở viết thích hợp cho quá trình luyện chữ đẹp 33
Tiểu kết 35
CHƯƠNG 3: THỂ NGHIỆM SƯ PHẠM 36
3.1. Mục đích thể nghiệm 36
3.2. Đối tượng, thời gian và địa bàn thể nghiệm 36
3.2.1. Đối tượng thể nghiệm 36
3.2.2. Thời gian và địa bàn thể nghiệm 36
3.3. Nội dung và phương pháp thể nghiệm 36

3.3.1. Nội dung thể nghiệm 36
3.3.2. Phương pháp thể nghiệm 37
3.4. Các bài soạn thể nghiệm 37
3.5. Kết quả thể nghiệm 37
Tiểu kết chương 3 39
KẾT LUẬN 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nghe, nói, đọc, viết là những hoạt động ngôn ngữ khác nhau của con
người. Trong đó, viết là hoạt động quan trọng và có ý nghĩa to lớn trong dạy học
ở nhà trường tiểu học. Đây là yêu cầu cơ bản đầu tiên đối với mỗi học sinh (HS)
khi đi học, giúp HS chiếm lĩnh được ngôn ngữ để sử dụng trong giao tiếp và học
tập đồng thời cũng là công cụ để học các môn học khác. Tập viết với tư cách là
một phân môn của môn Tiếng Việt ở tiểu học, có nhiệm vụ hình thành và phát
triển năng lực viết cho HS.
1.2. Trong thực tiễn dạy học ở trường tiểu học, nhất là sau khi chương trình
và sách giáo khoa (SGK) mới được triển khai, giáo viên (GV) và HS gặp rất
nhiều khó khăn khi tiếp cận nội dung chương trình mới và cách dạy học mới.
Điều này ảnh hưởng đến hiệu quả của việc rèn luyện kỹ năng tiếng Việt và khả
năng viết cho HS. Đồng thời, do tình hình công nghệ thông tin phát triển, nhiều
HS và phụ huynh quan niệm việc gõ máy tính thành thạo có thể thay thế được
chữ viết tay. Vì vậy, chữ viết của HS phổ thông, HS cấp tiểu học còn viết sai,
viết xấu, viết cẩu thả… là một thực trạng phổ biến.
1.3. Trường Tiểu học Đông Hưng 1 nằm ở trung tâm huyện Lục Nam – Bắc
Giang có rất nhiều điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, đội ngũ GV giàu kinh
nghiệm trong giảng dạy. Tuy nhiên, việc áp dụng chương trình và SGK mới đã

làm cho nhiều GV còn bỡ ngỡ, lúng túng. Hơn nữa, nhiều GV chưa quan tâm
đúng mức đến việc tìm và vận dụng những biện pháp tích cực để nâng cao hiệu
quả dạy học nói chung và dạy học Tập viết nói riêng. Một thực tế vẫn còn tồn tại
đó là chất lượng chữ viết của HS chưa được tốt. Nhiều HS có khả năng viết
đúng tốc độ viết theo yêu cầu của mỗi khối lớp nhưng chữ viết lại chưa đẹp, vở
viết còn chưa biết giữ gìn, chưa viết được nhiều kiểu chữ… Đây là vấn đề đặt ra
đối với nhà trường cũng như các cấp quản lý giáo dục cần phải quan tâm hơn
nữa, sớm đưa ra các biện pháp khắc phục để GV và HS đạt được kết quả cao
hơn trong dạy học viết chữ.
Trên đây là những lí do để tôi lựa chọn và thực hiện đề tài: “Đề xuất biện
pháp luyện viết chữ nghiêng, nét thanh nét đậm cho học sinh lớp 3 Trường Tiểu
học Đông Hưng 1 – Lục Nam – Bắc Giang” làm đối tượng nghiên cứu nhằm
góp phần nâng cao chất lượng dạy học tập viết trong nhà trường tiểu học. Hy
vọng rằng đây sẽ là tài liệu giúp các bạn giáo sinh sư phạm tiểu học có thể tham
khảo trong quá trình học tập và giảng dạy sau này.



2
2. Lịch sử vấn đề
Tập viết là một phân môn có nhiệm vụ quan trọng là hình thành năng lực tập
viết cho HS. Học tốt phân môn này sẽ là cơ sở để HS học tốt môn Tiếng Việt và
các môn học khác trong trường tiểu học. Vì vậy, việc vận dụng các phương
pháp, biện pháp dạy học tập viết sao cho có hiệu quả là vấn đề mà các nhà
nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề chữ
viết và dạy chữ viết, cụ thể là:
Công trình nghiên cứu: “Chữ viết và dạy chữ viết ở Tiểu học” của tác giả Lê A,
1982, nhà xuất bản (NXB), Đại học sư phạm (ĐHSP), tác giả đã khẳng định về vị trí,
tính chất, nhiệm vụ của phân môn Tập viết ở tiểu học, cơ sở khoa học của việc dạy
học tập viết, chương trình và sách giáo khoa dạy tập viết.

Trong cuốn: “Dạy học chính tả cho học sinh Tiểu học theo vùng phương
ngữ”, tiến sĩ (TS) Võ Xuân Hào (chủ biên), 1995, dự án phát triển giáo viên
(GV) tiểu học, nhà xuất bản giáo dục (NXB GD), tác giả viết thêm đôi nét về
dạy học tập viết trong nhà trường tiểu học.
Bên cạnh đó cuốn: “Phương pháp dạy học Tiếng Việt”, giáo trình chính thức
đào tạo (ĐT) GV cao đẳng sư phạm (CĐSP) và sư phạm 12+2, do tác giả Lê A
(chủ biên), tác giả đã đề cập đến phân môn Tập viết và các vấn đề lí luận về dạy
học tập viết như vị trí, tính chất, nhiệm vụ dạy tập viết, chương trình tập viết, cơ
sở khoa học của việc dạy tập viết, phương pháp dạy tập viết. Đồng thời còn
hướng dẫn soạn giáo án, tiến trình lên lớp một giờ tập viết. Tuy nhiên, sách xuất
bản đã lâu mà chưa được chỉnh sửa bổ sung cho phù hợp với thực tế nên có
nhiều vấn đề mới chưa được cập nhật.
Trong cuốn “Phương pháp dạy học Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số
cấp Tiểu học” (tài liệu bồi dưỡng GV) của dự án phát triển GV tiểu học đã
nghiên cứu một số biện pháp và hình thức hướng dẫn HS trong giờ tập viết. Đây
là những vấn đề có ý nghĩa thực tiễn có thể áp dụng vào dạy học tập viết không
chỉ với HS dân tộc thiểu số mà ngay cả những HS dân tộc Kinh thì những biện
pháp này vẫn hoàn toàn có tác dụng tích cực. Tuỳ theo trình độ của HS ở các
vùng miền và trong các lớp mà GV vận dụng, biến đổi linh hoạt cho phù hợp với
đối tượng của mình.
Cuốn “Đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học” của BGD và ĐT, dự án
phát triển GV Tiểu học, NXB Hà Nội, (2005), tác giả nhấn mạnh đổi mới trong
nội dung và phương pháp tập viết theo hướng tích cực hoá hoạt động của HS.
Thực hành kế hoạch bài dạy đạt hiệu quả, sự nắm vững kiến thức đã thu nhận


