Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

(Skkn 2023) một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ 24 36 tháng tuổi tại trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.74 MB, 51 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ
TRƯỜNG MẦM NON C XÃ TỨ HIỆP

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY KỸ NĂNG SỐNG CHO TRẺ
NHÀ TRẺ 24-36 THÁNG TUỔI TẠI TRƯỜNG MẦM NON

Lĩnh vực
Cấp học
Tên Tác giả
Đơn vị công tác
Chức vụ

: Giáo dục nhà trẻ
: Mầm non
: Bùi Thị Kết
: Trường Mầm non C xã Tứ Hiệp
: Giáo viên

NĂM HỌC 2022-2023


Mẫu 1
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng Khoa học và cơng nghệ huyện Thanh Trì

Ngày
Nơi cơng


tác

Họ và tên

Chức
danh

tháng
năm sinh

Bùi Thị Kết

18/02/198
7

Trình
độ
chun
Tên sáng kiến

môn

Trường
Mầm non
C xã Tứ
Hiệp

Giáo
Viên


Một số biện pháp
Đại học dạy kỹ năng sống
Sư phạm cho trẻ nhà trẻ 24
Mầm non - 36 tháng tuổi tại
trường mầm non

- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục trẻ nhà trẻ
- Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Bắt đầu từ
tháng 8 năm 2022
- Mô tả bản chất của sáng kiến:
+ Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm:
Giáo dục kỹ năng sống là một tiến trình, giáo viên trang bị cho trẻ kiến
thức giúp trẻ có ý thức và niềm tin để thay đổi. Trẻ phải được thực hành để có
kỹ năng sống, trẻ cần được hướng dẫn vận dụng kỹ năng sống vào các sinh hoạt
thường ngày của trẻ. Điều quan trọng nhất là những kỹ năng này trở thành một
thói quen tốt.


2
+ Về nội dung của sáng kiến:
* Phần A: Đặt vấn đề
* Phần B: Giải quyết vấn đề
Nội dung và giải pháp nhằm thực hiện "Một số biện pháp dạy kỹ năng sống
cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi tại trường mầm non".
1. Xác định nội dung giáo dục kỹ năng sống phù hợp độ tuổi để dạy trẻ
ngay từ đầu năm học.
2. Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong các hoạt động và ở mọi lúc mọi
nơi.



3. Sưu tầm, thiết kế một số trò chơi rèn luyện kỹ năng sống
4. Tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh dạy kỹ năng sống cho trẻ.
* Phần C: Kết luận và khuyến nghị.
+ Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến có khả năng áp dụng rộng rãi trong nhà trường, với bạn bè đồng
nghiệp tại các đơn vị.
- Những thơng tin cần được bảo mật (nếu có): Không
- Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Giáo viên phải tận tâm yêu nghề mến trẻ, có những hiểu biết và kinh
nghiệm trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục nói chung và việc dạy trẻ kỹ
năng sống nói riêng.
Lồng ghép linh hoạt sáng tạo các hoạt động, trẻ nhận ra rằng học vừa vui
vừa có ý nghĩa, đồng thời khi trẻ tham gia vào trò chơi, trẻ cần biết hợp tác với
bạn, sáng tạo với các cách chơi và cố gắng đạt mục đích đây chính là những kỹ
năng cơ bản để sống và làm việc sau này.
Phụ huynh ủng hộ và tạo mọi điều kiện, cùng phối hợp để rèn kỹ năng
sống cho trẻ đạt kết quả cao.
- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Với sự nỗ lực và cố gắng của bản thân để thực hiện nội dung giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi, bước đầu đã mang lại những kết quả
như sau:
* Hiệu quả kinh tế:
Nhờ áp dụng có hiệu quả các giải pháp, tận dụng các đồ dụng các đồ dùng,
đồ chơi tự làm kết hợp lồng ghép ứng dụng công nghệ thông tin, không phải
mua nhiều đồ dùng nên tiết kiệm chi phí.
Phụ huynh đã hỗ trợ giáo viên, ủng hộ các nguyên vật liệu cho giáo viên
làm đồ dùng đồ chơi để tổ chức các hoạt động học, hoạt động trải nghiệm vui
chơi, cho trẻ.
* Hiệu quả về xã hội:

+ Đối với giáo viên:
Bản thân tôi là một giáo viên được trau dồi kiến thức, phương pháp, có
thêm những kinh nghiệm trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ để áp dụng
trong cuộc sống.
Kỹ năng sống được lồng ghép vào các hoạt động, ở mọi lúc, mọi nơi, rút
ra được nhiều kinh nghiệm xử lý các tình huống trong giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ.


Được phụ huynh ủng hộ và tạo mọi điều kiện, cùng phối hợp để rèn kỹ
năng sống cho trẻ đạt kết quả cao.
Qua việc tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ bản thân giáo
viên cũng đươc rèn luyện các kỹ năng sống của mình, và tự tin hơn khi tổ chức
các hoạt động giáo dục cho trẻ trong đó có hoạt động giáo dục kỹ năng sống.
+ Đối với trẻ:
Trẻ mạnh dạn, tự tin hơn, tích cực tham gia vào các hoạt động trong và
ngoài lớp.
Kỹ năng ghi nhớ tư duy của trẻ cũng phát triển, trẻ biết hợp tác cùng nhau,
thích tìm tịi, khám phá học hỏi, giao tiếp lễ phép hơn, biết ứng xử phù hợp
với mọi người xung quanh.
Trẻ được cô giáo và cha mẹ tạo điều kiện khuyến khích khơi dậy tính tị
mị, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin.
Trẻ được giáo dục chăm sóc ni dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe, được
đảm bảo an tồn, phịng bệnh, được theo dõi cân đo bằng biểu đồ phát triển và
khám sức khỏe 2 lần/năm.
Trẻ đi học đều hơn, đạt tỉ lệ chuyên cần từ 90% và ít gặp khó khăn khi đến
lớp. Cuối năm học trẻ ra lớp nhiều hơn so với đầu năm.
Trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập, kỹ
năng nhận thức, kết quả tỷ lệ trẻ đạt ở các lĩnh vực giáo dục tăng lên đáng kể
theo các nội dung giáo dục kỹ năng sống cơ bản cụ thể:

