Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

(Skkn 2023) một số biện pháp xây dựng tập thể lớp vững mạnh trong công tác chủ nhiệm lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.75 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đất nước ta trong thời kỳ cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa địi hỏi nền giáo
dục phải phát triển toàn diện về mọi mặt. Để phù hợp với sự phát triển đó mỗi
con người phải không ngừng học tập và rèn luyện. Môi trường giáo dục giúp
con người phát triển toàn diện cả về đức, trí, thể, mĩ,…
Tiểu học là bậc nền tảng, là nền móng cho hệ thống giáo dục, đặt cơ sở ban
đầu cho sự hình thành và phát triển nhân cách của học sinh sau này. Giáo viên
chủ nhiệm lớp ở Tiểu học đóng vai trị hết sức quan trọng trong việc hình thành
cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ…và các kĩ năng sống cơ bản trong cuộc sống để
học sinh tiếp tục học lên các bậc học khác, để đào tạo được những con người có
ích, có tài cho xã hội đáp ứng được tình hình thực tế hiện nay, chúng ta cần có
sự phối hợp giáo dục của tồn xã hội, những người đóng vai trị trung tâm - cầu
nối của mối quan hệ trong xã hội chính là người giáo viên đặc biệt là giáo viên
Tiểu học.
Là một giáo viên chủ nhiệm lớp, tôi luôn tâm niệm rằng dạy dỗ, giáo dục
các em trở thành những con người có ích trong xã hội, để xứng đáng với những
hình ảnh đẹp mà xã hội ban tặng như đồng chí Phạm Văn Đồng đã nói: “ Nghề
dạy học là nghề cao quý nhất trong tất cả các nghề cao quý vì nó sáng tạo ra
những con người sáng tạo”. Bản thân tơi nhận thấy rằng người giáo viên chủ
nhiệm lớp đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc hướng dẫn, chỉ đạo và đào
tạo thế hệ trẻ theo mục đích giáo dục tồn diện. Người giáo viên chủ nhiệm lớp
đóng rất nhiều vai trị: vừa là người cơ, người thầy dạy học vừa là người cha,
người mẹ và có lúc phải là người bạn thân thiết của các em.
Xác định được những yêu cầu trên, để thấy rõ vai trò của người giáo viên
chủ nhiệm cần phải biết chú trọng đến các biện pháp trong công tác chủ nhiệm
lớp nhằm nâng cao chất lượng về mọi mặt của học sinh và để thực hiện tốt mục
tiêu chiến lược Giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước. Vì vậy tơi đã tìm hiểu
và nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp xây dựng tập thể lớp vững mạnh
trong công tác chủ nhiệm lớp 2”.


2. Mục đích nghiên cứu
Giúp học sinh có sự phát triển đúng đắn, lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thẩm
mĩ, nâng cao chất lượng dạy và học ở Tiểu học. Góp phần thực hiện tốt mục tiêu
giáo dục tiểu học và góp phần thực hiện tốt mục tiêu của ngành, cấp trên giao
cho.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh lớp 2A5 - Trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh.


2

- Các biện pháp nhằm xây dựng tập thể lớp vững mạnh.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề về cơ sở lý luận để làm cơ sở lý luận nghiên
cứu cho đề tài
- Điều tra thực trạng của việc xây dựng tập thể lớp vững mạnh.
- Đề xuất một số biện pháp xây dựng tập thể lớp vững mạnh nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp thống kê, đối chiếu, so sánh…
6. Phạm vi thời gian nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu: Quá trình thực hiện công tác chủ nhiệm lớp 2. Năm
học 2020 - 2021
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2020 đến tháng 4 năm 2021.


3


NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của đề tài
1.1. Một số căn cứ khoa học của đề tài:
1.1.1. Cơ sở giáo dục học
Trong quá trình giáo dục tiểu học, cần giáo dục học sinh trong tập thể và
bằng tập thể. Nói vậy là vì tập thể học sinh vừa là môi trường giáo dục vừa là
phương tiện giáo dục.
Tập thể học sinh tiểu học là môi trường giáo dục bởi:
- Nó là tập hợp có tổ chức chặt chẽ của học sinh với bộ máy tự quản riêng,
với mục đích thống nhất, với những hoạt động chung.
- Nó tạo nên được một dư luận xã hội lành mạnh có tác dụng định hướng,
điều chỉnh và đánh giá hành vi của các thành viên.
- Nó tạo nên được một phong độ tập thể: phấn khởi, hoạt bát, hăng hái, tích
cực, sẵn sàng hoạt động, cảm giác về phẩm chất cá nhân đại diện cho những giá
trị tập thể; tự hào về tập thể của mình, đồn kết giữa mọi thành viên, cảm giác
được tập thể bảo vệ khi cá nhân bị đe dọa, có thói quen tự kiềm chế về mặt hành
động, lời nói, cảm xúc…
Tập thể học sinh tiểu học, mặt khác, cịn là phương tiện giáo dục vì nó tạo
ra được những tác động tích cực đối với các thành viên, cụ thể là:
- Nó giúp cho các thành viên biến yêu cầu giáo dục khách quan từ phía nhà
trường, từ phía giáo viên thành yêu cầu giáo dục chủ quan của tập thể và của
mỗi thành viên; bên cạnh đó, nó cịn tự đề ra những u cầu giáo dục cho các
thành viên của mình.
- Nó tổ chức các hoạt động tập thể theo tinh thần tự quản, tạo cơ hội và
điều kiện cho các thành viên tự rèn luyện, biến những yêu cầu giáo dục thành
hành vi và thói quen hành vi tương ứng.
- Nó tiến hành điều chỉnh hành vi và thói quen hành vi sao cho phù hợp với
những yêu cầu giáo dục.
- Nó đánh giá và tạo điều kiện cho mỗi thành viên tự đánh giá kết quả rèn

luyện hành vi và thói quen hành vi.
1.1.2. Cơ sở tâm lí học
Phần lớn học sinh tiểu học có nhiều nét tính cách tốt như lịng vị tha, tính
ham hiểu biết, tính hồn hiên, tính chân thực, lòng thương người… Hồn nhiên
trong quan hệ với người lớn, với thầy cô giáo, bạn bè. Hồn nhiên nên rất cả tin:
tin vào sách vở, tin vào người lớn, tin vào khả năng của bản thân.
Tất nhiên, niềm tin này cịn cảm tính, chưa có lý trí soi sáng. Người giáo
viên nên tận dụng niềm tin này để giáo dục cho các em. Thầy giáo cô giáo phải
làm mẫu đúng, lời nói phải đi đơi với việc làm. Nhiệm vụ của gia đình và nhà