3
được nhằm chủ động, có sáng tạo, có ý thức vận dụng phương pháp dạy học tích
cực vào thực tế giảng dạy.
Cuốn “Dạy học lớp 3 theo chương trình Tiểu học mới”, NXB GD, 2006,

sách dự án phát triển GV Tiểu học. Cùng với các môn học khác, cuốn sách đã
cung cấp các mảng về nội dung, mục tiêu cụ thể cho các phân môn trong dạy
học Tiếng Việt, phân môn Tập viết cũng được triển khai về các mặt kiến thức, kĩ
năng và quy trình soạn giáo án để dạy học một tiết tập viết.
Những công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã đề cập tới vấn đề tiếng Việt
trên các phương diện: Vị trí, nhiệm vụ, nội dung chương trình, phương pháp dạy
học nói chung, các yêu cầu về chuẩn kiến thức kỹ năng, một số biện pháp dạy học
tập viết. Đó là những nguồn tư liệu quý báu và làm cơ sở lí luận để tác giả thực
hiện khóa luận.
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu dựa trên những lí luận chung về dạy học tập viết, đồng
thời căn cứ vào đặc điểm tiếp nhận của HS tiểu học, nội dung chương trình, yêu
cầu về chuẩn kiến thức kỹ năng nhằm tìm hiểu và đề xuất biện pháp luyện viết
chữ nghiêng, nét thanh nét đậm cho HS lớp 3 Trường Tiểu học Đông Hưng 1 –
Lục Nam – Bắc Giang.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận gồm một số nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề luyện viết chữ cho HS
Trường Tiểu học Đông Hưng 1, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
- Đề xuất một số biện pháp luyện viết kiểu chữ nghiêng, nét thanh nét đậm
cho HS Trường Tiểu học Đông Hưng 1, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
- Thiết kế một số giáo án và thể nghiệm sư phạm.
- Tổng hợp, so sánh, đối chiếu kết quả bước đầu thể nghiệm và rút ra tính khả
thi của vấn đề nghiên cứu.
5. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu một số biện pháp luyện viết chữ nghiêng, nét
thanh nét đậm cho HS Trường Tiểu học Đông Hưng 1, huyện Lục Nam, tỉnh
Bắc Giang.





4
6. Phạm vi nghiên cứu
Do khả năng và thời gian có hạn nên tác giả chỉ nghiên cứu quá trình trên HS
hai lớp ở Trường Tiểu học Đông Hưng 1, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, với
tổng số 60 HS. Trong đó: 30 HS lớp 3A1 và 30 HS lớp 3A2.
7. Đóng góp của đề tài
Nếu đề tài được thực hiện thành công sẽ là tài liệu tham khảo cho các bạn
sinh viên Khoa Tiểu học - Mầm non, GV Trường Tiểu học Đông Hưng 1 nói riêng
và GV trực tiếp giảng dạy trên địa bàn huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang nói chung.
Đồng thời, đề tài cũng góp phần nâng cao hiệu quả học tập môn Tiếng Việt cho HS
tiểu học.
Qua quá trình tập dượt công tác nghiên cứu khoa học, người nghiên cứu sẽ
tích lũy, bổ sung kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, thực tế phổ thông để chuẩn bị
hành trang cho công tác ở trường phổ thông sau này.
8. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp so sánh đối chiếu.
- Phương pháp đọc phân tích, tổng hợp để xử lý dữ liệu liên quan.
- Phương pháp thực hành: thiết kế một số giáo án và thể nghiệm sư phạm.
9. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khóa luận được chia làm
3 chương có nội dung như sau:
Chương 1: Cơ sở khoa học của việc luyện viết chữ cho học sinh tiểu học
Chương 2: Biện pháp luyện viết chữ nghiêng, nét thanh nét đậm cho học sinh lớp 3
Chương 3: Thể nghiệm sư phạm










5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC LUYỆN
VIẾT CHỮ CHO HỌC SINH TIỂU HỌC

1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Cơ sở tâm sinh lý của học sinh tiểu học
Phương pháp dạy học Tiếng Việt có quan hệ chặt chẽ với Tâm lý học, đặc
biệt là với Tâm lý học lứa tuổi. Nếu không có kiến thức về quá trình tâm lí ở
người nói chung và ở HS lứa tuổi tiểu học nói riêng thì không thể giảng dạy tốt
và phát triển ngôn ngữ cho HS. Sở dĩ như vậy là vì: trong quá trình dạy học ở
tiểu học, HS ở lứa tuổi này (thường từ 6 tuổi đến 14 tuổi) được coi là đối tượng
trung tâm của hoạt động học, tự giác, tích cực và chủ động tiếp thu tri thức
thông qua những tác động của GV và nhận thức của bản thân, biến những tri
thức thu nhận được thành hệ thống giá trị chuẩn mực mang đặc điểm và bản
chất của cá nhân. HS vừa là đối tượng của hoạt động dạy, vừa là chủ thể của quá
trình nhận thức, chủ thể tự giáo dục có tính tự giác, tích cực và chủ động tổ chức
quá trình học tập của bản thân. Trong bất kỳ điều kiện và hoàn cảnh nào thì hiệu
quả của quá trình dạy học cao hay thấp là do tự nhận thức của cá nhân chủ thể
trực tiếp quyết định trên cơ sở sự tác động tích cực của các yếu tố khách quan.
GV có trình độ chuyên môn tốt là 1 yếu tố quan trọng hàng đầu, nhưng chưa đủ
để trực tiếp quyết định chất lượng hiệu quả của việc dạy học, mà cần phải đặc
biệt quan tâm đến đặc điểm tâm sinh lý của HS lứa tuổi này.
Giai đoạn các em đến trường tiểu học, đây là bước ngoặt quan trọng trong

đời sống của trẻ. Từ đây, hoạt động chủ đạo của trẻ là hoạt động vui chơi ở giai
đoạn mẫu giáo đã chuyển sang loại hoạt động mới là hoạt động học tập với đầy
đủ ý nghĩa của nó. Sự chuyển đổi hoạt động chủ đạo như vậy có tác động không
nhỏ đến tâm sinh lý của trẻ. Do đó, việc lựa chọn nội dung, hình thức, phương
pháp dạy học nói chung và trong chương trình dạy học tập viết cũng chịu sự chi
phối căn bản.
Ở lứa tuổi này tri giác của HS tiểu học còn mang tính đại thể, ít đi sâu vào
chi tiết và mang tính không chủ định. Do đó, HS khó phân biệt chính xác sự
giống hay khác nhau giữa các sự vật. Đối với việc tri giác các sự vật nghĩa là HS
phải được cầm, nắm, sờ mó vào sự vật. Những gì thường gặp trong cuộc sống,
gắn bó với hoạt động của bản thân cùng với sự chỉ dẫn của GV và phù hợp với
nhu cầu mới được HS tri giác. Đặc biệt, với những gì trực quan sinh động sẽ
được HS tri giác tốt hơn. Do vậy, trong quá trình dạy học GV nên sử dụng các


6
phương tiện trực quan khác nhau để HS dễ dàng nhận biết và ghi nhớ dấu hiệu
bản chất của sự vật.
Chú ý có chủ định của HS tiểu học còn yếu, chú ý không chủ định phát triển
nhờ những gì mang tính mới mẻ, bất ngờ, rực rỡ, khác lạ sẽ lôi cuốn sự chú ý và
đó là sự chú ý không có sự nỗ lực của ý chí. Sự tập trung chú ý của HS chưa
cao, thiếu bền vững và dễ bị phân tán. Do đó, khi luyện viết chữ cho HS, GV
cần sử dụng các hình thức, phương pháp dạy học phù hợp để duy trì sự chú ý
của HS.
Về khả năng ghi nhớ thì HS tiểu học có thể nhớ và giữ gìn chính xác những
sự vật hiện tượng cụ thể hơn những định nghĩa, những câu giải thích bằng lời.
Việc hiểu được mục đích ghi nhớ và tạo ra được tâm thế ghi nhớ thích hợp là
điều quan trọng để HS ghi nhớ tài liệu học tập.
Tưởng tượng cũng là một quá trình nhận thức quan trọng của HS tiểu học. Để
giúp cho HS tưởng tượng đúng hướng, GV cần tổ chức cho HS quan sát sự vật