+ Đối với phụ huynh:
Phụ huynh cảm thấy vui mừng, phấn khởi, tin tưởng vào kết quả giáo dục
của nhà trường.
Cha mẹ học sinh luôn coi trọng trẻ và tích cực tham gia vào các hoạt động
giáo dục trẻ ở nhà trường, ở lớp
Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cơ giáo trong
việc dạy trẻ kỹ năng sống ở lớp cũng như ở nhà, trao đổi với phụ huynh về các
hoạt động hàng ngày của con và phụ huynh cũng trao đổi tình hình của con ở
nhà để các cơ có thể nắm bắt được.
Cha mẹ cảm thấy mãn nguyện với những thành công của trẻ, tin tưởng vào
nhà trường.
- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến
lần đầu hoặc áp dụng thử nếu có:
Những biện pháp trong đề tài được BGH đánh giá có hiệu quả cao trong
quá trình dạy kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi.


Được bạn bè đồng nghiệp tích cực tham khảo và ứng dụng vào quá trình
giảng dạy cho trẻ, đáp ứng hiệu quả việc thực hiện chương trình giáo dục mầm non.
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sựoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sựi thông tin nêu trong đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sựơn là trung thực, đúng sựn là trung thực, đúng sự trung th ực, đúng sực, đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sựúng s ực, đúng sự
thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.t và trung thực, đúng sự hoà trung thực, đúng sựn toà trung thực, đúng sựn chịu trách nhiệm trước pháp luật.u trách nhiệm trước pháp luật.m trước pháp luật.c pháp luật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.t.
Thanh Trì, ngày 24 tháng 04 năm 2023
Người viết đơn

Bùi Thị Kết


Mẫu 2
TRƯỜNG MẦM NON C XÃ TỨ HIỆP

HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

PHIẾU NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ

Họ tên tác giả: Bùi Thị Kết
Tên đề tài: Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng
tuổi tại trường mầm non
Lĩnh vực: Giáo dục nhà trẻc nhà trung thực, đúng sự trẻ
Điểm
Điểm
STT
Tiêu chuẩn
tối đa chấm
1 Sáng kiến có tính mới
Hồn tồn mới, được áp dụng đầu tiên
1.1

1.2

1.3

1.4.

30
Có cải tiến so với giải pháp trước đây với mức độ
khá


Có cải tiến so với giải pháp trước đây với mức độ trung
bình

Khơng có tính mới hoặc sao chép từ các giải pháp đã có
trước đây

25

20

10

0

Nhận xét:
- Sáng kiến của đồng chí Bùi Thị Kết là sáng kiến mới được áp dụng lần đầu
tiên. Nội dung phương pháp có tính đột phá và nâng cao được hiệu quả, chất
lượng trong quá trình thực hiện
- Sáng kiến đã được hội đồng xét duyệt sáng kiến cấp trường đánh giá cao
góp phần nâng cao chất lượng của nhà trường trong công tác chăm sóc, giáo
dục trẻ.
2

Sáng kiến có tính áp dụng


2

2.1


Có khả năng áp dụng trong phạm vi tồn ngành hoặc
rộng hơn

30

2.2

Có khả năng áp dụng trong đơn vị và có thể nhân
ra một số đơn vị có cùng điều kiện

20

2.3

Có khả năng áp dụng trong đơn vị

10

2.4

Khơng có khả năng áp dụng trong đơn vị

0

27

Nhận xét:
Sáng kiến có tính ứng dụng, lan tỏa đến các bạn bè đồng nghiệp và có thể áp
dụng được ở nhiều đơn vị.
3


Sáng kiến có tính hiệu quả

3.1

Có hiệu quả, đem lại lợi ích kinh tế - xã hội, có tính lan
tỏa

30

3.2

Có hiệu quả, đem lại lợi ích kinh tế - xã hội

20

3.3

Có hiệu quả, lợi ích phù hợp với mức độ phù hợp tại

10

27


3

đơn vị

3.4


Khơng có hiệu quả cụ thể

0

Nhận xét:
- Sáng kiến có hiệu quả khơng tốn kém và đem lại lợi ích kinh tế - xã hội cao. + Hiệu quả kinh tế: Tiết kiệm chi phí trong việc thực hiện các hoạt động.
+ Hiệu quả xã hội: Phụ huynh ủng hộ, tạo mọi điều kiện và phối hợp để rèn
kỹ năng sống cho trẻ. Trẻ có thói quen tự phục vụ.
- Sáng kiến với những biện pháp dễ thực hiện vì vậy có thể lan tỏa tại các đơn
vị khác.
4

Điểm trình bày

4.1

Trình bày khoa học, hợp lý

10

4.2

Trình bày chưa khoa học, chưa hợp lý

5

9

Nhận xét:

