Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Phân tích nguyên nhân cuộc khủng hoảng tài chính ngân hàng mỹ năm 2008 các biện pháp ứng phó đưa ra tác động đến nền kinh tế thế giới và nền kinh tế việt nam như thế nào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.73 KB, 41 trang )

ĐỀ TÀI:
Phân tích nguyên nhân cuộc khủng hoảng tài chính – ngân
hàng Mỹ năm 2008. Các biện pháp ứng phó đưa ra? Tác
động đến nền kinh tế thế giới và nền kinh tế Việt Nam như
thế nào?

1


Danh sách thành viên nhóm :
1.

Vũ Ánh Nguyệt

2.

Lê Thị Thu Hiền

3.

Lê Thị Thu Hạnh

4.

Trần Trọng Đức

5.

Trịnh Xuân Lập

6.



Nguyễn Thị Minh Hiếu

7.

Nguyễn Thanh Thuỳ

8.

Nguyễn Tài Dũng

9.

Tạ Thị Thu Hương

10.

Lã Thị Kim Thoa

11.

Nguyễn Thị Tươi

12.

Hoàng Thị Thuý

13.

Phạm Minh Tâm


Lớp : KTH – K9

2


Mục lục:
Phần một: Lời mở đầu:

1. MỘT SỐ CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
TRONG LỊCH SỬ:

1.1.Một số cuộc khủng hoảng tài chính lớn đã xảy ra trên
TG
1.2. Cuộc đại khủng khoảng kinh tế Mỹ năm 1929:
1.3. Bài học cho ngày nay:

2. KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG Ở
MỸ NĂM 2008:
Phần hai:
Tìm hiểu
về khủng
hoảng tài
chính Mỹ
và vấn đề
liên quan

2.1. Ngun nhân của cuộc khủng hoảng:
2.2. Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính- ngân hàng
Mỹ 2008:

2.3.Hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính trên đất Mỹ
2.4. Những giải pháp ứng phó :
2.4.1Những giải pháp của chính phủ Mỹ:
2.4.2. Những giải pháp bên ngồi nước Mỹ:

3. TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH MỸ3. TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG
HOẢNG TÀI CHÍNH MỸ:

3.1. Tại Mỹ :
3.2. Tác động của khủng hoảng tài chính tại Mỹ đến nền
kinh tế thế giới:
3.3.Tác động của khủng hoảng tàichính Mỹ tới Việt Nam.

4. DỰ ĐỐN TƯƠNG LAI CUỘC KHỦNG
HOẢNG TÀI CHÍNH –NGÂN HÀNG Ở MỸ

3


Phần ba: Kết luận.

Phần một: Lời mở đầu:
Nền kinh tế vốn dĩ biến động không ngừng, trong mối quan hệ mật thiết với tất cả
các lĩnh vực khác như văn hố, xã hội, chính trị, an ninh, quốc phịng, giáo dục, y tế…
kinh tế giữ vai tro quan trọng và chi phối.
Trong thời đại hội nhập kinh tế, các nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới được
gắn kết với nhau để cùng hợp tác và phát triển. Tuy vậy, chính vì sự tương quan này cũng
là lý do mà “1 nền kinh tế biến động kéo theo hàng loạt sự biến động của các nền kinh tế
khác trên thế giới như một hiệu ứng dây chuyền”. Sự biến động kinh tế là không tránh

khỏi trong một chu kỳ kinh tế, có khi tăng trưởng, có khi lạm phát,có khi lại suy thối.
Con người có thể dự đốn được nhưng chỉ có thể đưa ra các giải pháp ứng phó sao cho
hạn chế mức tối đa tác động xấu và phát huy tối đa lợi thế cơ hội.
Khi một nền kinh tế nhỏ biến động mạnh, hầu như không ảnh hưởng tới các nền
kinh tế trên thế giới. Song,nếu thay vào đó là một nền kinh tế vững mạnh như Nhật Bản,
Mỹ, Pháp, và một số nước Châu Âu…, sẽ không phải là 1 nước mà là hàng loạt,hay có
thể là cả nền kinh tế thế giới cũng trở nên bất ổn theo…
Như tất cả chúng ta đã biết, nền kinh tế Mỹ siêu cường trên thế giới. Thời gian gần
đây, trên khắp các phương tiện thông tin đại chúng đều ngập tràn những thông tin về cuộc
khủng hoảng Tài chính- Ngân hàng ở Mỹ. Đúng vậy, cả một nền kinh tế siêu cường và
vững chắc vào bậc nhât trên thế giới vì sao lại lâm vào khủng hoảng,phải gọi là Đại
Khủng Hoảng…rồi biết bao nhiêu nền kinh tế của các quốc gia khác đều điêu đứng…??
Để trả lời cho tất cả các câu hỏi đã đưa ra cũng như những “thắc mắc khôn tên” của
các bạn - những người đã biết hay chưa biết rõ về, chúng tơi với kiến thức chun ngành
cịn hạn chế vẫn muốn chia sẻ những thơng tin đã tìm tịi tương đối kỹ lưỡng để mọi
người cùng thảo luận.
Đây là một sự kiện phức tạp và khó giải quyết, đến các chuyên gia kinh tế cũng
không thể khẳng định được chắc chắn điều gì, vì vậy đề tài này chỉ dừng lại trên góc độ
quan sát, đánh giá là chủ yếu, ngồi ra cũng nêu ra những giải pháp đang được áp dụng
tầm vĩ mô hiện nay dựa trên cơ sở số liệu, thơng tin cơng bố chính thức. Rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến từ phía các thầy cơ giáo bộ môn, những giáo sư tiến sĩ đầu
ngành, cùng toàn thể các bạn sinh viên tham gia thảo luận để nhóm chúng tơi hồn chỉnh
nhận thức cũng như bài làm của mình.
Xin chân thành cảm ơn !

4


Phần hai: Tìm hiểu về khủng hoảng tài chính
Mỹ và vấn đề liên quan

I/ MỘT SỐ CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
TRONG LỊCH SỬ:
Trong suốt 3 thập kỷ vừa qua, nền kinh tế thế giới gặp rất nhiêu bất ổn. khủng
hoảng kinh tế, lạm phát, …xảy ra để lại hậu quả lớn ảnh hưởng tới không chỉ nền kinh tế
của một quốc gia xảy ra biến cố kinh tế, mà hơn cả vậy, hàng loạt các nền kinh tế của các
quốc gia khác chịu ảnh hưởng liên quan, cũng đa phần gây ra hiệu ứng Domino trên toàn
nền kinh tế thế giới. Trước khi tìm hiểu về cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính Mỹ 2008,
chúng ta lướt qua những cuộc khủng hoảng lớn trong 3 thập kỷ gần đây:

1.1.Một số cuộc khủng hoảng tài chính lớn đã xảy
ra trên TG:
Khủng hoảng nợ Mỹ Latinh (đầu thập niên 1980), KHủng hoảng Bảng Anh (1992),
Khủng hoảng Peso Mexico (1994),Khủng hoảng tài chính Nga (1998), Khủng hoảng nợ
Argentina (1999-2002), Khủng hoảng tài chính châu á (1997)
Trong đó điển hình là:

♣ Khủng hoảng nợ Mỹ Latinh (đầu thập niên 1980)
Trong đầu thập niên 80, các nước vay nợ, đặc biệt là ở châu Mỹ La-tinh, có số nợ
và trách nhiệm thanh tốn (nợ gốc cộng lãi) ngày một gia tăng. Tỷ lệ nợ dài hạn trên GNP
của các nước châu Mỹ La-tinh tăng từ 18% năm 1970 lên 25% năm 1980 và tới 60% vào
giữa thập niên 80, trong đó so sánh giá trị trả nợ gốc và lãi với thu nhập từ xuất khẩu
hàng hóa, dịch vụ, lên tới gần 50%.Và các quốc gia này bắt đầu gặp khó khăn trong việc
tạo đủ nguồn thu ngân sách và ngoại tệ để thanh toán nợ và lãi. Đến năm 1982 và 1983
tổng giá trị những món nợ cịn đọng lại của các nước kém phát triển đối với các angân
hàng thương mại đã tăng lên gần ba lần từ 160 tỷ đô la năm 1979 lên gần 460 tỷ đô la
năm 1983. Từng tháng một số các nước gặp khó khăn về trả nợ cứ đông thêm. Nhiều
nước nhập khẩu dầu lửa thuộc các nước kém phát triển mà ban đầu đã vay nhiều (19741975), đến năm 1979 và 1981 lại vay thêm nữa phải đối phó với việc tăng giá dầu từ 3 đô
la /thùng lên tới gần 36 đô la trong khoảng thời gian đó.