hiện tượng cụ thể, sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học và tài liệu học tập.
Ngôn ngữ chính xác, giàu cảm xúc, khớp với động tác, lời nói, cử chỉ điệu bộ…
của người GV cũng được xem như là một phương tiện trực quan khi dạy học nói
chung và dạy học Tiếng Việt nói riêng, giúp HS dễ dàng tiếp nhận kiến thức và
nâng cao hiệu quả học tập.
Ở lứa tuổi này đặc điểm về sinh lý của HS, GV cũng cần chú ý quan tâm:
khi này thì toàn bộ độ cong của xương cột sống (ở cổ, ở ngực, ở thắt lưng) đang
được hình thành. Do đó, kích thước bàn ghế, tư thế ngồi tập viết ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển của cột sống. HS ngồi bàn quá cao hoặc quá thấp, ngồi viết
không đúng tư thế sẽ làm cong vẹo cột sống, để lại di hại cả đời. Bộ xương đang
ở giai đoạn cốt hóa. Các đốt ngón tay, các đốt cổ tay đến 11 tuổi và 12 tuổi mới
kết thúc việc cốt hóa. Đó là lý do giải thích vì sao HS gặp nhiều khó khăn khi
nắm kỹ thuật viết chữ, vì đó là công việc đòi hỏi sự tỉ mỉ, kiên trì và khéo léo.
Bàn tay chóng mỏi nên HS không thể viết nhanh và viết trong một thời gian quá
dài. Các cơ bắp và dây chằng phát triển nhanh chóng. Những cơ lớn sớm phát
triển hơn các cơ nhỏ. Do đó, HS dễ thực hiện những cử động tương đối mạnh
nhưng lại khó thực hiện những cử động nhỏ, tỉ mỉ như việc viết các con chữ.
Trên đây là một số đặc điểm về tâm sinh lý của HS tiểu học mà trong quá
trình dạy học nói chung và trong thực hiện luyện viết chữ nói riêng GV cần phải
nắm được. Để dạy HS viết chữ hiệu quả, GV không những cần quan tâm đến tư
thế viết mà còn phải tạo được hứng thú luyện viết chữ của HS.



7
1.1.2. Cơ sở ngôn ngữ
Đặc điểm cấu tạo của chữ viết tiếng Việt là cơ sở quan trọng trong xây dựng
phương pháp dạy học tập viết. Chữ viết tiếng Việt được phân biệt theo hai nét cơ
bản là nét thẳng và nét cong. Nét thẳng có nét thẳng đứng, thẳng xiên và nét
ngang. Nét cong có dạng khép kín và dạng hở. Phối hợp hai nét cơ bản trên

thành các loại nét phức tạp hơn: nét móc, nét khuyết, nét thắt Như vậy, việc
luyện chữ viết tiếng Việt trước hết là luyện các nét cơ bản, để viết được chữ viết
đẹp thì việc luyện các nét cơ bản là rất quan trọng. Ví dụ: để viết được chữ cái
“a” đúng, đẹp thì trước hết HS phải viết được đúng, đẹp hai nét cong kín và nét
móc ngược phải. Bởi lẽ, hai nét này là hai nét cơ bản cấu tạo nên chữ cái “a”.
Một ví dụ khác, với chữ cái “o” cũng vậy. HS muốn viết đúng, đẹp thì trước
hết phải viết được đúng, đẹp các nét cong mà cụ thể là hai nét cong hở phải
và nét cong hở trái. Chữ “o” được viết bởi một nét cong kín. Từ hai ví dụ trên
cho thấy nếu người học chỉ viết được nét cong kín mà không biết viết được
nét móc ngược phải thì không thể viết đẹp chữ “a” được. Do đó, mà người
học phải luyện tập tốt toàn bộ các nét cơ bản trong hệ thống chữ viết tiếng
Việt. Luyện các nét cơ bản là bài học thứ hai trong luyện viết chữ chỉ đứng
sau bài học quan trọng khác đó là tư thế ngồi viết, cách cầm bút, đặt vở hay
gọi chung là tư thế tập viết.
Chữ viết tiếng Việt có nhiều chữ được cấu tạo bởi nhiều nét cơ bản gần
giống nhau. Ví dụ: Các chữ cái l, h, k có cùng cấu tạo từ một nét cơ bản giống
nhau là nét khuyết trên, các chữ cái o, ô, ơ có cùng cấu tạo từ một nét cơ bản
giống nhau là nét cong kín Đây chính là căn cứ để GV hình thành phương
pháp luyện viết chữ, sắp xếp nội dung luyện tập. Như vậy, luyện viết chính là
luyện các nét cơ bản, luyện các nhóm chữ đồng dạng (những chữ có đặc điểm
tương đồng về các nét cơ bản giống nhau). Việc sắp xếp theo nhóm chữ đồng
dạng sẽ góp phần hữu ích cho người học ở cùng một thời gian được luyện tập
cùng một nhóm nét cơ bản tương đối giống nhau. Khi luyện tập các nét cơ bản
đến luyện theo nhóm các chữ đồng dạng, HS sẽ được luyện các bài tập từ dễ đến
khó, từ đơn giản đến phức tạp. Điều đó không chỉ đảm bảo được tính khoa học
trong luyện viết chữ mà còn phù hợp với khả năng nhận thức của HS tiểu học.
1.1.3. Vị trí của dạy học Tập viết
Tập viết là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở Tiểu
học. Phân môn Tập viết đã trang bị cho HS bộ chữ cái Latinh và những yêu cầu
kỹ thuật sử dụng bộ chữ cái trong học tập và giao tiếp. Với ý nghĩa này, Tập viết

không những có quan hệ mật thiết tới chất lượng các môn học khác mà còn góp


8
phần rèn luyện một trong số các kỹ năng hàng đầu của việc học tiếng Việt trong
nhà trường - kỹ năng viết chữ. Nếu viết đúng chữ mẫu, rõ ràng, tốc độ nhanh thì
HS có điều kiện ghi chép bài tốt, nhờ vậy kết quả học tập sẽ cao hơn. Viết xấu,
tốc độ chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập.
Nếu như tập đọc giúp cho HS rèn kỹ năng đọc thông, thì tập viết sẽ giúp
cho việc rèn luyện năng lực viết thạo. Để làm chủ tiếng nói về mặt văn tự HS
phải rèn luyện cho mình năng lực đọc thông, viết thạo văn tự đó. Hai năng lực
này có quan hệ mật thiết với nhau. HS học tiếng Việt phải đọc thông thạo chữ
Quốc ngữ. Đây chính là điểm khác biệt giữa người được học và người không
được học tiếng Việt.
Tập viết là một phân môn có tính chất thực hành. Trong chương trình
không có tiết lý thuyết, chỉ có các tiết rèn luyện kỹ năng. Tính chất thực hành có
mục đích của việc dạy học Tập viết cũng góp phần khẳng định tầm quan trọng
của phân môn này ở trường Tiểu học.
Ngoài ra, tập viết còn góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho HS
những phẩm chất đạo đức tốt như tính cẩn thận, tính kỷ luật và thị hiếu thẩm mĩ.
1.1.4. Dạy học Tập viết là dạy các kỹ năng
Kỹ năng tập viết mà người học cần tập luyện đó là các kỹ năng viết các nét
cơ bản, kỹ năng viết dấu thanh, dấu phụ, viết chữ thường, chữ hoa và chữ số, kỹ
năng viết liền nét… Ví dụ: Để viết được chữ a, HS phải thực hiện thao tác đầu
tiên là viết nét cong kín, thao tác thứ hai là viết nét móc ngược phải liền kề với
nét cong kín đó. Nhưng để thực hiện tốt các kỹ năng này phải kể đến một nhóm
các kỹ năng cơ bản được gọi là kỹ năng chuẩn bị tập viết. Bao gồm kỹ năng
ngồi viết, cách cầm bút, đặt vở, kỹ năng đưa bút tạo nét thanh, nét đậm… Hơn
nữa, yếu tố tâm lý tạo không gian môi trường cũng là một tác động không nhỏ
đến việc luyện kỹ năng viết các con chữ.