- Sáng kiến kinh nghiệm trình bày đúng quy định về thể thức văn bản (kiểu
chữ, cỡ chữ, dãn dịng, căn lề...)
- Trình bày khoa học và kết cấu hợp lý: Gồm 3 phần chính (Đặt vấn đề, giải
quyết vấn đề, kết luận và khuyến nghị)
- Có minh chứng, phụ lục kèm theo minh chứng cụ thể cho sáng kiến.
TỔNG ĐIỂM: 88 Điểm Đánh giá:  Đạt (≥70 điểm)  Không đạt

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CƠ SỞ


MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ..................................................................................................1
I. Lý do chọn đề tài................................................................................................1
II. Thời gian, đối tượng, phạm vi nghiên cứu.......................................................2
1. Phạm vi nghiên cứu và ứng dụng:.....................................................................2
2. Mục đích nghiên cứu:........................................................................................2
3. Đối tượng, khảo sát, thực nghiệm:....................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu:..................................................................................2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ...................................................................................3
I. Cơ sở lý luận:.....................................................................................................3
II. Cơ sở thực tiễn:.................................................................................................5
1. Đặc điểm tình hình chung.................................................................................5
2. Thuận lợi:..........................................................................................................5
2. Khó khăn:..........................................................................................................6
III. Các biện pháp tiến hành..................................................................................8
1. Biện pháp 1: Xác định nội dung giáo dục kỹ năng sống phù hợp độ tuổi để
dạy trẻ ngay từ đầu năm học.................................................................................8
2. Biện pháp 2: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong các hoạt động và ở mọi lúc
mọi nơi.................................................................................................................10
3. Biện pháp 3: Sưu tầm, thiết kế một số trò chơi rèn luyện kỹ năng sống...............14

4. Biện pháp 4: Tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh dạy kỹ năng sống cho trẻ.
.............................................................................................................................19
IV . Kết quả đạt được:.........................................................................................23
C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.................................................................26
1. Kết luận...........................................................................................................26
2. Khuyến nghị....................................................................................................27


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
Ngành học mầm non giữ vai trị quan trọng bởi nó là bậc học đầu tiên
trong hệ thống giáo dục quốc dân, là bậc học đặt nền móng cho các bậc học
sau. Vì vậy các em phải được chăm sóc, phải được giáo dục khi còn ở lứa tuổi
nhà trẻ mẫu giáo. Ngay từ lứa tuổi này, các em phải được giáo dục tiếp thu
kiến thức một cách tốt nhất được trang bị đầy đủ những tri thức của chủ nhân
tương lai đất nước.
Trong thời gian gần đây, vấn đề dạy kỹ năng sống cho trẻ được rất nhiều
các bậc phụ huynh quan tâm. Nhằm đáp ứng về kỹ năng sống cho trẻ, nhiều
trung tâm dạy kỹ năng sống cho trẻ cũng lần lượt ra đời. Tuy nhiên dạy kỹ
năng sống cho trẻ như thế nào lại là vấn đề cần đặt ra những câu hỏi. Có thể
từ kỹ năng sống cịn rất mới mẻ nên chúng ta cịn quan trọng hóa vấn đề mà
không để ý rằng ở nhà, ở trường lớp trẻ vẫn được rèn luyện "Kỹ năng sống"cơ
bản những kỹ năng sống rất quan trọng ảnh hưởng tới quá trình hình thành
nhân cách cho trẻ.
Là giáo viên đứng lớp, tôi luôn băn khoăn, suy nghĩ làm thế nào để giáo
dục, uốn nắn cho trẻ những hành vi đúng, cách cư xử lịch sự, văn minh. Vì thực
tế tơi thấy được một số khó khăn trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ: Ở
lứa tuổi mầm non đặc biệt là trẻ nhà trẻ, trẻ còn thực hiện theo ý thích, chưa tự ý
thức được hành động, hành vi của mình, chưa có nề nếp thói quen tốt trong sinh
hoạt. Trẻ chưa nhận biết và thể hiện được một số trạng thái cảm xúc của bản

thân và những người xung quanh để trẻ có những hành động đúng.
Các bậc cha mẹ trẻ, số đơng các gia đình cịn chiều chuộng, khiến trẻ
khơng có kỹ năng tự phục vụ, chưa có nề nếp trong sinh hoạt hàng ngày. Cha mẹ
không chú ý đến con mình ăn uống như thế nào, trẻ có biết sử dụng những đồ
dùng, vật dụng trong ăn uống hay khơng? Và vì sao chúng ta cần những đồ
dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng đó để làm gì? Một số cha mẹ thì quan tâm
đến con cái nhưng chưa chú ý dạy con cách cư xử, nhiều lúc vơ tình cịn hùa
theo cái sai của con cái.
Tơi nhận ra rằng, tất cả những kỹ năng đó phải bắt đầu từ việc chúng ta
muốn trẻ lớn lên trở thành những người như thế nào, bản thân chúng ta cần gì,
thiếu gì, dựa vào cái gì để thành cơng thì hãy dạy cho con cái chúng ta những
điều y như thế. Việc xây dưng kỹ năng sống cho trẻ là cho trẻ cơ hội để trải
nghiệm, thích nghi và tự thể hiện mình. Trẻ em là giai đoạn học, tiếp thu, lĩnh
hội những giá trị sống để phát triển nhân cách, do đó cần giáo dục “Kỹ năng
sống” cho trẻ để trẻ có nhận thức đúng và có hành vi ứng xử phù hợp ngay từ


