Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

1.KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG Ở CHÂU ÂU VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN NỀN KINH TẾ THẾ GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.26 KB, 17 trang )

1. KHỦNG HOẢNG NỢ CÔNG Ở CHÂU ÂU VÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN NỀN
KINH TẾ THẾ GIỚI
1.1. Khái niệm nợ công
Một cách khái quát nhất, có thể hiểu “nợ chính phủ, nợ công hoặc nợ quốc gia là
tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi
vay nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách, vì thế, nợ chính phủ, nói cách khác, là
thâm hụt ngân sách luỹ kế tính đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ
chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với tổng
sản phẩm quốc nội (GDP)”
1
.
Nợ chính phủ thường được phân thành: Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho
vay trong nước) và nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước).
Việc đi vay của chính phủ có thể được thực hiện thông qua phát hành trái phiếu
chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân. Ngoài việc vay bằng cách phát hành trái phiếu
nói trên, chính phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế
tài chính quốc tế, chẳng hạn Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), WB...
1.2. Nguyên nhân của khủng hoảng nợ công ở Châu Âu
“Khủng hoảng nợ công châu Âu là một cuộc khủng hoảng bị phóng đại bởi một số
quỹ đầu tư có ý đồ xấu trên thị trường vốn quốc tế và các phương tiện truyền thông.
Mục đích của ý đồ này chính là:
Thứ nhất, muốn chống lại đồng EUR, tạo ra một sự bất ổn kinh tế cho toàn bộ nền
kinh tế châu Âu; Hai là muốn xoay chuyển đồng USD theo chiều hướng suy yếu trên thị
trường tài chính quốc tế, nhằm bảo vệ ngôi vị bá chủ tiền tệ thế giới của đồng Mỹ kim.
Trong thế giới hiện tại, đồng EUR có ảnh hưởng ngày càng lớn, dần dần gây nên
mối đe dọa trực tiếp cho ngôi vị bá chủ của đồng USD trong lĩnh vực tài chính. Do đó, việc
chống lại đồng EUR, chắc chắn sẽ giúp nâng cao được vị trí mạnh mẽ của đồng Mỹ kim.
Nếu đồng EUR sụp đổ, không chỉ có thể xóa bỏ hoàn toàn mối đe dọa của đồng EUR đối
với ngôi vị bá chủ của đồng USD, mà còn có thể ngăn chặn nền kinh tế châu Âu thách thức
1 />nền kinh tế Mỹ. Cho dù không thể hủy hoại đồng EUR, hình thái theo chiều hướng đi lên
phá vỡ đồng EUR sẽ có lợi chứ không hề có hại cho đồng USD. Cho nên, trong khi hành


động chống lại đồng EUR, các quỹ đầu tư và các phương tiện truyền thông mà họ khống
chế đã phóng đại tính nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng nợ châu Âu trên thị trường vốn
quốc tế, nhằm mục đích không chỉ tạo ra tâm lý khủng hoảng cho thị trường, dọa các nhà
đầu tư bán tháo đồng EUR trong tay họ, mà còn tạo điều kiện môi trường thị trường cần
thiết để họ giành được thắng lợi trong các hoạt động đầu tư trên thị trường vốn quốc tế,
hành động này cũng đã gia tăng thêm động lực đẩy đồng EUR sụt giảm nhanh chóng.
Có thể nói khủng hoảng nợ châu Âu là một âm mưu để "mưu sát" đồng EUR, bởi vì
chúng ta có thể tìm ra bằng chứng từ việc Ngân hàng Goldman Sachs bắt đầu giúp chính
phủ Hy Lạp và ban quản lý tài chính hoạch định mô hình phát hành chứng khoán thế chấp
bằng đồng EUR. Goldman Sachs đã nhử Hy Lạp rơi vào một cái bẫy nợ, trong một thời
gian dài đã che giấu sự thật với các cơ quan quản lý tài chính của Liên minh châu Âu (EU),
hình thành nên cuộc khủng hoảng nợ, từ đó buộc phải cầu cứu viện trợ từ bên ngoài. Đồng
thời, các tập đoàn tài chính của Mỹ đã lợi dụng cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp, một mặt
thông qua một nhóm do mình khống chế, phóng đại tính nghiêm trọng của khủng hoảng
nợ tại các nước châu Âu, mặt khác đợi đến lúc thích hợp nhờ các cơ quan xếp hạng tín
dụng quốc tế đánh tụt xếp hạng tín dụng nợ của một số nước, gia tăng thêm sự sụp đổ tín
dụng nợ của các nước, cố để hình thành một cuộc khủng hoảng tài chính châu Âu mới
được diễn biến từ cuộc khủng hoảng nợ châu Âu, thậm chí còn gây ra một sụp đổ của đồng
EUR.
Nếu so sánh tình hình khủng hoảng nợ của “5 quốc gia Nam Âu – PIGS” vào phạm
vi toàn cầu có thể thấy rõ, mức độ của cuộc khủng hoảng nợ tại châu Âu vẫn còn khá nhẹ.
Hy Lạp - quốc gia được đánh giá có mức độ vay nợ nghiêm trọng nhất, nhưng nếu so với
Mỹ về mức độ thâm hụt tài chính thì Hy Lạp vẫn nhẹ hơn rất nhiều. Lượng phát hành trái
phiếu Mỹ đã vượt ngưỡng 13000 tỷ USD, đạt tới hơn 90% GDP của quốc gia này. Còn quy
mô trái phiếu chính phủ Nhật Bản cũng đã lên tới 229%, là quốc gia nguy hiểm nhất trong
cuộc khủng hoảng nợ thế giới, gấp đôi so với số trái phiếu chính phủ Hy Lạp chiếm xấp xỉ
120% GDP. Nhưng Standard & Poors, Moodys, Fitch – ba cơ quan xếp hạng tín dụng có
quyền lực lớn nhất hiện nay lại chưa bao giờ đưa ra bất kỳ một sự cảnh báo nào ra ngoài
thế giới về nợ công và thâm hụt ngân sách của Mỹ, Nhật Bản. Bởi vì ba cơ quan đánh giá
tín dụng này nằm trong tay kiểm soát bởi các nhóm tài chính lớn của Mỹ.