Vậy luyện viết chữ cho HS chính là rèn các kỹ năng. Khi kỹ năng viết các
nét và liên kết các nét đã đạt đến mức độ thuần thục thì kỹ năng viết chữ sẽ trở
thành kỹ xảo. Song song với quá trình rèn kỹ năng viết chữ là rèn luyện cho HS
các kỹ năng chuẩn bị cho việc viết chữ, đảm bảo đúng tư thế và không gây ảnh
hưởng xấu đến đặc điểm sinh lý của HS như mắc các bệnh về cột sống, về mắt
do tư thế chuẩn bị để tập viết không đúng quy cách gây ra.
Quá trình rèn kỹ năng viết chữ trải qua hai giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Giai đoạn này hình thành và xây dựng biểu tượng về chữ viết giúp
HS hiểu và ghi nhớ được hình dáng, kích thước viết từng chữ cái. Các hiểu biết


9
này sẽ giúp HS viết chữ một cách tự giác. Nhờ vậy, kết quả đạt được sẽ nhanh
và chắc hơn.
- Giai đoạn 2: Đây là giai đoạn củng cố, hoàn thiện biểu tượng về chữ
viết thông qua các hình thức luyện tập viết chữ. Giai đoạn này hướng dẫn HS
luyện viết các chữ cái, liên kết các chữ cái để luyện viết từ, cao hơn là viết
câu ứng dụng.
Trong việc dạy hình thành kỹ năng viết chữ, GV cần phải quan tâm đến
việc tạo các yếu tố cảm xúc tốt, tâm lý thoải mái để HS luôn hứng thú trong việc
luyện viết. Quá trình lĩnh hội và thể hiện chữ viết ở HS sẽ diễn ra rất nhanh nếu
HS viết với tâm lý vui vẻ, phấn chấn.
1.1.5. Chương trình dạy Tập viết và quy định hiện hành về chữ viết ở tiểu học
♦ Chương trình dạy Tập viết
- Đối với lớp 1: viết đúng quy trình viết nét, viết chữ cái và liên kết chữ cái
tạo thành chữ ghi tiếng theo yêu cầu liền mạch. Viết thẳng hàng các chữ trên
dòng kẻ, tập chép bài tập đọc có độ dài từ 20 đến 24 chữ, mắc không quá 5 lỗi
chính tả.
Tập tô các chữ cái hoa theo trình tự bảng chữ cái.
Tập viết các vần chữ thường, cỡ vừa và nhỏ (là các từ gắn với bài đọc, gắn

với các vần được ôn luyện trong bài đọc).
- Đối với lớp 2: viết đúng mẫu chữ cái viết hoa, thể hiện rõ đặc điểm thống
nhất ở các nét cơ bản trong từng nhóm chữ viết hoa. Kỹ thuật viết chữ liền nét
giữa các chữ cái đứng sau chữ viết hoa không có nét móc, tập chép viết khoảng
50 chữ trong 15 phút không mắc quá 5 lỗi chính tả.
Nội dung và yêu cầu tập viết luôn bám sát nội dung bài học SGK Tiếng Việt
2 (viết chữ hoa – viết ứng dụng). Theo đó, trong cả năm học, HS sẽ được viết
toàn bộ bảng chữ cái viết hoa do BGD và ĐT mới ban hành (gồm 29 chữ cái
viết hoa theo kiểu 1 và 5 chữ cái viết hoa theo kiểu 2), cụ thể:
26 chữ cái viết hoa (theo kiểu 1 và 2) được dạy trong 26 tuần (mỗi tuần 1
tiết, mỗi tiết dạy 1 chữ cái viết hoa theo thứ tự bảng chữ cái tiếng Việt.
8 chữ cái viết hoa (kiểu 1) được dạy trong 4 tuần (mỗi tuần 1 tiết, mỗi tiết
dạy hai chữ cái viết hoa có dạng gần giống nhau A- Ă, E- Ê, O- Ô, U- Ư).
Nội dung mỗi bài tập viết được thiết kế trên hai trang vở tập viết, có chữ
mẫu trên dòng kẻ li (khoảng cách giữa hai dòng kẻ li trong vở là 0,25 cm).
Trên trang lẻ HS tập viết 1 dòng chữ cái viết hoa cỡ vừa, 2 dòng chữ cái viết


10
hoa cỡ nhỏ, 1 dòng viết ứng dụng (chữ ghi tiếng có chữ cái viết hoa) cỡ nhỏ,
ba dòng viết ứng dụng (cụm từ có chữ viết hoa) cỡ nhỏ và tập viết tự chọn
kiểu chữ. Trên trang chẵn HS được luyện viết tương tự như trang lẻ và đây là
phần luyện viết ở nhà.
- Đối với lớp 3: viết đúng và hình thành kỹ năng viết nhanh đồng thời biết trình
bày bài viết, bài làm sạch đẹp, thực hiện nề nếp giữ vở sạch viết chữ đẹp, bài tập viết
có độ dài khoảng 70 chữ, trong 15 phút, không mắc quá 5 lỗi chính tả.
Luyện tập củng cố kỹ năng viết các chữ thường và chữ hoa theo cỡ nhỏ với
mức yêu cầu được nâng cao đúng và nhanh.
Thực hành viết ứng dụng (câu, đoạn ngắn) nhằm bước đầu hoàn thiện kỹ năng
viết chữ ở giai đoạn thứ nhất (lớp 1, 2, 3) của chương trình tiểu học. Mỗi trang lẻ

yêu cầu: hai dòng chữ viết hoa cỡ nhỏ (bao gồm: 1 dòng ôn lại chữ viết hoa hoặc tổ
hợp chữ ghi âm đầu có chữ cái viết hoa đã học ở lớp 2, 1 dòng củng cố thêm 1 đến
2 chữ cái viết hoa hoặc câu ứng dụng (yêu cầu kết hợp), 2 dòng viết câu ứng dụng
tên riêng (cỡ nhỏ), 4 dòng viết câu ứng dụng (tục ngữ, ca dao, thơ…) theo cỡ nhỏ
và phần tự chọn kiểu chữ). Mỗi trang chẵn luyện viết thêm: gồm những chữ viết
hoa cần ôn luyện và một số chữ thường cần lưu ý về kỹ thuật nối nét (viết liền
mạch) luyện viết tên riêng, câu ứng dụng trong bài và tập viết tự chọn kiểu chữ.
Như vậy, việc phân bố chương trình dạy học Tâp viết có sự thống nhất lôgíc
và phù hợp với đặc điểm lứa tuổi HS tiểu học. Sự thống nhất ở đây thể hiện rất
rõ ràng trong việc phân bố chương trình ở mỗi khối lớp. Ví dụ 1: đối với lớp 1,
HS được tập viết chữ cái hoa qua nội dung là nhận diện và tập tô, tập viết các
nét cơ bản của các chữ cái; đến lớp 2, HS được tập viết và viết đúng được toàn
bộ những chữ cái viết hoa; đến lớp 3, HS thực hiện việc viết thành thạo, viết
đúng. Hơn nữa, chương trình tập viết còn thể hiện được sự phù hợp với đặc
điểm tâm sinh lý của HS. Ví dụ 2: tốc độ viết ở lớp 2 và lớp 3 theo chương trình
Tập viết cũng khác nhau, nâng dần mức độ khó, mức độ thể hiện sự dẻo dai, sự
tập trung chú ý của HS. Sự thống nhất lôgíc và phù hợp với đặc điểm tâm sinh
lý của HS tiểu học nói chung và HS lớp 3 nói riêng đã thể hiện rất rõ ràng, vừa
sức. Việc nắm bắt được nội dung chương trình Tập viết là yêu cầu đối với mỗi
GV, bởi đó là cơ sở để GV lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học… sao
cho đạt được đúng yêu cầu của mỗi khối lớp.
♦ Quy định hiện hành về chữ viết ở tiểu học
- Mẫu chữ
Bắt đầu từ lớp 1, năm học 2002 – 2003, việc dạy và học viết chữ trong trường
Tiểu học trên toàn quốc được thực hiện theo mẫu chữ trong trường Tiểu học ban


11
hành kèm theo Quyết định số 31/2002/QĐ - BGD và ĐT ngày 14/6/2002 của Bộ
trưởng BGD và ĐT.