4

trường là giáo dục thế nào cho các em dần dần hết “ngây” nhưng còn giữ được
chất “thơ”.
Học sinh tiểu học cịn chưa biết kiềm chế những tình cảm của mình, chưa
biết kiểm sốt sự thể hiện tình cảm ra bên ngồi. Các em bộc lộ tình cảm của
mình một cách hồn nhiên, chân thật. Nhưng cũng vì đặc điểm này, đôi khi các
em cười, reo, nhấp nhổm làm mất trật tự trong giờ học. Từ đặc điểm này, trong
dạy học và giáo dục, chúng ta cần khơi dậy những cảm xúc tự nhiên của học
sinh tiểu học, đồng thời khéo léo, tế nhị rèn luyện cho các em khả năng tự làm
chủ tình cảm của mình, khơng được đè nén hoặc có những lời nói, việc làm gây
xúc động mạnh (lo sợ, buồn bực, uất ức) hoặc hưng phấn.
Tình cảm của học sinh tiểu học còn mong manh, chưa bền vững, chưa sâu
sắc.
Dựa trên những đặc điểm tình cảm của học sinh tiểu học, có thể rút ra một
vài đặc điểm về phương pháp giáo dục tình cảm cho các em.
- Muốn giáo dục tình cảm cho học sinh tiểu học phải đi từ những hình ảnh
trực quan, sinh động đó là con người thực việc làm thực. Hình ảnh trực quan gần
gũi, sinh động và tồn diện chính là tấm gương của thầy, cô giáo và cha mẹ.

- Muốn giáo dục tình cảm cho học sinh phải khéo léo, tế nhị khi tác động
đến các em. Yêu cầu này đặt ra cho giáo viên phải nắm được nhu cầu, sở thích,
nguyện vọng, ước mơ cũng như hồn cảnh riêng của các em.
- Tình cảm của học sinh tiểu học phải luôn được củng cố trong những hoạt
động cụ thể.
Điều cần chú ý đối với học sinh tiểu học là các em tiến hành hoạt động của
mình chỉ dựa vào các mục đích trước mắt, cịn các mục đích lâu dài thì các em
chưa thể hiểu được. Vì vậy khi xác định mục tiêu giáo dục cho học sinh, giáo
viên phải phân chia mục tiêu đó ra thành một số mục tiêu cụ thể, dễ hiểu và gần
gũi đối với các em.
1.2. Những yêu cầu để xây dựng tập thể lớp vững mạnh
Trong quá trình giáo dục tiểu học, muốn xây dựng một tập thể vững mạnh
cần tận dụng tập thể học sinh với tư cách vừa là môi trường, vừa là phương tiện
giáo dục, với những yêu cầu sau đây:
- Có ý nguyện chung, cùng thực hiện những mục đích thống nhất có ý
nghĩa xã hội.
- Thống nhất giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể; lấy lợi ích cá nhân làm
tác nhân thúc đẩy trực tiếp sự phát triển của mỗi thành viên; không rơi vào tình
trạng cực đoan: hoặc là quá chú ý đến lợi ích tập thể, coi nhẹ hoặc khơng quan
tâm đến lợi ích cá nhân, coi nhẹ hoặc khơng quan tâm đến lợi ích tập thể; song
khi cần thiết phải biết hi sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích tập thể.


5

- Đoàn kết thân ái giữa các thành viên trong tập thể, biết giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ, có dư luận tập thể lành mạnh, có phong độ tập thể; biết chia vui, sẻ buồn
cùng nhau.
- Có bộ máy tự quản do tập thể bầu ra, có đủ năng lực tổ chức và lãnh đạo
tập thể nhằm thực hiện ý chí và nguyện vọng chung.

Ngồi ra, giáo viên phải là người tổ chức các hoạt động tập thể mạng lại tác
dụng giáo dục. Tác dụng giáo dục này chỉ được mang lại khi các hoạt động tập
thể:
- Có mục đích và mục tiêu giáo dục cụ thể, rõ ràng, chính xác.
- Có nội dung phong phú liên quan đến nhiều lĩnh vực và có hình thức hấp
dẫn.
- Thu hút mọi học sinh tham gia và có sự phân cơng cho từng thành viên
một cách vừa sức, đảm bảo cho mỗi thành viên hồn thành tốt nhiêm vụ của
mình và chịu trách nhiệm trước tập thể về kết quả hoàn thành nhiệm vụ được
phân công.
- Cho học sinh tự quản; các em tự xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch
cũng như tự đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch dưới sự tổ chức, lãnh đạo của
giáo viên.
1.3. Những yêu cầu đối với người giáo viên chủ nhiệm lớp
Như chúng ta đã biết, trong nhà trường, mỗi thầy cô giáo là một tấm gương
cho học sinh học tập và noi theo. Giáo viên là lực lượng chính làm cơng tác giáo
dục học sinh trong nhà trường. Giáo viên có ảnh hưởng trực tiếp đến tập thể học
sinh và ngược lại. Đặc biệt đối với giáo viên chủ nhiệm, mức độ u cầu càng
cao hơn, tồn diện hơn. Khơng những phải tạo được sự ngưỡng mộ ở các em,
giáo viên chủ nhiệm còn là nơi để các em chia sẻ những buồn vui, một chỗ dựa
tinh thần vững vàng cho các em trong cuộc sống. Chính vì vậy, người giáo viên
chủ nhiệm phải thực hiện tốt các yêu cầu sau:
- Phải thực sự là người có nhân cách, có tinh thần trách nhiệm cao trong
công tác giáo dục, tất cả vì lợi ích học sinh.
- Có tác phong mẫu mực, phẩm chất đạo đức tốt, có lối sống giản dị, trong
sáng, luôn tận tâm với nghề nghiệp, không vụ lợi cho cá nhân mình, phải thực sự
yêu nghề mến trẻ.
- Phải có năng lực sự phạm và khả năng tác động đến quá trình giáo dục
học sinh.
- Người giáo viên phải ln xây dựng và duy trì tốt các mối quan hệ có sự

phối hợp chặt chẽ với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường và ngoài xã hội,
phải có năng lực giao tiếp.
2. Cơ sở thực tiễn