5



Song với sự phát sinh tình hình suy thối sâu sắc trên thế giới vào đầu những năm
1980 cùng với những chính sách bảo hộ mậu dịch lại dấy lên ở các công nghiệp nên khả
năng trả nợ của những nước ấy càng giảm sút mạnh, kim ngạch xuất khẩu của họ cũng
sụt xuống. Đối với toàn bộ các nước kém phát triển tỷ số giửa nợ và xuất khẩu đã lên đến
131% và tỷ số giữa khoản nợ trả được và suất khẩu (trã lãi và hoàn trả cả vốn) tính theo
phần trăm chỉ có 19% kim ngạch xuất khẩu.Bầu khơng khí “khủng hoảng nợ” lan tràn
vào năm 1982 và 1983; những nước vay nợ nhiều như Argentina và Brazil dường như đã
gần đến chỗ lụn bại.Những yếu tố này về cơ bản đã làm thay đổi quan điểm cho vay
trong tương lai của các ngân hàng và các cơ quan tài chính khác. Sự thay đổi đầu tiên là
các ngân hàng đã sẳn sàng hơn trong việc đồng ý cho hoãn trã nợ theo kế họach đã định
đối với các con nợ là các nước kém phát triển.
Cuộc “khủng hoảng nợ” rõ ràng đã gây thêm nhiều khó khăn nghiêm trọng cho một
số lớn nước kém phát triển. Vào năm 1986, hiệu ứng “cánh kéo” mạnh mẽ giữa tỷ lệ số
nợ phải trả cứ leo thang trong khi luồng vốn cho vay mới giảm sút đã mở rộng thêm
luồng ngoại tệ cần chi ra để trả nợ, đã lấy đi những khoản tích lũy lẽ ra đã dùng để đầu tư
trong nước, hay để thanh toán những khoản nhập cần thiết nhằm hỗ trợ cho việc phục hồi
kinh tế của các nước kém phát triển đã trả một khoản tương đương với 50 tỷ đôla chỉ
riêng về tiền lãi suất cho các chủ nợ nước ngoài năm 1985; số tiền này cịn lớn hơn chừng
22 tỷ đơla so với số tiền cho vay mới mà họ đã nhận được trong năm đó
Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng:
Cho đến nay vẫn tồn tại những bất đồng ý kiến về việc cái gì là nguyên nhân cơ bản
dẫn đến khủng hoảng nợ nần. Một số người, trong đó có nhiều quan chức chính giới tại
các nước kém phát triển cho rằng nguyên nhân chủ yếu là do các chủ ngân hàng quốc tế.
Người ta thường thấy rằng dưới sức ép của các khoản tiền gửi ngày một tăng lên từ phía
các nước xuất khẩu dầu lửa trong thời gian từ 1973 đến 1981, các ngân hàng đã buộc phải
tìm cho ra các con nợ để cho vay, đôi khi phải cho chính phủ của các nước chậm phát
triển vay những khoản rất lớn sau khi chỉ xem xét qua quýt về triển vọng trả nợ của họ.
Nguyên nhân quan trọng làm cho các chủ ngân hàng không quá lo ngại về khả năng trả

nợ nhà nước do chính phủ của các nước chậm phát triển đứng ra vay.Khác với những
khoản nợ thông thường giữa các cá nhân là những khoản nợ có thể thu hồi dựa trên cơ sở
luật pháp, nợ của các chính phủ đứng ngồi luật pháp của một nước. Nó hồn tồn dựa
vào lịng tin và sự tín nhiệm đối với chính phủ đi vay.Nợ nhà nước là phần trách nhiệm
của tồn thể đất nước, khơng phụ thuộc vào thành công hay thất bại của một hoạt động
riêng lẻ nào được tài trợ bằng khoản tiền cho vay.
Hậu quả:
Tác động của những biến động mạnh mẽ về giá dầu lửa thế giới đối với các khoản
nợ và trả nợ. Cuộc suy thoái sâu sắc trên đã làm giảm sút các khoản thu nhập xuất khẩu
của nhiều nước mắc nợ, dẫn đến nhiều nước khơng cịn cách lựa chọn nào khác ngồi
việc trì hỗn trả nợ. Sự tăng vọt về lãi suất cho vay thực tế ở Mỹ và trên khắp thế giới rõ
ràng là một nhân tố quan tọng mở đầu cho cuộc khủng hoảng nợ. Lãi suất cho vay thực tế

6


càng cao, thì các nước kém phát triển là con nợ càng phải có nhiều nguồn nhân tài vật lực
để mà trở nợ

♣ Khủng hoảng Bảng Anh (1992)
Mặc dù đã gia nhập Cộng đồng kinh tế Âu Châu (ECC) từ tháng 4/1970 và đã kí
hiệp định EMS nhưng nước Anh lại quyết định không tham gia hệ thống tỉ giá hối đoái
của ECC. Theo thể thức EMS, tỷ giá hối đối của các nước thành viên được duy trì trong
các giới hạn cụ thể và cũng ràng buộc với đơn vị tiền tệ Châu Âu và các đồng tiền của
các nước thành viên này đều được neo theo đồng Mark Đức đồng thời có thể dao động
khơng q 2,25% ( trừ Ý là 6%). Nhưng đến tháng 10/1990, Anh quyết định gia nhập
ERM cùng với sự đảm bảo của Chính Phủ là sẽ theo đuổi một chính sách kinh tế và tiền
tệ sao cho có thể phịng ngừa được những biến động về tỷ giá giữa đồng Bảng và đồng
tiền của các nước khác thuộc ERM trong một biên độ giao động tỷ giá là 6%. Lúc này,
đồng Pound được neo ở mức 1GBP= 2.95 DEMneo ở mức 1GBP= 2.95 DEM.