2
khi còn nhỏ. Với khả năng tiếp thu, nhận thức của trẻ mầm non còn kém trẻ dễ
nhớ mau quên đặc biệt là lứa tuổi trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi. Để bước đầu
trang bị những hành trang, kiến thức về cuộc sống, những kỹ năng sống sao cho
phù hợp với nhân cách con người, với cuộc sống thế giới xung quanh cho trẻ thì
cơ giáo chính là người giữ vai trò và nhiệm vụ quan trọng cũng như bước đầu
giúp trẻ có kỹ năng: Tự nhận thức, tự phục vụ, biết đồn kết với bạn bè...
Chính vì vậy, tơi đã mạnh dạn nghiên cứu và lựa chọn đề tài "Một số biện
pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi tại trường mầm non"
Tôi đã áp dụng nghiên cứu đề tài từ tháng 9 năm 2022 đến tháng 4 năm
2023, tại lớp nhà trẻ D1 với sĩ số 30 cháu, tại trường mầm non nơi tơi cơng tác.
Để giúp trẻ có những kỹ năng ban đầu về cuộc sống, có những kinh nghiệm
sống, sao cho phù hợp với cuộc sống đang biến đổi không ngừng.

II. Thời gian, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
1. Phạm vi nghiên cứu và ứng dụng:
Để nghiên cứu và thực hiện đề tài này tôi đã thực nghiệm trên trẻ lớp nhà
trẻ 24- 36 tháng tuổi – D1 trường mầm non nơi tôi công tác.
Thời gian nghiên cứu (bắt đầu từ tháng 9/2022 đến cuối tháng 4/2023).
2. Mục đích nghiên cứu:
Với đề tài này tơi muốn giúp trẻ có những kỹ năng ban đầu về cuộc sống,
có những kinh nghiệm sống, sao cho phù hợp với cuộc sống đang biến đổi
không ngừng. Sau một năm thực hiện, tôi nhận thấy trẻ lớp tơi rất thích thú khi
trẻ được học về những kỹ năng sống cơ bản qua các hoạt động, giờ ăn, hoạt
động trò chơi và các kỹ năng tự phục vụ của trẻ. Việc tìm ra các biện pháp phù
hợp giúp cho trẻ tiếp thu tốt hơn, trẻ có nề nếp hơn và mạnh dạn, tự tin khi tham
gia các hoạt động.
3. Đối tượng, khảo sát, thực nghiệm:
Các biện pháp giúp phát triển kỹ năng sống cơ bản cho trẻ, hình thành các
kỹ năng như: Tự phục vụ, giao tiếp, tự nhận thức, hợp tác. Từ đó trẻ có ý thức
về bản thân, suy nghĩ sáng tạo và có phán đoán và giải quyết vấn đề phù hợp với
độ tuổi.
4. Phương pháp nghiên cứu:
– Phương pháp nghiên cứu lý luận
– Phương pháp tham khảo tài liệu
– Phương pháp điều tra thực trạng
– Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
– Phương pháp quan sát


3
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận:
Từ năm học trước Bộ GD - ĐT đã phát động phong trào "Xây dựng trường

học thân thiên, học sinh tích cực" trong nội dung thực hiện có nội dung rèn
luyện kỹ năng sống cho trẻ, với yêu cầu tăng cường sự tham gia một cách hứng
thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục với thái độ tự giác, chủ động, ý
thức, sáng tạo. Giống như thầy Nguyễn Phú Cường, hiệu trưởng trường phổ
thông Quốc tế Việt Nam đã từng nói "Chúng ta nên học hỏi những tiến bộ của
nền giáo dục tiên tiến trên thế giới, bởi giáo dục tồn diện chính là mơ hình
giáo dục hướng về học sinh, lấy học sinh làm trung tâm, trước hết học sinh cần
được dạy để biết làm chủ bản thân, để giao tiếp tốt với mọi người và có khả
năng giải quyết khi gặp những vấn đề rắc rối khó khăn".
Thực tế nhiều trường hiện nay dường như chỉ quan niệm dạy kiến thức chứ
chưa dạy trẻ thái độ ứng xử các mối quan hệ (quan hệ với con người, với thiên
nhiên), vì vậy rất nhiều điều trong cuộc sống mà trẻ không được học. Trẻ chỉ
biết ăn, ngủ, học và vui chơi, trong khi đó kỹ năng tự chủ và kỹ năng giao tiếp
không được chú ý và thực hiện cịn kém. Trẻ chưa có những kiến thức, kinh
nghiệm về kỹ năng giao tiếp và kỹ năng sống phù hợp. Như vậy, có thể thấy
hành trang vào đời của trẻ cịn nhiều thiếu hụt, trong đó có sự thiếu hụt về kỹ
năng sống, ngay từ lứa tuổi mầm non trẻ cần được các cô giáo dạy cung cấp cho
trẻ những kỹ năng sống, những kỹ năng đơn giản qua các hoạt động hàng ngày
của trẻ ở lớp.
Đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ 24 -36 tháng tuổi, khả năng nhận thức của trẻ
còn kém, trẻ dễ nhớ dễ quên và hay hành động theo ý muốn . Vì vậy để dạy
những kỹ năng sống cho trẻ chỉ là những bước đầu giúp trẻ các kỹ năng như:
biết về bản thân mình, mạnh dạn tự tin, kỹ năng giao tiếp, tự phục vụ bản thân,
biết hợp tác chơi với các bạn, kỹ năng thích nghi với mơi trường,... Để trẻ có
được những kỹ năng ở lứa tuổi này, cô giáo cần nhẹ nhàng, linh hoạt, sáng tạo,
lồng ghép các hoạt động để truyền thụ các kỹ năng cho trẻ.
+ Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là gì?
Giáo dục kỹ năng sống là một tiến trình. Giáo viên trang bị cho trẻ kiến
thức giúp trẻ có ý thức và niềm tin để thay đổi. Trẻ phải được thực hành để có
kỹ năng. Trẻ cần được hướng dẫn vận dụng kỹ năng vào các sinh hoạt thường

ngày của trẻ. Điều quan trọng nhất là những kỹ năng này trở thành một thói
quen tốt.
Ngày xưa trong giáo dục truyền thông, trẻ chỉ việc nghe lời cha mẹ. Những gì
học ở gia đình và xã hội lại giống nhau. Một hành vi sai trái thường bị xã hội đồng