6

2.1. Thực trạng của cơng tác chủ nhiệm
Có thể thấy hầu hết các giáo viên chủ nhiệm đều làm tốt cơng tác chủ
nhiệm lớp, nhiệt tình trong giảng dạy và giáo dục học sinh. Tuy nhiên đâu đó
vẫn cịn một số giáo viên chưa thật nhiệt tình, tâm huyết với công tác chủ nhiệm
hoặc suy nghĩ cũng chỉ dạy lớp đó một năm sang năm lại giáo viên khác dạy,
cũng có một số giáo viên đặc biệt là giáo viên trẻ mới ra trường còn thiếu kinh
nghiệm nên còn lúng túng trong việc tổ chức, quản lí lớp học. Vào đầu mỗi năm
học, một số giáo viên chủ nhiệm cũng đã có tiến hành khảo sát, điều tra các đối
tượng học sinh nhưng chỉ mới dừng lại ở mức theo yêu cầu và theo mẫu biểu
bảng ở sổ chủ nhiệm, chưa đi sâu đi sát vào từng đối tượng cụ thể để đưa ra
những biện pháp giáo dục phù hợp.
Một số giáo viên chưa có kinh nghiệm trong việc xây dựng, chỉ đạo bộ máy
quản lí lớp có năng lực để giúp đỡ, hỗ trợ giáo viên trong quá trình quản lí, chỉ
đạo lớp. Việc phối kết hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với gia đình học sinh và
các đồn thể khác còn chưa thường xuyên, liên tục. Chưa chú trọng cho học sinh
học tập một cách nghiêm túc nội quy của nhà trường, của lớp. Một số giáo viên
chủ nhiệm còn xem nhẹ tầm quan trọng của một giờ sinh hoạt lớp vào cuối tuần.
2.2. Thực trạng học sinh lớp 2A5 năm học 2020 – 2021
Năm học 2020 – 2021, tôi được giao làm công tác chủ nhiệm và giảng dạy
tại lớp 2A5, lớp có tổng số học sinh là 46 em, trong đó có 18 học sinh nữ và 28
học sinh nam. Lớp học khơng đều, có nhiều em học khá, thông minh, cha mẹ
quan tâm… Nhưng cũng có một số em chậm hiểu, viết chữ chưa đẹp, bố mẹ ít
quan tâm, chăm sóc. Một số em nam rất nghịch và hiếu động, đặc biệt đáng lo

ngại là thói quen tự học, tự đọc bài trước khi đến lớp của một số em chưa tốt.
Trong lớp, phần lớn cha mẹ các em làm nông nghiệp hay buôn bán nhỏ, do
cịn bận rộn cơng việc làm ăn nên cha mẹ các em chưa thật sự quan tâm đến việc
học hành của con cái. Trình độ học vấn của họ còn hạn chế nên họ còn những
suy nghĩ lạc hậu, phó mặc con cho cơ giáo và nhà trường.
2.3. Những thuận lợi và khó khăn
2.3.1. Thuận lợi:
* Về phía nhà trường:
- Trang bị đầy đủ về cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học hiện đại tạo mọi điều
kiện tốt nhất cho việc dạy và học.
- Luôn nhận được sự giúp đỡ quan tâm và chỉ đạo sát sao của Ban Giám
Hiệu trường: tổ chức các phong trào thi đua, thao giảng, dự giờ hàng tháng, tổ
chức những buổi học chuyên đề thảo luận về chuyên môn để rút ra những ý kiến
hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy và công tác
chủ nhiệm.


7

* Về phía giáo viên:
- Giáo viên có đủ trình độ chuyên môn, được đào tạo đạt chuẩn.
- Hầu hết đều nhiệt tình, có trách nhiệm trong cơng việc, chịu khó học hỏi,
trau dồi chun mơn.
- Giáo viên tham gia đầy đủ các buổi tập huấn, dự chuyên đề đổi mới
phương pháp dạy học và áp dụng những phương pháp đó vào trong thực tế dạy
học.
* Về phía học sinh:
- Hầu hết học sinh đều ngoan, biết vâng lời cô giáo.
- Nhiều em nhanh nhẹn, thông minh, sức học khá.
- Học sinh có đủ đồ dùng học tập.

- Học sinh ở gần địa bàn trường học, tập trung ở khu dân cư gần nhau.
- Một số phụ huynh quan tâm đến việc học của con.
2.3.2. Khó khăn:
* Về phía giáo viên:
- Một số giáo viên còn lúng túng trong việc tổ chức, quản lí lớp học.
* Về phía học sinh:
- Một số em tiếp thu chậm.
- Một số học sinh còn nhút nhát, thiếu mạnh dạn, tự tin.
- Các em cịn chưa chăm học.
- Ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường của các em cịn hạn
chế.
- Trong lớp có một số học sinh cịn hiếu động, thiếu tập trung: Nguyễn Tiến
Đạt, Vũ Duy Hưng, Trần Thế Bảo…
* Qua việc khảo sát đánh giá học sinh lớp 2A5 đầu năm như sau:
TS
HS
46

HS tiếp thu
kiến thức khá
nhanh

HS tiếp thu
kiến thức
trung bình

HS tiếp
thu kiến
thức chậm


HS chấp hành
tốt nội quy của
trường, lớp

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

24

52,2

16

34,8

6


13

30

65,2

HS chưa chấp
hành tốt nội
quy của
trường, lớp
SL
%
16

34,8

- Cịn có 2 trường hợp học sinh khuyết tật học hòa nhập là em: Nguyễn
Minh Trang (rối loạn phổ tự kỷ), tiếp thu kiến thức chậm, kĩ năng sống còn hạn
chế nhiều, em Hồng Duy Hưng (khuyết tật trí tuệ), tiếp thu kiến thức chậm,
hiếu động.
2.4. Nguyên nhân tồn tại
Qua tìm hiểu và đánh giá tơi nhận thấy:


8

- Một số giáo viên trẻ mới ra trường còn thiếu kinh nghiệm nên còn lúng
túng trong việc tổ chức, quản lí lớp
- Khả năng tập tiếp thu nhận thức của học sinh còn hạn chế.
- Ý thức thi đua trong các em chưa được khơi dậy.