Sau khi bức tường Berlin sụp đổ ngày 9/11/1989, hai miền Đông và Tây Đức được
thống nhất cả về địa lý lẫn chính trị và đồng Mark của Tây Đức được chọn là đồng tiền
chung cho đất nước. Vào thời điểm đó, 1 đồng Mark của Tây Đức đổi được 4 đồng Mark
của Đơng Đức. Tình hình lạm phát tại Đức tăng cao do người dân ở Đông Đức đổ xô đi
đổi tiền Tây Đức. Để tránh sự ảnh hưởng của lạm phát cao đến nền kinh tế mới được
thống nhất, NHTW Đức đã quyết định tăng lãi suất đồng Mark lên cao và duy trì lãi suất
cao này trong một thời gian dài. Khi đồng Bảng Anh neo giá cố định theo đồng Mark
Đức thì hiện tượng lãi suất cao tại Đức đã góp phần làm cho giá trị thực của đồng Bảng
bị giảm sút nghiêm trọng.Cũng chính điều này đã gây rất nhiều khó khăn cho NHTW
Anh trong việc duy trì tỷ giá hối đối cố định
Ngun nhân khủng hoảng:
Cơ chế tỷ giá ERM được xem là “cơ chế tỷ giá bị trườn” khi mà nó dựa trên một tỷ
giá trung tâm, được tính tốn dựa trên tỷ giá bình qn gia quyền của tỷ giá hối đối của
các nước thành viên với quyền số được ấn định dựa trên tổng sản phẩm quốc dân và hoạt
động mậu dịch nội bộ châu Âu tương ứng của các nước thành viên trong khi giới hạn tỷ
giá đồng tiền của các nước thành viên dao động trong một biên độ hẹp ( 2.25%, trừ Ý và
Anh là 6%). Khi có biến động bởi nền kinh tế Đức hồi phục quá nhanh đã làm rối loạn
tiền tệ của cơ chế này và tỷ giá trung tâm phải điều chỉnh thường xuyên khiến cho nó trở
nên mất ổn định.
Các biện pháp chống đỡ của NHTW Anh
Ngân hàng trung ương Anh phải chuẩn bị sẵn sàn mua vào một lượng đồng bảng
Anh dư thừa trên thị trường bằng việc bán ra đồng DEM từ kho dự trữ của mình.Nhưng
do lượng DEM dự trữ không đủ để đáp ứng nhu cầu thị trường nên đầu tháng 9/1992,
NHTW Anh vay thêm một khoản khổng lồ là 20 tỉ DEM nhằm đáp ứng nhu cầu thị
trường và bảo vệ tỷ giá cố định so với đồng DEM của đồng Bảng Anh. Không may là các
lực thị trường q mạnh, làn sóng tấn cơng của các nhà đầu cơ vẫn dâng lên rất cao cùng
với việc NHTW Đức không muốn tung thêm đồng DEM ra thị trường ngoại hối vì muốn

7



kìm giữ mức lạm phát trong nước đã khiến cho mọi cố gắng chống đỡ của NHTW và
Chính phủ Anh bằng biện pháp can thiệp trực tiếp và thị trường ngoại hối trở nên vô hiệu
Lúc này, NHTW Anh nghĩ đến biện pháp thứ hai là tăng lãi suất cho đồng Bảng.
Điều này đã khiến cho canh bạc tiền tệ trở nên đắt đỏ hơn đối với các nhà đầu cơ khi mà
họ vẫn sẵn sàng từ bỏ lãi suất cao cho đồng Bảng Anh để nắm giữ đồng Mark bởi lãi suất
tăng quá cao lại thể hiện rõ hơn sự bất lực của Chính Phủ và NHTW Anh trong việc giải
quyết khủng hoảng, càng làm tăng rủi ro cho những ai nắm giữ đồng Bảng. Chính vì vậy
mà cố gắng cuối cùng của chính phủ và NHTW Anh vẫn thất bại khiến cho họ đi đến
quyết định thả nổi đồng Bảng

♣Khủng hoảng tài chính châu á(trung tâm là Đơng Á) (1997)
Một trong những yếu tố căn bản dẫn đến cuộc khủng hoảng là tình trạng xấu đi
nhanh chóng của bảng cân đối kế toán ngân hàng mà nguyên nhân trực tiếp là từ những
khoản vay khơng có khả năng thanh toán ngày càng tăng. Khi những quốc gia, đặc biệt ở
khu vực Đông Á, bắt đầu nới lỏng các quy định với thị trường tài chính vào đầu những
năm 1990, một làn sóng vay dâng lên rất cao, trong đó, hoạt động cho vay tín dụng với
các khu vực kinh doanh phi tài chính tư nhân tăng đặc biệt nhanh. Cũng đồng thời do khả
năng giám sát yếu của các cơ quản điều hành pháp lý ngân hàng, bản thân ngân hàng
thiếu chuyên gia trong việc theo dõi và giám sát hành vi của đối tương vay, những khoản
lỗ do nợ xấu bắt đầu tăng lên, tác động tiêu cực đến cả nguồn vốn thực của ngân hàng.
Nguồn lực bị bào mịn, ngân hàng khơng cịn đủ khả năng cho vay, khi hoạt động cho vay
khơng cịn được tiếp tục, các hoạt động của nền kinh tế bị thu hẹp là điều dễ hiểu và tất
yếu.Hệ thống ngân hàng của các quốc gia Đơng Á cịn phải đối mặt với một vấn đề trầm
trọng khác là khối lượng rất lớn những khoản nợ ngắn hạn bằng ngoại tệ, trong khi đồng
tiền trong nước bị phá giá, giá trị của những khoản nợ này tăng lên vùn vụt, điều này tiếp
tục làm tiêu hao đi lượng tài sản thực đang cịn rất ít của các ngân hàng.
Cơn khủng hoảng "Đơng Á" đã lan truyền toàn cầu khắp Châu Á và gây gây ảnh
hưởng đến tiền tệ, thị trường chứng khoán và giá cả tài sản khác của các nền kinh tế ở
Đơng Nam Á và có những tác động lớn lan rộng đến cả các nước như Nga, Brasil và Hoa

Kỳ.Cuộc khủng hoảng đã làm các nhà đầu tư phương Tây mất tin tưởng vào sự an tồn ở
Đơng Á và bắt đầu rút vốn về, tạo ra một hiệu ứng domino (rút tiền ồ ạt).
Trong tình trạng đó, lẽ ra toàn bộ hệ thống ngân hàng của các nước Đơng Á đã có
thể sụp đổ nếu khơng có sự hỗ trợ từ phía Chính phủ nhưng khơng phải với nội lực của
từng quốc gia mà nhờ sự giúp đỡ của IMF (Quỹ Tiền tệ Quốc tế), nhờ sự giúp đỡ này mà
các quốc gia Đông Á tránh được một vụ sụp đổ với hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, với
lượng vốn mà các ngân hàng đã mất thì sự can thiệp của Chính phủ nhằm chống đỡ cho
hệ thống ngân hàng cũng không thể ngăn được năng lực cho vay của các ngân hàng sụt
giảm mạnh. Khủng hoảng của hệ thống ngân hàng với những đặc tính như mơ tả tạo lên
một rào cản và gây khó khăn đối với các họat động cho vay của ngân hàng, làm trầm
trọng thêm các vấn đề về lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trên thị trường tài chính,
ngân hàng mất dần vai trò truyền thống trung gian tài chính.

8


1.2. Cuộc đại khủng khoảng kinh tế Mỹ năm 1929:
Đại Khủng Hoảng năm 1929 xảy ra cách đây gần 80 năm. Nhiều chuyên gia cho
rằng có sự tương đồng giữa cuộc khủng hoảng hiện nay và hỗn loạn thời 1929.
Tháng 10/1929, cổ phiếu trên phố Wall sụt giảm mạnh sau thời kỳ tăng trưởng bùng
nổ những năm 1920.Chỉ trong hai ngày, chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm 25% (kết
thúc vào ngày thứ Ba đen tối, 29/10/1929).Lượng giao dịch cổ phiếu trên sàn đạt mức kỷ
lục trong 40 năm.Trước khi hạ xuống mức thấp kỷ lục vào tháng 7/1932, chỉ số công
nghiệp Dow Jones đã hạ 89% và chỉ số này đã không thể hồi phục lại mức đỉnh cao hồi
năm 1929 cho đến mãi năm 1954.
Hiện nay người ta vẫn còn tranh luận với nhau rất nhiều về nguyên nhân của cuộc
Đại Khủng Hoảng này.Khi giá chứng khoán tăng gấp 4 lần trong thập kỷ trước, đã quá đủ
đặc điểm để nhận biết trên thị trường đang hình thành bong bóng.Hoạt động đầu cơ với
quy mơ lớn hình thành nhiều vào những năm 1920. Chỉ trong năm 1929, đã có một lượng
cổ phần kỷ lục l1,124,800,410 được giao dịch trên sàn NYSE. Từ đầu năm 1928 đến