Các chữ cái viết thường, dấu thanh, chữ cái viết hoa và các chữ số trong
bảng mẫu chữ kèm theo Quyết định nói trên có đặc điểm như sau:
Mẫu chữ cái viết thường:
Các chữ cái b, g, h, l, k, y được viết với chiều cao 2,5 đơn vị. Tức bằng hai
lần rưỡi chiều cao các chữ cái ghi nguyên âm.
Chữ cái t được viết với chiều cao 1,5 đơn vị.
Các chữ cái r, s được viết với chiều cao 1,25 đơn vị.
Chữ cái d, đ, p, q được viết với chiều cao 2 đơn vị.
Các chữ cái còn lại o, ô, ơ, a, ă, â, e, ê, i, u, ư, n, m, v, x viết với chiều cao
1 đơn vị.
Các dấu thanh được viết trong phạm vi 1 ô vuông có cạnh là 0,5 đơn vị
Mẫu chữ cái viết hoa: chiều cao của các chữ cái viết hoa là 2,5 đơn vị, riêng
hai chữ cái viết hoa Y, G được viết với chiều cao 4 đơn vị.
Mẫu chữ số: chiều cao của các chữ số là 2 đơn vị.
Như vậy, tính đến năm học 2012 – 2013 chúng ta đã thực hiện được tròn 10
năm theo Quyết định số 31/2002/ QĐ - BGD và ĐT về “mẫu chữ trong trường
Tiểu học”. Trước đó, chúng ta đã có không ít những lần thay đổi kiểu chữ để đạt
được các yêu cầu như: dễ đọc, dễ viết, đảm bảo phân biệt giữa chữ này với chữ
khác, đảm bảo tính thẩm mỹ, tạo điều kiện cho việc viết liền mạch làm tăng tốc
độ khi viết. Để đạt được những yêu cầu đó có thể kể đến những lần thay đổi
kiểu chữ như: “Chữ viết cải cách giáo dục” (chưa chỉnh lý) với chủ trương bỏ
các nét dư và do đó đã vi phạm nguyên tắc phân biệt ảnh hưởng nghiêm trọng
đến tính thẩm mỹ và ảnh hưởng đến tốc độ viết. Hay “Chữ viết chỉnh lý” đã xóa
bỏ quy định việc chủ trương xóa bỏ các nét dư, điều đó đã làm cho chữ viết
được đẹp hơn, tốc độ viết tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên, chữ viết này vẫn hơi lùn
nên làm ảnh hưởng đến tính thẩm mỹ.
Đối với chữ viết hiện hành mà chúng ta đang sử dụng trong những năm gần
đây đã có thêm những điểm mới đáng kể. Bộ chữ hiện hành về cơ bản giống
bộ “Chữ viết chỉnh lý” nhưng một số chữ có sự điều chỉnh về chiều cao như:
chữ l (cũ là 2 đơn vị), và được đổi mới cao 2,5 đơn vị… Điều đó làm tăng

tính thẩm mỹ và bộ mẫu chữ trở nên đỡ lùn, đẹp hơn. Đặc biệt việc vẫn sử


12
dụng những nét dư trong mẫu chữ đã tạo được sự liên kết đảm bảo tốc độ và
sự mềm mại của chữ viết.
- Kiểu chữ
Có thể dạy cho HS là cả 4 kiểu chữ bao gồm: Kiểu chữ đứng nét đều; kiểu
chữ đứng, nét thanh nét đậm; kiểu chữ nghiêng nét đều; kiểu chữ nghiêng, nét
thanh nét đậm. Trong đó, kiểu chữ chung nhất mà tất cả mọi HS đều được luyện
viết đó là kiểu chữ đứng nét đều.
Như vậy, quy định hiện hành về chữ viết đã đưa ra mẫu chữ viết và một kiểu chữ
cần luyện chung cho HS tiểu học, bên cạnh đó cũng không giới hạn những yêu cầu về
kiểu chữ để luyện viết thêm (HS có thể luyện thêm ba kiểu chữ còn lại). Ở mỗi kiểu
chữ lại có những nét đẹp riêng mà HS có thể lựa chọn để luyện viết thêm.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Khảo sát thực trạng luyện viết chữ cho học sinh
♦ Mục đích khảo sát
- Thông qua việc khảo sát thực trạng dạy và học phân môn Tập viết ở
Trường Tiểu học Đông Hưng 1 – Lục Nam – Bắc Giang, tác giả đề xuất biện
pháp dạy học nhằm khắc phục những tồn tại trong dạy học.
♦ Nội dung khảo sát
- Thực trạng học phân môn Tập viết, các kĩ năng viết và kiểu chữ viết của
học sinh ở Trường Tiểu học Đông Hưng 1 – Lục Nam – Bắc Giang.
- Thực trạng dạy phân môn Tập viết cho học sinh ở Trường Tiểu học Đông
Hưng 1 – Lục Nam – Bắc Giang.
♦ Đối tượng khảo sát
- 15 GV trực tiếp giảng dạy phân môn Tập viết của các khối lớp 1, 2, 3 và
60 HS lớp 3A1 và lớp 3A2 Trường Tiểu học Đông Hưng 1.
♦ Thời gian, địa bàn khảo sát

- Thời gian: Từ tháng 10 năm 2012 đến tháng 4 năm 2013
- Địa bàn khảo sát: Trường Tiểu học Đông Hưng 1, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc
Giang.
♦ Cách thức tiến hành
Qua việc điều tra bằng quan sát thực tế, bằng phiếu, cùng với việc trò
chuyện, phỏng vấn dành cho cả GV và HS, tác giả đã thu được những kết quả
khả quan nhất.


13
1.2.2. Kết quả khảo sát
1.2.2.1. Thực trạng học phân môn Tập viết, các kĩ năng viết và kiểu chữ viết của
học sinh ở Trường Tiểu học Đông Hưng 1 – Lục Nam – Bắc Giang
Qua quá trình dự giờ, thu vở chấm bài, khảo sát bằng phiếu điều tra về
hứng thú học tập phân môn Tập viết của HS lớp 3 Trường Tiểu học Đông Hưng
1, tôi nhận thấy một số nội dung như sau:
♦ Về hứng thú học tập của học sinh
Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý
nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng đem lại khoái cảm cho cá nhân trong
quá trình hoạt động.
Hứng thú học tập là điều mà HS đạt đến đầu tiên hay cuối cùng của một
môn học. Có người cho rằng HS chưa biết gì về môn học thì lấy gì mà hứng thú.
Có một điều chắc chắn, hứng thú là điều mà bất kì một HS nào khi muốn học tốt
cũng cần đạt được ở một số môn học. Do vậy, tạo hứng thú trong luyện viết chữ
là điều đầu tiên mà GV cần đem đến cho HS,trước khi dẫn dắt HS nắn nót từng
con chữ. Có như thế HS mới tích cực chủ động và yêu thích việc luyện viết,
đúng như tinh thần của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Hứng thú học tập của môn học được hình thành thông qua không khí học
tập của HS trong giờ học môn đó. Bởi một không khí học tập được hứng khởi sẽ
kích thích sự say mê giúp cho HS học tập tốt hơn. Khi HS cảm thấy yêu thích