- Học sinh chưa xây dựng được quan hệ thân thiện, hợp tác.
- Trình độ học vấn của nhiều bậc phụ huynh còn thấp. Đa số phụ huynh ít
quan tâm đến việc học của con cái.
- Phụ huynh ít gặp gỡ giáo viên để trao đổi việc học tập, sinh hoạt của con
em mình ở trường cũng như ở nhà.
- Là lớp học 2 buổi/ngày nên hầu như phụ huynh phó mặc con cho cô giáo.
3. Một số biện pháp xây dựng tập thể lớp vững mạnh
3.1. Biện pháp 1: Tiến hành điÒu tra cơ bản học sinh ca lp u nm
hc
Trong quỏ trỡnh tìm hiểu, điều tra giúp tơi nắm được hồn cảnh, học lực,
những ưu điểm hạn chế cũng như tính tình sở thích của từng học sinh. Từ đó tơi
xây dựng cho mình một kế hoạch và giảng dạy cho phù hợp với đối tượng. Như
vậy, tơi có thể điều phối cơng việc của mình một cách phù hợp.
Sau khi nhận lớp, tơi đã tiến hành ngay việc tìm hiểu hồn cảnh học sinh
qua phiếu điều tra. Tôi phát cho mỗi em một phiếu điều tra và yêu cầu các em
điền đầy đủ thông tin trong phiếu.
Thông qua điều tra, tôi đã tìm hiểu được lí lịch của từng học sinh: gia đình,
bố mẹ, nghề nghiệp, trình độ, nơi ở … cụ thể như sau:
Tổng số học sinh: 46 (nam: 28, nữ: 18).
+ 45/46 học sinh đúng độ tuổi (sinh năm 2013), 1/46 học sinh sinh năm
2012 do sống cùng gia đình bên nước ngồi đến năm 7 tuổi trở về nước mới bắt
đầu học lớp 1.
+ 2/46 học sinh nhà ở xa trường.
+ 16/46 học sinh là con thứ nhất trong gia đình.
+ 23/46 học sinh là con thứ hai trong gia đình.
+ 6/46 học sinh là con thứ ba trong gia đình.
+ 1 học sinh bố mất sớm (Phạm Minh Ngọc)….
Để hiểu rõ hơn về hồn cảnh gia đình, về những thành viên trong gia đình
các em, ngay từ khi nhận lớp, tơi đã trao đổi trị chuyện trực tiếp hoặc gián tiếp
thông qua các buổi sinh hoạt tập thể, hoạt động ngoài giờ lên lớp hoặc trong các

giờ sinh hoạt lớp hay các giờ ra chơi. Qua đó, tơi nắm bắt được hồn cảnh của
một số học sinh với các chi tiết nhỏ nhưng chi phối các em rất nhiều:
- Em Nguyễn Gia Bảo: Bố mẹ li dị, em ở với bà nội và bố. Công việc của
bố không ổn định, thu nhập thấp, thường xuyên phải đi làm ca nên khơng có thời


9

gian bảo ban, chăm sóc em. Tuy nhiên, Gia Bảo là một cậu bé ngoan ngỗn
nhưng thiếu thốn tình cảm và sự quan tâm sát sao của mẹ. Năm học này việc
học tập có vẻ giảm sút, tâm trạng hay buồn.
- Em Nguyễn Minh Trang là học sinh khuyết tật học hịa nhập, em ở với
ơng bà ngoại, bố mẹ thì đi làm xa lại ít có thời gian về thăm con nên ít có thời
gian bảo ban chăm sóc con. Khả năng tiếp thu kiến thức và kĩ năng sống của em
cịn hạn chế.
Bên cạnh những học sinh có hồn cảnh đặc biệt đó, cũng có một số học sinh
gia đình khá giả, bố mẹ quan tâm đến việc học hành của con như:
- Em Nguyễn Như Quỳnh: Bố là lái xe, mẹ là kế tốn. Nhà chỉ có hai chị em,
bố mẹ quan tâm nên em học tốt, tiếp thu bài nhanh, viết chữ đẹp.
- Em Nguyễn Thanh Tâm: Bố là công nhân, mẹ là giáo viên nên sự quan tâm,
chăm sóc em rất chu đáo.
- Ngồi ra cịn có gia đình các em: Thùy Chi, Bảo Trân, Bảo Sơn, Minh
Khuê… cũng có sự quan tâm đến việc học hành của các em.
Nhiệm vụ điều tra cơ bản của tơi đã hồn thành và có nhiều thuận lợi. Việc
đó có tác dụng:
- Giáo viên chủ nhiệm đã có tư liệu để triển khai giáo dục cả lớp cũng như
đối với từng em.
- Cha mẹ học sinh cảm động, phấn khởi, tin tưởng vào những kế hoạch sắp
tới của nhà trường, của giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc giáo dục con em họ.
- Học sinh tin yêu, gần gũi, cởi mở đối với giáo viên, các em đã tâm sự với

cơ giáo nhiều hơn về gia đình và bản thân mình.
Song có lẽ tác dụng sâu sắc nhất của việc tìm hiểu thâm nhập vào đời sống,
tâm hồn học sinh là từ ấy tình yêu thương học sinh của tơi khơng cịn là chung
chung, khơng cịn là cảm giác. Tơi thấy u thương, gắn bó với các em hơn,
ln mong mỏi mình sẽ làm tất cả để giúp đỡ các em ngày càng tiến bộ.
3.2. Biện pháp 2: Hình thành và xây dựng tổ chức tập thể lớp
Để giúp học sinh thuận lợi trong quá trình học tập, vui chơi cũng như bồi
dưỡng, củng cố tình cảm, tình đoàn kết của các em và nâng cao ý thức tự giác,
phát huy thế mạnh của từng học sinh.
Nắm được đặc điểm, cá tính cũng như khả năng của từng học sinh, tơi
tiến hành sắp xếp vị trí ngồi học, thành lập tổ học tập, nhóm đơi bạn cùng tiến.
Cụ thể:
3.2.1. Sắp xếp vị trí ngồi trong lớp
Việc sắp xếp chỗ ngồi trong lớp phụ thuộc vào thể lực, thị lực, tính cách và
sức học của từng học sinh. Tơi đã cố gắng sắp xếp vị trí sao cho em nào cũng có
thuận lợi trong việc học tập. Tuy nhiên, trong một năm học tơi lại thay đổi vị trí


10

ngồi của các em theo từng tháng. Như vậy các em sẽ được giao lưu, quan tâm,
chia sẻ, bàn bạc với nhiều bạn học cùng lớp đồng thời tránh cho mắt các em bị
nhìn lệch. Từ đó củng cố tình cảm của của các em với nhau.
3.2.2. Thành lập tổ học tập
Lớp được chia thành 4 tổ, mỗi tổ có 6 bàn. Trong từng tổ đều có tổ trưởng,
theo dõi, nhắc nhở mọi hoạt động nề nếp học tập, sinh hoạt…của các thành viên.
Như vậy, tổ có vai trị vơ cùng quan trọng, đó là một đơn vị lớn trong lớp
để xây dựng một tập thể vững mạnh dưới sự phân công của cô giáo chủ nhiệm
và của lớp trưởng. Chính nhờ có sự phân chia thành đơn vị “Tổ” và sự phân
công rõ ràng mà việc theo dõi ý thức và các hoạt động học tập của từng cá nhân