tháng 9 năm 1929, chỉ số công nghiệp Dow Jones tăng từ 191 điểm lên 38139 điểm.
Khơng một nhà đầu tư nào có thể bỏ qua mức lợi nhuận như vậy.
Chuyên viên ngân hàng đầu tư, nhà môi giới, chuyên viên giao dịch và đơi khi cả
người sở hữu chứng khốn hợp lại với nhau để kéo giá chứng khoán để rồi sau đó xả ra
khi đã kiếm được lời. Mánh khóe mà họ thường sử dụng là khéo léo mua đi bán lại lẫn
nhau một loại chứng khốn ít được quan tâm, mỗi lần giao dịch, họ lại đẩy giá lên một
chút.
Người Mỹ xếp thành hàng dài chờ nhận đồ cứu tế ở thành phố New York năm
1932. Việc đầu cơ chứng khoán tăng cao trong năm 1929.Ngân hàng Trung ương đã hạ
lãi suất xuống mức thấp chưa từng có trong 7 năm.
Cuộc Đại Khủng hoảng của Mỹ năm 1929-1933 có nguyên nhân lớn từ sự sụp đổ
của hệ thống ngân hàng. Một số nhà nghiên cứu tài chính cho rằng, trong giai đoạn 19291933 lẽ ra Mỹ chỉ phải trải qua một cuộc suy thối nhẹ theo đúng qui trình của chu kỳ
kinh tế lúc đó nếu FED đã khơng mắc sai lầm là phản ứng quá chậm trong việc giải cứu
các ngân hàng.

►Tác động của cuộc khủng hoảng?
Khi giá chứng khoán giảm mạnh, các nhà đầu tư bỏ nhiều tiền vào chứng khoán
nhận thấy mức lỗ khủng khiếp của họ và phát hoảng. Thực tế đã có người tự tử để thốt
khỏi nỗi đau tài chính. Khi sự trì trệ và sụp đổ lan ra các ngành khác ở Hoa Kỳ, số người
thất nghiệp lên tới 13 triệu. Cuộc Đại Khủng Hoảng trên phố Wall tác động lớn tới tăng
trưởng kinh tế Mỹ và cuối cùng ảnh hưởng của nó lan ra toàn thế giới.Kinh tế Mỹ sụt
giảm mạnh, tỷ lệ thất nghiệp lên mức 25%, và còn nhiều người khác bị cắt giảm giờ làm
việc. Sản lượng công nghiệp giảm 45% từ năm 1929 tới năm 1932 Số nhà xây mới giảm
80% từ năm 1929 tới năm 1932. Từ năm 1929 tới năm 1932, 5.000 ngân hàng phá sản.
9


Hệ thống ngân hàng Mỹ chấn động mạnh, hành động đầu tiên của tổng thống
Roosevelt khi bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống là đóng cửa tất cả các ngân hàng trong hai
tuần để quan chức thuộc FED kiểm tra sổ sách các ngân hàng.Khơng có trợ cấp thất

nghiệp của chính phủ, lương công nhân ngày một hạ, ngày một nhiều nhà máy đóng cửa.
Phần lớn các nhà quan sát tin rằng các nhà hoạch định chính sách kinh tế đã khiến
cuộc khủng hoảng trở nên trầm trọng hơn bằng việc thắt chặt chính sách tiền tệ và cân
bằng ngân quỹ khi khủng hoảng diễn biến xấu..

►Những giải pháp nào đã được đưa ra?
Mọi thứ chỉ thay đổi sau khi tổng thống Franklin D Roosevelt lên làm tổng thống
năm 1932, chính phủ can thiệp vào để khởi động lại chương trình trợ cấp thất nghiệp cho
người dân, ổn định thị trường bằng cách hạn chế sản xuất, khuyến khích phát triển
chương trình an sinh xã hội.Tuy nhiên, chính quyền của ơng Roosevelt khơng có nhiều
thành cơng trơng hồi phục tăngtrưởng kinh tế và lòng tin người tiêu dùng vẫn ở mức thấp.
Cuối cùng, cuộc Đại Khủng Hoảng kéo dài bất chấp một loạt các biện pháp mới
nhằm giảm nhẹ thiệt hại cho người dân, cụ thể là cung cấp thêm việc làm mới, hỗ trợ hay
bảo vệ các khoản thế chấp. Mãi đến đầu Chiến tranh Thế giới thứ Hai, khi chính phủ Mỹ
áp dụng lý thuyết kinh tế học Keynes với trọng tâm chính là nêu bật vai trị tăng trưởng
tiền lương (để tăng tổng cầu) và vai trò của nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế, nền
kinh tế mới hồi phục.Sản lượng sản xuất tăng gấp đôi trong chiến tranh, tình trạng thất
nghiệp biến mất khi phụ nữ và người da đen được kêu gọi tham gia vào lực lượng lao
động thay cho hàng triệu người đã tham gia vào quân ngũ.Vào lúc đỉnh cao, chính phủ
Mỹ đã vay nợ một nửa tiền cần thiết để có tiền chi trả cho chiến tranh.

1.3. Bài học cho ngày nay:
Người Mỹ lâu nay vốn khơng quen với suy thối kinh tế, đặc biệt là không hề thoải
mái chút nào với việc phải tiêu dùng ít đi. Trong 25 năm qua, nền kinh tế lớn nhất thế
giới này đã phải trải qua hai lần suy thối đó là thời kỳ 90-91 và năm 2001. Có ba bài học
mà các nhà hoạch định chính sách nên rút ra và áp dụng để giải quyết cuộc khủng hoảng
hiện nay:
►Bài học thứ nhất là thị trường tài chính, ngân hàng và nền kinh tế các nước có
liên hệ mật thiết, vì thế những vấn đề còn tồn tại trong lĩnh vực này sẽ ảnh hưởng đến
nhiều lĩnh vực khác.

►Bài học thứ hai là các chính phủ nên can thiệp nhanh chóng và chủ động khi kinh
tế khủng khoảng. Việc chính phủ Mỹ và các ngân hàng trung ương chậm chạp can thiệp
những năm 1930 khiến cuộc khủng hoảng ngày một tệ hại..
►Thứ ba, có nguy cơ khoảng trống về chính sách giữa hai nhiệm kỳ tổng thống .
Năm 1933, khủng hoảng ngành ngân hàng Mỹ diễn biến xấu hơn trong khoảng thời gian
5 tháng giữa khoảng thời gian cuộc bầu cử hoàn thành và tổng thống mới nhận chức.

10


Mỗi cuộc khủng hoảng qua đi, người ta sẽ nghĩ nó đã kết thúc nhưng khơng phải.
Cho dù nền kinh tế được phục hồi hay bước sang giai đoạn mới, đó chỉ là sự phục hồi của
những con số đánh giá về tốc độ tăng trưởng, tỷ giá hối đoái hay thu nhập của nền kinh
tế… còn hậu quả đã, đang, và vẫn âm thầm ảnh hưởng tới mọi mặt của đời sống kinh tế văn hoá – xã hội của các quốc gia có liên quan thật khó thống kê, sẽ có thể là sự lu mờ
hay biến mất của những nhân tố kinh tế để chuyển giao sang một hình thái khác phù hợp
hơn... Dù biết khủng hoảng đem lại những tác hại khủng khiêp ở mức độ khác nhau,
nhưng ở mọi nền kinh tế vẫn diễn ra khủng hoảng mặc cho rất nhiều nỗ lực kiềm chế của
con người… đó là 1 giai đoạn trong chu kỳ kinh tế.