Một bằng chứng rõ ràng nữa cho vấn đề này chính là việc các chuyên gia kinh tế
khẳng định đồng đôla Mỹ (USD) không những không cáo chung mà đang tiếp tục giữ vị trí
quan trọng trong rổ các ngoại tệ mạnh nhất thế giới, nhất là sau cuộc khủng hoảng kinh tế
toàn cầu vừa qua. Tình thế hiện nay tạo cho đồng USD vị thế cao trong rổ ngoại tệ mạnh
toàn cầu, đặc biệt trong bối cảnh tốc độ tăng trưởng của kinh tế Mỹ trong năm 2011 nhanh
gấp 3 lần kinh tế Anh, Nhật Bản và khu vực đồng euro. Lãi suất ở các nền kinh tế phát
triển mới đây đã tăng cao nhưng không tác động đến đồng USD.
Tuy nhiên, châu Âu suy cho cùng vẫn là một khu vực có chủ nghĩa tư bản lâu đời
nhất, thị trường vốn phát triển, khả năngkiểm soát rủi ro tài chính mạnh hơn Mỹ, trật tự tài
chính càng chuẩn mực hơn, càng không có nhiều sản phẩm tài chính phái sinh có thể gây ra
khủng hoảng tài chính với quy mô lớn như ở Mỹ. Cho nên, rủi ro tài chính của châu Âu
hoàn toàn có thể khống chế được, không thể xuất hiện cuộc khủng hoảng tài chính như cơn
bão tài chính ở Phố Wall. Các nước chủ yếu của châu Âu đã ý thức được tầm quan trọng
của việc giải cứu các nước thuộc khu vực đồng tiền chung châu Âu Eurozone đang nằm
trong cơn bão nợ. Vì thế, khả năng khủng hoảng nợ châu Âu diễn biến thành khủng hoảng
tài chính với quy mô lớn là không lớn”
2
.
2 />Năm 1996, để chuẩn bị cho việc ra mắt đồng euro, Hội đồng châu Âu đã họp tại
Dublin để thảo luận các vấn đề cần thiết. Và Liên minh châu Âu (EU) ký một hiệp ước quy
định các thành viên trong nhóm giới hạn thâm hụt ngân sách hàng năm không vượt quá 3%
GDP và tổng nợ chính phủ không vượt quá 60% GDP quốc gia.
Mười một sáng lập viên lúc bấy giờ vẫn ấn định giờ G là ngày 1/1/1999 ra mắt đồng
euro. Nhưng không có quốc gia nào trong khối lúc bấy giờ đáp ứng được tiêu chí trên. Ví
dụ lúc đó Bỉ có tổng nợ quốc gia lên đến 131% GDP.
Tham vọng tạo ra một khối kinh tế chung có sức ảnh hưởng đã khiến cho các thành
viên sáng lập lúc bấy giờ muốn có càng nhiều thành viên càng tốt. Điều đó khiến các tham
vọng chính trị va vấp với những thực trạng về nền kinh tế các quốc gia.
Bất chấp tất cả, các quốc gia châu Âu “làm đẹp” sổ sách bằng mọi giá để kịp tiến độ
gia nhập. Lúc đó, con số “sạch đẹp” thâm hụt 4% của Hy Lạp khiến một số người nghi