học sinh được sát sao, chặt chẽ và mang tính khoa học. Thực tế thời gian qua, tôi
luôn phát động thi đua giữa các thành viên trong tổ, giữa các tổ với nhau. Tôi
nhận thấy rằng các em hưởng ứng rất sơi nổi, ln có ý thức cố gắng xây dựng
nhóm mình thật tốt. Các em hiểu được danh dự của tổ, của lớp cũng chính là
danh dự của mình từ đó có trách nhiệm rất cao đối với cơng việc được giao và
những cơng việc mình làm. Qua đó, tơi thấy được mặt tích cực, ưu điểm của
việc phân chia nhóm dựa trên đặc điểm tâm lí lứa tuổi, khả năng và tính cách
của từng học sinh cũng như việc luôn đề ra những mục tiêu thi đua, rèn luyện để
các tổ, mỗi cá nhân phấn đấu như vào mỗi buổi sinh hoạt cuối tuần, các tổ
trưởng báo cáo kết quả theo dõi về học tập, nề nếp... Đối với những tổ có thành
tích sẽ nhận được cờ thi đua. Điều này tạo cho các em có động lực để cùng nhau
phấn đấu hay để hưởng ứng tháng thi đua chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam
20-11, tôi đã phát động học sinh thi đua học tập, thi làm bưu thiếp, với những
bưu thiếp đẹp, sáng tạo sẽ được chọn để trưng bày trên tấm bưu thiếp lớn của
lớp để thi với các lớp khác trong khối. Việc làm đó giúp tơi thấy được những
điểm mạnh, năng khiếu, sự quyết tâm… của các em.
Dựa trên cơ sở này mà phát huy được tính tích cực, sáng tạo của ban cán bộ
trong lớp cũng như mỗi cá nhân học sinh.
3.2.3. Thành lập nhóm đơi bạn cùng tiến
Ngồi hình thức chia lớp thành nhóm tổ thì tơi cịn có hình thức khác là
phân theo nhóm đơi. Mỗi một nhóm sẽ có 2 bạn. Một bạn học khá, giỏi sẽ kèm
cặp 1 bạn học trung bình, yếu.
Như vậy cũng như tổ, nhóm cũng có vai trị quan trọng trong việc thúc đẩy
các thành viên trong nhóm cùng tiến bộ.
Phát huy vai trị của nhóm, tơi nắm bắt được cá tính, năng lực riêng biệt
của mỗi học sinh và phát huy thế mạnh đó ở mỗi em. Ngồi ra, sự hoạt động của
nhóm cịn giúp tơi thấy rõ sự thay đổi, tiến bộ hay chưa tiến bộ ở mỗi học sinh
của mình, từ đó có biện pháp quan tâm, giáo dục động viên kịp thời, hợp lí.



11

Việc hình thành và xây dựng các tổ chức tập thể là tổ và nhóm có tác dụng
lớn đối với công tác chủ nhiệm lớp. Thông qua thực tế, tôi thấy việc phát huy
vai trị của nhóm và vai trị của tổ là rất phù hợp với lứa tuổi học sinh tiểu học.
Các em được tự làm quen, tự kiểm tra đánh giá mọi hoạt động của chính bản
thân và của bạn, từ đó tự trau dồi và rèn luyện bản thân, phấn đấu vươn lên, có ý
thức tự giác, tinh thần tập thể cao. Tất cả những điều đó đã hỗ trợ rất lớn cho
việc học tập và tham gia các phong trào thi đua của lớp.
3.3. Biện pháp 3: Khích lệ học sinh tích cực tham gia các phong trào
thi đua
Để giúp học sinh có ý thức thi đua và hào hứng tham gia vào các phong
trào, các hoạt động của nhà trường, của Đội và có thêm hiểu biết và thực hành
các kĩ năng sống, tôi đã phát động và tổ chức các phong trào thi đua.
3.3.1. Phong trào “Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp”
Như chúng ta đã biết học sinh tiểu học thường hiếu động, thiếu kiên trì, khó
thực hiện các động tác địi hỏi sự khéo léo, cẩn thận. Chính vì thế người giáo
viên phải có đức tính kiên trì, tận tình. Sự nhiệt tâm, chu đáo của giáo viên là
một trong những yếu tố đảm bảo sự thành công của việc rèn chữ cho các em.
Tạo cho học sinh có ý thức, say mê rèn chữ, giữ vở là hết sức quan trọng. Quá
trình lĩnh hội và thể hiện chữ viết ở các em sẽ diễn ra rất nhanh nếu các em viết
với tâm lí vui vẻ, phấn chấn.
Để đạt được như vậy, tôi đã cho học sinh nhận thức được rằng: Việc rèn
chữ, giữ vở là nhiệm vụ bắt buộc của bản thân. Tôi cũng đã kể cho các em nghe
những gương sáng về việc rèn chữ của “ Thần Siêu”, Nguyễn Bá Ngọc” , các
anh chị của trường đã đạt giải chữ đẹp cấp huyện, cấp thành phố.
Tôi thường động viên, khen thưởng kịp thời các em có tiến bộ về chữ viết,
đồng thời cũng nghiêm khắc với các em viết ẩu. Với học sinh, tơi cịn quan tâm
tới tư thế ngồi viết, cách cầm bút, đặt vở để các em có thể viết nhanh, viết đẹp.
Làm tốt điều này các em còn tránh được bệnh cận thị và cong vẹo cột sống.

Sau hơn 3 tháng, số vở xếp loại A đạt gần 80%. Có những em nét chữ hồn
tồn thay đổi.
3.3.2. Phong trào kế hoạch nhỏ và công tác từ thiện
Hằng năm, Đội TNTP Hồ Chí Minh đều phát động phong trào kế hoạch
nhỏ. Chính vì thế, ngay từ đầu năm, tôi đã phổ biến phong trào và hướng dẫn
các em cách thu gom giấy vụn. Đồng thời, tôi đã đặt một chiếc thùng giấy ở góc
lớp để hằng ngày các em bỏ giấy vụn, giấy nháp đã dùng hết vào. Tôi luôn nhắc
nhở các em không được vứt giấy rác ra lớp. Dần dần học sinh có ý thức, luôn
vứt giấy rác vào thùng. Đến khi nhà trường yêu cầu nộp kế hoạch nhỏ, ngoài