môn học hoặc nhận ra được những giá trị của bộ môn thì động lực học tập sẽ rất
lớn. HS sẽ luôn tìm tòi khám phá thế giới trên cơ sở những kiến thức đã học, vận
dụng có sáng tạo những kiến thức đó, từ đó nâng cao kết quả học tập. Để thấy
được hứng thú luyện viết chữ đẹp của HS, tôi tiến hành đưa ra câu hỏi: “Em có
thích học Tập viết không?” và kết quả thu được là mỗi HS đều có mức độ thể
hiện sự yêu thích khác nhau. Tuy nhiên, kết quả đáng mừng là số lượng HS ở cả
hai lớp 3A1 và 3A2 cùng có câu trả lời: “Rất thích” chiếm gần 60%. Điều đó
cho thấy nhiều HS đã có sự hứng thú với việc luyện viết chữ. Do đó, nếu GV
luôn tâm huyết khơi nguồn hứng thú, quan tâm hơn thì không chỉ số lượng HS
thấy hứng thú với việc luyện viết sẽ rất lớn mà còn góp phần nâng cao chất
lượng chữ viết của HS.
Có hứng thú học rồi nhưng để học tốt thì tài liệu học tập cũng đóng một vai
trò quan trọng. Tài liệu học tập chính là công cụ hỗ trợ HS trong quá trình học
Tập viết. Qua điều tra, tôi thấy rằng HS cả hai lớp đều được trang bị tương đối
đầy đủ các tài liệu cho phân môn Tập viết, 100% HS đều có đầy đủ SGK và vở


14
Tập viết. Còn các tài liệu khác như vở kẻ nghiêng dùng để luyện viết kiểu chữ
nghiêng thì kết quả thu được ở lớp 3A1 chỉ có 10 HS chiếm 33,3%, lớp 3A2 có
8 HS chiếm 26,6% trả lời là có. Cũng chính vì thiếu tài liệu học tập nên khi
được hỏi: “Ngoài kiểu chữ viết đứng nét đều, em có luyện thêm các kiểu chữ
khác không?” và được phản hồi từ phía HS là: Lớp 3A1 có 15/30 HS chiếm
50%, lớp 3A2 có 13/30 HS chiếm 43,3% trả lời là có. Như vậy, có thể thấy số
lượng HS chăm chỉ luyện viết thêm các kiểu chữ ở cả hai lớp vẫn còn là những
con số khá khiêm tốn. Có tài liệu luyện viết thêm thay cho các vở luyện viết trên
lớp đã phần nào đánh giá được sự quan tâm của các bậc phụ huynh đối với chất
lượng chữ viết của con em mình. Kết quả thu được như trên cho thấy đã có
không ít phụ huynh quan tâm đến chữ viết của HS như đã đáp ứng về tài liệu
phục vụ cho việc này. Nếu như được sự quan tâm hơn nữa và mức độ nhận thức

của phụ huynh được nâng lên như việc phụ huynh nắm được các yêu cầu về
chuẩn các kỹ năng khi viết chữ để có thể tận tình kèm cặp, hướng dẫn các em
khi luyện viết ở nhà thì kết quả của việc luyện viết chữ chắc chắn sẽ theo chiều
hướng tốt hơn.
Tập viết cũng như các phân môn khác của môn Tiếng Việt các môn học
khác, để học tốt, có kĩ năng viết tốt thì ngoài giờ học trên lớp, HS phải thường
xuyên luyện viết ở nhà. Để điều tra việc luyện viết ở nhà của HS lớp 3, tôi đã
đưa ra câu hỏi: “Ngoài giờ Tập viết, luyện viết thêm trên lớp, em có thường
xuyên luyện viết ở nhà không?” Và kết quả thu được là phần lớn các em đã có ý
thức luyện viết ở nhà, biểu hiện bằng con số cụ thể là 15/30 HS chiếm 50% HS
lớp 3A1 và 17/30 HS chiếm 56,7% HS lớp 3A2 trả lời là thường xuyên luyện
viết ở nhà. Nhưng bên cạnh đó, ở cả hai lớp 3A1 và 3A2 vẫn tồn tại ở mỗi lớp là
10% tổng số HS không bao giờ luyện viết chữ ở nhà. Tồn tại thực tế trên là do
nhiều HS còn thiếu đi sự quan tâm sát sao của phụ huynh đối với việc luyện viết
ở nhà. Con số HS không bao giờ luyện viết thêm ở nhà tuy không là một con số
lớn nhưng rất cần phải có những biện pháp thiết thực để xóa bỏ thực trạng này.
Mỗi một kiểu chữ viết lại có những nét đẹp riêng, biết viết thêm nhiều loại
kiểu chữ là thể hiện sự linh hoạt cũng như vốn hiểu biết sâu rộng của người viết
chữ. Kiểu chữ nghiêng, nét thanh nét đậm là một trong bốn kiểu chữ viết mà HS
được học trong phân môn Tập viết (bên cạnh kiểu chữ viết chung trong chương
trình là kiểu chữ đứng nét đều). Để tìm hiểu hứng thú luyện viết thêm kiểu chữ
này, tôi có đưa ra câu hỏi: “Em có thích luyện viết thêm kiểu chữ viết nghiêng,
nét thanh nét đậm không?” Kết quả thu được lại là một con số gây ấn tượng đó
là có đến gần 60% HS của cả hai lớp đều đưa ra đáp án là “Rất thích”. Đây là


15
một số liệu rất đáng mừng vì để đạt đến mục đích nào đó thì niềm yêu thích đến
được cái đích đó là hết sức quan trọng, là khởi đầu đầy triển vọng.
♦ Về các kĩ năng viết chữ và kiểu chữ viết

Để nắm được kĩ năng viết chữ của HS, qua việc dự giờ và thu vở tập viết,
vở chính tả và chấm bài tôi nhận thấy rằng ưu điểm chung đó là các em đều đã
thực hiện tương đối tốt các yêu cầu về mức chuẩn cần đạt ở các nội dung: khởi
điểm đúng; đúng quy trình; đúng hình dáng; viết sạch sẽ. Ở các yêu cầu này đều
đạt mức trên 50%, đặc biệt với yêu cầu viết đúng hình dáng lớp 3A1 có đến
23/30 HS chiếm 76,6%, lớp 3A2 với 24/30 HS chiếm 80% tổng số HS mỗi lớp
thực hiện tốt kĩ năng này. Viết đúng hình dáng chữ điều đó chứng tỏ chữ viết
của HS của cả hai lớp đã rõ ràng và dễ đọc. Bên cạnh các kĩ năng mà đa số HS
đã thực hiện tốt thì vẫn phải kể đến thực trạng nhiều HS vẫn chưa thực hiện tốt
yêu cầu về tư thế ngồi, cách cầm bút và viết liền nét. Có ngồi đúng tư thế, cầm
bút đúng thì việc luyện viết mới đảm bảo cho sự phát triển về thể chất, ngồi viết
sai là nguyên nhân dẫn đến các bệnh về mắt, về cột sống của HS. Theo số liệu ở
bảng 1 thì với hai yêu cầu này số lượng HS thực hiện tốt không quá 13 em, tức chỉ
chiếm khoảng 40% tổng số HS ở mỗi lớp. Đây cũng là một vấn đề còn trăn trở
chung của nhiều GV khi rèn viết chữ cho HS trong trường. một thực tế vẫn còn tồn
tại là nhiều HS chưa có được tư thế ngồi viết đúng, có kỹ năng viết liền nét, viết
đúng vị trí dấu phụ dấu thanh là một số liệu đáng lo ngại. Đây là một phần để đánh
giá ý thức tự rèn luyện của HS và cũng là căn cứ để xem xét về sự quan tâm, tâm
huyết của GV trong thực hiện yêu cầu luyện viết chữ cho HS của mình.
Khi tiến hành thu vở chấm bài và thông qua 5 bài viết trong vở chính tả của
HS được cập nhật gần thời gian khảo sát nhất tôi nhận thấy một vài nội dung
như sau: Lớp 3A1 có tới 15/30 HS (chiếm 50%), trong khi lớp 3A2 cũng có đến
16/30 HS (chiếm 53,3%) tổng số HS của cả lớp quen viết kiểu chữ nghiêng.
Điều đó một phần đã chứng tỏ rằng trong quá trình giảng dạy GV đã dành không
ít tâm huyết cho việc mở rộng các kiểu chữ viết cho HS. Hơn nữa, HS là chủ thể
của hoạt động học nên điều này phần nào đã phản ánh được sự yêu thích đặc
biệt của nhiều HS với kiểu chữ này.
Đối với kiểu chữ đứng nét đều thì đây là kiểu chữ mà HS đã được làm quen
và học tập ngay từ những ngày đầu khi đến trường tiểu học. Hơn nữa đây là kiểu
chữ được quy định giảng dạy chính thức trong chương trình tiểu học. Bởi vậy,