ngờ.
Thần kỳ hơn khi Hy Lạp giảm được mức thâm hụt xuống còn 2,5% vào năm 1998
và dự báo lúc bấy giờ nói thâm hụt chỉ còn 1,9% vào năm 1999. Cả châu Âu đã hoan hô
thành tích này, tung hô Hy Lạp như một câu chuyện thần kỳ khiến một số nước phải
ngưỡng mộ. Tây Ban Nha, Pháp, Bồ Đào Nha cũng cố gắng “đạt thành tích” thâm hụt chỉ
3%.
Quả đúng như người ta nghi ngờ: Tháng 3.2000, dưới một tiêu chuẩn kế toán mới,
cho thấy thâm hụt thực sự của Hy Lạp vào năm 1998 là 3,2%. Đến năm 2004 một báo cáo
khác lại chỉ ra con số thâm hụt của Hy Lạp vào năm 1998 là 4,3%, bởi Hy Lạp đã nhập
nhằng tiền chi tiêu mua sắm công với viện trợ chính phủ đến 2 tỉ euro.
Không chỉ thế, Hy Lạp còn cố ý không tính đến một số chi tiêu quân sự cũng như y
tế trong tổng chi chính phủ. Ngược lại, quốc gia này còn xem một số viện trợ từ châu Âu là
khoản thu vào của chính phủ. Với cách này, Hy Lạp đã “bùa” thâm hụt ngân sách năm
2003 một cách khó tin. Vào tháng 3/2004, Hy Lạp công bố thâm hụt ngân sách 2,6 tỉ euro
tương đương 1,7%, tức thấp hơn nhiều so với mức trung bình của EU là 2,7%. Điều đó
khiến nhiều người nghi ngờ và EU gây áp lực khiến Hy Lạp công bố lại.
Dưới áp lực từ châu Âu, Hy Lạp công bố là 3,2% bởi trước đó đã tính các trợ cấp
thuế ước tính của châu Âu vào nguồn thu chính phủ. Bốn tháng sau đó, Hy Lạp thừa nhận
đã bỏ qua một số khoản chi tiêu quân sự, tính cao lên giá trị thặng dư an sinh xã hội cùng
lãi suất thấp đi, nên con số thực phải là 4,6%. Đến tháng 3.2005, Hy Lạp “thành thật”
thông báo thâm hụt của năm 2003 là 5,2%. Và trong lần “thành thật” cuối cùng vào cuối
năm đó, con số tăng lên mức 5,7%. Sau 18 tháng, số liệu thâm hụt năm 2003 đã tăng từ 2,6
tỉ lên 8,8 tỉ euro.
Theo ông Jean-Pierre Jouyet, chủ tịch uỷ ban Giám sát thị trường chứng khoán Pháp
và là cựu cố vấn trưởng của chủ tịch Uỷ ban châu Âu, vấn đề hiện tại của Hy Lạp cũng cho
thấy thể chế tài chính của EU không đủ năng lực và chuyên môn để kềm chế những thành
viên không tuân thủ hiệp ước của khối. Liên minh tiền tệ EUROZONE đã được xem là
công cụ cho liên minh chính trị, nên các “sáng lập viên” chẳng hề quan tâm nhiều đến
chuyện trừng phạt thành viên vi phạm quy chế chung.
Năm 1996, khi thảo luận xem liệu có cần thiết có những công cụ trừng phạt những

thành viên vi phạm hay không, Tổng thống Pháp Jacques Chirac và Thủ tướng Đức Helmut
Kohl cho rằng nên dựa vào ý thức, và cuối cùng EU ủng hộ chủ trương này. EU cho rằng
các quốc gia sẽ phải tự điều tiết lấy. Willem Buiter, kinh tế gia trưởng của Citigroup và là
thành viên của uỷ ban Chính sách tiền tệ của ngân hàng Anh quốc, mô tả hiệp ước 1996
như những con hổ giấy. Còn ông Jean-Pierre Jouyet nói: “Một hiệp ước mà không có biện
pháp trừng phạt thì là vô nghĩa”.Đâu chỉ Hy Lạp, vào năm 2002 đến 2004, Pháp và Đức
vượt chuẩn thâm hụt thì các quốc gia EU khác cũng bình chân như vại. Ông Jean-Luc
Dehaene, cựu Thủ tướng Bỉ, không ngại chỉ trích: “Họ có xu hướng đưa ra quyết định
chính trị”. Nay, đến khi Hy Lạp kêu van và lo sợ đồng euro chết yểu thì EU mới vào cuộc
3
.
3 />tich.htm

Mặt khác, áp dụng kiến thức vĩ mô đã được học, ta có thể nhận xét về nguyên nhân
gây ra khủng hoảng nợ chính phủ chính là ở chỗ hình thức 'trả nợ công' của chính phủ như
thế nào và hậu quả mà nó mang lại. Theo khách quan thì Chính phủ muốn thoát nợ phải áp
dụng các biện pháp sau:
(1) Phát hành trái phiếu chính phủ
Chính phủ có thể phát hành Trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân. Trái phiếu
chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì Chính phủ có thể
tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Trái phiếu chính
phủ phát hành bằng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng
cao hơn so với khi phát hành bằng nội tệ vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh
toán và ngoài ra còn có rủi ro về tỷ giá hối đoái.
(2) Vay trực tiếp
Chính phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế
siêu quốc gia (ví dụ: Quỹ Tiền tệ Quốc tế)... Hình thức này thường được Chính phủ của
các nước có độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức

×