12

giấy của học sinh đóng góp thì thùng giấy của lớp cũng được khoảng 15 kg
trong 4 tháng. Nhờ vậy, lớp tôi luôn vượt chỉ tiêu mà nhà trường đề ra cho lớp.
Ngoài phong trào kế hoạch nhỏ, hàng năm các em còn tham gia các phong
trào làm từ thiện như: Tết cho bạn nghèo, ủng hộ người mù, khuyết tật, mua vở
ủng hộ quỹ nhân đạo của hội chữ thập đỏ huyện Thanh Trì. Do đó, ngay trước
các đợt từ thiện, tôi tuyên truyền vận động, kể cho các em nghe về những câu
chuyện của những bạn học sinh nghèo hiếu học, của những học sinh vùng lũ lụt
tâm sự và những đồng tiền quyên góp được đã mang lại điều gì tốt đẹp cho họ.
Sau khi được nghe chuyện, học sinh rất cảm động và hào hứng ủng hộ nên
phong trào từ thiện nào lớp tơi cũng hồn thành tốt.
Qua các phong trào này, tôi đã lồng vào giáo dục tình thương yêu, đùm
bọc, chia sẻ với những người xung quanh. Từ đó các em biết quan tâm đến các
bạn mình hơn, sẵn sàng chia ngọt, sẻ bùi với các bạn. Từ những việc làm trên đã
thu được kết quả rất khả quan.
+ Đợt 1 đã thu gom được 186 kg giấy vụn đạt 200%
+ Ủng hộ Tết cho bạn nghèo 750.000đ đạt 150%
+ Mua 237 gói tăm ủng hộ người mù đạt 250 %

+ Mua 201 quyển vở ủng hộ quỹ nhân đạo của hội chữ thập đỏ huyện
Thanh Trì đạt 200%
3.4. Biện pháp 4: Quan tâm bồi dưỡng, giáo dục các đối tượng học sinh
Để giúp học sinh hòa đồng với các bạn trong học tập cũng như trong sinh
hoạt. Nâng cao chất lượng học tập của học sinh cũng như năng lực tự quản của
các em.
3.4.1. Quan tâm đến giáo dục học sinh chậm tiến, có hồn cảnh đặc biệt
Để củng cố kết quả bước đầu thật vững chắc, đồng thời đẩy mạnh các mặt
khác đi lên, tôi đặc biệt quan tâm đến học sinh chậm tiến, học sinh có hồn cảnh
đặc biệt. Đối với những học sinh đặc biệt này, ngoài việc dạy dỗ, giáo viên cịn
phải kiên trì giáo dục, thuyết phục, phải dựa vào cha mẹ học sinh để phối hợp
giáo dục các em. Tơi đã phân cơng cụ thể từng nhóm nhỏ tập trung giúp đỡ cụ
thể cho các em, đồng thời trao đổi với các giáo viên chuyên giúp đỡ cụ thể từng
em.
Tơi cũng đã tìm hiểu, trao đổi với phụ huynh qua điện thoại, sổ liên lạc
điện tử. Tình thương yêu và tinh thần trách nhiệm đã giúp tôi khắc phục khó
khăn. Tơi khen hay nhắc nhở em nào cũng khơng ngồi mong muốn cho các em
tiến bộ. Tơi trân trọng, nâng niu từng ưu điểm nhỏ nhưng kiên quyết không bỏ
qua nhược điểm của bất cứ em nào. Tơi giúp các em nhiệt tình hưởng ứng, tham
gia vào các hoạt động của lớp.


13

Sau một vài tuần đầu, em Nguyễn Gia Bảo, Nguyễn Minh Trang đã hịa
đồng với các bạn, khơng cịn nhút nhát. Sống trong một mơi trường tập thể đồn
kết, chan hịa, em đã có ý thức tự giác hơn, quần áo vệ sinh sạch sẽ hơn. Đáng
mừng là trong giờ học các em luôn hăng hái phát biểu xây dựng bài, kết quả học
tập tiến bộ rõ rệt. Mọi thành viên trong lớp đều tin tưởng nhau, coi nhau như anh
em trong một nhà.

3.4.2. Bồi dưỡng cán bộ lớp - Đội ngũ tự quản
Muốn đạt được những kết quả như trên, phải có đội ngũ cán bộ tốt, có khả
năng làm việc và có uy tín với các bạn trong lớp. Đội ngũ cán bộ giữ vai trò
quan trọng đối với sự tiến lên của cả tập thể. Là các em học sinh tiểu học, em
nào cũng muốn được làm cán bộ lớp. Xuất phát từ những ý nghĩ như vậy, tôi
giành nhiều thời gian cho việc bồi dưỡng cán bộ lớp, tạo điều kiện cho nhiều
học sinh được làm cán bộ lớp.
Tôi nhận thấy rằng đã là cán bộ lớp thì các em phải nhanh nhẹn, có tinh
thần hăng hái, tích cực, thật thà và có trách nhiệm với tập thể. Cán bộ lớp phải
học giỏi, gương mẫu trong mọi lĩnh vực để các bạn noi theo
Lớp phó học tập thì phải học giỏi, chăm chỉ học tập, làm bài ở nhà đầy đủ
để có thể tự điều khiển lớp chữa bài. Các tổ trưởng phải nhanh nhẹn, ngay từ
đầu giờ vào lớp là kiểm tra vệ sinh cá nhân, quần áo đồng phục của các bạn và
nhắc nhở các bạn trong mỗi giờ sinh hoạt tập thể ngoài sân trường…
Để các em phát huy hết năng lực của mình trên từng cương vị, tơi đã phân
cơng cụ thể, rõ ràng nhiệm vụ của từng chức danh:
Nhiệm vụ của lớp trưởng:
+ Chịu trách nhiệm quản lí tồn bộ hoạt động của lớp.
+ Tổ chức lớp thực hiện các nhiệm vụ học tập và rèn luyện.
+ Theo dõi, đôn đốc các thành viên trong lớp chấp hành đầy đủ và nghiêm
túc quy chế, quy định của nhà trường, của lớp đề ra.
Nhiệm vụ của lớp phó học tập:
+ Phụ trách quản lí nhiệm vụ học tập của lớp.
+ Theo dõi, chỉ đạo việc truy bài của lớp trong 15 phút truy bài đầu giờ
học.
Nhiệm vụ của lớp phó văn - thể - mỹ:
+ Phụ trách công tác văn nghệ, thể dục giữa giờ của lớp.
+ Phụ trách các hoạt động ngoài giờ lên lớp.
+ Phụ trách thu trong các phong trào ủng hộ.
Nhiệm vụ của các nhóm trưởng:

+ Có trách nhiệm theo dõi, nhắc nhở các thành viên trong nhóm của mình
về các mặt học tập, nề nếp.