II/ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG Ở
MỸ NĂM 2008:

2.1. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng:
Yếu tố thứ nhất bắt đầu từ năm 2001, nhất là sau vụ khủng bố 11-9.cuộc khủng
hoảng tài chính hiện nay cũng bắt đầu từ đây. Đó là thời điểm mà FED đã bơm tiền vào
nền kinh tế của Mỹ và giảm dần lãi suất cơ bản từ mức 3,5% năm hồi tháng 8-2001
xuống còn 1% vào giữa năm 2003.
Theo mạng tin tài chính Bloomberg, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) sẽ cung cấp
thêm cho hệ thống tài chính trong nước 150 tỷ USD tiền mặt, như một chiếc phao nhằm
đảo bảo duy trì dịng tín dụng đủ để kinh tế tăng trưởng. Chủ tịch FED, B en Bernanke,

cũng cho biết nếu hệ thống tài chính cịn có nhu cầu, FED sẽ tiếp tục cung ứng tiền.
Giải pháp nới lỏng tiền tệ nhìn chung đã giúp cho việc vay tiền ngân hàng dễ dàng
hơn và hạ thấp chi phí trong phạm vi tồn bộ nền kinh tế nhưng đồng thời nó cũng làm
đồng tiền bị mất giá và dẫn tới lạm phát.
Yếu tố thứ hai là những khoản vay lãi suất thấp kích thích việc mua nhà. Vào thời
điểm 2006-2007, các ngân hàng thương mại và đầu tư đã tạo nới lỏng việc cho vay mua
nhà dành cho những đối tượng vay ít tin cậy. FED đã khơng kiểm sốt những thực tế
giống như “con dao hai lưỡi” này. Kết quả là bất kỳ ai cũng có thể vay tiền mua nhà, cho
dù họ ít có khả năng và thậm chí khơng có khả năng trả nợ.
Lãi suất thấp khiến nhiều người đổ xơ mua nhà đã thổi lên “bong bóng” địa ốc. Giá
nhà lên cao khiến các ngân hàng cảm thấy an tồn để đem tiền cho những người khơng có
khả năng trả nợ vay bởi các ngân hàng cho rằng, nếu những người vay không trả nợ
được, họ sẽ tịch thu nhà với giá trị đã được đẩy lên cao hơn. Mọi việc cứ suôn sẻ như vậy
chừng nào giá nhà vẫn tăng, nhưng một khi giá nhà lên đến đỉnh điểm và bắt đầu giảm,
các điều kiện cho vay bị thắt chặt, khi đó các ngân hàng bỗng thấy họ đang sở hữu những
ngôi nhà mà giá trị của nó khơng đủ bù đắp giá trị của các khoản vay. Người Mỹ tích cực
đi vay mua nhà ở cho dù lãi suất các khoản vay đã được đẩy lên rất cao vào những năm
11


2004–2005. Khi tình hình kinh tế khó khăn, giá nhà hạ mạnh. Từ cuối năm 2005, bong
bóng nhà ở bắt đầu xẹp hơi.
Năm 2007, sự điều chỉnh của thị trường nhà ở kéo dài hơn và ảnh hưởng tiêu cực
cũng lớn hơn so với dự tính hồi cuối năm 2005 đầu 2006. Các cá nhân gặp khó khăn
trong việc trả nợ. Nhiều tổ chức tín dụng cho vay mua nhà gặp khó khăn vì khơng thu hồi
được nợ.
▪ Khi nền kinh tế hoạt động không hiệu quả, lãi suất tăng tạo nên gánh nặng trả nợ
với những người thu nhập thấp, thất nghiệp gia tăng thì rủi ro cho vay nợ dưới chuẩn bị
ảnh hưởng nhanh nhất. Không trả được nợ, hàng loạt người mua nhà bị xiết nợ và phát
mại tài sản. Cleveland (Ohio) là thành phố đầu tiên châm ngịi cho cuộc khủng hoảng lan

rộng ra tồn nước Mỹ và thế giới. Theo số liệu thống kê, khoảng 1/10 số nhà tại
Cleveland bị thu hồi để phát mại. Những người nhập cư với giấc mơ mua nhà lại trở về
tay trắng. Giá nhà tại Mỹ giảm thảm hại trong Qúy 3 năm 2007, mức tồi tệ nhất từ cuộc
khủng hoảng tài chính năm 1930.
▪ Một số tổ chức tín dụng của Mỹ như New Century Financial Corporation phải
tuyên bố phá sản. Một số khác thì rơi vào tình trạng cổ phiếu của mình mất giá mạnh như
Countrywide Financial Corporation. Nhiều người gửi tiền ở các tổ chức tín dụng này đã
lo sợ và đến rút tiền khiến cho các tổ chức đó càng thêm khó khăn. Nguy cơ khan hiếm
tín dụng hình thành.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã tiến hành các biện pháp nhằm tăng mức độ thanh
khoản của thị trường tín dụng chẳng hạn như thực hiện nghiệp vụ thị trường mở mua vào
các loại công trái Mỹ, trái phiếu cơ quan chính phủ Mỹ và trái phiếu cơ quan chính phủ
Mỹ đảm bảo theo tín dụng nhà ở. Bắt đầu từ ngày 18/09/2007, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ
(FED) tiến hành giảm lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng để cứu thị trường, tổng
mức cắt giảm cho đến nay là 3%, mức lãi suất hiện nay là 2,25%.
Yếu tố thứ ba chính là câu trả lời cho câu hỏi vì sao cả một hệ thống tài chính hùng
mạnh bị điêu đứng khi mà những loại nợ tín dụng địa ốc (được hình thành do việc cho
vay tiền mua nhà) trên thị trường tài chính Mỹ chỉ khoảng 500 tỉ USD - một con số nhỏ
so với năng lực của thị trường?
Để trả lời câu hỏi trên, nhiều chuyên gia kinh tế phân tích: Trước hết phải bắt đầu
giải thích từ phép địn bẩy trong kinh doanh. Khi làm ăn có lời, ai cũng có thể nghĩ đến
việc vay thêm tiền để phát triển hoạt động. Người ta gọi đó là tác dụng địn bẩy nhờ tiền
đi vay. Nhưng khi đi vay thì phải có gì đó làm vật đảm bảo. Trong hệ thống tài chính Mỹ,
vật đảm bảo này nhiều khi là một gói nợ hay một tờ giấy nợ quy định một tài sản sẽ trở
thành lưu hoạt, thành tiền mặt, khi đến kỳ đáo hạn.
Tưởng tượng rằng gói nợ ấy là một “cái kén” có nhiều lớp, bên trong chứa nhiều
loại nợ tín dụng địa ốc. Cơng ty tài trợ địa ốc đã lấy tiền hoa hồng của khách sau khi nắm
lấy tờ giấy nợ, họ bán giấy nợ ấy cho một tổ hợp tài chính khác. Tổ hợp này gom các giấy
nợ đó thành gói như một cái kén, bên trong có đủ loại xấu tốt, và dùng đó làm tài sản cầm