4
loạt lên án, nên ít ai dám hành động tiêu cực. Ngày nay thì khác, những gì học
trong gia đình và tác động của xã hội rất khác nhau qua bạn bè, tuyền thông đại
chúng, phim ảnh … trong nhiều trường hợp, trẻ phải tự ứng phó một mình. Có
khi cha mẹ có đó, nhưng theo khơng kịp những biến động xã hội ngày càng dồn
dập. Với sự bùng nổ thông tin, trẻ tiếp cận với đủ thứ loại tác động, tốt có, xấu
có. Một số khơng nhỏ phải rời bỏ gia đình, hoặc phải bươn chải kiếm sống, thậm
chí gánh vác trách nhiệm của người lớn. Do ngày càng có nhiều việc phải quyết
định một mình nên trẻ khơng chỉ cần được biết thế nào là điều hay lẽ phải mà
cịn phải có khả năng hành động theo nhận thức.
Trước tình hình này, các nhà giáo dục thế giới đã cùng tìm cách giáo dục
đề tạo cho trẻ năng lực tâm lý xã hội, nhằm ứng phó với những yêu cầu và thách
thức của cuộc sống hàng ngày, đó là giáo dục kỹ năng sống nhằm giúp trẻ biến
nhận thức thành hành động, nghĩa là trẻ không chỉ hiểu biết mà cịn phải làm
được điều mình hiểu. Cách dạy cũ theo kiểu giảng suông, dạy vẹt học vẹt không
đạt được sự thay đổi hành vi này.
Trong cách giáo dục mới, trẻ được giúp đỡ để biết mình là ai, mình muốn
gì, có mục đích gì trong cuộc sống, biết dung hịa giữa cái tơi, cái chúng ta và có
những chọn lựa quyết định đúng trước những biến cố do cuộc sống đưa đến. Để
có năng lực tâm lý xã hội này, trẻ được dạy các kỹ năng như: ý thức về bản thân,
thấu cảm với người khác, suy nghĩ sáng tạo và có phán đốn, truyền thơng và
giao tiếp có hiệu quả, giải quyết vấn đề, phương pháp giáo dục là đặt trẻ trước
những tình huống khó giải quyết để trẻ giải quyết theo nhóm thơng qua thảo
luận, trị chơi, sắm vai, vẽ tranh hay hành động cụ thể. Qua đó, trẻ học bằng

hành động và tự quyết định với sự góp ý của nhóm bạn. Tác động của nhóm bạn
rất mạnh mẽ theo hướng tích cực hay tiêu cực. Nếu sức ép của nhóm bạn xấu có
thể khiến trẻ chấp nhận làm chuyện sai trái, thì giáo viên cũng có thể biến sức ép
này thành tích cực để giúp cá nhân có những quyết định lành mạnh.
Tuy nhiên, Giáo dục kỹ năng sống khơng dễ chút nào, vì nó nằm ngồi
cách suy nghĩ và thói quen của ta từ trước đến nay. Việc đầu tiên là tin vào khả
năng của trẻ để suy nghĩ và có hành động đúng. Người lớn khơng nên áp đặt ý
kiến của mình mà cần khơi dậy tiềm năng của trẻ, nên hỗ trợ sự phát triển tiềm
năng này bằng thái độ thông cảm và tơn trọng. Lịng tự tin của trẻ sẽ lớn rất
nhanh nếu người lớn nhìn chúng bằng con mắt mới và sáng tạo, đồng thời với
thái độ kiên nhẫn. Trẻ phải chủ động mới biến được nhận thức thành hành động.
Giáo dục kỹ năng sống cũng không thể thành cơng nếu xã hội, nhất là
gia đình, khơng đổi cách nhìn về đứa trẻ, xem nó như: “con nít, chẳng biết
gì”, giáo dục theo kiểu nhục mạ, hạ thấp vv… Nền tảng của Giáo dục kỹ


5
năng sống là ý thức về giá trị bản thân nơi trẻ… mà đây là một điều mà xã
hội ta chưa quen lắm.
II. Cơ sở thực tiễn:
1. Đặc điểm tình hình chung
Là một giáo viên đang cơng tác tại một trường mầm non cơng lập. Ngơi
trường đã có nhiều thành tích với sự nỗ lực cố gắng của cơ và trị, cùng với sự
ủng hộ nhiệt tình của các bậc phụ huynh.
Năm học 2022 - 2023, tôi được Ban giám hiệu phân công dạy lớp nhà trẻ
24 - 36 tháng tuổi. Lớp có 2 cơ phụ trách, bản thân tơi đã học xong lớp ĐHSP.
Lớp nhà trẻ D1 gồm có 30 cháu trong đó có 12 học sinh nam, 18 học
sinh nữ.
Từ những đặc điểm trên, khi vận dụng "Một số biện pháp dạy kỹ năng sống
cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi tại trường mầm non"tôi đã gặp một số thuận