14

+ Phân công, theo dõi, đôn đốc trực nhật của các bạn trong nhóm.
Cứ thế theo một guồng máy đồng bộ, mỗi bạn có một trách nhiệm, một
cơng việc mình phụ trách. Trong những giờ sinh hoạt cuối cùng của tháng, cả
nhóm cơng khai chọn bạn nào xứng đáng làm nhóm trưởng nhóm mình. Em nào
cũng muốn làm cán bộ lớp nên rất cố gắng.
Để việc theo dõi của các em thuận tiện, tôi đã phát cho mỗi em cán bộ một
quyển sổ, có ghi các mục theo dõi hàng ngày trong tuần. Cuối mỗi tuần, cán bộ
lớp chỉ cần dựa vào sổ theo dõi nhận xét chi tiết từng ưu, nhược điểm của mỗi
bạn trong từng ngày. Vì vậy, việc đánh giá thi đua của các em rất rõ ràng, không
em nào thắc mắc.
Đi đôi với việc bồi dưỡng giúp đỡ cho từng cán bộ lớp, tơi cịn lưu ý bồi
dưỡng cho đội ngũ cán bộ khả năng tự suy nghĩ và làm việc độc lập.
Ví dụ: Trong các buổi sinh hoạt lớp, tôi đã yêu cầu từng em đứng lên nhận
xét, phản ánh tình hình của lớp trong cơng việc mình phụ trách; nghe nhận xét
xong, tơi mới bổ sung (nếu cần).
Lớp tơi đã có một đội ngũ cán bộ vững vàng cả về học tập cũng như tinh
thần và năng lực cơng tác: thi đua có em Thiên Bảo, Bảo Sơn, …học tập có em
Minh Ngọc, Như Quỳnh, Gia Huy… hoạt động ngồi giờ lên lớp có em Thanh
Tâm, Hồng Phong, …Chính đội ngũ cán bộ này đã giúp tôi rất đắc lực trong
công việc xây dựng tập thể trở thành một tập thể lớp vũng mạnh.
3.5. Biện pháp 5: Công tác phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường
Giúp hiểu rõ hơn về từng đối tượng học sinh để đưa ra biện pháp giáo dục
phù hợp.
3.5.1. Phối kết hợp với phụ huynh học sinh

Trong quá trình dạy học sinh, tơi đã tạo mối quan hệ gần gũi với cha mẹ
các em. Tôi nắm rõ địa chỉ liên lạc và số điện thoại của gia đình từng học sinh
trong lớp, lập nhóm zalo giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh học sinh để thông
báo, trao đổi tình hình chung của lớp, thơng báo với phụ huynh kết quả học tập
và rèn luyện của con em họ. Ngược lại, phụ huynh cũng thường xuyên trao đổi
và thông báo những sự việc bất thường xảy ra của học sinh như ốm đau hay lí do
nào khác. Qua đó tôi hiểu rõ hơn học sinh và phụ huynh cũng tin tưởng vào giáo
viên chủ nhiệm hơn trong việc giáo dục con em mình.
Tơi thơng qua cha mẹ học sinh để nắm được tâm tư nguyện vọng của các
em. Có những vấn đề mà các em khơng dám nói trên lớp nhưng lại bày tỏ với
cha mẹ mình. Qua đó, tơi tiếp thu có chọn lọc và tìm cách thực hiện những
nguyện vọng chính đáng của các em cũng như giáo dục các em được tốt hơn.
Ngồi ra tơi ln phối kết hợp và vận động các bậc phụ huynh tham gia tích cực
các hoạt động, sự kiện ở trường tổ chức như cuộc thi trang trí lớp, hội chợ… để


15

tạo sự gắn kết giữa nhà trường và gia đình cùng chung tay trong trong tác giáo
dục học sinh.
3.5.2. Phối kết hợp với Liên Đội trong trường và giáo viên bộ môn
Hoạt động Đội trong trường tiểu học không chỉ góp phần nâng cao phẩm
chất đạo đức, lí tưởng sống cho tuổi trẻ mà cịn góp phần cùng nhà trường thực
hiện tốt nhiệm vụ chính trị của mình. Hoạt động Đội trong trường học là sân
chơi bổ ích cho học sinh, qua đó phát huy được tính năng động sáng tạo và giúp
các em hình thành những kĩ năng cần thiết. Khơng những thế hoạt động Đội
trong trường học cịn tạo nên môi trường thi đua lành mạnh giữa các cá nhân và
tập thể góp phần làm chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao.
Hiểu rõ điều đó, ngay từ đầu năm học, tơi đã tìm hiểu nội dung, chương
trình hoạt động của Đội trong năm học 2020- 2021 cũng như cách thức đánh giá,

biểu điểm thi đua để phổ biến và tổ chức cho học sinh thực hiện.
Không những thế, tơi cịn thường xun gặp gỡ, trao đổi với giáo viên tổng
phụ trách để nắm được kết quả thi đua về nề nếp hàng ngày từ đó có kế hoạch
phù hợp nhằm nâng cao chất lượng tự quản của lớp. Ngồi ra tơi cịn đề xuất với
cơ tổng phụ trách tạo thêm cho các em những “sân chơi” lí thú bổ ích.
Mặt khác tơi cũng thơng qua giáo viên bộ mơn để nắm được tình hình học
tập của học sinh lớp mình như thái độ học tập, ý thức tổ chức kỉ luật, lực học của
từng học sinh. Từ đó, tơi có sự nhìn nhận và đánh giá khách quan về chất lượng
giáo dục của từng em để đưa ra biện pháp giáo dục phù hợp.
Qua một thời gian nghiên cứu, tìm tịi và vận dụng một số biện pháp xây
dựng tập thể vững mạnh trong công tác chủ nhiệm mà tôi đã làm cho tập thể lớp
như đã nêu ở trên và đã thu được một kết quả khả quan cụ thể như sau:
* Về đạo đức, nề nếp kỉ luật:
- Ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh trường lớp tốt.
- Lớp liên tục nhận cờ thi đua, có tiến bộ rõ rệt trong khối 2, đặc biệt là ý
thức tự quản. Giờ đây, tơi có thể n tâm giao lớp cho lớp trưởng quản lý lớp
trong các giờ tự quản.
* Về học tập và các phong trào thi đua:
- Kết quả học tập của học sinh tiến bộ rõ rệt. Tỉ lệ học sinh tiếp thu kiến
thức nhanh tăng, tỉ lệ học sinh tiếp thu kiến thức trung bình, chậm giảm dần.
- Lớp luôn trong trong tốp đầu của khối về các phong trào thi đua, đặc biệt
là phong trào “Vở sạch, chữ đẹp”. Số vở đạt loại A đạt 86,7%
Bên cạnh đó lớp cịn có các thành tích sau:
- Ln hồn thành và vượt chỉ tiêu trong phong trào kế hoạch nhỏ và các
phong trào ủng hộ.


16

- Đợt 1 đã thu gom được 186kg giấy vụn đạt 200 % chỉ tiêu.