12


thế để vay thêm tiền tiếp tục kinh doanh trong lĩnh vực khác. Các ngân hàng và tổ hợp
đầu tư tài chính đã trao đổi những “kén thối” ấy trong những quan hệ chằng chịt như tơ
vị mà khơng thể biết đích xác bên trong xấu, tốt ra sao. Các bản quyết tốn của ngân
hàng khi đó xuất hiện đầy những khoản cầm cố, được khoanh bằng những hình thức rất
phức tạp khiến cho việc đánh giá các nguy cơ trở nên vơ cùng khó khăn. Các cơng ty
chun về định giá tài sản cũng không rõ và lại định giá theo kiểu lạc quan.
Khi giá nhà lên đến đỉnh điểm, các khoản vay chậm lại và giá nhà bắt đầu hạ.
“Bong bóng” nhà nổ vào những tháng cuối năm 2007 và ngân hàng với những khoản cầm
cố lớn buộc phải công bố báo cáo về những khoản thất thu khổng lồ.
Sau khi thấy rõ giá trị thực của tài sản mình nắm giữ, khơng cịn ai muốn ơm lấy
những “kén thối” ấy nữa. Khủng hoảng tín dụng địa ốc dẫn tới khủng hoảng của thị
trường vay nợ là thị trường trái phiếu. Kết quả, những ngân hàng hay cơ sở tài chính
khơng có thanh khoản rơi vào hồn cảnh gọi là vỡ nợ kỹ thuật - có tài sản mà chưa thể
chuyển ra hiện kim vì là nợ chưa đáo hạn. Cộng thêm tâm lý dân chúng hốt hoảng vì sợ
ngân hàng vỡ nợ thì tiền ký thác của mình bị mất nên kéo nhau rút tiền, dẫn tới ngân hàng
bị phá sản như trường hợp của Bear Strams - một ngân hàng vào loại bậc nhất của thị
trường tài chính Mỹ.
Chính sách nới lỏng tiền tệ của FED, bắt đầu từ cuối năm ngoái để tránh suy giảm
kinh tế, nay lại gây ra lạm phát chứ không giúp nền kinh tế Mỹ phục hồi. Giá dầu, lương
thực và vàng tăng lên đến mức cao nhất trong lịch sử và đồng USD cũng mất giá đến
mức chưa từng có. Nhiều nhà phân tích đánh giá, nếu cứ tiếp tục đẩy mạnh chính sách
nới lỏng tiền tệ sẽ khó có thể ngăn chặn được nguy cơ sụp đổ.

Qua những bài nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế ở
Mỹ, còn quá sớm để rút ra bài học từ những chính sách này thì chúng
ta có thể nêu lên những câu hỏi mà cuộc khủng hoảng này đã cho thấy:
Thứ nhất, cuộc khủng hoảng này xảy ra do sự mất niềm tin vào những cơng ty xếp

hạng tín nhiệm. Điều này là do một số lượng lớn các khoản nợ được họ đánh giá cao thực
tế đã chứng minh điều ngược lại: đó là những khoản nợ này mang tính rủi ro cao và
khơng có khả năng chi trả. Hồn tồn có lý khi tranh luận rằng liệu có phải những thiếu
sót của các cơng ty xếp hạng tín nhiệm này bắt nguồn từ một phân tích yếu kém do những
cơng cụ phân tích mới phức tạp. Hoặc những cuộc xung đột do những người phát hành
trái phiếu đã "đi đêm" để đánh giá mức tín nhiệm của họ cao hơn. Và mức tín nhiệm cao
nhất hồn tồn có thể "mua bán".
Thứ hai, những người làm luật nên chú ý tới vấn đề khủng hoảng như thế nào
trong những tổ chức phi tài chính? Các ngân hàng có thể chấp nhận với sự xem xét chặt
chẽ hơn về sự đổ vỡ của hệ thống tài chính Mỹ để đổi lại việc được tiếp cận với hệ thống
chi trả và cho vay có chiết khấu của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ.

13


Vấn đề lần này không phải là chuyện các ngân hàng thiếu vốn hay khơng thể tự tìm
nguồn tài chính cho mình. Vấn đề là ở chính khả năng thanh tốn của một loạt các tổ
chức tài chính phi ngân hàng.
Điều này là do những lo ngại liên quan đến nền tảng kinh tế của những tổ chức này
và do việc các nhà đầu tư đổ xô đi bán trái phiếu khi họ cảm thấy mất niềm tin vào những
tổ chức tài chính này để cứu lấy khoản đầu tư của mình, chuyển chúng vào những khoản
đầu tư có tính thanh khoản cao hơn.
Các ngân hàng trung ương tìm cách tăng lòng tin của nhà đầu tư bằng cách cho các
ngân hàng vay, hoặc giảm chi phí vay. Điều này thực ra cũng chỉ như “gió vào nhà trống”
mà thơi ("pushing on a string"). Liệu việc bắt các ngân hàng phải trở thành những thực
thể tài chính cơng trong khoảng thời gian khủng hoảng có phải là một giải pháp khơn
ngoan hay khơng? Hay liệu có cần cho vay thêm hay tăng thêm các quy định áp đặt lên
các tổ chức tài chính phi ngân hàng hay khơng?
Thứ ba, vai trò của những nhà cầm quyền trong việc ủng hộ luồng tín dụng đối
với lĩnh vực nhà ở là gì? Sự sụp đổ của các quỹ tín dụng và tiết kiệm vào những năm

1990 là bài học xương máu cho việc cho phép sử dụng BĐS để bảo lãnh cho quyền sở
hữu cổ phiếu.
Các tổ chức tài chính ngân hàng được phép bảo lãnh phát hành - họ lại đi vay ngắn
hạn và sau đó đưa ra các khoản thế chấp nhà cố định dài hạn cho các nhà đầu tư. Hiện tại,
cả một hệ thống tài chính đang phải phụ thuộc vào việc chứng khốn hóa các doanh
nghiệp, thế chấp có lãi suất có thể điều chỉnh được và những tổ chức tài chính phi ngân
hàng khơng được đảm bảo đã phá sản
Đó là những nhóm nguyên nhân cơ bản và bao quát của cuộc khủng hoảng tài chính
Mỹ giai đoạn này. Chúng ta có thể xâu chuỗi chặng đường của cuộc khủng hoảng từ khi
nó bắt đầu đến thời điểm này trong phần diễn biến cuộc khủng hoảng:

2.2. Diễn biến cuộc khủng hoảng tài chính- ngân
hàng Mỹ 2008:
Hệ thống tài chính ngân hàng của Mỹ cuối năm 2007 và năm 2008 đột nhiên lâm
vào một trong những cuộc khủng hoảng chưa từng có. Hàng trăm tỷ USD đã tiêu tan. Sự
lây lan vẫn chưa chấm dứt, hậu quả vẫn chưa lường hết.
● Tháng 6/2007: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund - một loại quỹ có tính đại chúng
thấp và không bị quản chế quá chặt) của Bear Stearns - ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của
Mỹ - quỵ ngã sau khi đánh cược vào các chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản cho
vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ.

14


● Tháng 7 - Tháng 9/2007: Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng đầu tiên
tại châu Âu chịu ảnh hưởng bởi những khoản đầu tư xấu trên thị trường cho vay dưới
chuẩn ở Mỹ. Trong khi đó, Ngân hàng SachsenLB của Đức phải nhận sự cứu trợ từ chính
phủ.
● Ngày 14/9/2007: Lần đầu tiên trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn kéo đến bủa
vây để đòi rút tiền ở một ngân hàng lớn tại Anh - Ngân hàng cho vay thế chấp Northern

Rock - ngân hàng lớn thứ 5 tại Anh.
● Ngày 15/10/2007: Citigroup - Tập đồn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - cơng bố
lợi nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phịng lên tới 6,5
tỷ USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ chức vào ngày 4/11.
● Ngày 17/12/2007: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với nạn nhân
là Tập đoàn Centro Properties, một chủ sở hữu của các phố buôn bán lớn ở Mỹ tại Úc sau
khi tập đoàn này đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu Centro Properties đã tụt giá
70% tại các giao dịch ở Sydney.
Ngày 11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và vốn
hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial sau khi ngân hàng
cho vay thế chấp địa ốc này thơng báo phá sản do các khoản cho vay khó đòi quá lớn.
● 30/1/2008: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS cơng bố trích lập dự phịng 4 tỷ
USD, nâng tổng số tiền trích lập dự phịng lên 18,4 tỷ USD do những thất thoát quan đến
cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố.
● 17/2/2008: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock.
●28/2/2008: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các nạn nhân
của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất giá là 1,36 tỷ euro.
● 16-17/3/2008: Bear Stearns được bán cho Ngân hàng Đầu tư Mỹ JP Morgan
Chase với giá 2 đôla một cổ phiếu.
● 29/4/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một khoản thua lỗ
trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phịng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các
chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế thấp bất động sản.
● 11/7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyMac
Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau
khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vịng 11 ngày.
● 31/7/2008: Deutsche Bank cơng bố khoản trích lập dự phịng tiếp theo là 3,6 tỷ
USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche Bank trở thành một
trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng tồn cầu.