HS đa phần vẫn quen viết kiểu chữ này. Lớp 3A1 có 10/30 HS (chiếm 33,3%),
lớp 3A2 có đến 9/30 HS (chiếm 30%) HS của cả lớp. Việc HS có thể viết tốt


16
kiểu chữ này sẽ là điều kiện thuận lợi để GV hướng dẫn các em luyện viết thêm
kiểu chữ đứng, nét thanh nét đậm.
Việc luyện viết được nhiều kiểu chữ khác nhau đã phần nào thể hiện được
tinh thần ham học tập rèn luyện của HS, thể hiện được sự yêu thích đối với chữ
viết tiếng Việt. Để viết được một kiểu chữ viết đúng và đẹp đã là rất khó và để
viết được nhiều hơn một kiểu chữ đúng và đẹp đối với HS tiểu học lại là một
điều khó hơn rất nhiều. Tuy qua việc điều tra tác giả chỉ thu nhận được kết qủa
rất khiêm tốn từ phía HS về nội dung này nhưng đây cũng là một dấu hiệu đáng
quý. Lớp 3A1 đã có 3/30 HS (chiếm 10%) viết được kiểu chữ đứng, nét thanh
nét đậm, 2/30 HS (chiếm 6,7%) có thể viết được kiểu chữ nghiêng, nét thanh
nét đậm; lớp 3A2 cũng có 3/30 HS (chiếm 10%) viết được kiểu chữ đứng, nét
thanh nét đậm, có 2/30 HS (chiếm 6,7%) viết được kiểu chữ nghiêng, nét thanh
nét đậm. Điều đó cho thấy đã có những HS của cả hai lớp 3A1 và 3A2 thực sự
yêu thích việc luyện viết chữ đẹp.
Từ việc phân tích trên, tác giả nhận thấy rằng cần thực sự quan tâm tới việc
luyện viết chữ theo từng kiểu chữ ở thói quen đưa bút của HS. Để các em quen
viết kiểu chữ đứng có thể viết đúng, đẹp hơn và HS biết viết thêm kiểu chữ này
có nét thanh nét đậm. Ở kiểu chữ nghiêng cũng vậy, GV cần biết hướng dẫn
những HS này biết viết đúng và đẹp hơn (đúng kiểu chữ nghiêng 15
0
mẫu chữ
được quy định hiện hành) và nhất là có thể luyện cho HS viết kiểu chữ này có
nét thanh nét đậm. Đối với những HS viết tốt kiểu chữ đứng có thể hướng dẫn
thêm để HS viết được cả kiểu chữ nghiêng.
Kết quả thu nhận lại về kiểu chữ viết của HS ở trên cho thấy mỗi HS lại có

sự lựa chọn sự phù hợp về kiểu chữ theo sự “quen” của tay mình viết khác nhau.
Nhưng nổi bật nên đó là với hầu hết HS đều chưa viết được mỗi kiểu chữ có nét
thanh, nét đậm. Dừng lại ở hầu hết mỗi em đều là khả năng viết kiểu chữ nét
đều. Thực tế đó là do nguyên nhân chủ yếu từ việc các em chưa nắm được kỹ
năng tạo nét thanh nét đậm, chưa hiểu được thế nào là sự phân biệt của hai loại
nét này. Đây là một thực trạng vẫn tồn tại cần khắc phục bởi lẽ khắc phục được
điều này chính là đã giúp các em mở rộng được kiểu chữ viết của mình.
1.2.2.2. Thực trạng dạy phân môn Tập viết cho học sinh ở Trường Tiểu học
Đông Hưng 1 – Lục Nam – Bắc Giang
Trường Tiểu học Đông Hưng 1 có tổng số 20 lớp học tập trung tại một địa
điểm thuộc huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Trường có 28 GV và đều đạt chuẩn
GV tiểu học trong đó có: 13 GV trình độ đại học, 14 GV trình độ cao đẳng và 1
GV trình độ trung cấp. Hầu hết các GV trong trường đều đạt GV dạy giỏi các


17
cấp trong đó có 12 GV dạy gỏi cấp tỉnh, 13 GV dạy giỏi cấp trường và GV các
môn chuyên.
Trường có 4 lớp 3 với tổng số là 120 em, 100% HS đi học đúng độ tuổi. Để
nâng cao chất lượng chữ viết thì GV chính là người giữ vai trò chủ đạo. Vì vậy,
trình độ của GV, chữ viết của GV là một trong những yếu tố quan trọng. Qua
khảo sát thực tế ở Trường Tiểu học Đông Hưng 1, tôi thấy rằng các GV tham
gia dạy học lớp 3 đều đạt trình độ cao đẳng sư phạm trở lên và hầu hết các thầy
cô có quá trình giảng dạy lâu năm nên tích lũy được kiến thức và kinh nghiệm
tương đối vững chắc. Tuy vậy, để dạy tốt phân môn Tập viết hay bất cứ môn
học nào thì nhận thức về tầm quan trọng của môn học là điều cần thiết, vì vậy tôi
đã đưa ra câu hỏi: “Theo thầy (cô), Tập viết so với các phân môn khác trong
môn Tiếng Việt là một phân môn như thế nào?” và đã được 75% GV trả lời là
rất quan trọng còn 25% GV trả lời là bình thường. Điều này cho thấy mỗi GV
đều có sự nhận thức khác nhau về phân môn Tập viết. Tuy nhiên, chúng ta phải

khẳng định rằng luyện viết chữ góp phần quan trọng vào việc học các phân môn
khác. Vì vậy, GV không thể lơ là hay xem nhẹ trong quá trình dạy học.
Đối với HS, việc luyện viết nhiều khi không dễ dàng, bên cạnh những thuận
lợi các em vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Điều quan trọng là GV phải thấy được
những khó khăn để có biện pháp khắc phục. Để điều tra về những bất cập đó khi
dạy luyện viết chữ, tác giả đã đưa ra câu hỏi “Khi dạy Tập viết, thầy (cô) thấy
HS thường gặp những khó khăn nào?” Kết quả thu được như sau: 33,3% GV
trong trường được hỏi đã trả lời là khó khăn khi giới thiệu cách viết, 26,7% GV
thì cho là khi hướng dẫn HS viết liền nét. Đây là khó khăn lớn vì yêu cầu viết
liền nét hay tiếp thu cách viết một từ ứng dụng đối với HS các lớp đầu Tiểu học
là một vấn đề không đơn giản. Bên cạnh đó 40% GV lại cho rằng thường gặp
khó khăn khi uốn nắn tư thế ngồi cho HS, bởi khi GV nhắc thì HS mới ngồi
đúng tư thế. GV trong trường đã giải thích rằng HS còn nhỏ nên nhanh quên,
chưa ý thức được rõ tác hại khi ngồi viết sai tư thế, ngồi xiêu vẹo sẽ ảnh hưởng
đến cột sống sau này. Nên vẫn còn tình trạng rất nhiều HS ngồi viết sai tư thế,
mà theo quan sát của tác giả thì có một số lượng không nhỏ. Đây là một thực
trạng cần phải khắc phục ngay để tránh những hậu quả đáng tiếc sau này.
Đối với HS tiểu học, tư duy còn thiên về trực quan cụ thể, những gì nhìn
thấy, nghe thấy sẽ giúp HS nhớ tốt hơn và hứng thú hơn. Bởi vậy, đồ dùng trực
quan là yếu tố quan trọng không thể thiếu trong giờ học. Để biết các thầy (cô) đã
sử dụng đồ dùng trực quan nào trong giờ luyện viết chữ, tôi có đưa ra câu hỏi:
“Khi luyện viết chữ, thầy cô thường sử dụng những đồ dùng trực quan nào?” và