- Đạt lớp tiên tiến xuất sắc.
- Đạt giải Ba cuộc thi trang trí lớp.
- Đạt giải Ba cuộc thi làm bưu thiếp.
- Đạt giải Nhì thi ném vịng vào đích.
- Em Nguyễn Thanh Tâm đạt giải Ba thi WUSHU cấp huyện.
* Về tình cảm:
- Các em đã biết quan tâm, thông cảm cho nhau, yêu thương, giúp đỡ và
đồn kết với nhau.
- Các em có ý thức phấn đấu vươn lên.
- Các em luôn tin tưởng và yêu quý tôi như người mẹ thứ hai của mình.
Với những kết quả trên thực sự đã đánh giá đúng những công việc tôi đã
làm cho tập thể lớp. Bên cạnh đó tơi cũng nhận thấy rằng kết quả chưa thật hồn
hảo, cịn một vài trăn trở đáng lưu ý: vẫn cịn có học sinh nói chuyện trong giờ
(ở các môn chuyên), một vài em điểm chưa cao, … nhưng điều đó là khơng
tránh khỏi vì các em còn nghịch, mải chơi, hay quên và là đối tượng học hịa
nhập. Có như thế thì mới cần đến vai trị của người giáo viên ln dạy dỗ và chỉ
bảo cho các em.
Có được kết quả trên cịn kể đến sự quan tâm của Ban giám hiệu, sự giúp
đỡ tận tình của các bạn đồng nghiệp, các bậc phụ huynh và sự nỗ lực phấn đấu
của bản thân tôi và toàn thể học sinh của lớp.


17

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Từ kết quả đạt được, tôi thiết nghĩ công tác chủ nhiệm lớp ở tiểu học,
khơng khó, khi ta biết phối hợp nhịp nhàng các phương pháp giáo dục với giảng
dạy mà trong đó làm tốt các biện pháp sau:
+ Tìm hiểu thật kĩ lưỡng từng đối tượng học sinh về lí lịch với khả năng

nhận thức, tri thức cũng như tính cách và sở thích của trẻ.
+ Tổ chức tốt hoạt động tự quản của tổ, nhóm học sinh nhằm giúp học sinh
tự phấn đấu, tự rèn luyện trong tập thể.
+ Làm tốt cơng tác tư tưởng để khơi gợi các em tính tự giác, tích cực học
tập và thực hiện tốt nhiệm vụ của người học sinh. Xây dựng tập thể đoàn kết
nhằm giúp các em có tình cảm u thương, hỗ trợ cho nhau trong những lúc khó
khăn… giúp các em gần nhau và hiểu nhau hơn, cùng nhau phấn đấu để ngày
càng tiến bộ. Giáo viên phải luôn rèn luyện, tu dưỡng để trở thành tấm gương
sáng cho học sinh noi theo.
+ Lôi cuốn các em vào các phong trào thi đua để các em tự bộc lộ suy nghĩ,
tự tìm hiểu bạn, mở thêm sự hiểu biết, làm giàu vốn sống cho các em.
+ Quan tâm đến học sinh chậm tiến, học sinh có hồn cảnh đặc biệt để lôi
cuốn các em vào các phong trào của tập thể, từ đó các em có hướng phấn đấu
vươn lên. Bồi dưỡng cán bộ lớp. Thông qua việc bồi dưỡng đội ngũ tự quản của
lớp, giáo viên đánh giá được ưu, nhược điểm trong cơng tác tổ chức lớp, từ đó
đề ra các biện pháp phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm nhằm đưa phong
trào của lớp đi lên. Có thể nói đội ngũ tự quản là cây cầu nối giữa tập thể lớp
mình với giáo viên chủ nhiệm và mơi trường giao tiếp khác.
+ Quản lí kỉ luật một cách chặt chẽ, khen ngợi và nhắc nhở kịp thời nhằm
đưa học sinh vào khuôn khổ, nề nếp quy định. Công việc này được học sinh theo
dõi, giám sát với sự chỉ đạo của giáo viên chủ nhiệm.
+ Phối kết hợp với phụ huynh học sinh; các đoàn thể trong trường và giáo
viên bộ môn để kịp thời uốn nắn và giáo dục các em.
Từ đó đem lại kết quả cho học sinh như sau:
Thời điểm
đánh giá

TS
HS


Đầu năm
Cuối HKI
Cuối năm

46
46
45

HS tiếp thu
kiến thức
khá nhanh

HS tiếp thu
kiến thức
trung bình

HS tiếp
thu kiến
thức chậm

SL
24
36
41

SL
16
8
4


SL
6
2
0

%
52,2
78,3
91,1

%
34,8
17,4
8,9

%
13
4,3
0

HS chấp hành
tốt nội quy
của trường,
lớp
SL
%
30
65,2
40
88,9

42
93,3

HS chưa chấp
hành tốt nội
quy của
trường, lớp
SL
%
16
34,8
5
11,1
3
6,7


18

Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ rút ra trong q trình làm cơng tác chủ
nhiệm của bản thân tơi.
2. Khuyến nghị:
Để đưa một lớp học trở thành một tập thể vững mạnh rất cần những người
giáo viên tâm huyết với nghề và có được vốn kinh nghiệm trong việc giáo dục
học sinh. Để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp trong tồn ngành phát triển, tơi xin
có một số đề xuất sau:
* Đối với nhà trường: tổ chức các hội thảo về công tác chủ nhiệm để giáo
viên được học hỏi thêm ở các đồng nghiệp những biện pháp hay giáo dục học
sinh.
* Đối với phòng giáo dục: tổ chức các hội thảo, chuyên đề, phổ biến các

kinh nghiệm hay về công tác chủ nhiệm cho giáo viên các trường. Nhân rộng
mơ hình cuộc thi “Giáo viên chủ nhiệm giỏi” để tạo sân chơi và đề cao công tác
chủ nhiệm trong mỗi giáo viên.
Vì điều kiện có hạn, tơi rất mong được sự góp ý, giúp đỡ, chỉ đạo của Ban
giám hiệu, các cấp lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp để chúng tôi - những người
giáo viên trẻ ngày càng say nghề hơn, ngày càng có nhiều phương pháp giáo
dục, giảng dạy hiệu quả nhất. Đạo đức tri thức của học sinh ngày càng được
nâng cao, các em ngày càng có nhiều cơ hội vươn tới tầm cao, nhìn ra thế giới.
Tương lai của các em - tương lai của những thần đồng đất Việt sẽ ngày càng
sáng lạn hơn. Chúng ta sẽ mãi mãi gìn giữ và phát huy những truyền thống dân
tộc, những truyền thống tốt đẹp từ ngàn đời mà cha ông ta hun đúc nên.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Trì, ngày 20 tháng 4 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của bản thân,
không sao chép nội dung của người khác. Nếu vi
phạm tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
Người viết

Nguyễn Thị Thanh Thùy


19



×