15



● 7/9/2008: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền kiểm sốt
hai tập đồn chun cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac nhằm hỗ trợ thị trường
nhà đất Mỹ.
● 11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để bán lại
chính mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.
● 14/9/208: Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29 USD/cp sau
khi từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brothers.
● 15/9/2008: Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này mở cửa
trở lại sau vụ khủng bố 2 tồ tháp đơi tại Mỹ vào Tháng 9 năm 2001. Lehman Brothers
sụp đổ đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ; Merrill Lynch bị Bank of America Corp
thâu tóm; American International Group - tập đồn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả
năng thanh toán do những khoản thua lỗ liên quan tới nợ cầm cố
● 16/9/2008: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ USD vào
các thị trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và ngăn chặn sự đóng băng
của hệ thống tài chính tồn cầu. Cổ phiếu AIG giảm gần một nửa. Fed công bố kế hoạch
bơm 85 tỷ USD vào AIG và nắm giữ 80% cổ phần. Ngân hàng Barclays của Anh mua lại
một phần tài sản tại Bắc Mỹ của Lehman với trị giá 1,75 tỷ USD.
● 17/9/2008: Cổ phiếu của Goldman Sachs và Morgan Stanley giảm mạnh; Tập
đoàn Lloyds TSB của Anh mua lại đối thủ HBOS; Uỷ ban Chứng khoán Mỹ kiềm chế
tình trạng bán khống.
● 19/9/2008: Các thị trường chứng khốn thế giới tăng vọt sau khi Mỹ công bố kế
hoạch mua lại tài sản của các tập đồn tài chính đang gặp khó khăn, giúp làm thanh sạch
hệ thống tài chính.
● 20-21/9/2008: Cơng bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. Hai ngân
hàng Goldman Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành tập đoàn ngân hàng đa
năng, đánh dấu sự kết thúc mơ hình ngân hàng đầu tư tại Phố Wall.
● 22/9/2008: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD để thâu tóm
hoạt động của Lehman tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại Lehman tại châu Âu và

Trung Đông. Mitsubishi UFJ Financial đồng ý mua 20% cổ phần Morgan Stanley.
● 23/9/2008: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman Sachs; Cục
điều tra liên bang Mỹ (FBI) điều tra Fannie, Freddie, AIG và Lehman vì nghi ngờ có sự
gian lận trong cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ.
● 25/9/2008: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng lớn
nhất Mỹ đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. Cơ
quan Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm sốt WaMu và sau đó
bán các tài sản của ngân hàng tiết kiệm lớn nhất Mỹ cho JPMorgan Chase & Co. với giá

16


1,9 tỷ USD. Với 307 tỷ USD tổng tài sản, WaMu đã trở thành ngân hàng bị phá sản lớn
nhất trong lịch sử Mỹ.
Trong khi đó tại Washington D.C., các thành viên chủ chốt trong quốc hội đã đồng
ý về những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD
● 2008: Hạ viện bất ngờ không thông qua kế hoạch giải cứu thị trường tài chính
Mỹ. Phản ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công nghiệp Dow Jones tụt giảm
gần 780 điểm - mức giảm trong một ngày mạnh nhất từ trước tới nay.
● 1/10/2008: Thượng viện Mỹ thông qua bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD (tỷ lệ
74-25) với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo luật cắt giảm thuế thu
nhập cho doanh nghiệp và cá nhân (tính sẽ làm ngân sách thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn
mức bảo hiểm tiền gửi tại Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên
250.000 USD.
● 3/10/2008: Sau 3 giờ thảo luận và thuyết phục nhau, Hạ viện Mỹ đã bỏ phiếu lần
thứ hai và thông qua dự luật giải cứu với tỷ lệ phiếu 262-171. Không đầy 2 giờ sau đó,
Tổng thống Mỹ đặt bút ký để chính thức chuyển kế hoạch thành đạo luật.
● Ngày 4/10/2008: Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã triệu tập cuộc họp thượng
đỉnh khẩn cấp với lãnh đạo 4 nước lớn nhất trong Liên minh Châu Âu là Anh, Pháp, Đức
và Ý. Phiên họp kết thúc với tuyên bố hợp tác xử lý khủng hoảng, nhưng khơng thống

nhất được một gói giải pháp tổng thể theo mơ hình của Mỹ.
● Ngày 5/10/2008: Mặc dù Thủ tướng Đức Angela Merkel đã chỉ trích quyết định
của Ireland tuần trước về bảo hiểm tồn bộ các tài khoản ngân hàng tại Ireland, ngày Chủ
nhật 5/10 Bộ trưởng Tài chính Đức đã thơng báo tất cả các tài khoản tiền gửi ngân hàng
tại Đức sẽ được bảo hiểm khơng có giới hạn.
● Ngày 6/10/2008: Trong đêm Chủ nhật 5/10, ngân hàng BNP Paribas SA của Pháp
gửi email thông báo đã thỏa thuận chi 14,5 tỷ Euro (tương đương 19,8 tỷ USD) để mua
lại ngân hàng Fortis, trong đó có 9 tỷ Euro bằng cổ phiếu và 5,5 tỷ Euro bằng tiền
mặt. BNP sẽ sở hữu 75% Fortis tại Bỉ, 67% Fortis tại Luxembourg, và toàn bộ mảng bảo
hiểm của Fortis tại Bỉ.
● Ngày 8/10/2008: Trong một nỗ lực phối hợp chưa từng có tiền lệ, Cục dự trữ liên
bang Mỹ (Fed), Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và 4 ngân hàng trung ương các
nước khác đã đồng loạt cắt giảm lãi suất nhằm giảm ảnh hưởng nghiêm trọng của cuộc
khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại suy thoái năm 1930.
● Ngày 10/10/2008: Tập đồn bảo hiểm có lịch sử hoạt động 98 năm tại Nhật là
Yamato Life Insurance Co. chính thức đệ đơn xin được bảo hộ phá sản do các khoản nợ
đã vượt tài sàn 11,5 tỷ yen (tương đương 116 triệu USD). Đây được coi là mốc đánh dấu
cuộc khủng hoảng đã lan sang châu Á.