18
thu được kết quả sau: 100% GV thường xuyên sử dụng bảng gài và 100% GV sử
dụng tranh mẫu chữ. Bởi đây là đồ dùng chủ yếu mà bất kì giờ luyện viết chữ
nào GV cũng cần khai thác. Bảng phụ dùng trong giờ luyện viết chữ sử dụng để
GV viết câu ứng dụng. Mục đích của việc sử dụng bảng phụ là giúp HS dễ quan
sát hơn, lớp học tập trung hơn và góp phần tích cực vào việc luyện viết cho HS.

Tuy nhiên chỉ có 46,7% GV trả lời là sử dụng bảng phụ trong giờ luyện viết chữ,
con số này tương đối ít vì thông thường GV sẽ viết trực tiếp lên bảng lớp. Như
vậy, có thể thấy rằng việc sử dụng đồ dùng trực quan trong luyện viết chữ ở
Trường Tiểu học Đông Hưng 1 mặc dù đã được GV chú ý song vẫn chưa được
coi trọng một cách đúng mực. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc nâng
cao hiệu quả luyện viết chữ cho HS. Việc sử dụng phương pháp dạy học sao cho
hiệu quả cũng là một vấn đề đáng lưu ý. Để khảo sát vấn đề này, tôi có đưa ra
câu hỏi: “Khi dạy Tập viết thầy (cô) thường sử dụng phương pháp dạy học
nào?” và có tới 100% GV trả lời thường xuyên sử dụng những phương pháp
như: trực quan, đàm thoại gợi mở và phương pháp luyện tập. Đây là tín hiệu
đáng mừng, tuy nhiên việc vận dụng những phương pháp này vào dạy học sao
cho có hiệu quả mới là vấn đề lớn. Vì vậy, trong giờ luyện viết chữ GV phải lựa
chọn và sử dụng linh hoạt, có thể kết hợp các phương pháp để tăng tính hấp dẫn,
hiệu quả cho giờ học.
Để nâng cao chất lượng chữ viết cho HS thì ngoài việc luyện viết trong giờ
Tập viết cần thường xuyên chú ý rèn luyện kỹ năng viết cho HS khi có điều kiện
thuận lợi. Để biết được GV đã thực hiện việc dành thời gian luyện chữ cho HS
ra sao, tôi có đưa câu hỏi: “Ngoài giờ Tập viết, thầy (cô) còn luyện viết cho HS
khi nào?” và đã có 83,3% GV trả lời là luyện viết trong giờ truy bài, có 66,7%
GV trả lời là luyện thêm cho HS vào tiết sinh hoạt tập thể, còn lại số ít chiếm 6,7%
GV đã dành việc luyện viết trong các môn học khác. Luyện viết trong các môn học
khác ở đây được hiểu là sự kết hợp thường xuyên giữa yêu cầu về chữ viết với sự
nhận thức các kiến thức khoa học của các môn học đó. Với những GV lựa chọn
phương án này khi được hỏi trực tiếp thì đều trả lời là có dành cả thời gian luyện
viết ở cả những giờ trên. Như vậy, có thể thấy thầy (cô) trong nhà trường dù ít dù
nhiều cũng đã dành sự quan tâm đến việc luyện viết chữ cho HS.
Khi phỏng vấn các GV đang trực tiếp giảng dạy lớp 3 về những khó khăn của
HS khi luyện viết chữ, tôi thu nhận được một số ý kiến như sau:
Thầy Nguyễn văn Hưng, GV chủ nhiệm lớp 3A6 cho rằng: “Khi luyện
viết chữ học sinh thường lúng túng khi viết liền nét, đặc biệt là nối liền nét

không thuận lợi”.


19
Khi chúng tôi hỏi về khả năng viết của những HS người dân tộc thiểu số, cô
Nguyễn Thị Xuân, GV chủ nhiệm lớp 3A2 cho rằng: “Nhìn chung học sinh
người dân tộc thiểu số trong trường cũng có trình độ và khả năng viết tương
đương các học sinh người Kinh, chỉ có một số học sinh sống xa gia đình, ít được
sự quan tâm chỉ bảo nên khả năng viết còn yếu hơn. Vì vậy, chúng tôi phải luyện
cho các em nhiều hơn”.
Khi tìm được khó khăn, tiếp theo cần phải đề cập đến đó chính là đề xuất các
biện pháp khắc phục. Khi được hỏi về vấn đề này, bằng kinh nghiệm thực tế
giảng dạy nhiều năm các thầy cô đã đóng góp một số biện pháp đó là việc luyện
viết chữ cho HS luôn cần đảm bảo về điều kiện ánh sáng, phòng học, bàn ghế
của HS.
Nhìn chung, trong quá trình điều tra thực trạng luyện viết chữ cho HS lớp 3
Trường Tiểu học Đông Hưng 1, tôi nhận thấy các thầy (cô) đều hiểu rõ tầm quan
trọng của việc này. Song nhiều GV lại chưa thực sự coi trọng việc luyện viết
bằng việc luyện các kỹ năng khác như: kỹ năng đọc, làm tính toán… Vì thế chưa
thực sự đầu tư thời gian tâm huyết khơi gợi hứng thú cho HS trong việc luyện
viết chữ.

Tiểu kết
Tập viết là phân môn quan trọng nằm trong chương trình dạy học môn Tiếng
Việt ở Tiểu học. Phân môn Tập viết ở tiểu học đã thực hiện việc hình thành kỹ
năng viết chữ cho HS, đồng thời cung cấp cho HS một số kiến thức cơ bản về
chữ viết và kỹ thuật viết chữ. Qua việc luyện viết, GV có điều kiện định hướng
việc cho HS luyện viết theo các kiểu chữ khác nhau như luyện viết chữ nghiêng,
nét thanh nét đậm. Bằng quá trình thực tiễn, tác giả đã tiến hành tìm hiểu thực
trạng luyện viết và nhận thấy rằng: luyện viết nói chung và sự hiểu biết của GV

và phụ huynh HS về vấn đề luyện viết chữ cho HS tiểu học còn chưa sâu sắc,
đôi khi còn đánh giá thấp vai trò này. Mặt khác, đối tượng HS lớp 3 rất hiếu
động, khả năng tập trung chú ý chưa cao, sự dẻo dai của cánh tay còn yếu
Theo điều tra khảo sát cho thấy tỉ lệ đúng về viết liền nét, đúng độ cao, đúng về
vị trí dấu thanh vẫn còn chiếm SL khá khiêm tốn. Chính vì vậy, đã dẫn đến thực
trạng chữ viết của HS lớp 3 còn chưa đẹp, tốc độ viết còn chậm, đa phần HS
chưa được luyện viết thêm và chất lượng chữ viết trong nhà trường còn thấp là
điều không tránh khỏi.

×