lợi và khó khăn sau.
2. Thuận lợi:
* Về cơ sở vật chất.
- Là trường chuẩn quốc gia cấp độ 2, kiểm định chất lượng giáo dục cấp
độ 3, có đầy đủ tiện nghi và điều kiện để chăm sóc giáo dục trẻ.
- Ban giám hiệu tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất và kiến thức cho giáo
viên.Trường khang trang, sạch đẹp với đầy đủ các phịng ban chức năng, có khu
vui chơi cho trẻ.
- Nhà trường đã trang bị tivi, đầu đĩa và kết nối mạng internet đến tận
lớp học.
- Trường có đầy đủ cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho việc chăm
sóc giáo dục trẻ. Lớp rộng rãi, thống mát, có đủ các phương tiện nghe nhìn
giúp trẻ tiếp thu một cách tốt nhất.
* Về đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên.
- Ban giám hiệu nhà trường luôn đi sâu, đi sát, tạo điều kiện thuận lợi
cho giáo viên có đủ phương tiện để chăm sóc và dạy trẻ như mở các lớp bồi
dưỡng công nghệ thông tin cho giáo viên, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp
vụ… để giúp cho việc tổ chức, thực hiện các hoạt động trên lớp luôn đạt
hiệu quả, trẻ luôn hứng thú, say mê, tham gia các hoạt động tích cực, sơi
nổi. Bên cạnh đó, Ban giám hiệu ln chỉ đạo sát sao về chun mơn nghiệp
vụ, có nhiều ý kiến đóng góp hay nên tơi cũng đã từng bước khẳng định
được mình, có nhiều kiến thức bổ ích, cũng như vốn kinh nghiệm vững vàng
trong chăm sóc và giáo dục trẻ.


6
- Bản thân tơi là giáo viên đã có nhiều năm đứng lớp nhà trẻ nên hiểu
được tâm sinh lý của trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi. Có trình độ chun mơn
vững vàng, nhiệt tình, u nghề, mến trẻ, có kinh nghiệm trong việc chăm
sóc ni dạy trẻ, ln có tinh thần học hỏi, rèn luyện để nâng cao trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ.
- Luôn nắm được phương hướng chương trình giáo dục mầm non mới được
phụ huynh tin tưởng, nhiệt tình trong cơng việc, hết lịng u thương trẻ, có tinh
thần trách nhiệm cao trong việc chăm sóc giáo dục trẻ, hiểu từng tâm, sinh lý
của trẻ lứa tuổi mầm non và nhiều năm liền được phân công dạy trẻ lứa tuổi 24 –
36 tháng tuổi.
- Khi lồng ghép để truyền dạy về kỹ năng sống cho trẻ, tôi nhận được sự
ủng hộ, giúp đỡ của phụ huynh cũng như của Ban Giám Hiệu, cùng các chị em
trong trường lớp
* Về phụ huynh
- Phụ huynh nhiệt tình ủng hộ sách, truyện, nguyên vật liệu để làm đồ
dùng đồ chơi sáng tạo.
- Lớp rộng rãi, thống mát, có đủ các phương tiện nghe nhìn giúp trẻ tiếp
thu một cách tốt nhất và được các bậc phụ huynh quan tâm, tin tưởng gửi con.
Phụ huynh luôn cố gắng kết hợp với giáo viên trong việc giáo dục trẻ, để cùng
hướng dẫn trẻ những kỹ năng sống cần thiết cho cuộc sống.
*Về học sinh
- Trẻ hứng thú tích cực tham gia hoạt động.
- Trẻ ngoan, đồng đều về độ tuổi.
2. Khó khăn:
*Về giáo viên
- Tư liệu để giáo viên tham khảo, đồ dùng dạy học lồng ghép các kỹ năng
sống còn hạn chế.
- Đây là giai đoạn đầu tiên trẻ đến lớp nên đa số trẻ tính tình cịn nhút nhát,
có một số trẻ chậm nói nên q trình thực hiện đề tài cịn khó khăn.
- Việc truyền dạy "kỹ năng sống"cho trẻ nhà trẻ từ 24 - 36 tháng tuổi còn
mới mẻ và khó khăn với giáo viên, trẻ chưa hiểu nhiều kỹ năng sống cơ bản.
*Về phụ huynh
- Một số phụ huynh ít trị chuyện, giao tiếp với trẻ, ít hướng dẫn cho trẻ
những kỹ năng sống cơ bản nên những kỹ năng sống của trẻ hạn chế.

- Trình độ phụ huynh không đồng đều, bận công việc nên chưa quan tâm đến
việc học hành của trẻ nói chung, việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nói riêng.


7
- Thông tin về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đã có nhưng chưa đồng bộ,
chưa đến được một số phụ huynh. Nên trẻ nhỏ chưa có ý thức tự rèn luyện và
học hỏi được nhiều về các kỹ năng sống hàng ngày.
- Sự thay đổi về cách hiểu, cách nghĩ không chỉ ngày một ngày hai đối với
lứa tuổi nhà trẻ mà là cả một quá trình lâu dài.
- Một số phụ huynh còn chưa hiểu hết tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ
năng sống đối với trẻ.
- Ở nhiều gia đình trẻ được nng chiều, cung phụng con khiến cho trẻ
khơng có kỹ năng tự phục vụ. Nhiều phụ huynh chỉ biết phối hợp với cô giáo về
chương trình học của con và chăm sóc cho con thế nào cho tốt chứ phụ huynh
chưa biết đến dạy trẻ kỹ năng sống cho trẻ ngay từ bé.
*Về học sinh
- Vì các cháu bắt đầu đi học nên cịn khóc nhiều chưa thích nghi với điều
kiện sinh hoạt của lớp cịn bỡ ngỡ. Mỗi cháu lại có những sở thích và cá tính
khác nhau.
- Khả năng tâm sinh lý của trẻ khơng đồng đều, có cháu sức khoẻ yếu nên
phần nào ảnh hưởng đến quá trình nhận thức cũng như củng cố kiến thức, nề nếp
thói quen trong sinh hoạt và học tập cho trẻ.
- Khả năng chú ý có chủ định của trẻ cịn kém. Trẻ dễ dàng nhập cuộc chơi
nhưng cũng nhanh chóng tự rút ra khỏi trị chơi nếu trẻ khơng cịn hứng thú.
- Trí nhớ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ chưa nhớ hết trật tự, và các kỹ năng
sống khi được dạy.
Từ những thuận lợi và khó khăn trên, tơi đã suy nghĩ, nghiên cứu tài liệu để
đưa ra "
Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi

tại trường mầm non"
.
Tôi tiến hành khảo sát thực trạng mức độ nhận thức của trẻ về kỹ năng
sống trong một số hoạt động tại lớp. Việc khảo sát kỹ năng sống của trẻ là một
việc làm vô cùng cần thiết giúp trẻ hứng thú tham gia các hoạt động hàng ngày.
Việc nắm rõ được khả năng thực hiện kỹ năng của trẻ sẽ giúp giáo viên có kế
hoạch thực hiện chính xác, phù hợp với khả năng của trẻ để kết quả thực hiện
cao hơn. Chính vì vậy, tơi nhận thấy để thực hiện đề tài đạt được kết quả cao cần
khảo sát khả năng của trẻ cụ thể. Như vậy hiệu quả của việc gây hứng thú trong
các hoạt động dạy kỹ năng sống cho trẻ sẽ đạt kết quả cao hơn.
Với điều kiện cơ sở vật chất của lớp và kỹ năng, năng lực của trẻ, tôi đã lập
một bản khảo sát cụ thể trẻ đầu năm như sau:
+ Bảng khảo sát đầu năm thực trạng kỹ năng sống của trẻ khi tới lớp
(Bảng 1: Bảng khảo sát trẻ đầu năm học – Phụ lục 1)


8
Qua cuộc khảo sát tơi nhận thấy rằng trẻ có kiến thức về kỹ năng sống chưa
đồng đều, còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy việc giáo dục trẻ có ý thức rèn luyện
kỹ năng sống là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình hình
thành và phát triển toàn diện nhân cách của trẻ .
III. Các biện pháp tiến hành
1. Biện pháp 1: Xác định nội dung giáo dục kỹ năng sống phù hợp độ
tuổi để dạy trẻ ngay từ đầu năm học.
Là một giáo viên mầm non, hàng ngày trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ.
Ngồi việc cung cấp dạy kiến thức cho các con ở các mơn học, các hoạt động
trong ngày, các cơ cịn giúp trẻ hình thành nhân cách, ứng xử với con người, với
thiên nhiên. Đặc biệt là những cô giáo lớp nhà trẻ từ 24 - 36 tháng sẽ giúp trẻ
những kiến thức ban đầu về kỹ năng sống, giúp trẻ phát triển hài hòa cân đối
giữa các mặt để khi lớn tuổi hơn trẻ không bỡ ngỡ, xa lạ trước những cuộc sống

khác lạ xung quanh. Trẻ sẽ học tốt nhất khi có được một cách tiếp cận cân bằng
về các mặt , các kỹ năng nhận thức, tình cảm quan hệ xã hội, các hành vi ứng xử
cơ bản với bạn bè, cơ giáo. Trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả năng vào
việc tập trung tiếp thu các kiến thức ở từng môn học một cách tốt nhất.
Nhiều người đặt ra câu hỏi “Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ ở độ tuổi 24-36
tháng có quá sớm, liệu bản thân trẻ có thực hiện được khơng?” chẳng có gì là
sớm vì xung quanh trẻ có rất nhiều kỹ năng cần thiết. Quan trọng là tùy theo lứa
tuổi của trẻ mà giáo viên cần có nhiệm vụ lựa chọn xác định được kỹ năng cơ
bản phù hợp với lứa tuổi của 24-36 tháng tuổi, cụ thể như sau:
*Về mặt kỹ năng của trẻ tôi xác định một số kỹ năng:
+ Kỹ năng tự phục vụ cho bản thân: Trẻ biết cất đồ dùng gọn gàng đúng
nơi quy định như: Cặp, dép, ghế ngồi...biết lấy cốc, khăn để dùng. Một trong
những kỹ năng quan trọng cần rèn luyện cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng tuổi đó
chính là tự phục vụ bản thân. Kỹ năng này có thể dạy cho trẻ từ khi bé bắt đầu
bước vào lớp nhà trẻ 24-36 tháng tuổi. Khi tập cho trẻ thói quen tham gia lao
động sớm với những công việc phù hợp như: Cho trẻ tự sắp xếp cất đồ chơi sau
khi chơi xong, tự biết đi vệ sinh khi có nhu cầu…nên để trẻ tự chủ động với
cơng việc của mình, người lớn chỉ đứng giám sát bên cạnh mà thôi. Việc xây
dựng kỹ năng sống tự phục vụ này có phần khó khăn và địi hỏi sự kiên nhẫn từ
người giáo dục trẻ. Khi trẻ tự phục vụ bản thân mình, trẻ sẽ hiểu thêm về giá trị
của lao động. Đồng thời, giúp trẻ hình thành kỹ năng tự phục vụ và vận động tay
chân linh hoạt khỏe mạnh hơn.
+ Kỹ năng ăn uống, vệ sinh cá nhân: Biết tự xúc cơm ăn, ăn hết xuất khi ăn
cơm không làm rơi vãi, biết đi vệ sinh đúng nơi quy định.