17


● Ngày 13/10/2008: Giải Nobel Kinh tế 2008 được công bố thuộc về Giáo sư Paul
Krugman. Ngồi thành tích xây dựng mơ hình ứng dụng thương mại tồn cầu, ơng cũng
là người chỉ trích kịch liệt Chính phủ của Tổng thống Bush, và là người vạch ra những
hiểm họa của tự do thị trường thiếu sự giám sát của Chính phủ.
● Ngày 14/10/1008: Chính phủ Mỹ cơng bố dành 250 tỉ USD trong gói giải cứu
700 tỉ USD để rót vào các ngân hàng lớn, đổi lại sẽ nhận được cổ phiếu ưu đãi của các
ngân hàng này. Đây là bước thay đổi lớn trong chiến lược giải cứu, vì trong kế hoạch ban
đầu, Chính phủ vẫn hướng đến giải pháp mua lại nợ xấu ngân hàng, không mua cổ phần


Danh sách các tổ chức tài chính bị phá sản hoặc phải sáp nhập
trong cuộc khủng hoảng Mĩ
Tên

1

2

3

4

Quy mô
Thiệt hại
Tổng tài sản: 639 tỷ
đơla
Nợ ngân hàng:
Tổng vốn góp cổ phần: 613 tỷ đôla
$22490 tỷ đôla
Nợ trái phiếu:
Lehman
Số lượng nhân viên: 155 tỷ đôla
Brothers
26200 người
Cổ phiếu mất giá
Là một trong 4 ngân trên 90% vào
hàng đầu tư lớn nhất ngày 15/09/2008
của Hoa Kỳ
Thua lỗ quý

Tổng tài sản: 1,02
IV/2007: 9,83 tỷ
nghìn tỷ đơla
đơ
Số lượng nhân viên:
Thua lỗ rịng q
60.000 người
Merrill Lynch
I/2008: 1,97 tỷ
Xếp thứ 32 trong danh
đôla
sách Global 2000 (các
mất giá tài sản
cơng ty lớn nhất thế
(2007): 16,7 tỷ
giới)
đơla
Tổng tài sản: 1,05
nghìn tỷ đơla
Tổng vốn góp ổ phần Cổ phiếu mất giá
78,09 tỷ đôla
60% vào ngày
Số lượng nhân viên: 16/09/2008
AIG
116.000 người
Thua lỗ 6 tháng
Xếp thứ 6 trong danh đầu năm 2008:
sách Global 2000 (các 13,2 tỷ đôla
công ty lớn nhất thế
giới)

Countrywide Tổng tài sản: 211 tỷ
Thua lỗ (2007):
Financial
đơla
2,5 tỷ đơla
Là tập đồn chiếm
Mất giá tài sản

Giải pháp

15/09/2008: nộp đơn phá
sản theo chương 1 Luật
Phá sản Mỹ
Là vụ phá sản lớn nhất
trong lịch sử Hoa Kỳ

Bán cho ngân hàng Mỹ
(BoA) với giá 50 tỷ đơla

16/09/2008: Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ (FED) cấp
tín dụng 80 tỷ tương
đương 79,9 % cổ phần

01/07/2008: Bán cho
ngân hàng Mỹ với giá 4,1
tỷ đôla

18



5

Bear Stearns

6

IndyMac

7

Freddie Mac

8

Fannie Mae

20% tổng thế chấp của
Mỹ, tương đương 3,5
GDP
Tổ chức tiết kiệm và
cho vay lớn thứ 3,
(2007): 1 tỷ đơla
đồng thời là ngân hàng
có tốc độ phát triển
nhanh nhất trong lịch
sử nước Mỹ
Tổng tài sản: 350,4 tỷ
đôla
Thiệt haiij q

Tổng vốn góp cổ phần:
IV/2007: 859
66,7 tỷ đơla
triệu đơla
Số lượng nhân viên:
Mất giá tài sản
15.500 người
(2007): 1,9 tỷ
Là công ty chứng
đôla
khoans lớn thứ 7 thế
giới
Tiền gửi khách
Tổng tài sản: 32 tỷ đô hàng: 19 tỷ đô
Là tổ chức cho vay và Chi phí 8,9 tỷ đơ
gửi tiết kiệm lớn nhất cho bảo hiểm tiền
ở Los Angeles. Đồng gửi
thời là tổ chức thế
Chi phí 541 triệu
chấp lớn thứ 7 ở Hoa đô cho các khoản
Kỳ
tiền gửi vượt mức
bảo hiểm
Tổng tài sản: 794,4 tỷ
đơla
Tổng vốn góp cổ phần:
26,7 tỷ đơla
Thua lỗ (2007):
Số lượng nhân viên: 4,6 tỷ đôla
5.281 ngườich

Thua llox quý II/
Là công ty công lớn
2008: 821 triệu
thứ 20 trên thế giới
đôla
là cơng ty tài chính lớn
thứ 2 về thế chấp tại
Mỹ
Tổng tài sản: 882,5 tỷ Thua lỗ (2007): 2
đôla
tỷ đôla
Tổng vốn góp cổ phần: Thua lỗ q
44 tỷ đơla
II/2008: 2,3 tỷ
Là tổ chức hàng đầu đôla
trong thị trường thế
chấp dưới chuẩn của

30/05/2008: Bán cho JP
Morgan Chase với giá 1,1
tỷ đôla

11/07/2008: Tập đoàn
Bảo hiểm Tiền gửi Liên
bang Mỹ FDIC tiếp quản

07/09/2008: FED kí hợp
đồng bỏ ra 1 tỷ đơ hỗ trợ
cho Freddie Mac, đổi lại
giành quyền kiểm soát

các cổ phiếu ưu đãi đặc
biệt của công ty này.

07/09/2008: cùng với
Freddie Mac bị FED tiếp
quản

19


9

10

11

12

Mỹ
Tổng thu nhập (năm
2006): 417 triệu đôla
Giá bán trên thị
New Century trường: 1,75 tỷ đôla
Financial
Số lượng ngân viên:
Corp
7.200 người
Là tập đoàn cho vay
dưới chuẩn lớn nhất
của Mỹ


Ameri Bank

Tổng tài sản: 115 triệu
đôla

Washington
Mututal Inc

Tổng tài sản: 307 tỷ
đôla
Washington Mutual là
ngân hàng tiết kiệm
lớn nhất Mỹ

Wachovia

Là ngân hàng lớn thứ
6 ở Mỹ
Tổng tài sản: 327,9 tỷ
đôla

Cổ phiếu mất
90% giá trị (tháng
Nộp đơn phá sản theo
03/2007)
chương 11 Luật Phá sản
Giá trị thị trường
Mỹ
giảm xuống cịn

55 triệu đơla
Tiền gửi khách
hàng: 102 triệu
đơla
Chi phí 42 triệu
đôla cho quỹ bảo
hiểm tiền gửi
Thua lỗ 53 tỷ
đôla để từ tháng 6
và 17 tỷ đôla
trong 2 tuần gần
đây
Giá cổ phiếu của
Wachovia đã sụt
giảm tới 81,6%,
còn 1,84 USD/ cổ
phiếu
Thua lỗ 9,7 tỷ
đơla trong nửa
đầu năm nay

19/09/2008: Tập đồn
Bảo hiểm Tiền gửi Liên
Bang Mỹ FDIC tiếp quản

26/09/2008: Chính phủ
tiếp quản và sau đó bán
lại cho JP Morgan Chase
& Co với giá 1,9 tỷ đôla


30/09/2008: bị bán lại
hco Citi Group với giá
2,16 tỷ đôla

Nguồn: IRIC tổng hợp

2.3.Hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính trên
đất Mỹ
- Sự sụt giá khơng kiểm sốt nổi của các khoản đầu tư tài chính – bất động sản đã
gần như khiến Bear Stearns, một trong năm ngân hàng đầu tư lớn TRnhất của Mỹ, tê liệt
và buộc phải chấm dứt hoạt động sau 85 năm tồn tại.
- Cuộc khủng hoảng bất động sản nhanh chóng làm suy yếu hệ thống tài chính - ngân
hàng Mỹ và lan rộng ra toàn thế giới.Sự sụt giá trên thị trường bất động sản và các khoản
đầu tư tài chính – bất động sản nhanh chóng làm hao hụt nguồn vốn và hạ thấp chỉ số tín
dụng của các tập đồn tài chính – ngân hàng
20



×