9
+ Kỹ năng chào hỏi, giao tiếp: Chào hỏi cô, bố mẹ, các bạn khi đi học và
khi ra về. Biết lắng nghe cơ nói và trả lời câu hỏi của cô khi được hỏi. Trẻ mạnh
dạn khi giao tiếp với mọi người. Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và

diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí,
kiến thức của mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kỹ năng cơ bản và
khá quan trọng đối với trẻ, nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng
hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ dễ dàng học và sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ
mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẵn sàng học mọi thứ.
+ Kỹ năng sống tự tin: Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần
chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận
được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người
khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ ln cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở
mọi nơi. Tự tin ở trẻ nhà trẻ chính là việc trẻ luôn mạnh dạn thể hiện khả năng
của mình trong các mối quan hệ xã hội. Chính sự tự tin giúp trẻ không ngại việc
khám phá những điều mới mẻ, thú vị trong cuộc sống hàng ngày. Kỹ năng tự tin
chính là “nền móng” ban đầu hỗ trợ trẻ trau dồi, tiếp thu thêm kiến thức và kinh
nghiệm. Tự tin cịn giúp trẻ hình thành thói quen đối mặt và vượt qua những khó
khăn trong cuộc sống hiện tại và sau này.
+ Kỹ năng sống hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên
giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với
trẻ lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc
với các bạn.
+ Kỹ năng thích tị mị, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong
những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát khao
được học. Giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi
tính tị mị tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện, các
hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là
những thứ có thể đốn trước được.
*Về mặt nhận thức:
+ Trẻ thích tị mị và ham hiểu biết, thích khám phá thế giới xung quanh.
+ Trẻ biết được việc mình vừa làm sai, làm cô giáo và bạn không vui.
+ Trẻ nhận biết được tên tuổi của mình, kể về các thành viên trong gia đình
và địa chỉ gia đình, biết được tên những người xung quanh khi được hỏi đến.

* Về mặt hợp tác:
+ Trẻ biết kết hợp với bạn khi chơi.
+ Trẻ biết đoàn kết nhường nhịn và quan tâm nhau trong khi chơi.


10
+ Trẻ hình thành thói quen tính cách thái độ cư xử đúng mực với bạn và
mọi người xung quanh.
Sau khi xác định được kỹ năng của trẻ, căn cứ vào tình hình thực tế của
trường, điều kiện cơ sở vật chất, đặc thù của vùng, của phụ huynh, tôi đã xây
dựng thiết kế cuốn cẩm nang giáo dục kỹ năng sống cho trẻ . Trong cuốn cẩm
nang tôi đã đưa các bài kỹ năng sống vào kế hoạch trọng tâm từng tháng và lồng
ghép vào nội dung giáo dục trẻ như sau:
(Bảng 2: Bảng lựa chọn kỹ năng sống cho trẻ theo kế hoạch tháng – Phụ lục 1)
Qua việc dạy trẻ các kỹ năng sống, các quá trình tâm lý của trẻ cũng phát
triển hơn như: trí nhớ, ngôn ngữ, tư duy..., sẽ giúp trẻ tiếp thu kiến thức từ các
môn học tốt hơn và khả năng ghi nhớ của trẻ sẽ nhanh hơn.
2. Biện pháp 2: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ trong các hoạt động và
ở mọi lúc mọi nơi.
Qua việc nghiên cứu sách, báo, tài liệu tham khảo, tình hình của lớp, đặc
điểm tâm lý của trẻ tơi đã lựa chọn được các hình thức để lồng ghép đan xen
cung cấp kỹ năng sống cho trẻ lớp tôi. Giáo viên là người giữ vai trò quan trọng
và là người trực tiếp truyền dạy những kinh nghiệm sống cho trẻ thì việc đầu
tiên đó là cô giáo phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử cơng bằng với
trẻ và đảm bảo an tồn cho trẻ.
*Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua giờ đón trẻ:
Tơi đã giáo dục trẻ kỹ biết sắp xếp đúng nơi quy định, khi đến lớp xếp dép
lên giá dép, mang đồ dùng vào tủ của mình... Những ngày đầu đi học khi được
cô giáo hướng dẫn trẻ cất dép lên giá để cho gọn gàng ngăn nắp, từ đó hình
thành cho trẻ thói quen nên trẻ đã tự giác cất dép như thế nào cho đúng quy định

khi bước chân vào lớp
(Hình ảnh 1: Cất dép đúng nơi quy định trước khi vào lớp - Phụ lục 2)
(Hình ảnh 2: Trẻ cất ba lô vào đúng tủ của mình - Phụ lục 2)
Qua kỹ năng tự cất ba lơ của trẻ để trẻ biết được đó là ngăn tủ của mình để
đựng đồ dùng cá nhân của mình hàng ngày, trên đó cơ giáo có dán tên và ký
hiệu để trẻ dễ nhớ và nhận ra tủ của mình
Ngồi ra trong nghi thức văn hóa có văn hóa chào hỏi: hình thức này sẽ
giúp trẻ có nhiều kiến thức về kỹ năng giao tiếp giúp trẻ có những cách xưng hơ
phù hợp qua việc trị chuyện hàng ngày cùng cô giáo hay việc tôi đưa câu hỏi
cho trẻ trả lời:
+ Con chào bạn như thế nào?
+ Con chào bố, mẹ, ơng, bà ra sao?
(Hình ảnh 3: Trẻ chào bố mẹ khi đến lớp - Phụ lục 2)



×